Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
(TT)

“Thường hành Bố Thí cập Giới,
Nhẫn Tinh Tấn, Định, Tuệ, lục Ba-la”

Lục Ba La” tức là “Lục Độ”, là chánh nhân để chứng Niết Bàn. Bồ Tát học Phật phải thực tiễn “Lục Độ” ngay trong cuộc sống thường ngày. Nếu rời khỏi đời sống mà học Phật là trống không, không khế hợp thực tế, chỉ có lý luận mà không có sự thật. Phật pháp có sự, có lý; lý sự viên dung đó mới là trí tuệ chân thật.

Trong Lục Độ, Bát Nhã là nhìn thấu, năm cái còn lại là buông bỏ:

1. BỐ THÍ:

Bố thí là buông bỏ tham lam. Đối với tất cả pháp thế, xuất thế gian nhất định một trần cũng không nhiễm.

Người sơ học chúng ta, tại nhà cũng có thể tu pháp bố thí bằng cách hiếu thuận cha mẹ. Dùng sức lực, tài lực của mình phụng sự cha mẹ, đó là bố thí. Nhưng, đối với cha mẹ nên dùng chữ “cúng dường” thì đúng hơn. Chăm sóc cha mẹ đó là Tài Thí, trong đây bao gồm cả nội tài lẫn ngoại tài Bố Thí. Có thể khiến cho cha mẹ được an vui, lìa tất cả sự lo buồn đó là Vô Úy Thí. Nếu cha mẹ có những tập khí, thị hiếu nào, chúng ta đều có thể tùy thuận hầu hạ chu đáo đến cùng, đây thuộc về Pháp Thí. Ba loại Bố Thí phải bắt đầu làm từ nơi cha mẹ.

Kế đến là thầy giáo, thầy có công dạy dỗ, chúng ta mới được khai trí tuệ, ân đức của thầy phải thường hay nhớ nghĩ. Lúc thầy còn ở đời, ngày lễ, ngày tết luôn phải có sự quan tâm, có sự biểu thị. Lúc rãnh rỗi, phải thường đi thăm thầy. Nếu thầy có bất cứ thiếu kém nào phải chăm sóc chu đáo giống như cha mẹ.

Thời trước, thầy dạy học không có tiền lương, học trò cúng dường thầy là tùy ý: Nhà giàu thì cúng dường nhiều, nhà nghèo khổ, đôi khi không có cúng dường, thậm chí thầy còn hổ trợ cho học trò, việc này hiện nay không còn nhìn thấy. Thời trước, thầy giáo hiểu được đạo đức nhân nghĩa, họ là mô phạm của xã hội, không xem trọng đời sống vật chất, chỉ xem trọng đời sống tinh thần, toàn tâm, toàn lực chăm sóc học trò. Ân đức này lớn biết bao! Không chỉ ân huệ đối với học trò mà còn đối với toàn thể xã hội, quốc gia, dân tộc.

Thời xưa, giai cấp có bốn loại là: Sĩ, nông, công, thương. “Sĩ” là người đi học thuộc giai cấp tri thức; trong xã hội địa vị này rất cao cả. Thế nhưng, người đi học rất kham khổ. Người buôn bán tuy có tiền nhưng địa vị trong xã hội được xếp sau cùng. Ngày nay thì ngược lại, người có tiền là đệ nhất, người đi học lại xếp ở sau cùng! Xã hội làm sao không đại loạn!

Tâm Bồ Tát nói mãi cũng không cùng! Chúng ta phải học tâm lượng lớn, phải có thể yêu thương tất cả chúng sinh vô điều kiện. Đây là tâm lượng của Bồ Tát. Có tâm lượng Bồ Tát mới có thể hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát đạo chính là thực tiễn ba loại Bố Thí: Tài Thí, Pháp Thí và Vô Uý Thí ngay trong cuộc sống thường ngày.

a. Tài Thí:

Gồm có ngoại tài và nội tài. Nếu dùng lao lực, thân thể, trí tuệ mình phục vụ cho người, đây là nội tài. Chúng ta xem thấy đạo tràng Cư Sĩ Lâm có rất nhiều đồng tu làm công quả, phục vụ lao dịch, đó thuộc về nội tài Bố Thí. Cũng có số đồng tu dùng tiền cúng dường, đó là ngoại tài Bố Thí. Bố Thí nhiều nhất là cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Tôi nghe nói: Mỗi tối ông đều lo lắng về những việc của đạo tràng mà không ngủ yên giấc, đây là nội tài Bố Thí. Tôi nghĩ: các đồng tu nơi đây đều tai nghe mắt thấy, Cư Sĩ Lâm ngày càng thịnh vượng.

– Do đâu mà hưng vượng?

– Do bố thí mà hưng vượng! Nhà ăn dưới lầu, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, không có ngày nào không bố thí. Bất luận người nào đến đây ăn đều được hoan nghênh. Đây không phải là tùy tiện cúng dường mà thật có tâm cúng dường. Cơm, thức ăn mỗi ngày họ đều phải nghiên cứu cải tiến, làm thế nào để mọi người được ngon miệng, không phải tùy tiện: Tôi cúng dường bạn thức ăn là đủ rồi, đâu cần phải nhọc sức đắn đo suy nghĩ. Không phải vậy! Có đồng tu e ngại nói:

– Nhiều người đến dùng cơm, vậy tiền đâu mà có?!

– Cư sĩ Lý nói: Từ khai trương Bố Thí mỗi ngày ba bữa ăn đến nay, chưa từng mua gạo, mua dầu, mua rau, mà rất nhiều nơi không ngừng tự nhiên có người mang đến; là Phật, Bồ Tát mang đến.

– Cho nên, lời của Lý Mộc Nguyên rất hay: “Ông chủ hổ trợ phía sau chúng ta là Phật A Di Đà. Chúng ta không có phước báo, A Di Đà Phật có phước báo. Chúng ta thành tâm thành ý thay Phật A Di Đà làm việc, không chút tư riêng, liền cảm động chư Phật, Bồ Tát đến hộ trì đạo tràng này”, do vậy mà hưng vượng. Nếu có chút tâm riêng tư thì không có cảm ứng. Nếu có chăng chỉ là “ma gia trì” không phải “Phật gia trì”. “Ma gia trì” thì không đáng tin! Hôm nào chúng không vui liền bỏ đi, đạo tràng bạn lập tức liền suy!

Năm nay kinh tế suy sụp, Đông Nam Á mỗi nghề đều bị ảnh hưởng, trong nhà Phật cũng không tránh khỏi. Rất nhiều đạo tràng mức thu nhập không đủ chi, hóa duyên cũng không thể hóa được. Chỉ riêng đạo tràng Cư Sĩ Lâm rất hưng vượng, không hề bị ảnh hưởng.

– Do nguyên nhân gì?

– Cư sĩ Lý nới với tôi: Không những không giảm ít mà thu thập mỗi tháng đều tăng hơn, chứng tỏ lời Phật nói không sai! Càng thí càng nhiều, càng nhiều lại càng thí.

b. Pháp Thí: Được thông minh trí tuệ.

Chúng ta đến đây Niệm Phật, nghe kinh, làm công quả… có quan sát hay không? Tôi xem thấy trí tuệ của họ mỗi ngày thêm lớn. Vì sao trí tuệ họ thêm lớn? Bởi đạo tràng này bố thí nhiều, hơn nữa mỗi ngày nơi đây luôn có người giảng kinh nói pháp và trong Niệm Phật Đường luôn có người Niệm Phật không gián đoạn, đó là Pháp Thí. Cho nên, mỗi người phiền não nhẹ, trí tuệ tăng.

Mặt khác, chân thật Pháp Thí là phải bồi dưỡng nhân tài, kế tục tuệ mạng Phật, hoằng pháp lợi sinh thì Phật pháp mới vĩnh viễn không bị gián đoạn. Hiện tại, chúng ta đang nỗ lực đem lớp bồi dưỡng mở rộng ra, thành lập Học Viện Giáo Dục Phật Đà, đó là Pháp Thí, chỉ có thể nói so với trước đây tiến thêm được một bước.

– Có làm được viên mãn không?

– Không có!

– Làm thế nào mới được viên mãn?

– Các bạn phải chân thật phát tâm làm Phật, làm Bồ Tát, pháp Bố Thí này mới làm được viên mãn. Lại nữa, trên kinh Phật nói: Thọ trì, đọc tụng,vì người diễn nói là Pháp Thí chân thật viên mãn.

–  Chúng ta tiếp thọ giáo huấn của Phật, không phải mỗi ngày đọc qua một biến, đó chỉ là đọc tụng, không phải “thọ trì”. “Thọ trì” phải đầy đủ “Tín-giải-hành-chứng”. Đối với kinh phải tin sâu không nghi, có thể lý giải những đạo lý trong kinh và thực tiễn được ngay trong đời sống của chính mình, đó là “chứng”. “Tín-giải-hành- chứng” nếu thiếu đi một chữ thì “thọ trì” không viên mãn.

c. Vô Uý Thí: Được quả báo khoẻ mạnh, sống lâu.

Đạo tràng Cư sĩ Lâm, vừa bước vào, không luận nhìn thấy người nào, mặt cười toe toét. Người ở đây thường sinh tâm hoan hỉ, sự hoan hỉ này chính là thành tựu của ba loại bố thí, nên tín tâm tăng trưởng, ý niệm bố thí thêm lớn, quả báo tương lai nhất định thù thắng.

Bồ Tát tu Bố Thí Ba-La-Mật Đa, chữ Ba La Mật Đa thông thường dịch là Độ, đơn giản gọi là Bố Thí Độ. Mục đích của Bố Thí Độ là đoạn dứt phiền não, tâm xan tham bỏn xẻn. Tâm xan tham là đại phiền não. Đối tượng của tham ái là năm dục, sáu trần. Năm dục là: “Tài-sắc-danh-thực-thùy”. Sáu trần là “sắc-thinh-hương-vị-xúc- pháp”. Tất cả đối tượng mà bạn tham thích đều bao gồm trong đó, dẫn khởi đến sinh tâm phiền não không thể ra khỏi sáu cõi, bạn đã tạo nghiệp thọ báo!

Bố thí được phước, đó chỉ là việc ngoài da không đáng kể! Người thông thường một mặt tạo phước, một mặt xài hết, nên đến khi chết không còn một công đức nào, phước đức cũng không có, làm sao tránh khỏi đọa vào ba đường ác! Người học Phật hiểu rõ chân tướng sự thật, phước báo có được, quyết không hưởng thụ. Phật dạy chúng ta “xả đắc”: “xả” là bố thí; bố thí thì có “đắc”, “đắc” rồi vẫn phải xả, đem những gì có được thảy đều xả hết. “Xả đắc”, ý nghĩa hai chữ này rất sâu: Nghĩa cạn là bạn có “xả” thì liền có “đắc”; bạn “xả” nhiều thì bạn được càng nhiều. Thế nhưng, cái bạn có được vẫn phải tiếp tục “xả”, quyết không thể thọ dụng.

2. TRÌ GIỚI:

Chỗ này là nghĩa rộng không phải nghĩa hẹp. Thông thường nghe đến Trì Giới, chúng ta bèn nghĩ ngay đến năm giới, mười giới, tỳ kheo giới, Bồ Tát giới v.v…cách nghĩ này phạm vi quá hẹp! Chữ Giới ở đây là lời răn dạy của chư Phật. Nói cách khác, bao gồm   tất cả kinh luận, từng câu, từng chữ đều là răn dạy của Phật, Bồ Tát; chúng ta phải tường tận, phải thực tiễn cho bằng được.

Phật nói ra tất cả kinh điển đều là “Diệu pháp”, không riêng chỉ cho Kinh Pháp Hoa mới gọi là “Diệu pháp”. Chữ “Diệu” có nghĩa là tất cả kinh Phật đều đầy đủ “Giáo-Lý-Hành-Quả”, từng câu từng chữ đều rất viên mãn, một chút kém khuyết cũng không có. “Tín Kỳ giáo, giải kỳ lý”, đối với lời dạy của Phật, chúng ta phải tin tưởng; hiểu rõ tức là lý giải, kế đến phải y giáo phụng hành, sau cùng mới chứng được quả. Quả báo đó chính là công đức, lợi ích thù thắng, chúng ta thật có được.

Trì Giới là thủ pháp, tuân thủ lý luận, phương pháp của Phật Đà dạy bảo, đem nó thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, đó là Trì Giới. Trong đây, từng câu từng chữ tràn đầy trí tuệ cao độ. Thế pháp hay Phật pháp đều phải hiểu được “thông quyền đạt biến”. “Pháp” không phải khô cứng mà linh động, hoạt bát. Hình thức tuy thiên biến vạn hóa nhưng nguyên lý nhất định không thay đổi.

– Nguyên lý là gì?

“Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”, đây là nguyên lý. Trên hình thức có thiên hình vạn trạng, nhưng nhất định không có ác niệm, ác hạnh, chỉ thuần là thiện tâm, thiện hạnh.

Trong Cao Tăng Truyện, chúng ta xem thấy có đến mấy mươi người, việc làm của các ngài, chúng ta không cách chi lý giải! Hành vi dị lạ của Tế Công trưởng lão, ngày ngày uống rượu, ăn thịt; người thông thường thấy ông phá giới đuổi ra khỏi chùa. Thật sự, ông là Bồ Tát hóa thân, hành vi tạo tác của ông là có dụng ý độ một chúng sinh nào đó.

Cho nên, chư Phật Bồ Tát ứng hóa thân phận không như nhau, hành trì không giống nhau. Những nhân vật liệt kê trong  Cao Tăng Truyện, chúng ta dùng năm mươi ba tham để đối chiếu, đều có thể liệt kê vào loại nào, mới biết được đây là “đại quyền thị hiện”, thành tựu chúng sinh, thành tựu Phật pháp. Mắt thịt phàm phu không thấy được nên phê bình, ruồng bỏ họ, chính mình tạo tội nghiệp lại không hề hay biết! Các ngài quyết không có phá giới, nhất định là người Trì Giới.

Phương thức Trì Giới không như nhau. Kỳ thật, những nguyên tắc, nguyên lý này trên kinh đều nói rất rõ ràng. Phương thức Trì Giới có : “Khai-Giá-Trì-Phạm”, chúng ta làm sao hiểu được! Mỗi giới điều đều có “khai duyên”. Trong tình huống lợi ích chúng sinh thì có thể “khai duyên”. “Khai giới” không phải “phá giới”. “Phá giới” là khi nào không có “khai duyên” mà bạn muốn “khai giới”, thì đó là “phá giới”.

Chúng ta xem thấy trong Ngũ Lục của Tông môn, có công án của Pháp sư Nam Tuyền: Nam Tuyền chém mèo, có phải là sát sinh, phạm giới chăng? Nếu chúng ta học theo ngài, ngày ngày cũng giết mèo, chúng ta sẽ đọa địa ngục! Nhưng ngài giết mèo thì thành Phật. Cũng thế! Chu Hà đem “Phật gỗ” xuống đốt thì ông thành Phật, bạn đem tượng Phật đốt, nhất định đọa địa ngục A Tỳ! Vì sao? Họ có nguyên nhân đặc thù! Đốt một tôn tượng Phật, có thể khiến cho một chúng sinh “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, cái tôn tượng đó đốt được bao nhiêu công đức? Ngài dùng phương pháp rất quyết liệt này để dạy bảo một chúng sinh từ chỗ này mà giác ngộ.

Chúng ta có đốt cả trăm pho tượng Phật cũng không có được một người khai ngộ, mà đó chính là “làm thân Phật chảy máu”, đọa A-tỳ địa ngục, phạm tội ngũ nghịch! Do đây có thể biết, giới luật là linh hoạt không phải khô cứng. Người thông thường mơ mơ hồ hồ mà thọ. Thầy truyền giới cũng mơ mơ hồ hồ không thể giảng rõ ràng, tường tận. Họ mơ mơ mà truyền, bạn cũng mơ mơ mà thọ!

Tôi học Phật, việc này đã nói qua với các bạn, ba năm đầu học Phật, thấy tượng Phật tôi không hề lạy, chỉ gở nón xá ba xá, thầy không hề trách tôi. Đại sư Chương Gia đối với tôi, yêu thương tôi, tôi cũng không hề quì lạy ngài. Đối với ngài, tôi cũng chỉ cúi đầu xá ba xá. Ngài không hề cho tôi là vô lễ.

– Vì sao tôi không thể quì lạy ngài?

– Tôi không hiểu được vì sao phải quì lạy ngài! Về sau, hiểu được rõ ràng tường tận, tôi mỗi ngày lạy Phật tám trăm lạy. Tôi lạy được nửa năm, mới biết được đây là phương pháp tốt nhất trong việc tu hành, có thể nhiếp tâm, không phải chỉ riêng là cung kính.

Thế Tôn năm xưa du hóa ở Ấn Độ, lúc đó giao thông không thuận tiện, Thế Tôn chưa hề đến Trung Quốc, cũng chưa đến Singapore. Hơn nữa, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, bối cảnh lịch sử văn hóa không như nhau, phương thức đời sống không như nhau, tư tưởng tín ngưỡng không như nhau, do đó ngoài căn bản giới luật ra, các nghi qui khác đều không thể siêu việt. Chỉ có “căn bản giới”, không luận ở thời điểm nào, khu vực, quốc gia, tín ngưỡng nào, mọi người đều công nhận, đây là siêu việt thời gian lẫn cả không gian.

Trong Phật pháp, “căn bản giới” gồm bốn điều là: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ. Riêng giới “không uống rượu”, Phật nói rất rõ ràng, đây là “Giá giới”, bốn giới kia là “Tánh giới”. “Tánh giới”, không luận bạn có thọ giới hay không thọ giới; bạn hiểu hay không hiểu “giới”, nếu vi phạm đều là có tội. Không thể nói tôi không có thọ giới hoặc tôi không hiểu thì tôi không có tội, không có đạo lý này! Thế nhưng, “không uống rượu”, giới điều này nếu bạn chưa thọ thì không phạm tội.

– Do đâu mà Phật chế định ra giới “không uống rượu”?

– Rượu có thể loạn tánh! Sau khi say, có thể làm bất cứ tội ác nào như: Giết người, trộm cắp, tà dâm v.v… cho nên Phật dạy không uống rượu là giữ cho đầu óc bạn được tĩnh táo, không đến nổi mê hoặc, không đến nổi phạm tội.

Giới rượu” là “giá giới” thuộc về phòng ngừa bạn phạm tội, sự thật uống rượu không có tội, nhưng cũng đem nó xếp vào trong trọng giới, tuy không phải là “căn bản giới”. Ngoài giới điều ra, Trì Giới là nghĩa rộng không phải nghĩa hẹp. Đây là nói trong tất cả kinh giáo, tất cả qui phạm đời sống lưu xuất rất tự nhiên của Phật, Bồ Tát chúng ta đều phải học tập, phải tuân thủ, đó là Trì Giới. Phạm vi giới luật rất lớn, nhà Phật qui nạp thành ba loại lớn.

i. Nhiếp luật nghi giới:

Đây là giáo huấn của Phật Đà, có điều văn qui định rõ ràng. Luật nghi, điều văn qui định, bao gồm cả thế gian pháp như: Pháp luật, mọi qui ước, phong tục tập quán, khái niệm đạo đức của thế gian đều bao gồm trong đó. Đây là nói đến Phật pháp phải hiện đại hóa, bổn thổ hóa mới có thể thường trụ thế gian.

Nếu Phật pháp không hiểu được bổn thổ hóa, hiện đại hóa, Phật pháp nhất định chỉ ở khu vực Ấn Độ, sớm đã thành lịch sử rồi! Muốn siêu việt “Thời Không”. Ngoài giới điều căn bản ra, tất cả giới luật cũng phải hiện đại hóa, bổn thổ hóa. Như vào thời nhà Đường ở Trung Quốc, Đại Sư Bách Trượng lập “Thanh qui”. “Thanh qui” đó chính là Trung Quốc hóa giới luật thời xưa, lúc đó triều nhà Đường đã Đường hóa, Hiện đại hóa, Bổn thổ hóa thành giới luật hiện đại.

Theo trào lưu khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, đời sống hiện nay cũng bị ảnh hưởng. Nên biết, pháp luật cứ vài năm phải tu đính một lần. Vì sao phải tu đính? Tu đính chính là thời đại không giống nhau, pháp luật đó không còn thích hợp nên phải tu sửa,  phải hiện đại hóa, không ngừng thích hợp với địa phương. Có những pháp luật mỗi năm phải tu sửa hai, ba lần. Thậm chí ngay đến hiến pháp cách vài năm cũng phải trùng tân kiểm thảo lại.

ii. Nhiếp thiện pháp giới:

Tuy trong kinh không nói qua, điều văn pháp luật thế gian cũng không qui định, nhưng biết được đây là việc thiện có lợi ích cho tất cả chúng sinh, lợi ích cho xã hội, có quan hệ đến thế giới hòa bình hạnh phúc, thì chúng ta cũng cố gắng thực hiện, đây là “nhiếp thiện pháp giới”.

iii.  Nhiêu ích hữu tình giới:

Trong “nhiếp thiện pháp giới” có cả tự lợi và lợi tha. Trong “nhiêu ích hữu tình giới” đôi khi chỉ có lợi ích cho tất cả chúng sinh mà không có lợi ích đối với chính mình, cũng phải nên làm. Đây là tâm từ bi của Bồ Tát luôn xả thân vì người, lấy lợi ích của tất cả chúng sinh làm hạnh phúc cho chính mình; hy sinh chính mình thành tựu cho người khác, đó gọi là “Nhiêu ích hữu tình”.

3. NHẪN NHỤC:

Ý nghĩa chính của “nhẫn nhục” là “nhẫn nại”. Chữ “nhẫn nại” trong Phật kinh, đem nó dịch thành “nhẫn nhục”, đây là do các pháp sư dịch kinh ngày trước có dụng ý dùng chữ này.

Thời xưa, tiếp xúc Phật pháp sớm nhất là giai cấp sĩ phu, tức là phần tử tri thức Trung Quốc thời đó. Trong số phần tử tri thức cũng có Đế Vương, Đại thần. Chúng ta xem thấy trong sách xưa có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục”. “Sĩ” chính là phần tử tri thức. Phần tử tri thức có khí tiết, có thể chặt đầu nhưng không thể vũ nhục! Các pháp sư dịch kinh nghe lời nói này bèn dùng chữ “Nhẫn nhục”, “nhục” mà có thể “nhẫn” thì có thứ gì không thể “nhẫn”?! Cho nên, đặc biệt dùng chữ này, đây không phải là bổn ý của sáu Ba-la-mật, bổn nghĩa của nó là “Nhẫn nại”, chỉ có phiên dịch ở Trung Quốc đặc biệt dùng chữ “Nhẫn nhục” này. Cũng chính là nói: Người Trung Quốc xem sự vũ nhục quá nặng, chấp trước quá đáng! Các Đại sư muốn phá đi cái chấp trước này của họ nên lấy cái ý này.

Trong “nhẫn nhục”, Phật đem nó qui nạp thành ba loại lớn:

a. Nhẫn Nhục Đối Với Người:

Kinh Kim Cang có câu: “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn”. Người không thể nhẫn thì không thể thành tựu: “Nhẫn” nhỏ thì thành tựu nhỏ, “nhẫn” lớn thì thành tựu lớn. Việc nhỏ, người khác không lượng thứ ta, thậm chí hãm hại ta, vũ nhục ta, hủy báng ta, chướng ngại ta v.v… đều có thể “nhẫn”, quyết không có ý niệm báo thù. Nên biết trong đây nhất định có nhân tố của nhân quả. Có thể trong đời quá khứ ta đã dùng thái độ này đối với họ, ngày nay nhân duyên hội đủ, họ hồi báo lại ta. Hiểu vậy, ta phải nên thừa nhận, không nên so đo, nhờ vậy mà ân oán với họ liền được hóa giải.

Phật dạy: “Oan gia nên giải không nên kết”. Đây là khai thị rất quan trọng: không nên kết oán với người mà chỉ nên hóa giải. Đại Sư Ấn Quang nói: “Cho dù bị người khác ngũ mã phân thây, hình phạt tàn khốc mà chết, cũng không chút oán hận”. Phật nói đó là hiện tượng “nhẫn nhục Ba-la-mật” viên mãn. Người khác vô duyên cớ hãm hại ta, đó chính là thành tựu “nhẫn nhục Ba-la-mật” cho ta. Nếu không thì pháp môn này đến đâu để tu?! Hiểu rõ đạo lý này, không những không có tâm oán hận mà còn cảm tạ họ đã tạo cơ hội cho ta tu “nhẫn nhục Ba-la-mật”. Họ đích thật là đại thiện tri thức, là đại ân nhân của ta.

Cũng đồng một đạo lý, người khác đối xử tốt với ta, thường chăm sóc, quan tâm đến ta, đó là thuận cảnh, thuận cảnh cũng phải “nhẫn nhục Ba-la-mật”. Vì sao? Vì nếu không tu nhẫn nhục, ta sẽ khởi tâm tham luyến thì phiền phức rồi! Nghịch cảnh sinh tâm sân hận, thuận cảnh sinh tâm tham luyến đều là đọa lạc! Mọi người không nên cho rằng chỉ có người ác là đáng ghét, mà người thiện cũng đáng ghét; nếu ta không có trí tuệ, cả hai bên đều đọa lạc! Trong thuận cảnh dễ bị đọa lạc thê thảm hơn so với nghịch cảnh. Cho nên, đời người đích thật là hiểm đạo!

Sáng nay, tôi nói với mọi người: thức ăn của Cư Sĩ Lâm hiện tại không tệ! Có rất nhiều món ăn vừa ngon, vừa sạch. Rất nhiều người nhiệt tâm cúng dường, đó là thuận cảnh, chính mình phải nên có trí tuệ, chỉ lấy thứ cần thiết, vài món ăn no là đủ rồi! Chớ nên ăn quá no làm hư thân tâm của chính mình! Ăn quá no không dễ tiêu hóa, rất dễ sinh bệnh. Cho nên, khi lấy thức ăn, chọn lựa vài thứ đủ dùng, không nên mỗi thứ đều lấy là có lòng tham. Chính mình phải giữ lấy trí tuệ cao độ, đây đều là tu “nhẫn nhục Ba-la-mật”. Do đây có thể biết, nhẫn nại là ngay trong cuộc sống thường ngày, từng li từng tí đều phải biết đủ. “Nhẫn nhục Ba-la-mật” thực tế mà nói, đó chính là tu “tri túc thường lạc”.

b. Nhẫn Nhục Đối Với Hoàn Cảnh Vật Chất:

Phạm vi này rất rộng! Đối với hoàn cảnh tự nhiên, mỗi năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Singapore gần đường xích đạo, đây là khu vực mùa hạ dài. Chúng ta suốt năm sống ở khu vực này gần như không có cảm giác gì. Thế nhưng, hiện tại do đời sống dư dã, giao thông thuận tiện, mùa hạ nếu bạn muốn du lịch đến phương Bắc, phương Bắc hiện tại là mùa đông, bạn phải có sức nhẫn nại đối với cái giá lạnh, nhẫn chịu phương thức đời sống khác nhau, ý thức, hình thái khác nhau, qui củ khác nhau. Như ở đây, chúng ta lái xe, tay lái nằm bên phải; ở Đài Loan, tay lái nằm bên trái, bạn đến đó tự mình lái xe cũng phải thích ứng với hoàn cảnh nơi đó. Đây chính là nói, bạn phải có nhẫn nại mới có thể thích ứng.

c. Nhẫn Nhục Đối Với Sự Tu Học:

Sự tu học bao gồm cả thế và xuất thế gian. Giáo học của thế gian có: Tiểu, Trung, Đại học. Ngay trong quá trình cầu học, nếu không có nghị lực, quyết tâm, sức nhẫn nại kiên trì thì học tập của bạn không thể thành tựu. Tu hành cũng vậy, không luận bạn tu pháp môn nào, đều phải trải qua thời gian dài, phải có tâm nhẫn nại, có nghị lực mới có thể thành công.

Kinh Vô Lượng Thọ so với tất cả kinh Đại thừa khác đích thật không xem là phân lượng quá dài, cũng không quá cao thâm, rất thích hợp với người hiện tại tu học. Bổn hội tập này của Hạ lão cư sĩ công đức vô lượng vô biên dẫn dắt chúng sinh có duyên của chín ngàn năm mạt pháp về sau, nhất định là do bộ kinh này mà được độ. Trong bộ kinh này đã xây dựng nền tảng “Tín-Giải-Hành-Chứng”, niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật. Kinh văn tuy không nhiều cũng phải có tâm nhẫn nại, không nên đọc quá nhanh, nên đọc chậm một chút, đọc cho ra ý nghĩa của nó mới chân thật có được thọ dụng.

Người xưa thường nói “tùy văn nhập quán”, câu nói này rất quan trọng, tùy theo văn kinh, liền khế nhập cảnh giới, đây là biết đọc. Không biết đọc, chỉ là đọc văn tự, ý nghĩa gì cũng không biết. Cho nên, đọc tụng vạn nhất không nên đọc quá vội, đọc cho qua, đây là trả bài cho Phật, Bồ Tát không liên quan gì đến ta! Đọc như vậy cũng như không đọc. Đó chính là người xưa thường nói: Đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công! Ngày nay, chúng ta công phu chỉ là trên bề nổi, không hề có thực chất! Không có tâm nhẫn nại làm sao được thành tựu!

Hiện tại, Phật Học Viện chúng ta cùng thôn Di Đà công tác trù bị tương đối thuận lợi, đại khái hơn một tháng chúng ta có thể dọn vào. Lớp bồi dưỡng của chúng ta liền biến thành Phật Học Viện. Khóa trình của Phật Học Viện: Dự khóa là một năm, chánh khóa ba năm, nghiên cứu ba năm, toàn bộ học trình là bảy năm. Phải có lòng nhẫn nại theo học xuyên suốt bảy năm mới có thể tốt nghiệp.

– Bảy năm học những gì?

–  Chỉ học một môn! Một môn thâm nhập bạn mới có thể thành tựu.

– Học môn nào?

– Bạn tự mình chọn lựa! Chúng ta không hạn chế. Ví như bạn chọn “Phật thuyết A Di Đà Kinh”, cũng phải học bảy năm. Không thể nói tôi chọn bộ nhỏ, chỉ vài tháng là có thể tốt nghiệp rồi! Vẫn phải học bảy năm Kinh Di Đà mới học được tốt. Tôi có cách nghĩ:

– Lớp dự khóa một năm học Kinh Di Đà giảng nghĩa của Pháp sư Viên Anh.

– Lớp chánh khóa học Kinh Di Đà Yếu Giải. Phần Yếu Giải có hai vị thời cận đại yếu giải, đó là Pháp sư Viên Anh có “Yếu Giải Giảng Nghĩa”, Pháp sư Bảo Tịnh có “Yếu Giải Thân Văn Ký”. Hai loại này đủ cho bạn học ba năm.

– Lớp nghiên cứu ba năm học Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì.

Tổng cộng, một bộ kinh Di Đà cũng phải học bảy năm, sau bảy năm miệt mài nghiên cứu, học tập, thấu triệt Kinh A Di Đà, bạn ra ngoài giảng Kinh A Di Đà mới có thành tựu. Cho nên, tương lai Phật Học Viện chúng ta, thậm chí diễn biến thành Đại Học Phật Giáo, mỗi học viên chỉ chọn một môn thâm nhập. Chúng ta sắp xếp khóa trình, phương pháp giáo dục hoàn toàn không giống với các trường khác. Phật Học Viện chúng ta nơi đây chưa đúng với chức danh của nó, chúng ta đến đây là học làm Phật, làm Bồ Tát, hoàn toàn khác với các nơi khác, đây là nói bạn tu học nhẫn nhục.

4. TINH TẤN:

Tiêu chuẩn Bồ Tát trong bộ kinh này là Pháp Thân Đại Sĩ, cho nên thiện căn của họ chỉ có duy nhất là tu Tinh Tấn. Bồ Tát đương nhiên “Kiến tư phiền não”, “Trần sa phiền não”, đều đã đoạn dứt; “vô minh” cũng phá đi một phẩm, chứng được Pháp Thân thanh tịnh, nên đối với thiện căn của thế gian, họ đã viên mãn.

Chữ Tinh Tấn, Tấn là tiến bộ, không lùi. Người xưa phán giáo bộ kinh này thuộc “Đại Thừa Viên Đốn”, còn thù thắng hơn Hoa Nghiêm. Đại đức thời Tùy, Đường cho rằng Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chỉ là dẫn nhập của Kinh Vô Lượng Thọ. Đặc biệt, kinh này là “tam căn phổ bị, lợi độn gồm thâu”, do đó phạm vi Tinh Tấn cũng vô cùng rộng lớn.

“Pháp Viên Đốn” cần phải phá một phẩm vô minh, mới chứng được “Tam Bất Thoái” (Tấn Bất Thoái, Hành Bất Thoái, Niệm Bất Thoái). Thế nhưng, trên kinh Vô Lượng Thọ, không chỉ chứng “Tam Bất Thoái” mà là “Viên Chứng Tam Bất Thoái”, chữ “viên” này thật không thể nghĩ bàn! “Viên” là viên mãn, chúng ta xem thấy trên Kinh Hoa Nghiêm, Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát chứng được “Tam Bất Thoái”, nhưng không “viên”. Ai mới có thể được gọi là “Viên Chứng Tam Bất Thoái”? Nghiêm khắc mà nói: Bồ Tát Đẳng Giác mới có thể nói là “viên chứng”. Nếu đem tiêu chuẩn này mở rộng hơn một chút, đó chính là trong cả ba kinh thường nói: A Duy Việt Trí Bồ Tát là “Viên Chứng Tam Bất Thoái”. Cũng có thể nói họ ngang bằng với Viên Giáo Bồ Tát Thất Địa trở lên.

–  Thế nào gọi là Tinh Tấn?

–  “Tinh” là tinh thuần, không tạp mới gọi là “Tinh”. “Tinh Tấn” là khoa mục rất quan trọng trong tu học của Bồ Tát. Phật vì tất cả chúng sinh nói ra vô lượng pháp môn, tuyệt nhiên không phải bảo bạn toàn bộ đều phải học. Yêu cầu của Phật là bảo bạn trong tất   cả pháp môn chọn ra một môn, tinh tấn tu học. Ý nghĩa chữ “Tinh” chỗ này là “một môn thâm nhập, trường thời huân tu” mới gọi là Tinh Tấn.

Ngày nay, chúng ta phạm phải sai lầm rất lớn là học quá nhiều, quá tạp, môn nào cũng học, cũng muốn hạ thủ công phu, đến sau cùng không môn nào thành tựu! Người chân thật học Phật, đối với sự việc này không thể không lưu tâm.

– Người tu hành thành công hay thất bại là do đâu?

– Không thể nói họ không có dụng công, họ thật có tâm, có thật dụng công nhưng vẫn thất bại, vì họ không phải “Tinh Tấn” mà là “Loạn Tấn”, “Tạp Tấn” nên không thể thành tựu!

Chúng ta nơi đây mở lớp bồi huấn, kỳ hạn chỉ có ba tháng, bốn tháng. Tôi xem báo cáo của các bạn viết ra cảm tưởng tâm đắc của mình. Các bạn nói: Nơi đây học ba tháng còn chắc thật có hiệu quả hơn rất nhiều so với ngày trước học ở Phật Học Viện bốn năm. Đây là nguyên nhân gì? Tuyệt đối không phải chúng tôi cao minh hơn so với các thầy ở Phật Học Viện, cũng không phải phương pháp của chúng tôi khéo hơn so với các thầy, không phải vậy!

Thành thật mà nói, chúng ta mọi thứ đều không bằng người. Sở dĩ kết quả sau cùng chúng ta vượt trội hơn như cảm tưởng của chính bạn viết ra, đó là do chúng ta nắm được nguyên tắc “Tinh Tấn”. Ba tháng chỉ học một môn, trong khi đó ở Phật Học Viện, bạn phải học đến mấy mươi môn bài khóa, khác biệt chính ngay chỗ này. Suốt ba tháng, trong đầu bạn chỉ nghĩ có một sự việc, nghĩ một bộ kinh, một pháp môn, toàn bộ tinh thần đều tập trung vào điểm này nên bạn cảm thấy có thành tựu. Ngày trước, bạn học ở Phật Học Viện, giờ đầu học môn này, giờ sau học môn khác, trong một ngày phải học rất nhiều môn khiến não bạn bị loạn. Môn này chưa xong, lập tức lại đổi sang môn khác, đừng nói bốn năm không có thành tựu, bốn mươi năm cũng không có kết quả! Chúng ta ngay chỗ này mà thể hội, Phật nói Tinh Tấn là có đạo lý.

Cho nên, mọi người trên hội Hoa Nghiêm, không luận họ thị hiện thân phận gì, họ chỉ nêu ra một môn. Chúng ta chân thật thể hội được: Trên hội Hoa Nghiêm: Pháp môn bình đẳng không có cao thấp. Pháp môn tu học mỗi người không giống nhau, mỗi người đều chứng Vô Thượng Đạo, mỗi người đều thoát sáu cõi, mười pháp giới, chứng được Tịnh Độ Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật. Đây là điểm chúng ta phải sâu sắc tư duy, biết được Tinh Tấn là một bí quyết, là diệu phương, quyết không thể xen tạp.

Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát trong Tây Phương Xác Chỉ nói phương pháp Niệm Phật Tinh Tấn như sau: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Đặc biệt ân cần dặn bảo: Người niệm Phật tối kỵ nhất là xen tạp, nếu xen tạp, Phật hiệu của bạn nhất định niệm không tốt. Nói cách khác, công phu của bạn không có lực! Người niệm Phật chân thật thành tựu, trên kinh Di Đà nói: “Nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo”. “Nhất tâm bất loạn” là “Niệm Phật tam-muội”, “tâm không điên đảo” là trí tuệ khai mở. Công phu đều ở nhất tâm Tinh Tấn, một môn thâm nhập.

Cho nên, lớp bồi huấn của chúng ta đề xướng một môn thâm nhập. Tương lai thành lập Phật Học Viện vẫn là một môn thâm nhập. Phật Học Viện chúng ta có thể mở nhiều giáo trình, giáo trình bạn chọn vẫn là một môn thâm nhập. Tương lai sau khi tốt nghiệp, sẽ xuất hiện rất nhiều Bồ Tát, rất nhiều chuyên gia. Nếu bạn:

– Học giảng Kinh Vô Lượng Thọ bảy năm, tốt nghiệp ra trường bạn chính là Vô Lượng Thọ Phật.

– Học giảng Kinh A Di Đà bảy năm, tốt nghiệp ra trường bạn chính là A Di Đà Phật.

– Học giảng “Phổ môn” phẩm bảy năm, tốt nghiệp ra trường, bạn là Quán Thế Âm Bồ Tát.

Học vị nơi đây là Phật, là Bồ Tát. Sau đó, bạn mới có năng lực giáo hóa chúng sinh. Một môn thông, mỗi môn đều thông. Đây là chỗ Phật pháp không giống như thế pháp. Thế gian pháp, trong đại học, bạn theo học môn nào, chỉ thành tựu được môn đó, các môn khác vẫn không thể hiểu được! Phật pháp không như vậy, một kinh thông tất cả kinh đều thông. Do nguyên nhân gì? Phật pháp là dạy bạn “minh tâm kiến tánh”, bao gồm tất cả kinh giáo bạn đều có thể thông đạt.

Thế nhưng, bạn cần lưu ý: Sau khi thông tất cả kinh, bạn vẫn không thể như Phật mà giảng nói tất cả kinh pháp. Vì sao? Vì căn tánh chúng sinh hiện tại không như thời đức Phật Thích Ca, nên bạn phải “Quán cơ nói pháp”. Thời đại hiện nay, chư Phật đến cũng phải thị hiện Bồ Tát, không thể thị hiện thân Phật. Phật là “đại thông gia”, bất cứ kinh nào cũng đều có thể giảng, Bồ Tát không phải “thông gia” mà là “chuyên gia”, chỉ giảng một môn, đây là điểm Phật cùng Bồ Tát không giống nhau.

Thực tế không phải Bồ Tát không thông mà chúng sinh không thông. Chúng sinh học hai, ba môn thì không thể nhập môn. Chữ “Tinh Tấn”, các kinh luận khác đề cập rất nhiều, ở đây chỉ đặc biệt cường điệu, nhất định phải chuyên tinh. Tịnh Tông tu học là năm kinh một luận, tùy sở thích bạn có thể chọn lấy một môn, chỉ cần chuyên tinh đều có thể thành tựu. Bao gồm tất cả kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa, điển tích thế gian cũng có thể làm tham khảo, bổ trợ.