Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
QUYỂN 3
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023
TRƯỢC THẾ ÁC KHỔ ĐỆ TAM THẬP NGŨ
KINH VĂN:
“Phật cáo Di Lặc: – Nhữ đẳng năng ư thử thế, đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác, thậm vi đại đức. Sở dĩ giả hà? Thập phương thế giới, thiện đa ác thiểu, dị khả khai hóa. Duy thử ngũ ác thế gian, tối vi kịch khổ. Ngã kim ư thử tác Phật, giáo hóa quần sinh, linh xả ngũ ác, khử ngũ thống, ly ngũ thiêu, hàng hóa kỳ ý, linh trì ngũ thiện, hoạch kỳ phước đức.”
VIỆT DỊCH:
Phật bảo Di Lặc: – Các ông trong đời này, nếu đoan tâm chánh ý, không làm các điều ác thì thật là đại đức. Vì sao vậy?
Mười phương thế giới, thiện nhiều ác ít, rất dễ khai hóa. Chỉ có thế gian năm ác này là khổ sở nhất. Ta nay làm Phật trong cõi này, giáo hóa chúng sinh khiến họ bỏ năm sự ác, trừ năm sự đau, lìa năm sự đốt; hàng phục, cải hóa tâm ý họ, khiến họ vâng giữ năm điều thiện, đạt được phước đức.
GIẢNG:
Phẩm này nói rộng về ác khổ của đời ác trược này. “Ác” là ngũ ác, “khổ” là năm điều đau đớn, thiêu đốt thân tâm (“ngũ thống, ngũ thiêu”), “trược” là ô nhiễm. Đức Phật khuyên dạy chúng sinh bỏ ác hành thiện hầu lìa khổ được vui.
Tịnh Ảnh Sớ chép: “Năm giới để ngăn ngừa năm sự ác là giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Tạo năm điều ác này thì hiện đời bị phép vua trị tội, thân gặp ách nạn, nên bảo là năm sự đau đớn (ngũ thống). Do năm điều ác đó, trong đời vị lai sẽ chịu quả báo trong tam đồ nên gọi là năm sự đốt (ngũ thiêu)”. Ngũ ác là nhân của sự ác. Ngũ thống là “hoa báo” (là quả báo ngay trong đời nầy). Ngũ Thiêu là “quả báo” (quả báo trong tam đồ).
Gia Tường Sớ nói: “Vì sao chỉ nói đến năm điều này? Do người đời thích gây tạo (năm điều ấy) nên mới riêng nêu lên”.
“Đoan tâm chánh ý” là chỉ tâm ý rất chân thành, khéo gìn giữ ý niệm của mình, xa lìa ba độc (tham, sân, si) không nghĩ đến việc tà ác. Ngài Nghĩa Tịnh giảng: “Hướng đến Bồ Đề là đoan tâm, chẳng cầu việc khác là chánh ý”. Hiểu như vậy là hiểu ở mức độ sâu.
Theo Hòa thượng Tịnh Không: Chúng ta y theo lý của bộ kinh nầy mà nói: “Nhất tâm chuyên niệm, cầu sinh Tịnh Độ, thân cận Phật A Di Đà, đấy là ‘đoan tâm chánh ý’ của Tịnh tông”, ngoài ra tất cả mọi ý niệm khác đều buông bỏ hết. Đây là chuyên tu Tịnh độ, đời nầy nhất định vãng sinh.
Câu “đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác” cũng chính là “đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức”. Đây mới là “thậm vi đại đức” (thật là đại đức), là đức lớn vô cùng. Tuy nhiên, muốn “đoan tâm chánh ý”, việc này đâu phải dễ! Trước nhất phải “cách vật”, “vật” là vật dục, dục vọng, là nguồn cội của tất cả điều ác. Hai chữ “cách vật” vô cùng quan trọng. Bản thân chúng ta phải tự phấn đấu, khắc chế dục vọng của chính mình. Nếu có thể buông bỏ tất cả dục vọng, con người này có thể thành thánh, thành hiền; nếu học Phật có thể thành Phật, thành Bồ tát.
“Thập phương thế giới, thiện đa ác thiểu, dị khả khai hóa” (Mười phương thế giới, thiện nhiều, ác ít, rất dễ khai hóa): Ngài Gia Tường giảng như sau: “Trong các cõi khác có nhiều duyên thù thắng, thiện báo càng mạnh mẽ thù thắng hơn nên dễ hành thiện. Cõi nầy không có hai duyên ấy. ‘Khai hóa’ là Phật dạy dỗ, giáo hóa”. Câu “cõi này không có hai duyên”, ý nói: Duyên của thiện báo không có; duyên hành thiện cũng không có! Hiện nay, hành thiện vô cùng khó khăn, chướng ngại trùng trùng! Làm ác dễ hơn làm thiện, lại được người tuyên dương là có bản lĩnh. Làm thiện, người khác nhìn thấy sẽ lắc đầu phê bình, hủy báng! Xã hội ngày nay là như vậy, giá trị quan điên đảo rồi nên hành thiện thật vô cùng khó khăn!
Đoạn kinh văn kế tiếp: “Duy thử ngũ ác thế gian, tối vi kịch khổ. Ngã kim ư thử tác Phật, giáo hóa quần sinh, linh xã ngũ ác, khử ngũ thống, ly ngũ thiêu” (Chỉ có thế gian năm ác nầy là khổ sở nhất. Ta nay thành Phật trong cõi này, giáo hóa quần sinh, khiến họ bỏ năm ác, trừ năm sự đau, lìa năm sự đốt) thì đã quá rõ!
“Hàng hóa kỳ ý, linh trì ngũ thiện” (Hàng phục, cải hóa tâm ý họ, khiến họ vâng giữ năm điều thiện):
Gia Tường Sở giảng: “Hàng phục, cải hóa tâm ý của họ, khiến tâm họ nhập đạo, vâng giữ năm điều thiện, thuận theo lời dạy tu hành”. Theo Hòa thượng Tịnh Không: “Hàng hóa kỳ ý” là khắc phục, đoạn trừ dục vọng, buông bỏ triệt để tự tư tự lợi của chính mình, làm đến được “đoan tâm chánh ý”. Dục vọng không còn thì trí tuệ mới khai mở, mới vào được đạo. Cho nên, trước phải “cách vật” sau mới “chí tri”. Có trí tuệ mới “thành ý chánh tâm”, không còn vọng niệm, tà vạy mới “linh trì ngũ thiện”, thuận theo giáo pháp tu hành. Đấy là tự hành hóa tha, nhưng nghiêng nặng về hóa tha. Vì hóa tha nên ta phải “thân hành ngôn giáo”, luôn luôn là mẫu mực, tấm gương sáng để người khác noi theo học tập. Đấy là tâm đại từ bi.
“Hoạch kỳ phước đức” (Đạt được phước đức). Ngài Tịnh Ảnh và ngài Gia Tường đều cho rằng “ngũ thiện” chính là “Ngũ Giới”. “Phước đức” là phước đạt được bởi thiện hạnh.
Gia Tường Sớ ghi: “Hoạch kỳ phước đức là nêu lên cả hai quả gần và xa để thành tựu hạnh”. “Quả gần”, như Tịnh Ảnh Sớ bảo: “Do trì Ngũ Giới nên trong đời hiện tại thân yên ổn không khổ”.
“Quả xa” là được sinh về Cực Lạc, quyết định chứng Niết Bàn, như Tịnh Ảnh Sớ bảo: “Đời sau gặp Di Đà, rốt cuộc chứng Niết Bàn”. Đời nầy an lạc, đời sau vãng sinh, nên bảo là “hoạch kỳ phước đức”. Phước đức nầy là phước đức cứu cánh, viên mãn chẳng thể nghĩ bàn!
KINH VĂN:
– Hà đẳng vi ngũ?
– Kỳ nhất giả, thế gian chư chúng sinh loại, dục vi chúng ác, cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn đạm, bất tri vi thiện, hậu thọ ương phạt. Cố hữu cùng khất, cô độc, lung manh, ám á, si ác, uông cuồng, giai nhân tiền thế bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện. Kỳ hữu tôn quý, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dũng, tài đạt, giai do túc thế từ hiếu, tu thiện tích đức sở trí. Thế gian hữu thử mục tiền hiện sự, thọ chung chi hậu, nhập kỳ u minh, chuyển sinh thọ thân, cải hình dịch đạo. Cố hữu Nê Lê, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi thuộc. Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình, hồn thần mệnh tinh, tùy tội thú hướng, sở thọ thọ mệnh, hoặc trường, hoặc đoản, tương tùng cộng sinh, cánh tương báo thưởng. Ương ác vị tận, chung bất đắc ly, triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thiên địa chi gian, tự nhiên hữu thị, tuy bất tức thời bạo ứng, thiện ác hội đương quy chi.
VIỆT DỊCH:
– Những gì là năm?
– Thứ nhất, các loài chúng sinh ở thế gian, muốn làm các điều ác: Kẻ mạnh hiếp yếu, chèn ép, giết chóc lẫn nhau, tàn sát tổn hại, ăn nuốt lẫn nhau, không biết hành thiện, sau chịu ương phạt. Bởi thế có kẻ nghèo cùng, ăn xin, cô độc, điếc đui, câm ngọng, si ác, tật bệnh, điên cuồng; đều do nhân đời trước không tin đạo đức, không chịu hành thiện. Các hàng tôn quý, giàu sang, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao, đều do đời trước từ hiếu, tu thiện, tích đức cảm thành. Thế gian có chuyện sờ sờ trước mắt như vậy. Sau khi mạng chung, vào chốn u minh, chuyển sinh thọ thân, thay hình đổi nẻo, nên có địa ngục, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay bổng, bò, trườn. Ví như lao ngục thế gian, cực hình thật khổ, hồn thần, mạng tinh theo tội mà hướng về, chịu lấy thọ mạng hoặc dài, hoặc ngắn, theo nhau cùng sinh, báo đền lẫn nhau. Ương họa, sự ác chưa hết, trọn chẳng thể thoát. Xoay vần trong ấy, bao kiếp khó ra, khó được giải thoát, khổ không nói nổi! Trong vòng trời đất, tự nhiên có như thế, tuy chưa tức thời báo ứng, thiện ác rồi sẽ quy kết cả..
GIẢNG:
“Thế gian chư chúng sinh loại, dục vi chúng ác” ( Chúng sinh ở thế gian muốn làm các điều ác.) Trong các điều ác, trước nhất , Phật dạy về tội ác sát sinh. Thái Hiền nói: “Điều thế gian sợ nhất là chết, điều tổn hại nhất cho người khác là đoạt mạng”. Ý nói: cái người đời sợ nhất là chết, cái người đời quý nhất là tánh mạng. Cho nên sát hại mạng người khác là điều ác lớn nhất. Chẳng phải chỉ Phật Giáo mới có quan điểm này, mà các tôn giáo khác cũng cấm giết người. Riêng đối với Phật Giáo, chẳng những không được giết người mà ngay đến những sinh vật, động vật khác cũng không được giết.
“Cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn đạm” (Kẻ mạnh hiếp yếu, chèn ép, giết chóc lẫn nhau, tàn sát tổn hại, ăn nuốt lẫn nhau). Chữ “phục” (伏 fù) là hàng phục; chữ “khắc” (尅 kēi) là khắc chế, giết chóc (theo Trung Hoa đại từ điển).
Sách Hội Sớ giảng: “Cường giả phục nhược: Kẻ giết chóc là ‘cường giả’, kẻ bị giết là ‘nhược’. Người hay thú cũng thế. ‘Chuyển tương khắc tặc’: Khắc là chế ngự, đánh thắng, sát hại. Tặc là tàn hại, như chim sẻ nuốt bọ ngựa, người lại giết chim, nên bảo là chuyển tương”.
Ngài Cảnh Hưng bảo: “Khắc là giết, Tặc là hại”. “Tàn hại” là hung tàn, làm thương tổn. “Sát thương” là giết cho chết hay làm cho thân người khác bị thương tích. Rắn nuốt cóc, cóc lại ăn giun đất, nên nói là “điệt thương thôn đạm” (ăn nuốt lẫn nhau).
“Bất tri vi thiện, hậu thọ ương phạt. Cố hữu cùng khất, cô độc, lung manh, ám á, si ác, uông cuồng, giai nhân tiền thế bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện” (Không biết hành thiện, sau chịu ương phạt. Bởi thế có kẻ nghèo cùng, ăn xin, cô độc, điếc đui, câm ngọng, si ác, tật bệnh, điên cuồng; đều do nhân đời trước không tin đạo đức, không chịu hành thiện): Đây đều là nói đến sự trừng phạt đối với ác nghiệp, quả báo đã hiện tiền. Chữ “cùng” (窮 qióng) là nghèo cùng; chữ “khất” (乞) là kẻ ăn xin.
Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng chữ “cô độc” như sau: “không cha là cô (孤 gū), không con là độc (獨 dú).
Ngài Cảnh Hưng nói: “Cô là không cha mẹ, Độc là không con cái”.
Chữ “lung” (聾 lóng) là điếc; chữ “manh” (盲 máng) là mù; chữ “ám” (瘖 àn) là câm; chữ “á” (瘂 yă) là ngọng; chữ “si” (癡 chī) là ngu si, ngốc nghếch; chữ “ác” (惡 è) là hung ác; chữ “uông” (尫 wāng) là yếu đuối, tật nguyền; chữ “cuồng” (狂 kuáng) là điên cuồng. Đấy đều là những “ương phạt” do “bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện” (không tin đạo đức, không chịu hành thiện). Chữ “ương” (殃 yāng) là tai ương; chữ “phạt” (罸 fá) là tội lệ.
“Kỳ hữu tôn quý hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dũng, tài đạt, giai do túc thế từ hiếu, tu thiện tích đức sở trí”. (Các hàng tôn quý, giàu sang, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao, đều do đời trước từ hiếu, tu thiện, tích đức cảm thành). “Tôn quý, hào phú” là người phú quý trong thế gian. “Hiền minh, trí dũng, tài đạt” là bậc hiền trí trong loài người. “Trưởng giả” là tiếng gọi chung để chỉ bậc đủ cả hai thứ tài sản và đức hạnh. “Trưởng giả” cũng là tiếng để gọi bậc cao tuổi giàu có. Tất cả những người này đều do trong đời quá khứ có lòng từ ái, tận hiếu, “tu thiện tích đức” mà được quả tốt như ngày nay.
“Thế gian hữu thử mục tiền hiện sự” (Thế gian có chuyện sờ sờ trước mắt như thế). Trên đây là những nhân quả mà thế gian có thể thấy được. Nhưng, mấy ai hiểu “thọ chung chi hậu” (sau khi mạng chung), nếu hiện đời không biết đoạn ác tu thiện, đời sau quả khổ càng nặng nề hơn.
Từ câu, “nhập kỳ u minh” (vào chốn u minh) trở đi, kinh nói thẳng vào những tội khổ. Chữ “u minh” thường gọi là “minh đồ” ( 冥 途 míng tú) là con đường tăm tối. “Minh giới” (冥介 míng jiè) là danh từ chỉ chung cả ba đường ác, cũng là chữ để chỉ riêng cõi ngạ quỷ và địa ngục. Sách Hội Sớ ghi: “U minh tức là minh đồ, suối vàng”.
“Chuyển sinh thọ thân, cải hình dịch đạo” (Chuyển thọ thân khác, thay hình đổi nẽo): Đây là nói đến luân hồi.
Sách Hội Sớ giảng: “Thoát thân người, chịu thân quỷ, súc sinh v.v…nên bảo là ‘chuyển sinh thọ thân’. Chuyển biến trong tứ sinh nên bảo là ‘cải hình’. Sống chết trong sáu đường nên bảo là dịch đạo”.
“Tứ sinh” là noãn, thai, thấp, hóa. “Chuyển sinh thọ thân”; chẳng hạn như: Bỏ thân chim sẻ để mang thân chó nên gọi là “cải hình”. Lại như bỏ thân người khoác thân chó tức là từ nhân đạo chuyển sinh vào súc sinh đạo nên gọi là “dịch đạo” (đổi đường). “Cố hữu Nê Lê, cầm thú, quyên phi, nhuyễn động chi loại”: Chúng sinh xoay vần trong sáu đường. “Nê Lê” chính là địa ngục. “Quyên phi” là những loài trùng biết bay; “nhuyễn động” là loài trùng biết bò.
“Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình” (ví như lao ngục thế gian, cực hình rất khổ). Ngài Gia Tường giảng như sau: “Ví như phép vua là dẫn thí dụ để so sánh, trước là báo nhẹ, sau là khổ nặng, giống như pháp vua trị tội: Trước hết là gông xiềng, sau hạ chỉ đem ra chợ giết. Trước là hiện báo, sau vào địa ngục, nên bảo là cực hình”.
Ý nói: Làm ác, trước là thọ báo nhẹ trong hiện đời; kiếp sau mới thọ trọng báo nặng nề hơn. “Giống như phép vua trị tội”: Trước nhốt vào ngục, xiềng xích tội nhân. Sau mới dùng đến cực hình giết mất sinh mạng. Chữ “cực hình” để ví cho cõi địa ngục. Sau khi chết đi, đọa vào tam đồ, gồm có: “Nê Lê (địa ngục), cầm thú, quyên phi nhuyễn động v.v…” Cái khổ trong địa ngục là khổ nhất như lửa đốt thân nên gọi là “cực hình”.
“Hồn thần mệnh tinh, tùy tội thú hướng, sở thọ thọ mệnh, hoặc trường, hoặc đoản” (Hồn thần mệnh tinh theo tội mà hướng về, chịu lấy thọ mệnh hoặc dài hoặc ngắn): Chữ “hồn thần mệnh tinh” trích theo bản Hán dịch; bản Ngụy dịch của Khương Tăng Khải ghi là “hồn thần tinh thức”.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng: “Có thuyết nói thức thứ sáu là hồn thần, thức thứ tám là tinh thức”. Như vậy, chữ “mệnh tinh” (命 精 mìng jīng) ở đây chỉ thức thứ tám, tức là A Lại Da thức. A Lại Da thức là vị chủ nhân đi sau đến trước (khứ hậu, lai tiên tác chủ ông) nên gọi là “mệnh tinh”.
Theo Hòa thượng Tịnh Không: Đây là vấn đề triết học rất thâm sâu. Nếu hỏi: Vũ trụ từ đâu đến? Ta từ đâu đến? Vạn vật từ đâu đến? Đây tức là nói đến thức A Lại Da.
Trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Quốc sư Hiền Thủ đã nói rất rõ ràng, cũng rất đơn giản. Hoàn Nguyên Quán tổng cộng có sáu đoạn: Ba đoạn trước là nói về nguồn gốc của vũ trụ vạn vật. Ba đoạn sau chú trọng đến việc tu hành, trong đây, đoạn thứ tư nói về tu tứ đức. Hai đoạn cuối là Ngũ Chỉ Lục
Quán, đó là phương pháp tu hành của kinh Hoa Nghiêm. Đặc biệt đoạn thứ tư, chính là tám vạn bốn ngàn pháp môn, bao gồm cả pháp môn Tịnh Độ. Đó là tổng nguyên tắc, tổng cương lĩnh của tu hành. Nếu trái ngược lại thì không thể thành tựu. Ngài nói với chúng ta: Tất cả pháp đều từ “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể” mà biến hiện ra. Tự tánh này không phải là hiện tượng vật chất, không phải là hiện tượng tinh thần, cũng không phải là hiện tượng tự nhiên (như trước đây chúng ta đã từng đề cập qua) cho nên tâm ý thức không thể nào tiếp xúc được. Chỉ có “chứng mới biết”.
-Người nào chứng đắc được?
– Buông bỏ khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thì chứng đắc!
– Vì sao vậy?
– Vì khởi tâm động niệm là A Lại Da; phân biệt, chấp trước là bảy thức trước. Cho nên tám thức chỉ là vọng tâm không thật.
Thức thứ tám A Lại Da này dường như luôn tiếp nối, mãi đến khi thành Phật mới đoạn được. Phật pháp gọi nó là “vô thỉ vô minh”, bình thường chúng ta gọi là khởi tâm động niệm. Nhưng khởi tâm động niệm này chúng ta hoàn toàn không hay biết, chỉ có Bồ tát Bát Địa trở lên mới nhìn thấy được khởi tâm động niệm này.
Lúc xả mệnh, hễ chỗ nào nghiệp nặng nhất thì nó bị lôi vào đó, nên bảo là “tùy tội thú hướng” (theo tội hướng về) tức là theo tội báo vào trong ác thú. Nếu đọa vào ngục Vô Gián thì muôn kiếp khó ra, nên bảo là “hoặc trường” (hoặc dài), hoặc sinh vào loài vi khuẩn chết sống trong mỗi sát-na nên gọi là “hoặc đoản” (hoặc ngắn). Sách Hội Sớ nói: “Như (sinh trong) tám đại địa ngục và loài quỷ trường thọ thì gọi là ‘hoặc trường’. Như các loài thiêu thân, phù du v.v…thì gọi là ‘hoặc đoản’. Trong đó, vô lượng thọ mệnh sai khác đều do túc nghiệp cảm vời. Trong đường thiện xem sống lâu là phước, trong nẻo ác xem sống lâu là họa lớn.
“Tương tùng cộng sinh cánh tương báo thưởng (Theo nhau cùng sinh để báo đền lẫn nhau): Biểu thị “oan oan tương báo” không có cùng tận.
Sách Hội Sớ bảo: “Những kẻ sát sinh, đời đời sinh ra cùng lúc với nhau, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận”. Chẳng hạn như: Kẻ bị giết muốn đòi mạng, ắt đuổi theo kẻ oán đối, phải đồng thời xuất hiện ở thế gian thì mới mong báo oán được. Cho nên, oan gia trái chủ “tương tùng cộng sinh”. Đời này người giết dê, tương lai người chết thành dê, dê chết thành người. Lại như mèo chết thành chuột, chuột chết thành mèo, đời đời cùng sinh với nhau, đoạt mạng để đền nợ, nên nói: “Cánh tương báo thưởng” ( báo đền lẫn nhau), không biết lúc nào xong, nên nói: ”Ương ác vị tận, chung bất đắc ly” (Ương họa sự ác chưa hết, trọn chẳng thể thoát).
“Triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, nan đắc giải thoát”. Cứ xoay vần như thế trong vô lượng kiếp, khổ không kể xiết, nên nói“thống bất khả ngôn”.
“Thiên địa chi gian, tự nhiên hữu thị, tuy bất tức thời bạo ứng, thiện ác hội đương quy chi” (Ác đạo tuần hoàn, cảm ứng tự nhiên, tuy chưa báo ứng tức thời, thiện ác chung quy vẫn phải chịu quả báo).
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu “tự nhiên hữu thị” (cảm ứng tự nhiên) như sau: “Làm ác, dẫu không muốn chịu quả khổ, quả khổ vẫn tự đến. Tu thiện, dẫu không mong cầu quả vui, quả vui vẫn tự đến, khác nào như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Nhưng kinh đây bảo là ‘tự nhiên’, ý nói nhân quả là pháp quyết định như vậy”.
Cổ nhân có câu: “Nhân khí thường tắc yêu hưng”: Con người đánh mất đi luân thường đạo nghĩa thì yêu ma quỷ quái, thiên tai địa chấn đều đến cả, đó cũng là “tự nhiên hữu thị”.
Sách Hội Sớ nói: “Nhân quả ắt ứng nghiệm nên bảo là tự nhiên”.
“Tuy bất tức thời bạo ứng”: Chữ “bạo” (暴 bào) là mạnh gấp, đột nhiên; chữ “ứng” (應 yìng) là báo ứng. Người thiện làm thiện, kẻ ác làm ác. Quả báo, không nhanh thì chậm, trước sau gì cũng đến, cảm ứng tự nhiên, nhân quả chẳng dối, nên nói “thiện ác hội đương quy chi” (thiện ác, chung quy vẫn phải đền trả).
Có lần tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) đến Bắc Kinh, sau khi Hoàng Niệm lão vãng sinh, có số học sinh của cụ đến nói với tôi: – Thầy chúng con nói, Pháp sư Tịnh Không nếu như không vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, phước báo đời sau của ông sẽ rất lớn, lớn lắm! Cụ tán thán tôi như vậy. Thử hỏi: Tôi có cần phước báo đời sau chăng? – Không cần! Tôi không làm chuyện ngu ngốc đó. Có làm vua trên trái đất này hay làm Thiên vương Ma Hê Thủ La, tôi cũng không làm! Vì sao vậy? – Chưa ra khỏi sáu nẻo luân hồi, việc này không thể làm! Tôi nhất định thân cận Phật A Di Đà, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chứng đắc Bồ Đề rốt ráo viên mãn. Trở lại thế gian, đó chính là Phật, Bồ tát thừa nguyện tái lai. Chúng ta nhất định không đem vàng đi mua kẹo.
Hoàng Niệm lão nói lời này truyền đến tai tôi, cũng chính là nhắc nhở tôi chớ nên làm việc ngốc. Câu “thiện ác hội đương quy chi” có hai nghĩa: Một là nhất định sẽ có báo ứng. Hai là lúc nhân duyên hội tụ, quả báo liền hiện tiền. Nghiệp nhân quả báo không sai chút nào!
KINH VĂN:
Kỳ nhị giả, thế gian nhân dân bất thuận pháp độ, xa dâm kiêu túng, nhậm tâm tự tứ. Cư thượng bất minh, tại vị bất chánh, hãm nhân oan uổng, tổn hại trung lương. Tâm khẩu các dị, cơ ngụy đa đoan, tôn ty trung ngoại, cánh tương khi cuống. Sân khuể ngu si, dục tự hậu kỷ, dục tham đa hữu. Lợi hại thắng phụ, kết phẫn thành thù. Phá gia vong thân, bất cố tiền hậu. Phú hữu xan tích, bất khẳng thí dữ. Ái bảo tham trọng, tâm lao thân khổ. Như thị chí cánh, vô nhất tùy giả. Thiện ác họa phước, truy mạng sở sinh. Hoặc tại lạc xứ, hoặc nhập khổ độc. Hựu hoặc kiến thiện tăng báng, bất tư mộ cập. Thường hoài đạo tâm, hy vọng tha lợi, dụng tự cung cấp, tiêu tán phục thủ. Thần minh khắc thức, chung nhập ác đạo. Tự hữu tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn.
VIỆT DỊCH:
Thứ hai là nhân dân trong thế gian không thuận pháp độ, hoang dâm thái quá, mặc tình thoả ý. Kẻ trên không minh, kẻ có địa vị không chánh, hãm người oan uổng, tổn hại trung lương. Tâm miệng khác biệt, mưu toan nhiều bề, trong ngoài dối trá. Nóng giận, ngu si, muốn lợi về mình, tham lam không chán. Lợi – hại, được – thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét trước sau. Giàu có keo kiệt, không chịu bố thí, chất chứa cho đầy; nhọc tâm khổ thân. Đến khi chết đi, không đem được gì! Thiện, ác, họa, phước theo mạng thọ sinh: hoặc ở chỗ vui, hoặc vào chốn khổ độc. Hoặc thấy người thiện, lại còn hủy báng, không khởi tâm hâm mộ, mong mỏi được bằng. Thường ôm lòng trộm cắp, rình đoạt của người để cung cấp cho mình, (của cải ấy) tiêu hết lại đi trộm nữa. Thần minh ghi biết, chết vào ác đạo, chịu vô lượng khổ não, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi. Khổ đau khôn cùng!
GIẢNG:
Điều thứ hai nầy là nói về tội trộm cắp. Đối với vật có chủ, dù ít hay nhiều, nếu chẳng cho mà lấy đều là trộm cắp. Cho nên, giới trộm cắp này thật không phải dễ trì, nhất định phải cẩn thận. Vì sao vậy? – Vì có lúc quen rồi không còn biết đó là tội lỗi nữa!
Tội trộm cắp biểu hiện qua rất nhiều mặt, chẳng hạn như: Lợi
dụng người là tâm trộm cắp; tìm cách né thuế cũng là tâm trộm cắp v.v… Trong Phật pháp, trộm cắp nghiêm trọng nhất là lấy của vật thường trụ. Của thường trụ là của chùa chiền, am đường…chủ nợ trong đây thật quá nhiều không có cách chi để trả. Trong kinh Phật nói, đây là lời thật không phải hù dọa: Nếu phạm tội ngũ nghịch, thập ác, Phật còn có thể cứu. Nhưng, trộm của thường trụ, tội này Phật không thể cứu! Nên nhớ! Của thường trụ là do thập phương thiện nam tín nữ cúng dường. Người xuất gia, nếu không phải là thật sự xuất gia, không nhất tâm tu tập, không hoằng pháp độ sinh mà an nhiên thọ hưởng cúng dường, đây cũng là trộm cắp. Cho nên, xuất gia không dễ dàng! Tùy tiện xuất gia thì không nên!
Tội trộm cắp vốn bắt nguồn từ tam độc. Tham dục, keo kiết dễ sinh tâm trộm cắp.
“Bất thuận pháp độ” (Không thuận pháp độ): Chữ “pháp” (法 fă) là khuôn phép, pháp tắc; chữ “độ” (渡 dù) là quy củ, quy định thông thường. “Pháp độ” ở Trung Quốc là: Ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức. “Pháp độ” này không phải do cổ thánh tiên hiền đặt ra mà căn cứ theo đại tự nhiên. Nói cách khác, “thuận pháp độ” chính là thuận theo quy tắc của đại tự nhiên, đó là lành mạnh, là an ổn, cát tường. Trái với, “pháp độ” thì tai nạn liền đến!
Hiện nay, mọi người sùng bái khoa học.
– Khoa học là gì?
– Là “bất thuận pháp độ”! Muốn sửa đổi tự nhiên, vậy là tai nạn đến rồi! Rõ ràng nhất, phá hoại nhất là sửa đổi “gen”, khiến các thứ như ngũ cốc, rau củ, trái cây v.v…sinh trưởng vô cùng đẹp, nhưng lại thiếu dinh dưỡng và mang nhiều mầm độc, kém xa rất nhiều so với trước đây trồng trọt bằng thủ công. Sự việc nầy dẫn đến bệnh tật cho con người! Trái đất cũng bệnh vì tiếp nhận toàn là thuốc trừ sâu, phân bón. Không khí, nguồn nước v.v…cũng đều bị ô nhiễm! Đây là hậu quả của phá hoại sinh thái tự nhiên. Cái giá cuối cùng là toàn thể nhân loại sẽ đi đến diệt vong!
Xét cho thật kỹ, những sự việc trên đều xuất phát từ tâm thamsân-si của con người mà gây nên. Thật đáng sợ! Chỉ cần bản thân họ có lợi trước mắt, người khác có bệnh tật, có sống chết ra sao cũng không liên quan gì đến họ! Đâu biết rằng: Khắp biến pháp giới, hư không giới với thân họ là một. Họ không biết được! Họ mê hoặc điên đảo không có trí tuệ, mới làm ra những việc ngu ngốc như vậy! Chân tướng sự thật này đã bày ra trước mắt, chúng ta có thể không giác ngộ sao?!
Thật may mắn cho chúng ta, sinh vào thời đại này gặp được Phật pháp. Nếu không gặp được Phật pháp, chúng ta cũng là những kẻ vô tri như họ, tạo ra vô số tội nghiệp mà không hay biết! Cho nên, phải cứu bản thân, phải cứu gia đình, cứu xã hội, cứu địa cầu. – Phải bắt đầu từ đâu? – Từ “tùy thuận pháp độ” của chư Phật, Bồ tát; “tùy thuận pháp độ” của cổ thánh tiên hiền là chúng ta được cứu. Không “tùy thuận pháp độ” là chúng ta tự hại, cũng hại mọi người!
“Xa dâm kiêu túng, nhậm tâm tự tứ” ( Hoang dâm thái quá, mặc tình thoả ý). Chữ “xa” (奢 shē) là xa xỉ, quá đáng; chữ “dâm” (淫 yín) là như sách Đẳng Bất Đẳng Quán Tạp Lục giảng: “Trong kinh, đa phần là chữ Dâm có liên quan đến người nữ. Chữ Dâm chuyên chỉ việc trai gái”. Hành dâm không chừng mực nên bảo là “xa dâm”. Chữ “kiêu” (驕 jiāo) là kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người. Đây là”câu sinh phiền não” bắt nguồn từ ngã kiến, ngã ái, ngã si, ngã mạn; cũng chính là thức Mạt Na, gọi là ý căn vô cùng chấp trước. Chữ “túng” (縱 zòng) là phóng túng. “Tự tứ”: Chữ “tứ” (恣 zì) là buông lung. Nam nữ ở chung chẳng tuân theo lễ nghĩa, tình dục phóng túng, chỉ cốt khoái ý, chẳng sợ tội lệ, nên bảo là “nhậm tâm tự tứ” (mặc tình thỏa ý). Đây là xã hội ngày nay, trên toàn thế giới, đi đâu cũng thấy. Động loạn của xã hội cũng phát sinh từ đây.
“Cư thượng bất minh, tại vị bất chính” (kẻ trên không minh,
kẻ có địa vị không chánh).Ý nói kẻ có địa vị lợi dụng quyền thế, lươn lẹo, chiếm đoạt, vơ vét, tổn người lợi mình, hại nước, hại dân…tạo đủ các ác nghiệp.
Gia Tường Sớ nói: “Quan tể tướng dung túng thuộc hạ bắt muôn dân đút lót, đoạt ngang của người”. Đấy là “cư thượng bất minh”. Người thật sự hiểu được nhân quả không dám làm những việc này. Hại người phải đền mạng; nhận hối lộ phải trả tiền. Thu nhiều thì phải trả nhiều, đều là tự làm tự chịu. Người công minh chánh trực, họ vì nhân dân làm việc, không nhận hối lộ. Cuộc sống của họ có tiết chế, biết được tích phước. Phước báo đời sau của họ sẽ rất lớn. Cho nên, ở địa vị cao, họ có thể lên thiên đường cũng có thể xuống địa ngục. Phải nghiêm túc mà suy nghĩ: Thiên đường tốt hay địa ngục tốt mà tự quyết định chọn lựa.
Ăn hối lộ đã thuộc về hành vi trộm cắp, lại còn “hãm nhân oan uổng, tổn hại trung lương” (hãm hại người oan uổng, tổn hại trung lương). Chữ “hãm” (陷 xiàn) là hãm hại; chữ “oan” (冤 yuān) là oan khuất; chữ “uổng” (枉 wăng) là tà vạy, không ngay thẳng; chữ “trung” (忠 zhōng) là làm việc thận trọng, ngay thẳng, vì việc công quên việc tư. Chữ “lương” (良 liáng) là thiện lương.
“Tâm khẩu các dị, cơ ngụy đa đoan” (tâm, miệng khác biệt, mưu toan nhiều bề): Kẻ ác như trên, ganh ghét người hiền, hãm hại người trung lương. Lời nói của họ ắt xảo ngụy chẳng trung, a dua cầu lợi, phỉ báng người lương thiện, vu tội cho người, tâm khẩu bất nhất.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Cơ” (幾 jī) là huyễn hoặc, ngụy (僞 wèi) là dối trá”.
Ngài Cảnh Hưng nói: “Cơ là mưu mô, tức là khéo nói cho đẹp lòng người, nhằm lung lạc ý vua để làm chuyện mưu mô gian dối”. Tâm mưu mô lừa lọc, dối trá đủ bề như thế nên bảo là “cơ ngụy đa đoan”.
“Tôn ti trung ngoại, cánh tương khi cuống, sân khuể ngu si, dục tự hậu kỷ, dục tham đa hữu” (Trong ngoài dối trá, nóng giận ngu si, muốn lợi về mình, tham lam không chán).
Sách Hội Sớ nói: “Ba ác hỗ trợ nhau khiến tà dục lừng lẫy, ham hố tài vật người khác, chỉ muốn tom góp về cho mình nên bảo là ‘dục tự hậu kỷ”.
Chữ “dục” (欲 yù) là tham dục, tham ác. Kinh Duy Ma nói:
“Thân ai làm chủ, dục tham làm chủ”. Sách Hội Sớ bảo: “Biển dục sâu rộng, chẳng biết chán đủ. Dẫu tôn quý hay thấp hèn, dẫu nghèo hay giàu, không ai mà chẳng mong tom góp, chộn rộn, bôn ba, nên gọi là tham dục”.
“Lợi hại thắng phụ, kết phẩn thành thù, phá gia vong thân, bất cố tiền hậu” (Lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không quản trước sau). Do tham dục lẫy lừng, chỉ muốn chiếm hữu thật nhiều, nên tranh nhau lợi hại, tổn người lợi mình, vì thế “kết phẫn thành thù”, thậm chí đến nhà tan, mạng mất, chẳng quản trước sau.
Chữ “thù” (讎 chóu) là thù hằn, căm hận; chữ “tiền hậu” chính là nhân trước, quả sau.
Sách Hội Sớ giảng: “Trước chẳng nề hà là đúng hay sai; sau chẳng quan tâm đến lời chê trách. Cũng có nghĩa là, trước chẳng xem xét tường tận, suy nghĩ chín chắn, sau cũng không màng quỷ thần ghi chép. Hoặc cũng có thể hiểu là trước sau chẳng quan tâm đến tội nghiệp, sau chẳng tính đến quả báo tương lai”. Chỉ mong tranh thắng, chẳng sợ “lưỡng bại câu thương” (cả hai bên đều bị thua thiệt, tổn thương).
Chiến tranh hiện nay cũng là như vậy, cũng là “lưỡng bại câu thương”. Cho dù có thắng trận đi nữa, chiến thắng đó cũng không phải là thật thắng, vì đã hy sinh biết bao sinh mệnh. Giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải trả nợ. Chiến thắng đó chỉ là cái vui nhất thời!
Từ câu “phú hữu xan tích” (giàu có keo kiệt) trở đi, kinh nói đến tội keo kiệt. Dẫu giàu có thế mấy cũng không chịu bố thí, nên nói “bất khẳng thí dữ”, chính là do tâm tham quá nặng, chỉ muốn khư khư giữ lấy cho riêng mình, nên nói “ái bảo tham trọng”. “Tâm lao thân khổ, như thị chí cánh, vô nhất tùy giả”. (Nhọc tâm, khổ thân, đến khi chết đi, không đem được gì): Ý nói, trọn đời khổ cực, nhọc nhằn, đến khi chết đi cũng “vô nhất tùy giả” (không mang được gì).
Gia Tường Sớ giảng: “Vô nhất tùy giả là chỉ mình thần thức ra đi, của cải bỏ lại cõi trần”.
“Thiện ác họa phước, truy mệnh sở sinh, hoặc tại lạc xứ, hoặc nhập khổ độc” (Thiện ác họa phước, theo mạng thọ sinh: Hoặc ở chỗ vui, hoặc vào chốn khổ độc). Ý nói: Những nghiệp thiện ác đã tạo lúc còn sống và cái quả phước hay họa do nghiệp cảm thành, không hề rời ta, nên nói “truy mệnh sở sinh” (theo mạng mà sinh). Ngài Nghĩa Tịch bảo:
“Cái nhân thiện ác và cái quả họa phước đều đuổi theo mạng căn đến chỗ thọ sinh”. Thế nên, đời sau: “Hoặc tại lạc xứ, hoặc nhập khổ độc”. Chữ “truy” (追 zhuī) là truy đuổi, bám sát theo. Chữ “lạc xứ” là ba đường lành; “khổ độc” là ba đường ác. Chữ “khổ”
(苦 kǔ) là đau khổ. Tất cả đều là tự làm tự chịu, chỉ có buông xả là bình an.
“Hoặc kiến thiện tăng báng, bất tư mộ cập” (Hoặc thấy người thiện, lại còn hủy báng, không khởi tâm hâm mộ, mong mỏi được bằng): Chữ “tăng” (憎 zēng) là ghét; chữ “báng” (謗 bàng) là phỉ báng. Ý nói: Thấy điều thiện của người chẳng những không kính mộ, trái lại còn sinh tâm đố kỵ, căm ghét, phỉ báng. Đây là hạng người không có tâm thiện niệm lẫn thiện hạnh.
“Thường hoài đạo tâm, hy vọng tha lợi, dụng tự cung cấp, tiêu tán phục thủ” (Thường ôm lòng trộm cắp, rình đoạt của người, để cung cấp cho mình, (của cải ấy) tiêu hết lại đi trộm nữa). Ý nói: Của bất nghĩa dễ dàng đạt được nên cứ mặc tình tiêu xài hoang phí, nên nhanh chóng tiêu mòn. Tiêu tán hết rồi lại đi trộm nữa, nên bảo là “tiêu tán phục thủ”. Hiện tượng này rất rõ ở sòng bạc. Một đêm thua cả trăm, ngàn, vạn ức, quả đúng là khoảnh khắc tiêu hết!
– Tiêu hết rồi thì như thế nào?
– Lại tiếp tục đi trộm cắp! Báo ứng về sau chẳng thể nghĩ lường!
“Thần minh khắc thức, chung nhập ác đạo, tự hữu tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn” (Thần minh ghi biết, chết vào ác đạo, chịu vô lượng khổ não, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, khổ đau khôn xiết).
Chữ “Thần minh”, theo bản Kinh Hoa Nghiêm dịch vào đời Tấn có nói như sau: “Như nhân tùng sinh, hữu nhị chủng thiên, thường tùy thị vệ, nhất viết Đồng Sinh, nhị viết Đồng Danh. Thiên thường kiến nhân, nhân bất kiến thiên” (Con người sinh ra, có hai vị trời thường theo sát hai bên. Một vị tên là Đồng Sinh, vị kia tên là Đồng Danh. Hai vị trời ấy thường thấy người đó, nhưng người đó chẳng thấy được trời). Hai vị thần này, khi ta đầu thai họ liền đi theo nên gọi là “câu sinh Thần”. Một vị chuyên ghi điều thiện, một vị chuyên ghi điều ác. Họ có thể thấy được tư tưởng, việc làm của chúng ta, nhưng chúng ta thì không thể thấy họ.
Kinh Dược Sư dạy: “Hữu câu sinh thần, cụ thư tội phước, dữ Diêm La Vương” (Có thần Câu Sinh, chép đủ tội phước, trao cho vua Diêm La).
Sách Gia Tường Sớ cũng viết: “Tất cả chúng sinh đều có thần: Một tên là Đồng Sinh, hai tên là Đồng Danh. Đồng Sinh nữ ở bên vai phải ghi chép điều ác đã tạo. Đồng Danh nam ở bên vai trái chép điều thiện đã làm”.
Kinh Ngũ Giới dạy: “Tam phú, bát giáo, nhất nguyệt lục tấu” (Ba lần bẩm, tám lần trình, một tháng sáu lần tâu lên).
“Tam phú” là tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín Âm lịch có quỷ thần đến điều tra vấn đề thiện ác. “Bát giáo” là tám ngày: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí. “Lục tấu” là sáu ngày ăn chay: Mồng Tám, Mười Bốn, Rằm, Hai Mươi Ba, Hai Mươi Chín, Ba Mươi Âm Lịch. Nghĩa là trong một năm có ba tháng trình bẩm, có tám ngày báo cáo lên trên. Chữ “giáo” ( 校 xiào) là bẩm cáo. Trong một tháng có sáu ngày tâu rõ. Căn cứ vào kinh Ngũ Giới, ngài Vọng Tây nói: “Trong những ngày như thế, thiên thần ghi chép điều thiện ác của chúng sinh”.
Người xưa thường nói: “Ngẩng đầu ba thước có thần linh”. Thần minh giám sát nghiêm như vậy, thử hỏi: – Vì sao hiện nay người ác vẫn rất nhiều? – Vì họ chưa thấy được báo ứng!
Câu “Thần minh khắc thức”: Chữ “khắc” (尅 kè) là ghi khắc; chữ “thức” có hai cách giải thích:
* Thứ nhất, theo sách Gia Tường và Tịnh Ảnh Sớ thì “thức” là ghi chép. Sách Hội Sớ nói: “Trong chốn u huyền có thiên thần ghi chép từng điều, không sai một mảy nên bảo là ‘khắc thức’. Chữ ‘thức’ (識) đọc cùng âm với chữ ‘chí’ (志 zhì) theo âm Quan Thoại, có nghĩa là ghi chép”. Thuyết này giống với thuyết của ngài Gia Tường: Có thần minh ghi chép điều thiện ác của mỗi người, nên báo ứng chẳng hề sai sót.
*Thứ hai, chữ “thức” ở đây chính là thức thứ tám. Chẳng hạn như ngài Cảnh Hưng bảo: “Do công năng chẳng quên của chủng tử thức nên gọi là khắc thức”.
Ngài Nghĩa Tịch và ngài Vọng Tây cùng chấp nhận cả hai cách giải thích này. Ngài Nghĩa Tịch nói: “Điều thiện ác đã làm chẳng những huân tập trong cái thức của mình mà còn được thiên thần ở ngoài ghi chép. Ghi ở cả hai nơi thì sai chạy nỗi hay sao?”
Theo Hòa thượng Tịnh Không: Câu “huân tập trong cái thức của mình”, ý nói: Công năng của chủng tử (hạt giống) trong A Lại Da thức vĩnh viễn không hề mất. “Ghi cả hai nơi” là nội thức và ngoại thần. A Lại Da là kho tư liệu của chính mình. Kho tư liệu nầy vô cùng viên mãn, không bao giờ mất, chất chứa những tư liệu từ khi chúng ta bắt đầu mê do một niệm bất giác trong vô lượng kiếp đến nay. Thiên thần ghi chép chỉ trong giai đoạn từ khi chúng ta mê, rơi vào trong lục đạo. Nếu chúng ta vượt khỏi lục đạo, tài liệu nầy sẽ bị tiêu trừ. Vì sao vậy? – Vì không còn ở đây nữa!
Chỗ này, cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải rất hay: Trong các thuyết trên, thuyết của ngài Nghĩa Tịch ổn thỏa nhất bởi Duy Thức nào trở ngại việc thần minh ghi chép; thần minh ghi chép cũng nào trở ngại “duy thức sở hiện”. Cho nên, thuyết “trong ngoài cùng ghi” là thích hợp nhất.
Do tội báo theo mãi nên xoay vần trong tam đồ “lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn” (nhiều kiếp khó ra, khổ đau khôn cùng).
KINH VĂN:
Kỳ tam giả, thế gian nhân dân tương nhân ký sinh, thọ mạng kỷ hà? Bất lương chi nhân, thân tâm bất chánh. Thường hoài tà ác, thường niệm dâm dật, phiền mãn hung trung, tà thái ngoại dật. Phí tổn gia tài, sự vi phi pháp. Sở đương cầu giả, nhi bất khẳng vi. Hựu hoặc giao kết tụ hội, hưng binh tương phạt. Công kiếp sát lục, cưỡng đoạt bức hiếp, quy cấp thê tử, cực thân tác lạc. Chúng cộng tăng yếm, hoạn nhi khổ chi. Như thị chi ác, trước ư nhân quỉ, thần minh ký thức, tự nhập tam đồ. Vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn.
VIỆT DỊCH:
Thứ ba là người thế gian nương theo các nhân mà sinh, thọ mạng được mấy? Kẻ bất lương thân tâm bất chính, thường ôm lòng tà ác, luôn nghĩ chuyện dâm dật, phiền não đầy ắp, phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi, tốn phí của nhà, làm điều phi pháp. Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm; lại còn tụ bè kết đảng, dấy binh gây chiến, tấn công giết hại, đâm chém, cưỡng đoạt, bức hiếp, cung phụng vợ con, coi cực thân là vui. Mọi người chán ghét, gặp tai nạn mới khổ. [Do] những điều ác như thế, [nên] mắc vòng [trừng phạt] của người [lẫn] quỷ. Thần minh ghi biết, tự vào tam đồ, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó, bao kiếp khó ra, khổ đau khôn xiết!
GIẢNG:
Đoạn kinh văn trên nói về tội dâm ác, là loại ác thứ ba trong năm ác, dẫn khởi đến các ác: Tham, sân, si.
“Thế gian nhân dân, tương nhân ký sinh” (Người thế gian nương theo các nhân mà sinh): Chữ “ký” (寄 jì) là phụ thuộc vào. Ý nói: Chúng sinh do các nghiệp nhân tác động lẫn nhau mà sinh ra trong thế gian nầy. Trong kinh đức Phật nói đến bốn loại duyên: Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Nếu không có bốn duyên nầy, chúng ta sẽ không đến thế gian.
Sách Hội Sớ giảng: “Thế giới an lập: Chỉ có Dương thì không thể thành, chỉ có Âm thì không thể sinh nở. Chồng vợ là do nhân tạo thành. Lại cha con cũng do nhân tạo thành; vua tôi giúp nhau. Phàm trong trời đất, đâu có nghĩa độc lập, nên bảo là ‘tương nhân ký sinh”.
Ấy vì chúng sinh đều có Cộng nghiệp và Biệt nghiệp. Do người này, kẻ kia cùng có chung nghiệp báo nên sinh ra cùng một thời kỳ, cùng một thế giới. Bất luận là trong hay ngoài nước đều có cộng nghiệp. Lại do biệt nghiệp mỗi người có duyên túc nghiệp khác nhau nên hoặc làm quyến thuộc, hoặc trở thành cừu địch, cùng sinh trong đời để đền ân báo oán nên bảo là “tương nhân ký sinh”.
“Thọ mạng kỷ hà?” (Thọ mạng được mấy?). Trăm năm ngắn ngủi, vô thường chóng qua, mạng người trong hơi thở, nháy mắt liền hết! Nhưng, thế nhân điên đảo, chẳng biết khổ, không, vô thường, chỉ tham cầu cái vui giả tạo, như con thiêu thân lao đầu vào lửa tự đốt thân mình.
“Bất lương chi nhân, thân tâm bất chính, thường hoài tà ác, thường niệm dâm dật” (Kẻ bất lương thân tâm bất chánh, thường ôm lòng tà ác, luôn nghĩ chuyện dâm dật). Chữ “tà” (邪 yé) là tà vạy, bất chánh. Chữ “ác” (惡 è) là ác độc, bất thiện.
Sách Hội Sớ nói: “Tà là tà vạy, ác là tội ác”. Chữ “dâm” là dâm đãng, tham sắc, chẳng kể chi lễ nghĩa. Chữ “lễ” ở đây là “hôn lễ”. Mối quan hệ như vậy gọi là tà dâm. Dâm là một trong mười điều ác, cũng chính là gông cùm trói buộc chúng sinh, là cội nguồn tội lỗi sinh ra các ách nạn. Tất cả chúng sinh do dâm dục mà trôi lăn trong sinh tử!
Các kinh luận dưới đây đều nói đến cái hại của dâm dục:
Luật Sa Di Tắc nói: “Tại gia ngũ giới, duy chế tà dâm. Xuất gia thập giới, toàn đoạn dâm dục. Đản can phạm thế gian nhất thiết nam nữ, tất danh phá giới. Nãi chí thế nhân nhân dục, sát thân vong gia! Xuất tục vi Tăng, khởi đắc cánh phạm? Sinh tử căn bản, dục vi đệ nhất. Cố kinh vân: Dâm dật nhi sinh, bất như trinh khiết nhi tử” (Trong năm giới của kẻ tại gia, chỉ cấm tà dâm. Mười giới xuất gia đoạn hẳn dâm dục. Chỉ cần phạm vào tất cả chuyện trai gái trong đời đều gọi là phá giới. Thậm chí, tất cả người đời do dâm dục mà mất mạng tan nhà. Bỏ tục làm Tăng, lẽ đâu vẫn phạm? Căn bản của sinh tử thì dục là đứng đầu. Vì thế, kinh dạy: Sống dâm dục chẳng bằng chết trinh khiết).
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao cũng nói: “Dâm dục chính là cội nguồn lưu chuyển sinh tử, là nhân duyên khiến xa lìa giải thoát, như bậc đại hiền bảo: ‘Trong lao ngục sinh tử, dâm làm gông cùm trói chặt hữu tình, là nạn khó thoát’. Lại như Trí Độ Luận chép: ‘Dâm dục tuy không não hại chúng sinh nhưng vì nó trói buộc tâm chúng sinh nên xem là đại tội’. Luận Du Già nói: ‘Trong các thứ ái, dục là nặng nhất. Nếu đối trị được nó, tự nhiên điều phục được các thứ khác; như chế ngự được kẻ mạnh thì những kẻ yếu hơn tự khuất phục. Mà dục pháp nầy có đến ba tội lỗi: Khổ mà tưởng như vui; chút ít ngọt ngào nhưng lắm tai hại; bất tịnh mà tưởng như là tịnh”.
Sách còn viết thêm: “Lẽ đâu tham sự vui trong sát-na, để chịu đại khổ trong bao kiếp?”. Kinh Ha Dục (quở trách dục vọng) cũng dạy: “Nữ sắc giả, thế gian chi già tỏa, phàm phu luyến trước, bất năng tự bạt. Nữ sắc giả, thế gian trọng hoạn, phàm phu nhân chi, chí tử bất miễn. Nữ sắc giả, thế gian chi suy họa, phàm phu tao chi, vô ách bất chí” (Nữ sắc là gông cùm trong thế gian. Phàm phu tham luyến chẳng thể dứt nổi. Nữ sắc là tai họa lớn trong thế gian, bởi phàm phu vướng mắc vào đó đến chết vẫn không thoát được. Nữ sắc là suy họa của thế gian, phàm phu gặp phải thì không ách nạn nào lại không xảy đến).
Trong Giới Kinh, tội dâm dục ôm cột đồng cháy. Đây là nói nhân quả báo ứng. Địa ngục nầy do nghiệp lực người đó biến hiện ra, không phải do ai kiến tạo.
“Phiền mãn hung trung” (Phiền não đầy ắp). Sách Hội Sớ giảng như sau: “Lửa dục nung nấu bên trong khiến cho bụng dạ họ nóng nảy, tâm cuồng loạn”.
“Tà thái ngoại dật” (phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi). Ý nói: Trạng thái dâm tà phóng dật lộ rõ ra bên ngoài.
“Phí tổn gia tài, sự vi phi pháp” (Tổn phí của nhà, làm điều phi pháp): Cái gọi là phá gia bại sản có liên quan mật thiết đến tà dâm. Việc làm nầy là phi pháp, không thuận pháp độ, thậm chí vi phạm pháp luật nên nói “sự vi phi pháp”.
“Sở đương cầu giả, nhi bất khẳng vi” (Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm). Ý nói: Chẳng cầu tự lập, chẳng chăm chỉ làm việc chánh đáng, chẳng cầu xuất ly, chẳng biết cầu phước, cầu tuệ, cầu sinh Tịnh Độ.
“Hựu hoặc giao kết tụ hội, hưng binh tương phạt, công kiếp sát lục” (Lại còn tụ bè kết đảng, dấy binh gây chiến, tấn công giết hại, đâm chém).
Tịnh Ảnh Sở giảng như sau: “Từ chữ ‘giao kết tụ hội’ trở đi là nói về việc gây tạo lỗi ác. Vì dâm nên làm những việc giết hại, trộm cắp v.v… Đó là tội lỗi!”
Chữ “giao kết” là cấu kết; chữ “tụ hội” là tụ tập bọn tà. “Công kiếp sát lục” là công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém. Chữ “lục” ở đây là chỉ các thứ binh khí có mũi nhọn như giáo, mác v.v…để đâm giết người.
“Cưỡng đoạt bức hiếp, quy cấp thê tử, cực thân tác lạc” (Cưỡng đoạt, bức hiếp, cung phụng vợ con, coi cực thân là vui).
Ngài Cảnh Hưng giảng chữ “cưỡng đoạt” là “công nhiên cướp lấy”. Điều nầy chúng ta thấy rất rõ ràng, nhất là trong chiến tranh, họ tha hồ vơ vét của cải, vật chất…của người một cách ngang nhiên, không hề bị ai ngăn cản. “Bức hiếp” là dùng oai lực để đe dọa, tức là cướp đoạt bằng oai thế. Đấy là tội trộm cắp.
Họ làm đủ những việc trộm cắp, giết hại như thế, chỉ nhằm “quy cấp thê tử” (cung phụng vợ con), chỉ cốt vui lòng một người đàn bà, nên dù cực thân vẫn lấy làm vui. “Như thị chi ác, trước ư nhân quỷ” (Những tội ác như thế nên vướng vòng (trừng phạt) của người lẫn quỷ).
Ngài Nghĩa Tịch giảng: “Làm điều ác công khai thì bị vướng vào (sự trừng phạt) của người. Làm điều ác kín đáo thì bị vướng vào (sự trừng phạt) của quỷ”.
Sách Hội Sớ bảo: “Người là nhân gian, quan quyền hình phạt. Quỷ là quỷ thần, quan cõi âm soi xét”.
“Thần minh ký thức, tự nhập tam đồ. Vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn” (Thần minh ghi biết, tự vào tam đồ, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó, bao kiếp khó ra, khổ đau khôn xiết!). Ý nói: Thần minh âm thầm ghi chép, chư thiên cũng ghi chép thì kẻ tạo ác mong chi thoát khỏi. Bởi thế, “tự nhập tam đồ”; chữ “tự” ở đây là tự nhiên, có nghĩa là quyết định.
– Thần minh có thật hay chăng?
– Có! Theo Hòa thượng Tịnh Không, thần minh cõi Dục giới, đa phần dưới trời Đao Lợi. Chúa trời Đao Lợi quan tâm đến thế gian, người xưa gọi là Ngọc Hoàng đại đế. Tuy ở khác tầng không gian với chúng ta, nhưng họ cũng cư trú trên quả đất, gọi là Địa Cư Thiên. Nói thật, cổ nhân có câu: Nơi nào có người là nơi đó có ma, người và ma ở chung. Do khác tầng không gian nên người không thấy ma, ma cũng không thấy người. Khác với chư thiên: Trời thấy người nhưng người không thấy trời.
KINH VĂN:
Kỳ tứ giả, thế gian nhân dân bất niệm tu thiện. Lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, tăng tật thiện nhân, bại hoại hiền minh, bất hiếu phụ mẫu, khinh mạn sư trưởng, bằng hữu vô tín, nan đắc thành thật, tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo, hoành hành oai thế, xâm dịch ư nhân, dục nhân úy kính, bất tự tàm cụ, nan khả hàng hóa, thường hoài kiêu mạn. Lại kỳ tiền thế, phước đức doanh hộ. Kim thế vi ác, phước đức tận diệt. Thọ mạng chung tận, chư ác nhiễu quy. Hựu kỳ danh tịch, ký tại thần minh, ương cữu khiên dẫn, vô tùng xả ly. Đản đắc tiền hành, nhập ư hỏa hoạch, thân tâm tồi toái, thần hình khổ cực. Đương tư chi thời, hối phục hà cập?
VIỆT DỊCH:
Thứ tư là người đời chẳng nghĩ tu thiện. Nói đôi chiều, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt, ganh ghét người hiền, ám hại hiền minh, chẳng hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, không thành tín với bằng hữu, khó mà thành thật, tự cao tự đại, cho mình có đạo, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người, muốn người kiêng nể, chẳng biết hổ thẹn, chẳng sợ người khác phê bình, khó bề hàng phục, giáo hóa, thường ôm lòng kiêu mạn. Nhờ phước đức đời trước che chở. Ðời này làm ác, phước đức tận diệt. Thọ mạng hết rồi, các ác vây quanh. Tên tuổi người ấy được ghi nơi thần minh, vạ ương lôi dắt, không cách nào tránh khỏi. Chỉ do việc làm trước kia mà vào trong vạc lửa, thân tâm tan nát, thần hình thống khổ. Ngay lúc ấy, dẫu hối kịp chăng?
GIẢNG:
Thứ tư là tội vọng ngữ. Trí Độ Luận giảng: “Vọng ngữ là tâm bất tịnh muốn dối gạt người. Che dấu sự thật, nói khác lời, tạo thành khẩu nghiệp. Đấy gọi là vọng ngữ.”
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng: “Lời nói không đúng sự thật gọi là Vọng. Nói ra điều sai vạy nên bảo là Vọng ngữ”.
Bốn lỗi của miệng, tức là bốn điều ác nơi khẩu nghiệp đó là: “Lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ”.
Tịnh Ảnh Sớ viết: “Bốn lỗi của miệng chẳng đúng với pháp, gọi chung là vọng ngữ”.
“Lưỡng thiệt” là nói đôi chiều, nói lời thị phi, phá hoại mối quan hệ giữa hai người khiến họ mất hòa khí, nghi kỵ lẫn nhau v.v… Nếu ảnh hưởng lớn, có thể khiến hai quốc gia xảy ra chiến tranh. Tội nầy rất nặng! Một ngày nào đó, nếu sự việc bại lộ, cả đôi bên đều oán hận bạn, tạo thành oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp chẳng bao giờ dứt. Quả báo này sẽ rơi vào địa ngục cắt lưỡi.
Các nhà dịch kinh theo trường phái Tân Dịch của đại sư Huyền Trang dịch là “ly gián ngữ”. Tứ Phần Luật chép: “Bỉ thử đấu loạn, linh tha phá dã” (Người nầy kẻ kia tranh chấp loạn xạ, khiến người khác bị tổn hại).
Ngài Thiên Thai nói: “Khích bác người nầy, kẻ kia, phá sự hòa hợp”.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng: “Nói khiến bên nầy, bên kia trái nghịch nhau nên gọi là Lưỡng. Đều do cái lưỡi nói với cả hai bên nên bảo là Lưỡng Thiệt”: Đây là tội khích động, ly gián.
Chữ “ác khẩu” dịch theo lối Tân dịch là “thô ác ngữ”. Sách Pháp Giới Thứ Đệ viết: “Dùng lời ác dồn ép kẻ khác khiến họ phải đau khổ thì gọi là Ác Khẩu”.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển bảy nói: “Lời lẽ thô tháp gọi là Ác. Ác từ miệng sinh nên gọi là Ác khẩu”.
“Vọng ngôn” là vọng ngữ, theo lối Tân dịch là “hư cuống ngữ”. Chữ “hư” là hư giả, không có thật; chữ “cuống” là không chân thật.
Kinh Phạm Võng bảo: “Bất kiến ngôn kiến, kiến ngôn bất kiến” (Không thấy nói thấy; thấy nói không thấy). Những lời lẽ nghịch tâm, chẳng thật ấy chính là Vọng Ngôn.
“Ý ngữ” là lời nói trau chuốt, thêu dệt. Theo lối Tân dịch là “tạp uế ngữ”.
Câu Xá Luận nói: “Tất cả lời nói xuất phát từ tâm nhiễm tạp gọi là Tạp Uế Ngữ”.
Đại Thừa Nghĩa Chương giảng: “Tà ngôn bất chánh giống như các sắc (pha trộn) bóng bảy. Dùng thí dụ để đặt tên nên gọi là Ỷ Ngữ”: Ý nói, lời nói rất bùi tai, du dương như tiếng hát, âm nhạc, thơ văn, biểu diễn văn nghệ, khiến người xem nghe sinh khởi tâm dâm, gian dối, giết, trộm v.v… Đấy đều là thêu dệt.
Biểu diễn văn nghệ ngày nay đều như thế cả. Trước đây, Khổng Tử đã chế định “tư vô tà” để áp dụng trong văn nghệ, thi ca v.v… Nhưng, rất tiếc ngày nay không còn ai tuân thủ noi theo pháp tắc này! Cho nên xã hội mới động loạn! Phong khí nầy đã tiêm nhiễm khắp toàn cầu! Rõ ràng, như cổ nhân Trung Quốc nói: “Không nghe lời người lớn, thiệt thòi ngay trước mắt”.
Sách Vô Lượng Thọ Tiên Chú của cư sĩ Đinh Phúc Bảo nói: “Ỷ ngữ là tất cả ngôn từ bất chánh hàm chứa ý dâm. Khách tao nhân đời sau quen thói ẩn dụ, ví von mỹ nhân như cỏ thơm. Phàm những lời lẽ ấy xâm nhập vào chốn khuê các đều gọi là Ỷ ngữ”. Chữ “khuê các” có nghĩa là lời nói tình cảm giữa nam nữ.
Sách Thập Thiện Nghiệp Đạo Chương nói: “Ngôn từ diễn tả những điều nhiễm tạp thì gọi là Tạp Uế Ngữ. Nếu là những văn từ bóng bảy chẳng khiến tâm tạp nhiễm, ca ngợi thật đức thì không gọi là lời bất thiện”.
Ngài Vọng Tây nói: “Đối với vọng ngữ nầy người đời thường thích phạm, chẳng đoái hoài quả báo mai sau. Như Ngài Nam Sơn (tức Đạo Tuyên luật sư) nói: ‘Đối với giới nầy, người đời rất dễ phạm. Ấy bởi nghiệp dối chất chứa sâu nặng, hạt giống (vọng nghiệp) trong tạng thức rất nhiều, nên cứ gặp trần cảnh là liền phát động, tạo nên lời dối trá”.
Ngài còn nói: “Hành Cơ Bồ tát lại nói: “Miệng dữ hại người, gươm lưỡi đoạt mạng. Nếu miệng giữ được như mũi thì chết đi chẳng lo tai vạ gì!” Ý nói: Nói ít là tốt. Nói nhiều lỗi nhiều!
Trí Độ Luận nói:
“Như lời Phật dạy: Vọng Ngữ có mười tội. Những gì là mười? Một là hơi miệng hôi; hai là thiện thần tránh xa, phi nhân được dịp làm hại; ba là tuy nói lời thật nhưng không ai tin; bốn là khi người trí bàn soạn thường không tham dự được; năm là thường bị phỉ báng, tiếng xấu đồn khắp thiên hạ; sáu là người khác chẳng kính, tuy có dạy dỗ, mọi người không nghe; bảy là thường hay ưu sầu; tám là tạo thành nhân duyên của nghiệp phỉ báng; chín là khi thân hoại mạng chung sẽ đọa địa ngục; mười là nếu được thoát ra (khỏi địa ngục) sinh làm người thường bị coi khinh”.
– “Phi nhân” là ai?
– Là oan gia trái chủ của bạn!
Muốn chuyển ác báo này thành thiện báo, chúng ta phải đem lòng cảm ân, hoan hỉ đón nhận. Cho dù người khác có hiểu lầm hay cố ý phỉ báng, đổ tội cho ta, đều là tiêu nghiệp chướng cho ta. Hiện tại, tuy chúng ta không có tội; nhưng trong kiếp quá khứ có thể có. Phải nên nhận tội, không oán hận người, thì ta đã tiêu nghiệp; đã chuyển ác báo thành thiện báo; ác niệm trở thành thiện niệm, chuyển xấu trở thành tốt, đều chỉ trong một niệm. Một niệm này là trí tuệ, không phải phiền não. Những gì tạo nên bởi phiền não đều gọi là tội nghiệt. Những gì tạo nên bởi trí tuệ đều là phước báo.Ác nghiệp “vọng ngữ” sinh ra lắm thứ ương họa, phải dè chừng chớ nên xem thường.
“Tăng tật thiện nhân, bại hoại hiền minh, bất hiếu phụ mẫu, khinh mạn sư trưởng, bằng hữu vô tín, nan đắc thành thật, tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo” (Ganh ghét người hiền, ám hại hiền minh. Chẳng hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, không thành tín với bằng hữu, khó mà thành thật. Tự cao tự đại, cho mình có đạo): Chữ “tăng” (憎 zēng) là ghét; chữ “tật” (嫉 jí) là tật đố, ganh tỵ. Đối với tám câu trên, Cổ đức có hai lối giải thích:
– Ngài Gia Tường giảng: “Tăng tật thiện nhân’ là ác khẩu. ‘Bại hoại hiền minh’ là vọng ngữ. ‘Bất hiếu song thân’ (Bản Ngụy dịch là “nhị thân”) là kẻ tạo ác tội nghịch. ‘Bằng hữu vô tín’ là bất trung, thành tội vọng ngữ bậc thượng. ‘Tôn quý tự đại’ thành ra ác khẩu, ‘vị kỷ hữu đạo’ là nói đôi chiều”
Hòa thượng Tịnh Không giải thích: Câu “Tăng tật thiện nhân là ác khẩu”, ý nói: Kẻ ganh ghét thiện nhân tìm cách chỉ trích, phê bình việc thiện của họ, cho rằng việc thiện đó là giả dối, lường gạt mọi người, khiến ai nấy đều khởi tâm nghi ngờ, xa lánh người thiện, việc thiện. Đây là ác khẩu.
“Bại hoại hiền minh là vọng ngữ”: Ác khẩu và vọng ngữ là hai tội rất nặng. Tùy theo sức ảnh hưởng, việc làm công ích, từ thiện của họ đối với mọi người xung quanh lớn hay nhỏ, thời gian dài hay ngắn mà luận tội. Đa phần, loại tội nghiệp nầy là đọa vào Vô Gián địa ngục. Vì thế Phật dạy: Thấy người tốt, việc tốt nên tùy hỉ công đức. Nếu có khả năng, nên toàn tâm toàn lực giúp họ thành tựu. Họ được bao nhiêu công đức người tùy hỉ cũng được bấy nhiêu công đức. Người khởi xướng là Thánh nhân; người tùy hỉ là Hiền nhân.
“Bất hiếu song thân” là kẻ tạo tác tội nghịch. Đây là tội lỗi lớn nhất trong các tội lỗi.
– Theo ngài Vọng Tây thì “tăng tật thiện nhân” chính là tội lưỡng thiệt. Bởi lẽ, họ khiêu khích thị phi, thêm thắt phê bình, phá hoại người tốt, việc tốt. “Bất hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng” là tội Ác khẩu . Bởi họ bất kính, dùng lời lẽ thô bạo khiến cha mẹ, sư trưởng buồn khổ. “Bằng hữu vô tín, nan đắc thành thật” chính là lỗi vọng ngữ. “Tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo” chính là tội nói thêu dệt (ỷ ngữ).
Theo chú giải của cụ Hoàng: Hai thuyết trên hơi khác nhau, nhưng lời nói đã không thành thật thì từ một khẩu nghiệp sẽ có đủ các tội lỗi, khó bề phân giải tường tận. Hơn nữa, “vị kỷ hữu đạo”: nếu chưa đắc thánh đạo mà nói rằng đã đắc thánh đạo là đã phạm đại vọng ngữ giới, sẽ phải chịu lấy tội báo nặng.
Cổ thánh tiên hiền xưa nay thường dạy: “Miệng là cửa của họa phước”. Nói sai, tai nạn liền đến; nói chuẩn xác phước báo có mặt. Đúng là cửa của họa phước.
“Hoành hành oai thế, xâm dịch ư nhân” là cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người.
“Dục nhân uý kính” là muốn người khác kiêng nễ, cúi đầu vâng lời, phục tùng mình.
“Bất tự tàm cụ, nan khả hàng hóa, thường hoài kiêu mạn”. Ý nói: Bản thân họ không có lòng hổ thẹn, không sợ người khác phê bình. Hạng người này thường ôm lòng kiêu mạn, rất khó bề hàng phục, giáo hóa họ.
“Lại kỳ tiền thế phước đức doanh hộ” (Nhờ phước đức đời trước che chở). Theo Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa: Chữ “Lại” (賴 lài) chính là chữ “vệ” (衛 wèi) có nghĩa là bảo vệ, che chở. Ý nói: Những kẻ ác có thể hoành hành nhất thời như trên đều do phước đức đời trước che chở họ. Nhưng, “Kim thế vi ác, phước đức tận diệt” (đời này làm ác, phước đức tận diệt).
Ngài Vọng Tây bảo: “Nghiệp lành đời trước diệt sạch, thiện thần bỏ đi nên đời nầy gặp nạn, đấy là điều đau khổ vậy”.
Ngài Tịnh Ảnh nói: “Nghiệp thiện đời trước diệt hết, thiện thần xa lìa, thân không nơi nương tựa, gặp nhiều nạn ác là nỗi đau khổ vậy”.
“Hựu kỳ danh tịch, ký tại thần minh” (Tên tuổi người ấy được ghi chép nơi thần minh). Chữ “danh” (名 míng) là tên họ; chữ
“tịch” (籍 jí) là sổ sách, hồ sơ ghi tội.
“Ương cữu khiên dẫn, vô tùng xả ly” (vạ ương lôi dắt, không cách nào tránh)
Sách Hội Sớ giảng câu “ương cữu khiên dẫn” (vạ ương lôi dắt) như sau: “Chẳng ai lôi kéo được mình, chỉ có nghiệp của chính mình ràng buộc mà rơi vào đường ác”.
“Đản đắc tiền hành, nhập ư hỏa hoạch” (Chỉ do việc làm trước kia, mà vào trong vạc lửa). Đây là tự vào trong lửa cháy, vạc nước sôi nơi địa ngục.
“Thân tâm tồi toái, thần hình khổ cực” (Thân tâm tan nát, thần hình thống khổ): Chữ “tồi toái” (摧 碎 cuī suì) là tan nát. Chữ “thần hình” (神 形 shén xíng) là tinh thần và hình thể. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Do ác nghiệp lôi kéo, quỷ thần chộp nắm, nên vào trong ác đạo chịu khổ, bị nung đốt”, nên nói: “Khổ cực” (khổ sở cùng cực).
“Đương tư chi thời, hối phục hà cập ?”. Ý nói: Ngay khi ấy có hối hận cũng không còn kịp!
KINH VĂN:
Kỳ ngũ giả, thế gian nhân dân tỉ ỷ giải đãi, bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp. Phụ mẫu giáo hối, vi lệ phản nghịch, thí như oán gia, bất như vô tử. Phụ ân vi nghĩa, vô hữu báo thường. Phóng tứ du tán, đam tửu thị mỹ, lỗ hỗ để đột, bất thức nhân tình, vô nghĩa, vô lễ, bất khả gián hiểu. Lục thân quyến thuộc, tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm. Bất duy phụ mẫu chi ân, bất tồn sư hữu chi nghĩa, ý niệm thân khẩu tằng vô nhất thiện. Bất tín chư Phật kinh pháp, bất tín sinh tử thiện ác. Dục hại chân nhân, đấu loạn tăng chúng, ngu si mông muội, tự vi trí tuệ. Bất tri sinh sở tùng lai, tử sở thú hướng. Bất nhân bất thuận, hy vọng trường sinh. Từ tâm giáo hối, nhi bất khẳng tín. Khổ khẩu dữ ngữ, vô ích kỳ nhân. Tâm trung bế tắc, ý bất khai giải, đại mạng tương chung, hối cụ giao chí, bất dự tu thiện, lâm thời nãi hối. Hối chi ư hậu, tương hà cập hồ!
VIỆT DỊCH:
Thứ năm, người đời chần chừ, lười biếng, không chịu làm thiện, sửa thân, tu nghiệp. Cha mẹ dạy bảo chống đối, hỗn hào, trái nghịch giống như oan gia, chẳng bằng không con. Vong ân bội nghĩa, không chút báo đền. Phóng túng chơi bời, rượu chè xa hoa, ngỗ nghịch thô lỗ, không hiểu tình người. Vô nghĩa, vô lễ, không thể can ngăn. Lục thân, quyến thuộc dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ. Không nghĩ ơn cha mẹ, không kể nghĩa thầy bạn. Ý niệm, thân, khẩu chẳng có chút thiện. Không tin kinh pháp của chư Phật, không tin sinh tử, thiện ác, muốn hại người hiền, gây rối tăng chúng. Ngu si, mông muội, tự cho có trí, không biết sinh từ đâu đến, chết đi về đâu. Không nhân, không thuận lại mong trường sinh. Từ tâm răn dạy mà chẳng chịu tin. Rát miệng bảo ban [cũng] thành vô ích. Trong tâm bế tắc, ý không khai mở. Mạng chung cận kề, hối, sợ rối bời, đã không tu thiện, gần chết mới hối. Hối việc đã xong, làm sao kịp nữa!
GIẢNG:
Thứ năm là phạm Giới Rượu. Cổ đức có hai cách giải thích:
– Quan điểm thứ nhất: Như ngài Tịnh Ảnh và ngài Gia Tường đều cho rằng bốn tội đầu tiên trong Ngũ giới: Thứ nhất là tội sát sinh; thứ hai là tội trộm cắp; thứ ba là tội tà dâm; thứ tư là tội vọng ngữ. Đến thứ năm nầy là tội uống rượu.
– Quan điểm thứ hai: Như ngài Nghĩa Tịch nói: “Ba nghiệp ác nơi thân là ba điều đầu tiên (tội giết, tội trộm và tội dâm). Bốn tội ác nơi miệng gộp lại thành điều ác thứ tư. Ba nghiệp ác nơi ý họp lại thành điều ác thứ năm.
Thoạt nhìn, chúng ta thấy cả hai quan điểm trên đều giống nhau ở bốn tội đầu. Nhưng, đến tội thứ năm thì có phần khác: Như ngài Tịnh Ảnh…bảo tội thứ năm là tội uống rượu. Ngài Nghĩa Tịch lại cho rằng: Tội thứ năm là tội của ý nghiệp (tức: tham, sân, si).
Nhưng, thật ra cả hai thuyết đều không trái nghịch nhau. Bởi, đam mê chè chén chính là tham độc. Say rồi dễ nóng giận chính là Sân độc. Rượu khiến cho thần trí hôn ám, uống quá độ thậm chí đến bất tỉnh nhân sự chính là Si độc. Đủ thấy, chỉ một lỗi uống rượu đã bao gồm đủ cả ba độc.
Ông Bành Tế Thanh đời Thanh, trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận có viết: “Đối với ý nghĩa của năm Ác thì đặc biệt chuẩn theo các kinh khác mà phối hợp với Thập Ác. Điều ác thứ nhất thuộc về sát nghiệp. Điều ác thứ hai thuộc về tham, trộm. Điều ác thứ ba thuộc về dâm nghiệp. Điều ác thứ tư thuộc về nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt. Điều ác thứ năm thuộc sân hận, tà kiến. Trái ngược với chúng là năm điều thiện, cũng gọi là Thập thiện”.
So với thuyết của ngài Nghĩa Tịch, thuyết của ông Bành chỉ khác một ít, vì tà kiến là từ “si” mà sinh ra.
Sách Tư Trì Ký bảo uống rượu có mười cái hại: “Một là ngoại hình xấu xí (vì khi uống rượu mặt mũi khó coi, nhất là khi uống say, người khác trông thấy sẽ không còn kính trọng), hai là yếu sức (vì khi say đứng không vững, đây là điều dễ nhận ra nhất), ba là mắt nhìn không rõ (hoa mắt), bốn là hiện tướng nóng giận (sân độc), năm là tổn hại nghề nghiệp mưu sinh, sáu là thêm tật bệnh, bảy là dễ dàng tranh chấp, cãi cọ (sân độc), tám là không còn danh dự (không ai khen ngợi nữa), chín là trí tuệ kém (si độc), mười là khi mạng chung sẽ đọa trong ba ác đạo”.
Người đời có câu: “Rượu vào loạn tánh”. Ý nói: Rượu có thể làm rối loạn tâm trí và bản tính lương thiện, khiến con người gây ra tội ác.
Nay kinh bảo “Đam tửu thị mỹ” (Đam mê rượu thịt): Chữ “mỹ” ở đây là chỉ thức ăn ngon, sẽ kéo theo rượu; đây chính là cả hai độc Tham và Si.
“Thế gian nhân dân, tỉ ỷ giải đãi, bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp” (Người đời chần chừ, lười biếng, không chịu hành thiện, sửa thân, tu nghiệp): Chữ “tỉ ỷ” (徙 倚 xǐ yǐ) là do dự, chần chừ; “giãi đãi” (懈 怠 xiè dài) là biếng nhác. Ý nói: Người thế gian tâm thường do dự, biếng nhác, sống buông thả chỉ cầu an nhàn; không nghĩ đến tu thân hành thiện, suốt ngày chỉ lấy rượu làm vui, sống cho qua ngày đoạn tháng. Chữ “nghiệp” ở đây là chỉ cho “chánh nghiệp”. “Trị thân tu nghiệp” là (không chịu) tu thân sửa tánh, (không chịu) siêng tu chánh nghiệp.
Chúng ta xem thấy những cầm thú, côn trùng rời hang ổ, để tìm thức ăn. Thử hỏi: Chúng có được an toàn trở về chăng?! Chư thiên cõi trời nhìn nhân gian chúng ta cũng là như vậy, có khác nào như sâu, kiến, mạng sống rất là ngắn tạm!
Phật dạy:“Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Nghe được Phật pháp, lại còn gặp được pháp môn Tịnh Độ là điều rất may mắn trong các may mắn. Sao chúng ta không tranh thủ đời này thực hiện cho bằng được giá trị làm người: Tận tâm, tận lực đoạn ác tu thiện, nhất tâm niệm Phật, một đời này quyết định vượt khỏi tam giới, vãng sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân cận đấng từ phụ Phật A Di Đà!
“Phụ mẫu giáo hối, vi lệ phản nghịch, thí như oán gia, bất như vô tử” (Cha mẹ dạy bảo, chống đối hỗn hào, trái nghịch, giống như oan gia, chẳng bằng không con): Chữ “vi” (違 wéi) là làm trái nghịch, kháng cự lại. Chữ “lệ” (戾 lì) là thô bạo, hỗn ác. “Vi lệ” là chống trái, xấc xược. “Phản nghịch” (反 逆 făn nì) là ngỗ nghịch, bất hiếu. Ý nói: Cha mẹ có con mà hệt như có oan gia, nên bảo là “bất như vô tử” (chẳng bằng không con).
“Phụ ân vi nghĩa, vô hữu báo thường. Phóng tứ du tán, đam tửu thị mỹ” (Vong ân bội nghĩa, không chút báo đền. Phóng túng chơi bời, xa hoa rượu chè).
“Phụ ân” là phụ bạc ân (cha mẹ). “Vi nghĩa” là trái nghịch lễ nghĩa. “Vô hữu báo thường” nghĩa là đối với ân đức của cha mẹ hoàn toàn không báo đáp. “Phóng tứ” (放恣 fàng zì) là phóng đãng, tự tung tự tác. “Du tán” (遊 散 yóu sàn) là chơi bời trác táng. “Đam tửu” (耽 酒 dān jiǔ) là ham say sưa, chè chén. “Thị mỹ” (嗜美 shì měi) là ham thích món ngon. Chữ “đam” (耽 dān) còn có nghĩa là theo đuổi cái vui quá độ. Chữ “thị” (嗜 shì)là tham lam chẳng chán.
“Đam tửu thị mỹ”, ý nói mặc tình chè chén, tham ăn vô độ, đấy chính là lỗi ác của việc rượu chè.
“Lỗ hỗ để đột, bất thức nhân tình, vô nghĩa, vô lễ, bất khả gián hiểu” (Ngỗ nghịch thô lỗ, không hiểu tình người. Vô nghĩa, vô lễ, không thể can ngăn): Trong sách Thuật Nghĩa, ngài Nghĩa Tịch giảng chữ “lỗ hỗ” (魯 扈 lū hù) như sau: “Lỗ là lỗ mãng, đần độn, không biết gì cả. Hỗ là huênh hoang, mặc sức tự đại”. “Để đột” (抵 突 dǐ tū) là ngu cuồng, luôn làm càn, chẳng hiểu việc gì, nhưng không việc gì lại chẳng dám làm.
Sách Phụ Hành (là Chỉ Quán của Thiên Thai) ghi: “Thô lỗ, huênh hoang…là dáng vẻ chẳng biết xấu hổ, bất thuận”. Chữ “bất thuận” có nghĩa là hoàn toàn trái ngược với tánh đức, như chúng ta thường nói: bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô trí, vô tín v.v… Do vậy mà “bất thức nhân tình, vô nghĩa, vô lễ” (chẳng hiểu tình người, không nghĩa, không lễ). Chữ “nghĩa” (義 yì) là thích đáng, hợp tình, hợp lý, hợp pháp. Chữ “lễ” (禮 lǐ) được sách Lễ Ký giảng như sau: “Thuận nhân tình là Lễ”.
Sách Hội Sớ bảo: “Quyết đoán đúng sai, thấy việc gì thích đáng thì làm theo, đó là Nghĩa. Nhận rõ tôn ti, chẳng trái với chuẩn mực, pháp tắc (đạo đức của xã hội) đó là Lễ”. Bởi trái nghịch với lễ nghĩa nên bảo là “vô nghĩa, vô lễ”. “Bất khả gián hiểu” (không thể can ngăn). Chữ “gián” (諫 jiàn) là dùng đạo lý để khuyên can kẻ ấy hành xử đúng đắn. Chữ “hiểu” (曉 xiǎo) là khuyên bảo.
Theo Hòa thượng Tịnh Không: Xã hội ngày nay, những người không thể khuyên can có rất nhiều. Họ thích khen ngợi, không thích nghe khuyên. Họ cho rằng kẻ khuyên là người có ý xem thường, chỉ trích, nhục mạ họ, nên họ không nghe, mà còn sinh tâm oán hận. Cho nên, sống trong thời đại nầy phải thận trọng trong lời nói. Bản thân ta vô tâm, nhưng người khác hữu ý. Ta mang ý tốt đến người, nhưng người lại cho là có ác ý, vậy thì hết cách!
– Vậy phải làm sao?
– Không cần phải khuyên nữa! Cứ hoan hỉ, chí tâm niệm Phật hồi hướng cho họ. Phương pháp này vừa tự lợi, lợi tha, vừa có hiệu quả nhất!
“Lục thân quyến thuộc, tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm” (Lục thân, quyến thuộc dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ).
“Lục thân” là cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Hiển Dương Đại Giới Luận có câu: “Lục thân là ba đời trên của mình, tức là cha mẹ, ông bà, ông cố, bà cố và ba đời dưới mình là con cái, cháu và chắt”. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng chữ “quyến thuộc” là: “Ngoài lục thân thì gọi là quyến thuộc”.
“Tư dụng” là những vật dùng để sinh sống như tiền bạc, lúa gạo v.v… Kẻ ác không bao giờ đoái hoài, quan tâm đến cuộc sống đói no của cha mẹ và người thân quyến thuộc, nên nói: “Tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm”.
“Bất duy phụ mẫu chi ân, bất tồn sư hữu chi nghĩa, ý niệm thân khẩu tằng vô nhất thiện” (Không nghĩ ơn cha mẹ, không kể nghĩa thầy bạn. Ý niệm, thân, khẩu chẳng có chút thiện).
Câu “Ý niệm thân khẩu tằng vô nhất thiện” được bản Ngụy dịch ghi là: “Tâm thường niệm ác, khẩu thường ngôn ác, thân thường hành ác tằng vô nhất thiện” ( Tâm thường nghĩ điều ác, miệng thường nói điều ác, thân thường làm điều ác, chưa từng có một điều thiện nào). Câu này đủ chứng minh thuyết của ngài Nghĩa Tịch quả thật là có căn cứ.
Xã hội ngày nay, nhất là người nước ngoài, đến khi tuổi già quả thật là đáng thương. Họ thật cô đơn, ở trong chung cư người già, sinh hoạt do nhà nước lo liệu, vật chất thì không có vấn đề, nhưng đời sống tinh thần thì vô cùng thiếu thốn, con cái hầu như chẳng thấy đến thăm! Cái mà con cái họ mưu cầu là tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng…còn thì giờ đâu nghĩ đến cha mẹ, người thân! Có người lo cho con du học, kết quả nhận được, sau khi tốt nghiệp, con họ trở thành người nước ngoài. Tự do kết hôn, sinh con đẻ cái trở thành cháu của người ngoài; đối với cha mẹ, người thân đều không quen biết! Cho nên, đọc đến câu kinh “bất duy phụ mẫu chi ân” (chẳng nghĩ ân cha mẹ), chúng ta có cảm tưởng như Phật đang nói lời nầy với người hiện tại. Xã hội ngày xưa rất ít khi thấy hiện tượng nầy. Câu “bất tín chư Phật kinh pháp, bất tín sinh tử thiện ác”: Đây là nói về si họa. Họ không tin Phật pháp, không tin nhân quả, nên việc ác nào họ cũng dám làm. Đây là người không có thiện căn, trong Phật pháp gọi họ là Nhất Xiển Đề.
Câu “dục hại Chân Nhân” (là muốn hại Chân Nhân), được bản Ngụy dịch ghi là “dục sát Chân Nhân” (muốn giết Chân Nhân).
Bản Hán dịch ghi là “dục hại La Hán” (muốn hại La Hán).
Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Chân Nhân là A La Hán”.
Sách Pháp Hoa Sớ Ký bảo: “Chân là sự chứng đắc. Do (A La Hán) là bậc chứng đắc chân thật nên gọi là Chân Nhân”. Tội giết A-La-Hán là một trong Ngũ Nghịch tội trọng.
“Đấu loạn tăng chúng” là tội “phá hòa hợp Tăng”. Chữ “đấu” là đấu tranh; chữ “loạn” là lầm lạc, trái nghịch. Ý nói: Kẻ ác dùng thủ đoạn ly gián, khiến tăng chúng tranh chấp, rối loạn, pháp sự bị phế bỏ, đó gọi là “phá hòa hợp Tăng”.
Kinh A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch dạy: “Có năm tội nghịch, nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ phạm những tội nầy thì không thể cứu được, ắt nhập địa ngục, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Những gì là năm? Tức là giết cha, giết mẹ, hại A La Hán, đấu loạn chúng Tăng, khởi ác ý đối với đức Như Lai”. “Ác ý” ở đây là muốn hại
Phật, muốn hủy diệt Phật giáo, tiêu diệt chánh pháp của đức Như Lai.
Theo Hòa thượng Tịnh Không: Chữ “tộc tánh” ở đây là chỉ cho người cùng họ, cùng dân tộc, cùng một quốc gia, cũng có thể nói là nhà giàu.
Năm tội nghiệp trên đây chính là Ngũ Vô Gián nghiệp, chiêu cảm khổ quả trong địa ngục Vô Gián. Đây là nói về lỗi ác của Sân và Si.
Từ câu “ngu si, mông muội” trở đi là nói về những sự khổ phát sinh từ Si ác. Chữ “mông muội” là vô tri. Ngu si, vô tri lại “tự vi trí tuệ” (tự cho là có trí tuệ), tự cho mình là đúng thì thật là ngu si đến cùng cực!
Lại do ngu si nên chẳng tin nhân quả ba đời, “bất tri sinh tử tùng lai, tử sở thú hướng” (chẳng biết đời này sinh từ đâu đến, chết sẽ đi về đâu), chẳng biết lợi hại, chỉ toan tự lợi, nên đối xử với người khác toàn là “bất nhân, bất thuận”. Trang Tử nói: “Thương người, lợi vật là nhân”, ý nói: Không những thương người mà còn yêu thương tất cả vạn vật, cỏ cây hoa lá, sơn hà, đại địa; đấy gọi là “nhân”. “Thuận” là hòa thuận.
Kẻ si ác chỉ biết tự lợi, còn “hy vọng trường sinh”. Người như thế, tâm ngu hạnh kém, cho dù có “từ tâm giáo hối, nhi bất khẳng tín, khổ khẩu dữ ngữ, vô ích kỳ nhân” (từ tâm răn dạy, mà chẳng chịu tin, rát miệng bảo ban, cũng thành vô ích). Họ không thể lãnh hội! Rõ ràng là do si độc chiêu cảm nên đau khổ này. Vì thế “tâm trung bế tắc, ý bất khai giải” (Trong tâm bế tắc, ý không khai mở).Tịnh Ảnh Sớ viết: “Ngu si hiện hữu, ám chướng che tâm, không hiểu gì cả, đó là đau khổ”.
“Đại mạng tương chung, hối cụ giao chí” (Đại mạng sắp dứt, hối sợ rối bời):
Ngài Nghĩa Tịch giảng chữ “đại mạng” như sau: “Sinh tử là đại mạng, cùng quẩn là tiểu mạng”. Ý nói: Sinh tử gọi là đại mạng. Nghèo khốn, khổ sở, già bệnh là tiểu mạng.
Ngài Vọng Tây giảng chữ “hối cụ” như sau: “Hối cụ là lúc mạng sắp dứt, lửa địa ngục hiện tiền. Lúc thấy tướng ấy, sinh lòng hoảng sợ, hối hận. Vừa hối hận lẫn hoảng sợ nên bảo là giao chí”
“Bất dự tu thiện, lâm thời nãi hối. Hối chi ư hậu, tương hà cập hồ”. Ý nói: Con người nếu chẳng nhân lúc còn sống nỗ lực tu thiện, để đến lúc lâm chung mới hối hận thì đã quá muộn!
KINH VĂN:
Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tương thừa, thân tự đương chi, vô thùy đại giả. Thiện nhân hành thiện, tùng lạc nhập lạc, tùng minh nhập minh. Ác nhân hành ác, tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh. Thùy năng tri giả, độc Phật tri nhĩ. Giáo ngữ khai thị, tín hành giả thiểu. Sinh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt. Như thị thế nhân, nan khả cụ tận. Cố hữu tự nhiên tam đồ, vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Thế thế lũy kiếp, vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn!
VIỆT DỊCH:
Trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tiếp nối, thân phải tự lãnh, không ai thế cho. Người thiện làm thiện, từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Kẻ ác làm ác, từ khổ vào khổ, từ tối vào tối. Ai biết được thế? Chỉ mình Phật biết! Khai thị chỉ dạy, ít kẻ tin hành. Sinh tử không ngơi, ác đạo không dứt. Người đời như vậy, khó thể hết sạch. Cho nên tự nhiên có ba đường ác, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó. Đời đời kiếp kiếp, chẳng có lúc ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể nói hết!
GIẢNG:
Đoạn kinh văn trên tổng kết năm sự ác, năm sự khổ, năm sự thiêu đốt.
“Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh” (Trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh):
Sách Hội Sớ giảng như sau: “Trời đất là sở y thế giới khí thế gian, (chữ thiên địa) chỉ chung ba cõi. Ngũ đạo là năng y hữu tình, chỉ chung cả đường thiện lẫn nẻo ác. Nhân quả khổ vui ai cũng thường thấy nên bảo là phân minh”.
“Ngũ đạo” chính là lục đạo. Nói “ngũ đạo” là không nói đến A Tu La. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: Trừ địa ngục không có A Tu La, bốn đường: trời, người, ngạ quỷ, súc sinh đều có A Tu La.
“Sở y thế giới khí thế gian”: Chữ “khí” (器 qì) là khí cụ, vật chất. Khí thế gian là thế giới vật chất, chúng sinh nương vào đó mà sinh sống. Thế giới này được gọi là “sở y”.
“Năng y hữu tình” là chúng sinh (hữu tình) nương tựa vào cõi nước để tồn tại gọi là “Năng y”.
Ngài Nghĩa Tịch nói: “Trong vòng trời đất, sinh tử trong năm đường, nhân quả phân minh”. Ý nói: Hễ có nhân ắt có quả. Nghiệp nhân như thế thì quả báo cũng như thế, chẳng sai một mảy.
“Thiện ác báo ứng”: Sách Tiên Chú giảng chữ “báo ứng” như sau: “Có làm ắt có báo, có cảm ắt có ứng”. Như vậy, họa phước trong hiện tại đều do báo ứng của túc nhân (nhân đã tạo trong đời trước).
Sách Hội Sớ nói: “Thiện ác thuộc về nhân; họa phước thuộc về quả. Nhân có thiện ác, quả có khổ vui. Bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng sai tơ tóc”. Nghiệp nhân quả báo cũng giống như vậy.
“Họa phước tương thừa” (Họa phước tiếp nối). Sách Hội Sớ giảng chữ “thừa” (承 chéng) là “nhận lãnh, tiếp nối”. Nghiệp nhân đời trước có thiện ác lẫn lộn nên đời sau thọ báo: Hoặc là trước vui sau khổ, hoặc là trước khổ sau vui. Khổ vui tiếp nối, họa phước thay phiên nhau nên bảo là “họa phước tương thừa”. Làm thiện được phước, tạo ác mắc họa, đều do tự làm tự chịu, nên bảo “thân tự đương chi, vô thùy đại giả” (thân phải tự lãnh, không ai thế cho). Kế đến, kinh nói:
“Thiện nhân hành thiện, tùng lạc nhập lạc, tùng minh nhập minh. Ác nhân hành ác, tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh” (Người thiện làm thiện, từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Kẻ ác làm ác, từ khổ vào khổ, từ tối vào tối): Tổng hợp ý kiến của ngài Nghĩa Tịch và sách Hội Sớ được hiểu như sau:
Thiện nhân là người gieo nhân thiện; đời sau ắt sinh vào nhà tôn quý, được thân hình đoan chánh, duyên cảnh hòa hợp, đẹp đẽ, thân tâm vui sướng; đó là “lạc” (樂 lè). Người ấy lại còn sáng suốt, thông đạt, ưa thích điều thiện, thích bố thí; ấy là “minh” (明 míng) (tức là sáng). Nếu người ấy tạo nhiều thiện nghiệp, siêng tu phước tuệ; khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi trời. Hoặc, hay hơn nữa là niệm Phật cầu sinh Tây Phương Cực Lạc v.v… Đấy là “tùng minh nhập minh” (從 明 入 明 cóng míng rù míng), là từ sáng vào sáng.
Ác nhân là kẻ tạo ác nghiệp, gieo nhân ác, chịu quả ác. Vì thế, đời sau sinh vào nhà ti tiện, hình dung khô héo, đói lạnh bức bách, thân tâm sầu não, ấy là khổ. Lại còn ngu muội, vô tri, không tin chánh pháp, không làm việc thiện, ấy là “minh” (冥 míng), là tối tăm. Nếu kẻ ấy tạo nhiều ác nghiệp, khi mạng chung sẽ đọa vào ác đạo, chịu khổ khôn cùng, nên bảo là: “Tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh” (從 苦 入 苦, 從 冥 入 冥 cóng kǔ rù kǔ, cóng míng rù míng), tức là từ khổ vào khổ, từ tối vào tối.
Hiện tại, chúng ta thấy Phi châu là một đất nước bần cùng, lạc hậu. Nơi đó, con người phải đối diện với nhiều khổ đau tật bệnh, đói khát bức bách. Có người lạnh chết, đói chết, bệnh chết, không có quần áo che thân…khổ không sao kể xiết! Đấy là do nghiệp nhân, quả báo đời trước mà nên.
“Thùy năng tri giả, độc Phật tri nhĩ” (Ai biết được thế, chỉ Phật biết thôi).
Lý nhân quả, sinh tử trong sáu đường rất thâm sâu; cả chín mươi lăm phái ngoại đạo cũng không thể biết được, chỉ riêng đức Phật mới hiểu được căn nguyên, nên nói: “Độc Phật tri nhĩ” (chỉ Phật biết thôi). Đức Phật rũ lòng thương, giáo hóa, mở bày cái chân thật ấy, nhưng chúng sinh ngu muội, chẳng tin, chẳng hành theo, nên nói. “Giáo ngữ khai thị ,tín hành giả thiểu” (Khai thị chỉ dạy, ít kẻ tin, hành). Do vậy mà “sinh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt” (sinh tử chẳng ngơi, ác đạo chẳng dứt). Do chẳng tin lời Phật dạy, cứ tha hồ làm ác thì quả báo tam đồ (địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh) tự nhiên chờ sẵn ở phút lâm chung. Đây là do nghiệp lực của chính mình biến hiện ra chớ không do ai gây tạo. Đọc đến kinh văn nầy, chúng ta vô cùng cảm khái, nhất định phải biết thiện ác báo ứng không sai chút nào!
KINH VĂN:
Như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, thí như đại hỏa, phần thiêu nhân thân. Nhược năng tự ư kỳ trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, khả đắc trường thọ Nê Hoàn chi đạo. Thị vi ngũ đại thiện dã.
VIỆT DỊCH:
Năm điều ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt như thế, ví như lửa lớn thiêu đốt thân người. Nếu có thể ở trong ngũ thống, ngũ thiêu, phát tâm chế ý, đoan chánh thân tâm, lời nói phù hợp với việc làm, việc làm chí thành, chỉ làm các điều thiện, không làm các điều ác, thân riêng được độ thoát, đạt được phước đức, có thể đạt được Niết Bàn trường thọ. Đấy là năm điều đại thiện vậy.
GIẢNG:
Đoạn cuối cùng của phẩm kinh nầy, đức Phật khuyên chúng sinh phải nên quay đầu, phải giác ngộ, phải vĩnh viễn thoát ly những khổ nạn nầy bằng cách chuyển đổi năm ác thành năm điều thiện. Năm điều ác là nghiệp bất thiện. “Ngũ thống” là “hoa báo”, là quả báo trong hiện đời. “Ngũ thiêu” là “quả báo” trong địa ngục ở tương lai.
“Như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, thí như đại hỏa, phần thiêu nhân thân” (Năm điều ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt như thế, ví như lửa lớn thiêu đốt thân người): Đây là dùng lửa lớn để ví cho “ngũ thiêu”.
“Nhược năng tự ư kỳ trung, nhất tâm chế ý, đoan tâm chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức” Ý nói:
Nếu ai có thể trong năm thứ đau đớn, thiêu đốt ấy mà chuyên nhất tâm mình, chế ngự, ngăn dứt ba điều ác trong ý nghiệp, giữ cho thân tâm đoan chánh, lời nói đi đôi với việc làm, thành thật không dua dối, không làm các điều ác, chỉ làm các việc thiện, sẽ được quả phước, thoát ly sinh tử.
Sách Hội Sớ nói: “Khởi hạnh đúng với lời nói, dùng hạnh để thực hiện lời nói thì gọi là ‘ngôn hành tương phó’ (lời nói phù hợp với việc làm). Chữ “phó” (副 fù) là phù hợp, xứng hợp”
“Khả đắc trường thọ Nê Hoàn chi đạo. Thị vi ngũ đại thiện dã”. (Có thể đạt được Niết Bàn trường thọ. Đấy là năm điều đại thiện).
Chữ “trường thọ” chính là vô lượng thọ, là trường sinh, thật sự là không sinh không diệt. Thế gian đâu có sự trường sinh, chỉ có chứng được đạo vô thượng mới bất sinh bất diệt.
“Nê Hoàn” chính là Niết Bàn, là quả của sự chứng ngộ trọn vẹn ba đức: Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát. Nếu nói về ba đức tự lợi, lợi tha của chư Phật thì đó là: Trí đức, Đoạn đức và Ân đức. Nói riêng trong Tịnh Tông thì Niết Bàn chính là Cứu Cánh Tịnh Quang.
Phẩm nầy giảng rộng về nhân quả thiện ác. Người đời ngu si không tin nhân quả, thậm chí có kẻ còn chống báng lời Phật răn dạy. Chúng ta học Phật, tuy tin nhân quả, nhưng tin không sâu, nên vẫn cứ tạo nghiệp như cũ! Biết tạo nghiệp phải thọ quả báo rất đáng sợ, nhưng bây giờ vẫn chưa sợ, vì quả báo chưa đến! Đến rồi mới sợ, hối hận cũng không kịp.
Bản Ngô dịch còn chép: “Chư dục vãng sinh A Di Đà Phật quốc giả, tuy bất năng đại tinh tấn, thiền định, trì kinh giới, đại yếu đương tác thiện” (Những người muốn vãng sinh về cõi Phật A Di Đà, nếu chẳng thể đại tinh tấn, Thiền Định, trì kinh giới thì nói chung hãy nên làm thiện).
Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Thập thiện vốn là nghiệp để sinhcõi trời, nay đem nhân duyên niệm Phật hồi hướng Cực Lạc, tức là chuyển nghiệp sinh cõi trời thành Tịnh Nghiệp. Vì sao vậy? Người niệm Phật còn chuyển được nghiệp ác, lẽ nào không chuyển được nghiệp chuyển sinh cõi trời sao?” Vì thế người tu Tịnh nghiệp phải tận hết sức mình hành thêm các điều thiện.
Pháp môn Tịnh Độ được “đới nghiệp vãng sinh” (mang nghiệp đi vãng sinh), cái nghiệp ấy chính là túc nghiệp, không phải nghiệp hiện hành. Những ác nghiệp trong các đời trước chưa tiêu hết, nhưng nhờ bổn nguyện lực của đức Phật A Di Đà và diệu đức của việc trì danh nên được “đới nghiệp vãng sinh”, không còn rơi vào ác đạo như lời nguyện thứ hai của Phật A Di Đà là “Bất đọa ác thú”.
Trong kinh Niết Bàn có nói đến người đồ tể tên là Quảng Ngạch buông con dao mổ xuống thì ngay lập tức liền thành Phật. Việc này cho thấy: Muốn thành Phật phải buông được con dao mổ. Nếu kẻ tu Tịnh Độ, một mặt niệm Phật, một mặt làm ác thì quyết định không thể vãng sinh!
Có kẻ xem thường, cho rằng làm thiện là thuộc về Nhân Thiên thừa. Như đời Đường, ngài Ô Khoa thiền sư (tức Ô Sào thiền sư) dùng cách thổi sợi lông trên vải để dạy đệ tử là Hội Thông, đệ tử liền ngộ nhập. Ngài dùng bài kệ “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (Chớ làm điều ác, vâng làm các điều thiện) để dạy ông Bạch Cư Dị. Ông Bạch bảo: “Hai câu ấy đứa trẻ ba tuổi cũng nói được”. Ngài Ô Khoa bảo: “Ông già tám mươi tuổi làm điều đó cũng không xong!”
Ông Bạch Cư Dị nghĩ hai câu ấy quá cạn cợt, coi việc thổi lông trên tấm vải mới là sâu xa. Ô Sào thiền sư xem hai việc ấy đều bình đẳng như nhau. Một kẻ mê, một người ngộ, quan điểm cách nhau một trời một vực. Nếu là người căn cơ viên đốn thì pháp nào cũng viên cả. Nhân Thiên thừa chính là Nhất Phật thừa, lẽ đâu xem thường?
Điểm mầu nhiệm của Tịnh Tông là ở chỗ “chiếu Chân đạt Tục”. “Chân” là từ trên tánh mà nói. “Tục” là từ trên tướng mà nói. Tánh, tướng nhất như; Tánh, tướng bất nhị. Tánh hiện ở trên tướng; tướng chính là tánh. Người mê cho rằng: Tánh không phải tướng; tướng không phải tánh; đây là có phân biệt, chấp trước. Người ngộ thấy: Tánh chính là tướng; tướng chính là tánh, không có phân biệt.
Nếu rộng hành các điều thiện, chẳng những tạo phước cho xã hội hiện tại mà còn trợ hạnh cho Tịnh nghiệp. Nên nhớ: “Rộng hành các điều thiện” ở đây mà không chấp tướng, đó mới là công đức để vãng sinh. Nếu chấp tướng điều thiện, thì đó chỉ là phước đức nhân thiên. Lại thêm tín nguyện sâu chắc, trì danh hiệu Phật, thì kiêm cả tự lợi lẫn lợi tha, thường vui sướng vô cực.
Phẩm nầy giảng rộng về đời trược ác khổ, tuy chỉ giảng rộng về mặt sự tướng, nhưng thật đã hiển bày trọn vẹn Nhất Tâm. Tâm nhơ uế ắt cõi nhơ uế; tâm ác ắt sinh trong đường ác. Không thứ nào chẳng do tự tâm biến hiện. Kinh đã giảng rõ hai cõi tịnh-uế để ta biết mà ưa thích hay chán nhàm.
Sách Di Đà Yếu Giải viết:
“Sa Bà chính là cõi uế do tự tâm chiêu cảm thành, theo đúng lý phải nên chán lìa những nhơ uế trong tâm ta; Cực Lạc chính là những cái vui thanh tịnh trong tâm ta cảm thành, theo đúng lý phải vui cầu những cái thanh tịnh trong tâm ta. Đã chán uế thì phải bỏ đến rốt ráo không còn gì để bỏ nữa; ưa tịnh thì phải lấy cho đến cùng tận, không còn gì để lấy nữa.
Sách Diệu Tông nói: ‘Lấy và bỏ nếu đạt đến cùng cực thì cũng hoàn toàn chẳng khác gì với không lấy bỏ. Giả sử chẳng từ Sự để lấy bỏ, lại toan chẳng lấy, chẳng bỏ thì chính là chấp Lý phế Sự. Đã bỏ Sự thì Lý cũng chẳng trọn vẹn. Nếu thấu hiểu toàn Sự là Chân thì lấy cũng là Lý mà bỏ cũng là Lý. Một lấy, một bỏ đều là pháp giới”.
Thuyết của sách Yếu Giải sự lý viên dung, diệu khế Trung Đạo. Theo Hòa thượng Tịnh Không:
Câu “Sa Bà chính là cõi uế do tự tâm chiêu cảm thành”, ý nói: Tự tâm chúng ta chiêu cảm lấy bất thiện; bất thiện đến cực điểm thì gọi là xấu xa. Tâm không phải thật sự xấu mà bị những thứ dơ bẩn làm ô nhiễm. Cổ nhân có một ví dụ, ví tự tâm như vàng ròng. Nhưng, hiện nay vàng ròng ở đâu? – Ở trong hầm phân nhơ!
– Vàng ròng có bị ô nhiễm chăng?
– Không có! Đem rửa sạch, nó vẫn là vàng ròng. Chứng minh ô nhiễm không phải thật. Chân tâm không hề bị ô nhiễm. Như Lục Tổ Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”. Ô nhiễm là ý thức trong bát thức làm nhiễm ô A Lại Da. A Lại Da là vọng tâm chẳng phải chân tâm. Nhưng, chúng sinh trong lục đạo do mê mờ chân tâm nên mọi hành vi, ý nghĩ…đều do A Lại Da làm chủ. Vì thế, biến Nhất chân pháp giới, cõi Thật Báo Trang Nghiêm thành luân hồi lục đạo!
Câu “Giả sử chẳng từ Sự để lấy bỏ, lại toan chẳng lấy, chẳng bỏ thì chính là chấp Lý phế Sự”. Vì sao vậy? – Phật pháp Đại thừa nói vạn pháp giai không; tánh tướng nhất như; lý sự không hai; có lấy có bỏ chính là có phân biệt, chấp trước, như vậy là sai. Thật sự khế nhập bất nhị pháp môn, làm gì có lấy – bỏ! Về Lý thể thông suốt, nhưng về Sự thì sao? – Chúng ta chưa đoạn tập khí phiền não, chưa đại triệt đại ngộ, có chăng chỉ là “giải ngộ” không phải là “chứng ngộ”. Những gì chúng ta nói, đó là cảnh giới của chư Phật, Bồ tát, nhưng bản thân chúng ta vẫn còn khởi tâm động niệm, nên đó vẫn là bất thiện và đang tạo nghiệp, không thể không biết điều này.
Tóm lại, chấp Lý bỏ Sự hay chấp Sự bỏ Lý, đều là sai lầm cả!