Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Ngài Hạ Liên Cư hội tập
Cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2563 -2019

 

VIII. PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA ĐỆ TỨ
(TT)

Bảy cương lĩnh trong “Pháp cúng dường” mà Phổ Hiền Bồ Tát đã nói ở trên, hoàn toàn dùng tâm cung kính để cúng dường. Chữ “cúng dường” phía trước đã nói qua, chỗ này Hòa Thượng giảng rõ thêm một lần nữa:

1. NHƯ THUYẾT TU HÀNH CÚNG DƯỜNG

Có nghĩa là trên kinh những gì Phật dạy chúng ta phải làm, chúng ta đều làm được; dạy chúng ta không được làm, chúng ta nhất định không trái phạm. Đây là “như thuyết tu hành cúng dường”.

– Đại đức xưa tôn xưng lời Phật dạy là “Diệu pháp”, vậy “Diệu” ở chỗ nào?

–  Mỗi câu, mỗi chữ Phật nói ra đều viên mãn nên gọi là “Diệu”. Cái gọi là viên mãn, bên trong có bốn ý nghĩa “Giáo-Lý- Hành-Quả”.

Lần này, tôi ở Úc Châu trong tổ chức “Hòa bình tôn giáo thế giới” đã giới thiệu khái lược về nội dung của Phật pháp là “Diệu pháp” với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác. Nếu giảng “Giáo-Lý- Hành-Quả” họ nghe không hiểu, tôi liền thay đổi phương pháp giới thiệu: Kinh Phật mỗi câu, mỗi chữ đều bao gồm bốn ý nghĩa: Giáo huấn chân thành, đạo lý chân thật, hành vi chí thiện, và hưởng thọ cao nhất, cho nên gọi là “Diệu pháp”. Họ nghe qua đều chấp nhận.

– Chúng ta phải dùng thái độ gì để tiếp nhận?

– Thứ nhất, đối với giáo huấn chân thành của Phật, chúng ta phải tín ngưỡng, tin sâu không hoài nghi. Thứ hai, đối với đạo lý chân thật mà Phật đã dạy, phải lý giải, thấu triệt. Thứ ba, hành vi chí thiện mà Phật đã nói, chúng ta phải chân thật làm đến được. Thứ tư, hưởng thọ cao nhất đó chính là chúng ta đã thực sự thể nhập, cảm nghiệm, thực dụng được lời dạy của Phật ngay trong cuộc sống hàng ngày.

Đối với mọi người chúng ta cần phải tôn kính. Trong Phật pháp chỉ có đệ nhất, không có đệ nhị: Mỗi pháp đều đệ nhất, người người đều đệ nhất, mọi việc đều đệ nhất, đây là bình đẳng chân pháp giới. “Nhất Chân Pháp giới” chính là Pháp giới Bình Đẳng, mới  có thể thực tiễn “đa nguyên văn hoá” cùng tồn tại phát triển, cùng sống hòa thuận với nhau. Hiệu quả của nó là xã hội an định, thế giới hòa bình, mọi người đều có thể trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Đây là tôi hy vọng toàn thế giới, bao gồm tất cả tôn giáo, tất cả nhà truyền giáo, phải nên có sứ mạng dốc hết trách nhiệm của mình mà cứu độ tất cả chúng sinh khổ nạn.

Như thuyết tu hành”, chữ “thuyết” này là Phật nói. Những gì Phật nói, chúng ta hoàn toàn vâng theo, làm được đây chính là cúng dường. Không chỉ là cúng dường chư Phật Như Lai mà còn cúng dường tự tánh của chúng ta, cúng dường tất cả chúng sinh. Tự tánh có được nuôi dưỡng tốt thì trí tuệ mới khai mở, phước đức vô tận vốn có trong tự tánh mới tự nhiên hiện bày. Do tin hiểu sâu xa đạo lý này, Cư Sĩ Lâm ngày đêm trù bị phải mau xây dựng thôn Di Đà.

– Mục đích xây thôn Di Đà là gì?

– Phải cứu xã hội, cứu kiếp nạn! Vì việc này mà xây   dựng.

Niệm Phật tu hành có thể tránh được kiếp nạn của thế giới.

Cấu tưởng của thôn Di Đà mọi người đều biết, trong đây yêu cầu hai sự việc: Ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật. Trong đây người ở, cơm áo đi đứng đều được cúng dường, không cần phải mang theo một xu tiền nào cả. Cúng dường bạn cả đời mãi cho đến khi đưa bạn vãng sinh, giúp bạn làm Phật. Cư sĩ Lý đang tìm người kiến thiết phục trang. Tương lai, khi bước vào thôn Di Đà, mọi người đều bình đẳng: Thức ăn bình đẳng! Mặc cũng bình đẳng!

Thử nghĩ: Thôn Di Đà kiến thiết có hơn bốn trăm phòng, mỗi phòng ở được ba người, như vậy có đến một ngàn hai trăm người ở. Phí dụng đời sống cho một ngàn hai trăm người từ đâu mà có? Cư sĩ Lý có nhiều tiền đến thế ư? – Cư sĩ Lý một xu cũng không có! Chỉ có cái gan to đến như vậy. Ông nói với tôi:

– Tôi không có tiền, ông chủ tôi có tiền.

– Ông chủ là ai vậy?

–  Là A Di Đà Phật! Ngài có đại phước báo, chúng ta thay ngài làm công việc này. Bạn xem! Tín tâm thành tựu sự nghiệp, không phải đợi có tiền mới làm.

Ngày nay, đại tai nạn đến kề cận, việc bức bách cần phải làm, đây chính là “Bồ Tát phát tâm”. Người thế gian không dám làm, họ dám làm!

– Họ có thể thành tựu hay không?

– Chính họ có tràn đầy niềm tin, một chút hoài nghi cũng không có! Then chốt mọi người phải ghi nhớ: “y giáo phụng hành”, thành tựu đức hạnh của mình, thành tựu đạo nghiệp của mình. Nếu không phải là Bồ Tát chân thật, bạn không thể nào lợi ích được chúng sinh, cũng không thể thành tựu được sự nghiệp Phật pháp.

Để tiện lợi giúp mọi người dễ nhớ, tôi đem giáo huấn quan trọng nhất trong kinh văn, tiết lục ra sáu mươi điều, in thành quyển sách nhỏ, bạn có thể mang theo bên mình. Sáu mươi điều này trong Tịnh Tông Tu Hành Thủ Đắc. Đây là hành kinh, cũng chính là hành vi chí thiện mà tôi thường nói, từng điều bạn phải cố gắng làm cho được. Quyển sách nhỏ này có ba phần: Phần đầu là tiết lục giáo huấn trong năm Kinh Tịnh Độ. Phần hai có sáu mươi điều, chính là giáo huấn của Kinh Vô Lượng Thọ. Phần ba, có sáu mươi mấy điều là tiết lục giáo huấn từ trong Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh. Có thể làm được những điều này, bạn chính là Bồ Tát, là người tu hành chân thật, nhất định bạn sẽ được chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ. Vì Phật pháp, vì chúng sinh bạn làm bất cứ sự nghiệp gì cũng đều được viên mãn.

2. LỢI ÍCH CHÚNG SINH CÚNG DƯỜNG

Lúc giảng giải tôi thường hay nhắc nhở các đồng tu: Tâm tâm niệm niệm phải vì lợi ích tất cả chúng sinh. Tâm niệm này phải lớn, quyết không thể nói: Chỉ lợi ích chúng sinh mà tôi ưa thích, không ưa thích tôi không lợi ích cho họ. Cách nghĩ này sai rồi! Lợi ích chúng sinh không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, tộc loại v.v… phải một mực bình đẳng lợi ích. Trong lợi ích, lợi ích lớn nhất là giúp chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Tuy nhiên, thấy chúng sinh lâm khổ nạn, về mặt vật chất, chúng ta cũng nên tận tình giúp họ, dù đấy chỉ là việc nhất thời không thể cứu họ lâu dài.

– Làm thế nào thực tiễn được lợi ích chúng sinh?

– Giáo dục chính là thực tiễn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh nói pháp hơn ba trăm hội, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm không hề dừng mỏi, suốt đời làm công tác giáo dục xã hội. Công tác giáo dục này là công tác nghĩa vụ không nhận thù lao, Phật không hề nhận bất cứ một xu tiền nào của ai cả. Tiếp nhận cúng dường chẳng qua là mỗi ngày ăn một bữa, nhận một bát cơm mà thôi, tuyệt đối không có tâm mong cầu, đó là “lợi ích chúng sinh cúng dường” chúng ta phải học tập.

– Hiện tại, địa cầu này biến thành một nhà, cái nhà này có lớn hay không?

– Không lớn! So với nhà của Phật còn kém xa hơn rất nhiều! Nhà của Phật là tận hư không khắp pháp giới. Phật lấy pháp giới là nhà, lấy chúng sinh làm chính mình. Nếu chưa thể thực hiện được hai câu này, bạn chưa thể thành Phật!

3. NHIẾP THỌ CHÚNG SINH CÚNG DƯỜNG

Nhiếp thọ” là làm tấm gương tốt. “Nhiếp thọ chúng sinh” không phải nương vào học vấn mà là đức hạnh. Bạn có phẩm đức cao thượng, có hành nghi thương yêu chúng sinh, lợi ích chúng sinh mới có thể nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của họ.

Giao thừa năm rồi, buổi dạ tiệc ấm áp của chúng ta, đây chỉ là mở đầu, chúng ta mời thỉnh tất cả đoàn thể tôn giáo Singapore đều đến tham dự, chúng ta đại đoàn viên. Có người đến hỏi tôi:

– Pháp sư! Vì sao phải làm như vậy? Tôi chỉ trả lời:

– Phật dạy tôi cách làm như vậy!

Phật dạy tôi “nhiếp thọ chúng sinh cúng dường”, đây chính là thực tiễn “nhiếp thọ chúng sinh cúng dường”, thực tiễn “đa nguyên văn hóa”, không phải chỉ là lời nói suông mà chúng ta phải làm được. Ngày mùng chín, chúng ta thăm viếng Ấn Độ giáo, tiếp theo là Ki tô giáo; Thiên Chúa giáo thì đã liên hệ. Mỗi tôn giáo đều phải thăm viếng bình đẳng. Ngày lễ của chúng ta cũng rộng mời họ đến tham dự. Phải thực tiễn! Đây đều là “nhiếp thọ chúng sinh cúng dường”.

Trong bốn loại “Pháp cúng dường” đầu tiên mà Bồ Tát Phổ Hiền đã nêu ra (Như thuyết tu hành cúng dường, lợi ích chúng sinh cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, đại chúng sinh khổ cúng dường). Trong bốn loại này, “Nhiếp thọ chúng sinh cúng dường” là vô cùng quan trọng! Nếu như không thể “nhiếp thọ chúng sinh”, bạn làm sao có thể giúp họ?! Trong Phật pháp thường gọi là “phổ độ chúng sinh”. Ý nghĩa của chữ “phổ” chính là phổ biến, là không phân biệt. “Độ” là giúp đỡ. “Phổ độ” là phổ biến, giúp đỡ tất cả chúng sinh không phân biệt.

– Nếu chúng sinh không tiếp nhận sự giúp đỡ  thì phải làm sao?

– Phải làm tốt mối quan hệ giữa mình và chúng sinh, đây chính là “nhiếp thọ chúng sinh”.

– Phật dùng phương pháp gì để làm tốt mối quan hệ với tất cả chúng sinh?

– Có bốn nguyên tắc Phật nêu ra đó là Tứ Nhiếp Pháp (Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự). Thù thắng hơn nữa, đó chính là Tứ Tất Đàn. Chữ Tất Đàn là Hoa-Phạn hợp dịch: Tất là chữ Trung Quốc, có nghĩa là phổ biến. Đàn là cách nói tắt của chữ “Đàn-na” trong tiếng Phạn, chính là “Bố thí”. Tất Đàn, có nghĩa là phổ thí, bố thí viên mãn, bố thí bình đẳng.

Muốn làm tốt mối quan hệ với tất cả chúng sinh, thật không dễ dàng! Đặc biệt là xã hội hiện nay, cha con đã không còn thân ái! Vợ chồng cũng không còn đạo nghĩa! Thì quan hệ giữa người với người làm sao xây dựng?! Thế nhưng, chúng ta thiết tưởng, phương thức đó của Phật vẫn có thể thực hiện tốt bằng cách “Biến Thí”. Bạn phải chịu bố thí. Bốn phương pháp của Tứ Tất Đàn là:

1. Thế Giới Tất Đàn:

Trước tiên phải khiến tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Muốn vậy, nhất định phải biết “hằng thuận chúng sinh, tuỳ hỉ công đức”. Nếu không thể “hằng thuận chúng sinh”, lại muốn chúng sinh hằng thuận mình, vậy thì khó rồi!

2.  Vị Nhân Tất Đàn:

Chính là mỗi niệm đều nghĩ đến lợi ích của chúng sinh, thỏa mãn mong cầu của tất cả chúng sinh, lâu dần họ sẽ xem ta là bạn tri âm, đáng là chỗ nương tựa. Sau đó, ta có kiến nghị gì họ liền sẽ vâng theo.

3. Đối Trị Tất Đàn:

Sau khi tạo được mối quan hệ thân thiết với mọi người, Bồ Tát mới bắt đầu nói rõ chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh cùng lý luận về nhân quả báo ứng, giải thích thế nào là phải, quấy, lợi, hại ra sao, khiến họ dần dần tỉnh ngộ, biết được đoạn ác tu thiện. Đây chính là Phật pháp sơ cấp, chưa phải là mục tiêu chân thật.

4. Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn:

Đây mới là mục tiêu chân thật giúp họ thành Phật. Nếu chỉ giúp họ làm một người tốt được phước báo trời, người cũng không tệ, nhưng không phải cứu cánh, vì vẫn còn phải trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi.

Phật thị môn trung bất xả nhất nhân”: Thực tế mà nói, Phật, Bồ Tát lúc nào cũng đang ở cạnh chúng ta, sẵn sàng bảo hộ, chăm sóc chúng ta, nhưng chúng ta không hề cảm giác được! Vì sao? Vì nghiệp chướng chúng ta quá nặng! Chẳng chịu nghe lời, không chịu nỗ lực học tập, nên gia trì của Phật, Bồ Tát đối với chúng ta là “minh trì”, không phải “hiển trì”. Nếu chúng ta thành tâm thành ý học Phật, chân thật phát tâm, y giáo phụng hành, liền sẽ cảm giác được Phật, Bồ Tát mỗi giờ, mỗi phút đều đang ở cạnh ta, giúp ta chưa từng rời xa bao giờ. Sự gia trì này là “hiển trì”, chính mình biết được.

Nên nhớ trong Tứ Tất Đàn đều có Tứ Nhiếp Pháp. Biết vận dụng Tứ Tất Đàn, Tứ Nhiếp Pháp, tôi tin tưởng thế gian này, bất cứ chủng tộc nào, văn hóa nào, chủng loại nào, thậm chí đến tín ngưỡng tôn giáo nào đều có thể xây dựng quan hệ tốt đẹp. Thực tế mà nói, thế gian này, người làm việc ngoại giao càng phải nên học tập. Đây là lý luận phương pháp triết học cao minh của Phật, có thể giúp mọi người cùng hòa thuận chung sống.

4. ĐẠI CHÚNG SINH KHỔ CÚNG DƯỜNG

Điều này quan trọng! Từ trên lý mà nói: Chúng sinh khổ, không ai có thể gánh vác thay thế được! “Đại chúng sinh khổ” (thay chúng sinh chịu khổ) đó chỉ là nguyện vọng của chúng ta mà thôi.

Trên thực tế, nếu có thể thay chúng sinh chịu khổ thì định luật nhân quả đã bị đánh mất rồi! Ngay Phật cũng không trái với định luật nhân quả.

– Phật, Bồ Tát làm thế nào thay chúng sinh chịu khổ?

– Phương pháp duy nhất là tự mình giảm thấp đi sự hưởng thụ của chính mình, đời sống phải nơi nơi tiết kiệm, ngày ngày có thể tiết kiệm một, hai đồng, dành dụm để giúp người khác. Phải chân thật có tâm này, có hành vi này. Có đồng tu muốn mời tôi dùng cơm. Ra ngoài ăn cơm thì rất lãng phí thời gian, một bữa cơm cũng mất mấy giờ đồng hồ! Tôi liền nghĩ phương cách: Bất cứ ai mời, tôi đều đáp ứng, cũng đều hoan nghênh.

– Đến đâu để mời khách?

– Lầu hai Cư Sĩ Lâm! Bạn đem tiền mời khách, quyên tặng thôn Di Đà, tôi sẽ cùng bạn dùng cơm, vậy thì tốt! Không lãng phí thời gian, cũng không lãng phí tiền.

Thức ăn của Cư Sĩ Lâm có phần ngon hơn so với tiệm cơm chay thông thường hiện tại. Tương lai, Cư Sĩ Lâm cải tiến, chắc hẳn nhiều quán cơm chay phải đóng cửa! Tôi hy vọng những người mời khách thảy đều mời họ đến Cư Sĩ Lâm. Dùng số tiền mời khách, quyên cho thôn Di Đà, tạo vô lượng công đức. Vừa tạo được công đức, vừa mời được khách, lại dùng được thức ăn ngon. Đây là “nhất cử tam tiện”, cũng chính là “thay chúng sinh khổ cúng dường”. Chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải nên tích phước, tận lực tiết kiệm, không nên lãng phí!

Ngày trước, tôi theo học thầy Lý Bỉnh Nam ở Đài Trung Liên Xã mười năm, mỗi tháng sinh hoạt phí dụng của thầy là sáu mươi đồng tiền Đài Loan, nếu tính theo Mỹ kim là hai đồng. Mỗi ngày thầy ăn một bữa, hơn nữa lại ăn rất ít. Tôi học theo thầy cũng ăn một bữa, nhưng một bữa của tôi nhiều hơn so với thầy. Một bữa thầy dùng hai cái bánh bao bột, bánh bao nhỏ thì đủ rồi; tôi phải ăn ba cái. Tôi học theo thầy đến tháng thứ tám mới nói với thầy. Thầy hỏi tôi: – Tinh thần thể lực có gì khác không? Tôi nói: – Không có gì khác, vẫn bình thường! Thầy vỗ bàn một cái nói: – Tốt! Cứ như vậy mà làm! Suốt đời tiết kiệm tiêu phí, không mong cầu người. Ngạn ngữ thường nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao”, cầu người là việc rất khổ! Cả đời tôi dù có đói chết cũng không cầu người! Tôi có được cái khí chất này.

Ngày nay, bạn thấy tôi dường như có chút phước báo, rất nhiều người đến cúng dường. Tôi không cầu người cúng dường, tự động họ mang đến! Tôi cũng không có cách nào từ chối. Thế nhưng, nhu cầu đời sống của tôi vẫn là rất ít. Tặng phẩm cúng dường, tôi đều đem cho mọi người cùng hưởng. Hôm nay, có người từ Đài Bắc nấu sẵn hai nồi thức ăn lớn mang đến. Thật không dễ dàng! Tôi liền nói với thầy Ngộ Nhẫn mang đến nhà ăn lầu hai để tối nay các bạn niệm Phật bụng đói đều có thể dùng.

Nhà Phật thường nói: “Đời này không liễu đạo, đời sau mang lông đội sừng để trả”. Thức ăn cúng dường tôi, tôi đều cúng dường cho các bạn. Nếu tôi không liễu đạo, mọi người thay tôi trả! Các bạn cúng dường tiền cho tôi, ngay đến xem tôi cũng không xem, toàn bộ đem tặng hết cho thôn Di Đà. Chứng nhận của thôn Di Đà cho tôi đến nay có thể đem đóng thành sách. Nên biết, phước báo chuyển tặng cho tất cả chúng sinh, phước báo này là không cùng tận! Chính mình luôn khắc khổ, không được lãng phí, có dư nên giúp người thiếu kém, đây là “thay chúng sinh khổ cúng dường”.

Lần trước, có cư sĩ hỏi tôi:

– Pháp sư! Đạo tràng ngài ở đâu?

–  Tôi không có đạo tràng! Suốt đời không có chỗ ở của chính mình. Tôi ở đạo tràng của người khác! Đã xuất gia rồi thì chính mình không có nhà, nếu vẫn có chẳng phải là đã trở lại nhà rồi sao?!

Lần này ở Úc Châu có cư sĩ La rất phát tâm, ông có quan hệ rất tốt với chính phủ Liên Bang Úc Châu, ông đến hỏi tôi: -Đạo tràng Tịnh Tông Học Hội có cần những vị pháp sư nào thường trụ ở Úc Châu, ông có thể làm giúp cho họ cư ngụ lâu dài, thậm chí nhập quốc tịch. Tôi nói với ông ấy: – Ông không nên hại người! Ông không nên tạo nghiệp! Ông nghe rồi ngẩn người ra! Ông hỏi: – Vì sao vậy? – Nếu lo cho Pháp sư thủ tục cư ngụ dài lâu ở Úc Châu, người này đạo tâm liền không còn! Tham, sân, si, mạn, lòng tư riêng của họ sẽ khởi lên, họ đến khắp nơi phan duyên, đạo tâm sẽ không còn! Cho nên, tôi nói: Ông nên làm việc tốt, giúp họ cư trú một năm. Một năm ở nơi đây họ tu hành tốt, năm tới sẽ giúp họ ở thêm một năm. Nếu họ luôn luôn làm được tốt thì mỗi năm ta đều giúp họ. Nơi đây, tôi cũng nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên như vậy.

Cho nên, hộ pháp phải hiểu được đạo lý này. Bạn đã xuất gia, phải phấn đấu không ngừng, thật giống như băng kết, như vào đầm sâu, tâm luôn ở Đạo. Chỉ cần bạn có Đạo, chư Phật sẽ hộ niệm, long thần ủng hộ, người cúng dường cũng rất nhiều, bạn còn lo gì chứ?! Bạn không có Đạo, bạn tạo nghiệp, bạn bại hoại Phật môn, tương lai bạn nhất định đọa lạc!

Rất nhiều người hộ pháp không rõ đạo lý này, đem pháp sư rất tốt hộ trì họ thẳng đến địa ngục. Công đức họ ở chỗ nào?! Chỉ là tạo tội nghiệp! Lời nói của tôi không dễ nghe, nhưng thật có điều tốt đối với mọi người. Đồng tu xuất gia không nên cho rằng tôi đang chướng ngại bạn, mà tôi đang thành tựu bạn, tôi quyết không chướng ngại bạn.

Cho nên, chính mình cần phải khắc khổ chịu khó. Đối với nhân lực, vật lực, tài lực phải biết tiết chế, quyết không lãng phí vật phẩm công cộng. Bạn có thể tiếc phước, tích phước chính là bồi phước. Đạo lý này nhất định phải hiểu. Đây là “thay chúng sinh khổ cúng dường”.

–  Thế giới ngày nay vì sao động loạn?

–  Vì bạn không biết đủ! Tham cầu không biết chán nên làm ra những việc tổn người, lợi mình, tạo thành căn nguyên động loạn xã hội. Đức Phật biểu hiện cho chúng ta thấy đó là “Biết đủ thường vui”.

Tại Hoa Kỳ cũng như ở Úc Châu, tôi xem thấy có rất nhiều người thích ở nhà to. Họ mời tôi đến dùng cơm, xem thấy nhà to, sân rộng. Tỉ mỉ mà quan sát thì họ rất đáng thương! Họ phải làm nô tài, phục dịch phòng ốc. Mỗi ngày đi làm vất vả, về nhà còn phải chỉnh lý nhà cửa: Hút bụi, cắt cỏ, tưới hoa v.v… sân vườn càng lớn, khổ cực càng nhiều! Nếu thuê người thì phải tốn tiền, đành phải chính mình làm. Thật tế mà nói: Họ tự chuốc lấy cái khổ! Làm sao tốt hơn so với căn phòng nhỏ của chúng ta chứ?!

Do vậy mà tôi thích ở phòng đơn, dễ dàng chỉnh lý, ra ngoài cửa phòng không khóa cũng chẳng hề gì, chỉ cần một phòng nhỏ để nghỉ ngơi là đủ rồi, các thứ khác đều không cần, quá phiền phức! Thích Ca Mâu Ni Phật còn cao minh hơn, phòng ngủ cũng không cần, dưới gốc cây ngủ qua đêm, ngài chân thật được đại tự tại. Chúng ta vẫn không thể sánh được với ngài. Đây đều là: “Đại chúng sinh khổ cúng dường”.

5.  CẦN TU THIỆN CĂN CÚNG DƯỜNG

– Cái gì là thiện căn?

– Không tham, không sân, không si là ba thiện căn của thế gian. Nếu trái lại là tam độc “tham-sân-si”, đây cũng là cội gốc của tất cả ác pháp ở thế gian.

Trong tất cả kinh luận Đại Thừa, Phật đã nhiều lần khuyên dạy chúng ta phải “Cần tu Giới-Định-Tuệ, diệt trừ tham-sân-si”. Kinh điển nhà Phật được chỉnh lý, qui nạp thành ba loại gọi là Tam tạng gồm có: Kinh tạng, Luật tạng, và Luận tạng. Kinh tạng nói “Định học”; Luật tạng nói “Giới học”; Luận tạng nói “Tuệ học”. “Giới-Định-Tuệ”, ba phương cách này là để đối trị “tham-sân-si”. Lý luận của “Giới” rất sâu, sự tướng rất là phức tạp, đó là một môn đại học vấn. Thế nhưng, nó có cương lĩnh, có nguyên tắc. Nguyên tắc của nó là tám chữ “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”.

– Tiêu chuẩn của thiện ác là gì?

– Phàm hễ “tự tư tự lợi” là ác; lợi ích chúng sinh là thiện. Ở Trung Quốc có câu ngạn ngữ: “Người không vì mình, trời tru đất diệt”. Phật thì dạy chúng ta không nên vì chính mình, điều này dường như tương phản với quan niệm của người Trung Quốc. Rốt cuộc cái nào đúng?

– Phật dạy là hoàn toàn đúng!

– Đúng ở chỗ nào?

– Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta bất hạnh trôi lăn trong sáu cõi không cách gì ra khỏi. Phật dạy chúng ta phải đoạn dứt đi quan niệm, hành vi tự tư tự lợi mới có thể ra khỏi sáu cõi, đây là lợi ích chân thật.

Hiện nay, người nước ngoài rất xem trọng quyền cá nhân nên pháp luật của họ đều có qui định việc này.

– Quyền cá nhân là gì?

– Là quyền “tự tư tự lợi”, quyết không thể ra khỏi sáu cõi luân hồi! Nên biết: Mười thiện là bạn tốt, mười ác là oan gia. Tỉ mỉ mà quan sát, đời sống của chư Phật, Bồ Tát đều là mười thiện, chân thật là “cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”.

Ngày trước tôi ở Đài Trung cầu học, thầy Lý giảng kinh nói pháp thường khuyên mọi người bố thí, cúng dường rộng kết pháp duyên. Lúc đó, đãi ngộ của thầy rất không tệ, bản thân thầy là tiên sinh Khổng Đức Thành, bí thư chủ nhiệm của phủ quan Phụng Tế, quan cấp đó đã giản nhiệm nhất cấp, địa vị tương đối cao, đãi ngộ rất hậu. Thầy còn kiêm luôn giáo thọ của Đại học Trung Hưng, giáo thọ Học Viện Trung Dược Trung Quốc. Chỗ nào thầy cũng có thu nhập. Thầy trụ trì thư viện Từ Quang, Liên Xã Đài Trung. Khi thư viện Từ Quang sáng lập, thầy là Đổng sự trưởng kiêm Quán trưởng. Liên hữu thường hay có sự cúng dường đối với thầy. Số tiền thầy có đều đem đi bố thí. Thầy trải qua đời sống rất đơn giản.

Khi tôi cùng ở chung với thầy, khoảng năm Dân Quốc thứ năm mươi, đời sống rất khó khăn. Lúc đó, một đồng Mỹ đổi lấy bốn mươi đồng Đài Loan. Phí dụng của thầy một ngày chỉ hai đồng Đài Loan. Những liên hữu thấy vậy làm sao chẳng cung kính. Thầy nói và đã chân thật làm đến được. Cho nên, học trò tự nhiên kính phục, tin tưởng và học tập với thầy. Đây là “cần tu thiện căn”.

Thiện căn của Bồ Tát là từ ba thiện căn của thế gian đã viên mãn, nâng cao lên một tầng là Tinh Tấn. Tinh Tấn là thiện căn duy nhất của Bồ Tát. Bồ Tát nếu thoái chuyển là do nguyên nhân giải đải, phóng dật. Trên kinh nói: Bồ Tát đến Bát Địa mới không còn thoái chuyển. Thất Địa trở về trước đều là tiến thoái không ngừng.

Trong sáu nguyên tắc tu hành của Bồ Tát, trong đó có phần Tinh Tấn. “Tinh” là thuần mà không tạp, “Tấn” là tấn bộ. Có thể thấy được hai chữ Tinh Tấn này nói rõ “một môn thâm nhập, trường thời huân tu”, đó gọi là Tinh Tấn. Ngoài ra, phải cần tu, chăm chỉ nỗ lực khắc phục phiền não, tập khí của chính mình. “Khắc niệm tác thánh”, đây là thánh nhân. Chữ “thánh” này chính là người sáng suốt đối với tất cả sự lý, nhân quả của thế gian đều thông đạt tường tận.

– Dùng phương pháp gì để khắc phục vọng niệm?

– Nhà Phật có vô lượng pháp môn. “Pháp” là phương pháp; “môn” là lối đi. Phương pháp khắc phục vọng niệm chính là khắc phục vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì có rất nhiều. Hiện tại, chúng ta chọn lấy hai thứ:

– Một là nghiên giáo: Thâm nhập nghiên cứu kinh giáo, mỗi niệm đều nghĩ đến đạo lý trong kinh điển, sẽ không khởi vọng tưởng.

– Hai là Niệm Phật: Mỗi niệm tương ưng với A Di Đà Phật.

–  Vì sao có người Niệm Phật đã lâu vẫn còn giải đãi?

–  Vì họ không hiểu được đạo lý Niệm Phật!

Niệm Phật là “Hành môn”. “Hành” nhất định phải nương “giải”. Đại sư Thanh Lương giảng Kinh Hoa Nghiêm, ngài đem Kinh phân thành bốn phần: “Tín-Giải” sau đó mới “Hành-chứng”. “Hành” phải nương “Tín-Giải”, không có “Tín-Giải” làm nền tảng, cái “Hành” đó không đáng tin, không thể lâu dài! “Tín-Giải” thấu triệt rồi thì “Hành” mới có thể lâu dài.

Niềm tin trong Tịnh Độ không phải không cần đến “Tín- Giải” mà “Tín-Giải-Hành-Chứng” là đồng thời. Khác với những pháp môn khác: Trước phải có “Tín- Giải”, sau mới có “Hành- Chứng”. Do đó niệm Phật không thể không nghe kinh. Không nghe kinh, bạn một mặt niệm Phật, một mặt nghĩ tưởng xằng bậy, một mặt ngủ gật! Có người công phu không tệ: Đi cũng ngủ, nhiễu Phật cũng ngủ gật, khi chỉ tịnh vừa ngồi xuống liền ngáy! Việc này thường thấy trong Niệm Phật Đường!

– Do nguyên nhân gì?

– Thiếu kém “Tín -Giải”!

Ngày nay, để bổ túc cái không đủ này, nên mỗi ngày chúng ta đều có hai giờ giảng kinh, việc này rất quan trọng!

– “Cần tu thiện căn”, bạn có muốn tu thiện căn không?

– Đều muốn! Vậy tôi khuyên bạn: Nghe tôi giảng kinh không có công đức bằng nghe các pháp sư thực tập giảng kinh. Đạo lý này cần phải hiểu: Pháp sư trẻ như một mầm non, cần được tưới tẩm, khích lệ vun bồi. Tôi là cây già, không tưới cũng chẳng sao, không thể chết! Những mầm non này phải chăm sóc kỹ lưỡng.

– Làm thế nào chăm sóc họ?

– Ngày ngày đến nghe kinh! Họ ngồi giảng, xem thấy có rất nhiều người đến tham dự, họ sẽ rất thú vị, tinh thần được nâng cao. Nếu xem thấy bên dưới chỉ có mấy người, họ lắc đầu thở dài! Chắc tại ta giảng không hay nên mọi người bỏ đi hết! Lòng tự tin của họ sẽ không còn! Cho nên, cần phải đến nghe để động viên tinh thần họ thêm phần sức mạnh, tín tâm họ không lui sụt, điều này thật vô cùng quan trọng!

Năm xưa, khi chúng tôi học giảng kinh, thầy Lý thường khuyên thính chúng của ông, dặn họ nhất định phải đến nghe người sơ học giảng kinh. Cho nên, mỗi lần chúng tôi giảng kinh bên dưới luôn có vài chục người, có lúc hơn cả trăm người đến nghe. Nhờ vậy mà tín tâm chúng tôi luôn đầy đủ.

Tóm lại, muốn tích lũy công đức, muốn “cần tu thiện căn”, không gì hơn là nỗ lực đến nghe người sơ học giảng kinh. Không những chỉ nghe kinh mà còn phải góp ý phê bình giúp họ cải tiến. Nếu có chỗ nào không hiểu, hoặc có chỗ họ giảng sai, hay giảng không tường tận, bạn cần phải hỏi. Vì vậy, học trò là người trên giảng đài; thính chúng bên dưới là thầy giáo, là giám học, là hộ pháp chân thật.

Hộ pháp cùng hoằng pháp luôn phải phối hợp, “Giải-Hành” tương chất, đạo tràng mới có thể hưng vượng thành tựu, đạo phong mới khởi phát: Người học có lòng tin, người hộ có thu hoạch. Cái tâm huyết khổ cực hộ trì pháp sư này, luôn là muốn giúp họ thành tựu, cũng không đến nổi phí uổng. Tương lai họ hoằng pháp lợi sinh, bạn cũng được dự phần trong hoằng pháp lợi sinh của họ. Thành tựu của họ cũng chính là thành tựu của bạn. Sao không làm việc tốt này?!