LUẬN KINH DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 6
* Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm xả?
Hỏi: Do nghĩa gì nên nói giữ giới, sau đó mới nói thành tựu tâm xả?
Đáp: Do thấy được lực tạo lợi ích cho người khác. Đây là nêu bày về nghĩa gì? Do Bồ-tát giữ giới, nhờ vào sự giữ giới ấy nên được sinh vào nẻo thiện. Tuy thành tựu tâm xả, nhưng nếu không có đầy đủ của cải vật dụng sinh sống như thế, Bồ-tát không thể tạo lợi ích cho người khác, lại cũng không thể thành tựu tất cả công đức khác. Vì sao? Vì tạo lợi ích cho người khác là thâu giữ thế gian, nhưng Bồ-tát kia khi đem lợi ích cho mọi người, lại lìa bỏ tài sản vật dụng, nên không thể thành tựu. Do nghĩa này, dựa vào việc tạo lợi ích cho người khác nên nói giữ giới, sau đó nói về thành tựu tâm xả.
Lại còn có nghĩa: Là giữ giới và tâm xả cùng nương dựa và tạo lợi ích cho nhau. Do sự giữ giới đó có thể làm tăng trưởng tâm xả, tâm xả cũng có thể tạo lợi ích cho giữ giới. Do nghĩa này, nên nói về giữ giới, sau nói đến thành tựu tâm xả.
Lại, vì lìa bỏ giữ giới nên sinh vào nẻo ác, tâm xả không thể nhận giữ quả báo, như quả tương ưng tức không thể hiện tiền đầy đủ. Nhưng nếu người giữ giới sinh vào nẻo thiện, tâm xả tức có thể nhận quả báo, như quả tương ưng hiện tiền đầy đủ. Do từ nghĩa này, nên giữ giới có thể tạo lợi ích cho tâm xả, tâm xả cũng có thể giúp ích cho giữ giới. Do người giữ giới sinh vào xứ nẻo thiện, nhưng không có tài sản, tức bị nghèo cùng, khổ não bức bách, nên tuy được sinh vào nẻo thiện vẫn coi như là sinh vào đường ác. Thành tựu tâm xả, sinh vào xứ nẻo thiện, là nhân của việc tự lợi và lợi tha. Thế nên bố thí có thể tạo lợi ích cho giữ giới.
Lại, do nghĩa thứ lớp tu hành. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Là nghĩa Bồ-tát do muốn tạo lợi ích cho chúng sinh nên tu hành. Do đó, theo thứ lớp nhằm tự nhận xét về các công đức được nói ra, nên trước phải trụ nơi giữ giới. Sau đó, dựa nơi tâm không tổn hại, khởi tâm đại từ bi, tạo lợi ích cho người khác bằng pháp thí và tài thí, khiến các chúng sinh kia có thể được thâu giữ để giáo hóa.
Lại, các pháp như bố thí v.v… có khả năng làm trang nghiêm cho giới. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Là các Đại Bồ-tát do các pháp như bố thí v.v… đã làm trang nghiêm trì giới, nên có thể thành tựu vô số quả thù thắng. Như trong Kinh Sa Già La Long Vương Sở Vấn, Đức Như Lai nói: Này Long vương! Đại Bồ-tát lìa bỏ sát sinh nên có khả năng hành bố thí, tức sẽ thành tựu được giàu có lớn, tài sản không ai có thể phá hoại, được sống lâu. Hành các hành của Bồ-tát, vượt quá mọi việc xấu ác não hại của các thế gian v.v…
Này Long vương! Mười nghiệp đạo thiện cũng lại như thế. Bố thí tức trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu lợi ích lớn. Giữ giới cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu hết thảy nguyện của pháp Phật. Nhẫn nhục cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, âm thanh vi diệu của Phật. Tinh tấn cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu pháp Phật, hàng phục tất cả các ma oán địch. Tư duy cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu văn tuệ, tư tuệ, tư tuệ kiên cố, thanh tịnh. Bát-nhã cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu sự xa lìa các thứ tà kiến. Tâm từ cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu tâm không hại tất cả chúng sinh. Tâm bi cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu tâm không bỏ tất cả chúng sinh. Tâm hỷ cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu tâm tu hành pháp Phật không khiến khiếp nhược. Tâm xả cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu việc xa lìa tâm yêu, ghét. Bốn nhiếp pháp cũng trang nghiêm cho mười nghiệp đạo thiện, thành tựu tâm giáo hóa tất cả chúng sinh.
Hỏi: Thế nào là nghĩa của xả?
Đáp: Là nhằm đối trị tâm tham chấp nơi năm ấm cùng những của cải vật dụng, khởi tâm từ bi, thâu nhận những việc làm đem lại lợi ích cho người khác, nhưng không vướng mắc vào các pháp như nhân quả v.v…, giữ vững sự tu hành, gọi là nghĩa của xả.
Hỏi: Nên nói về nghĩa thành tựu xả. Thế nào là Bồ-tát thành tựu xả?
Đáp: Bồ-tát tự xa lìa những hành vui thích của mình, gọi là thành tựu xả. Nghĩa này là thế nào?
Người ngoại đạo chỉ mong cầu tự giữ lấy an vui nên hành bố thí. Người ngoại đạo đó vì tự thân xả, tuy hành bố thí rộng, nhưng tham ái cảnh giới, nên tâm bị trói buộc, quả báo có được là ít, mỏng.
Lại, hàng Thanh văn, Phật-bích-chi, tuy không cầu quả báo an lạc của thế gian, nhưng tâm hoàn toàn nhận lấy Niết-bàn, từ bỏ việc tạo lợi ích cho chúng sinh, chỉ giữ lấy an vui của Niết-bàn, thế nên công đức của nghiệp đạo như bố thí của họ ít tha, rốt ráo là vì mình, hoàn toàn chỉ nghĩ đến thành tựu quả báo lợi ích cho tự thân.
Lại, Đại Bồ-tát thì vượt quá tất cả thế gian, bậc Đại sĩ vì tạo lợi ích cho mọi người nên phát sinh tâm đại lực kiên cố, khởi tâm đại bi, nhu hòa thuận hợp nên việc bố thí là tối thắng thành tựu rốt ráo.
Lại, thành tựu xả có sáu thứ nhân. Đó là: (1) Từ bỏ an lạc của tự thân. (2) Quán không có chúng sinh. (3) Cầu vô lượng pháp Phật. (4) Thâu giữ vô lượng đời, trụ. (5) Tu tập vô lượng các căn thiện. (6) Không đoạn dứt Tam bảo, do có khả năng thành tựu vô lượng quả báo. Đó gọi là nghĩa Bồ-tát thành tựu xả.
Lại, vì đem lại lợi ích cho người khác với tâm một vị. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Chúng sinh ở thế gian đa phần sống vì tự thân, nên từ bỏ việc làm tạo lợi ích cho mọi người. Vì cầu tự lạc, vì muốn được thọ nhận báo trong hiện tại, vì mong quả vị lai, nên bố thí cho người khác những phẩm vật. Như các Đại Bồ-tát vì nhằm tạo lợi ích cho người khác, chuyên tâm một vị, thấy những chúng sinh nghèo thiếu, không có tài sản là các pháp như Bát-nhã v.v… Do nghĩa này, nên Bồ-tát không tham chấp nơi nhân quả, chỉ dựa vào tài thí, pháp thí, nơi đời hiện tại cùng đời vị lai đều có thể ban cho chúng sinh lợi ích lớn. Thế nên Đại Bồ-tát đã thành tựu xả.
Lại nữa, vì nghĩa của xả là tùy thuận. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Các sự việc như bố thí v.v…, là tùy thuận để thâu giữ hành của chúng sinh. Tức có thể thâu giữ hết thảy chúng sinh, tạo lợi ích lớn. Tuy có tạo lợi ích cho kẻ khác, nhưng các ngoại đạo, hàng Thanh văn, Phật-bích-chi v.v… thì từ bỏ hành tác lợi ích cho tất cả chúng sinh, chỉ nhằm thành tựu lợi ích cho tự thân. Các Đại Bồ-tát dựa nơi tâm đại từ bi, khởi sự vui thích hành tạo lợi ích cho các chúng sinh như đã cầu được thành tựu như thế. Do từ nghĩa này, nên gọi là thành tựu xả.
Lại, do nghĩa dựa vào việc nhận lấy Bồ-đề Phật nên khởi tâm xả. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Do Đại Bồ-tát, vì ban cho tất cả chúng sinh sự an lạc, nên tự cầu Bồ-đề Phật phát khởi tâm xả. Thấy các chúng sinh thường bị rơi vào nẻo ác, nên Bồ-tát tự bảo: Ta nơi hiện tại cùng đời vị lai, sẽ khiến các chúng sinh xa lìa khổ não. Thế nên Bồ-tát với tâm niệm ấy nên ngày đêm càng tăng thêm việc làm lợi ích cho chúng sinh, gọi là thành tựu xả.
Lại, do có khả năng thâu giữ vô số quả. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Các Bồ-tát hành bố thí là nhằm đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh nơi đời hiện tại và vị lai, vì muốn thâu giữ chúng sinh là khiến họ nhận lấy vô số quả. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu xả.
Như trong Kinh Vô Tận Ý có đoạn nói: “Người cầu xin thức ăn uống thì cho thức ăn uống”. Vì mạng sống, vì yên vui, vì biện tài, vì hình sắc, cả đến thể lực, những thứ mong cầu như thế v.v… Bồ-tát thảy đều thí cho.
Lại, vì xa lìa lối tự sinh sống theo tà mạng cầu tìm của cải. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát hành bố thí Ba-la-mật, là pháp trái ngược với lối sống theo tà mạng tham cầu của cải, nên thảy đều xa lìa. Như trong Kinh Vô Tận Ý, nói: “Đại Bồ-tát không hành theo tà mạng điên đảo, cầu tìm của cải v.v… nơi bố thí”.
Hỏi: Nên nói về xả thanh tịnh và không thanh tịnh. Thế nào là thanh tịnh? Thế nào là không thanh tịnh?
Đáp: Đại Bồ-tát dựa nơi tự tâm thanh tịnh hành bố thí thanh tịnh. Như trong kinh, Đức Như Lai nói: Có bốn thứ bố thí thanh tịnh. Những gì là bốn thứ? Nghĩa là: Có bố thí theo thí chủ thanh tịnh, không phải là người nhận v.v… Ở trong bốn thứ thí thanh tịnh kia, đó là thí chủ thanh tịnh, không phải là người nhận. Đó gọi là Đại Bồ-tát bố thí thanh tịnh.
Lại, từ người thí, người nhận thanh tịnh, cũng gọi là Bồ-tát bố thí thanh tịnh. Vì sao? Vì các Bồ-tát thí cho người khác những phẩm vật, không cầu được quả báo, tức có khả năng thí cho hết thảy chúng sinh.
Lại, người bố thí cầu quả báo, người đó ở nơi biên của người nhận cầu thanh tịnh. Còn Bồ-tát vì xa lìa quả báo, nên nơi tất cả thời thân tâm cũng đều thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên bố thí thanh tịnh.
Lại, do xa lìa hốt nhiên bố thí. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như trong kinh, Đức Như Lai nói: Có chín thứ thí:
- Thí do gặp.
- Thí do sợ hãi.(3)Thí do báo ân.
- Thí do cầu báo ân.
- Thí vì học theo cha mẹ.
- Thí vì cầu sinh lên cõi trời.
- Thí vì nhằm được tiếng khen.
- Thí vì trang nghiêm tâm.
- Thí vì pháp quyến thuộc, thí vì công đức tu hành, vì được nghĩa hơn hết.
Thí do gặp: Là được gặp phước điền, cầu sẽ được nhiều quả báo. Lại, thí do gặp nghĩa là quyến thuộc gần, gọi là bố thí do gặp.
Thí do sợ hãi: Là nhận thấy tất cả vật đều vô thường, hư hoại, nên hành thí.
Thí do báo ân: Là báo ân nên cùng thí. Người đó trước đây đã thí cho ta, ta nay nên thí lại họ.
Thí do cầu báo ân: Là thí để mong sau này sẽ được báo ân.
Thí vì học theo cha mẹ: Là theo đúng việc tu hành trong quá khứ nên khởi tâm như vầy: Cha mẹ ta vốn tinh tấn luôn hành bố thí, ta cũng nên hành bố thí như vậy.
Thí vì cầu sinh lên cõi trời: Là thí nhằm cầu có được cảnh giới của năm dục nơi cõi trời.
Thí vì nhằm được tiếng khen: Là thí nhằm khiến các Sa-môn, Bà-la-môn khắp bốn phương đều biết.
Bảy thứ bố thí như thế, đều bị người trí chê trách, do không thanh tịnh.
Lại, người Thanh văn, Phật-bích-chi đều lìa bỏ an vui thế gian cầu an vui của Niết-bàn, nên bố thí như thế cũng không phải là thanh tịnh.
Các Đại Bồ-tát không tham vướng nơi tự lạc, chỉ cầu tâm Bồ-đề của chư Phật nên hành bố thí, do vậy ở trong các thứ thí, là thanh tịnh tối thắng. Đó gọi là Bồ-tát bố thí thanh tịnh.
Lại, do Bồ-tát nhận biết đúng như thật về thể của các hành hữu vi. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Do các phàm phu chấp giữ nơi tướng ngã hư vọng, hý luận, tâm điên đảo, nên chỉ mong cầu các sự việc nơi cảnh giới của năm dục lạc. Do lìa mắt tuệ, vì bị cấu nhiễm do các thứ phiền não như tham ái v.v…, nên việc xả thí không thanh tịnh.
Đại Bồ-tát thì thấy biết đúng như thật về thể của các hành hữu vi là hư vọng không thật, thế nên xa lìa các tướng như ngã kiến v.v…, cùng có thể xa lìa năm thứ sợ hãi nên không thấy có những vật trong ngoài có thể thí. Không thể xả là do bị ràng buộc, vì mong cầu lợi ích cho kẻ khác. Do có thể xa lìa pháp cấu nhiễm như tự mong cầu an vui. Vì nghĩa này nên gọi là xả thanh tịnh.
Lại, dùng pháp quán không để quán sự phát sinh bố thí. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Tức các Bồ-tát dùng các pháp quán như quán không, để quán về các pháp như bố thí v.v… Do nghĩa này, nên gọi là xả thanh tịnh.
Như trong Kinh Vô Tận Ý, Đức Như Lai nói: “Dùng quán không để quán việc phát khởi bố thí”. Do nghĩa này, nên bố thí là không thể cùng tận v.v…
Hỏi: Nên nói về tướng sai biệt của bố thí?
Đáp: Lược nói tức có một thứ bố thí: Nghĩa là tâm không tham tương ưng với tâm bố thí.
Lại có hai thứ thí: Là thấy có người nhận, không thấy có người nhận. Không thấy có người nhận: Là như đem vật thí để trong lửa, hay trong sông Hằng.
Lại thấy có thí chủ: Là có người thí, có vật thí. Thí này cũng có hai thứ: Là nhiễm và không nhiễm. Nhiễm: Nghĩa là các thứ ăn uống còn lại theo phép nhà, người dâm nữ sửa soạn khéo léo các vật để bố thí. Đó gọi là bố thí nhiễm. Không nhiễm: Nghĩa là thí cho những người nghèo khổ, cô độc v.v… Đó gọi là bố thí không nhiễm.
Lại có hai thứ thí: Là pháp thí và tư sinh thí (Tài thí). Nói pháp thí nghĩa là xa lìa tâm cung kính cúng dường v.v…, ở trong pháp khởi tưởng về pháp, xa lìa tâm ái, tâm điên đảo, giảng nói về kinh v.v… Đó gọi là pháp thí.
Lại có ba thứ thí: Là pháp thí, tư sinh thí và vô úy thí. Nói vô úy thí: Là như nói lời thế này: Ông chớ nên sợ hãi! Ông chớ nên sợ hãi! Lại, vô úy thí: Là nhận thấy các chúng sinh có vô số thứ sợ hãi, nên thí cho họ vô úy Nghĩa này là thế nào? Nghĩa là thấy người khác thường sinh sợ hãi nên ban cho họ tâm không sợ hãi đối với đời này cùng đời vị lai. Nói với họ: Ông chớ nên sợ hãi! Ông không nên sợ gì cả. Tôi sẽ vì ông tạo các phương tiện như thế, như thế. Tùy theo các phương tiện, tôi sẽ trao cho ông nơi chốn hoàn toàn không sợ hãi. Đó gọi là vô úy thí. Sự sợ hãi kia như kẻ nghèo nàn phải chịu nhiều khổ não. Sự sợ hãi này cũng lại như thế, nên đem cho họ pháp đối trị là không sợ hãi.
Lại có bốn thứ thí: Là pháp thí, tư sinh thí, vô úy thí và đại thí. Nói đại thí: Là thọ trì năm giới. Đấy là đại thí do Đức Như Lai đã giảng nói, vì có khả năng thâu giữ vô lượng chúng sinh, thành tựu an lạc cho các loài chúng sinh. Tài sản vật dụng, thức ăn uống v.v… dùng bố thí, không thể đem lại lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Thọ trì năm giới tức có thể tạo lợi ích, do có thể suốt đời thọ trì năm giới, niệm niệm tăng trưởng vô số công đức. Do nương vào tâm căn bản kia, nên các công đức được tích tụ, cho đến mạng căn luôn an trụ không đoạn dứt.
Lại có bốn thứ thí: Bốn thứ thí này tóm lược thành hai: (1) Bất tịnh. (2) Tịnh.
Thí bất tịnh có hai thứ sai biệt: (a) Thí sự sợ hãi. (b) Thí cầu được báo ân. Do nghĩa gì nên gọi là bất tịnh? Như ruộng đất nơi thế gian, vì bị các thứ gai gốc, cỏ dại che phủ, nên gọi là bất thiện. Đây cũng như vậy. Do sợ hãi, do cầu được báo ân, nên gọi là thí không tịnh.
Thí tịnh cũng có hai thứ sai biệt: (a) Thí với tâm kính trọng. (b) Thí với tâm từ bi.
Ngoài bốn thứ thí này, còn có thí thắng thượng. Như kệ nói:
Thấp, cầu có tài sản
Thấp nữa, thí vì sợ
Người trí, kính trọng thí
Thắng trí, từ bi thí.
Lại có bốn thứ thí: (1) Thí vì lợi ích của mình không phải vì lợi ích của người khác. (2) Thí vì lợi ích của người khác không phải vì lợi ích của mình. (3) Thí vì cả hai cùng được lợi ích. (4) Thì vì cả hai cùng không được lợi ích.
Thí vì lợi ích của mình không phải vì lợi ích của người khác: Nghĩa là hàng phàm phu, Thánh nhân điều phục xa lìa phiền não. Hoặc có người không phải điều phục xa lìa phiền não. Hoặc lúc thí cho chư Phật, Như Lai. Hoặc lúc thí cho các hình tượng, chùa tháp. Đó gọi là thí vì lợi ích của mình không phải vì lợi ích của người khác.
Thí vì lợi ích của người khác không phải vì lợi ích của mình: Nghĩa là các vị A-la-hán, A-na-hàm v.v…, vì trừ bỏ quả báo trong hiện tại nên thí cho chúng sinh. Đó gọi là thí vì lợi ích của người khác không phải vì lợi ích của mình.
Thí vì cả hai cùng được lợi ích: Nghĩa là thí cho các phàm phu điều phục, xa lìa phiền não, hoặc là phàm phu chưa điều phục xa lìa phiền não. Đó gọi là thí vì cả hai cùng được lợi ích.
Thí vì cả hai cùng không được lợi ích: Nghĩa là vì trừ quả báo trong hiện tại, nghĩa là các A-la-hán, A-na-hàm v.v… vì chùa, tháp mà bố thí. Đó gọi là thí vì cả hai cùng không được lợi ích.
Lại nữa, lược nói các Đại Bồ-tát có bốn thứ bố thí đều có thể gồm thâu tất cả căn thiện. Những gì là bốn? Đó là: (1) Thí với tâm bình đẳng. (2) Thí vì đối trị. (3) Thí vì hồi hướng về Đại Bồ-đề. (4) Thí vì dựa vào tịch diệt. Hành thí như vậy là các Đại Bồ-tát đã hành viên mãn Bố thí Ba-la-mật, nên biết.
Hỏi: Nên nói về quả của bố thí. Thế nào là quả của bố thí?
Đáp: Lược nói thì bố thí có một quả, đó là thọ dụng.
Lại có hai thứ quả: Là quả thọ nhận nơi hiện tại và quả thọ nhận nơi vị lai.
Lại có ba thứ quả: Là hai thứ này, cộng thêm Bát-nhã.
Lại có bốn thứ quả: (1) Có quả mà không thọ dụng. (2) Có thọ dụng mà không quả. (3) Có quả cũng có thọ dụng. (4) Không quả cũng không thọ dụng.
Có quả mà không thọ dụng: Là thí nhưng không chí tâm, là không tự tay thí, là thí với tâm khinh thường. Người ấy hành thí như thế, tuy được vô lượng các thứ quả báo, nhưng không thể thọ dụng. Như Thiên chủ Xá-vệ, tuy có được vô lượng các thứ châu báu, nhưng không thể thọ dụng.
Có thọ dụng mà không có quả: Là tự mình không thí nhưng thấy người khác hành thí thì khởi tâm tùy hỷ. Do nghĩa này nên tuy được thọ dụng, nhưng tự mình không có quả. Như vật dụng của Thiên tử, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn v.v… tuy được y phục, thức ăn uống để thọ dụng, nhưng tự mình không có quả. Lại, như bốn binh chủng của Chuyển luân Thánh vương, tuy được y phục, thức ăn uống, nhưng không được quả.
Có quả cũng có thọ dụng: Là chí tâm thí, không thí với tâm khinh thường. Như các Trưởng giả như Trưởng giả Thọ-đề-già v.v…
Không quả cũng không thọ dụng: Là bố thí xong, các nhân bố thí tức diệt hết. Hoặc làm chướng ngại cho đạo Thánh xuất thế. Cũng như Thánh nhân xa lìa phiền não.
Lại có năm thứ quả: Đó là được mạng sống, sắc đẹp, năng lực, an lạc, biện tài v.v… Như trong kinh, Đức Như Lai nói: Nhân nơi ăn mà có được mạng sống, vì vậy thí thức ăn tức là thí mạng sống. Do nhân duyên này, nên đời sau sẽ được thọ mạng lâu dài. Như thế, thí sắc đẹp, thí năng lực, thí an vui, thí biện tài v.v… đều cũng như thế.
Lại có năm thứ quả tốt đẹp: Là thí cho cha, mẹ, người bệnh, Pháp sư, Bồ-tát, sẽ được quả báo tốt đẹp.
Cha, mẹ có công ơn sinh thành, nuôi lớn thân mạng mình, nên thí cho cha mẹ sẽ được quả báo tốt đẹp.
Người bệnh là kẻ cô độc đáng thương xót. Vì nghĩa này nên khởi tâm từ bi, bố thí cho người bệnh thì được quả báo tốt đẹp.
Lại, người thuyết pháp có năng lực sinh ra Pháp thân, làm tăng trưởng Pháp thân, chỉ dẫn về nẻo thiện, ác, ngay thẳng, không ngay thẳng, điên đảo, không điên đảo, thế nên người bố thí sẽ được quả báo tốt đẹp.
Lại, các Bồ-tát đều có thể thâu giữ, tạo lợi ích cho chúng sinh. Do tâm luôn vui thích, do không nhân duyên mà có thể khởi tâm từ bi. Do luôn giữ lấy nhân khiến Tam bảo không đoạn dứt. Vì các nghĩa ấy, nên thí cho Bồ-tát sẽ được quả báo tốt đẹp.
Lại có năm thứ quả, tức nơi thân hiện tại đạt được:
- Nhập Tam-muội Từ.
- Nhập Tam-muội Vô tránh.
- Nhập Định diệt tận.
- Kiến đạo.
- Quả vị A-la-hán.
Nếu người bố thí, tức được quả báo.
Nhập Tam-muội từ: Là có thể phát tâm ban cho vô lượng chúng sinh sự an lạc ổn định. Vì ban cho vô lượng chúng sinh các an lạc, nên gọi là tâm từ. Do tâm từ này huân tu tự thể, thế nên đầu tiên là khởi Tam-muội tâm từ, tức người bố thí thì được quả báo trong hiện tại.
Nhập Tam-muội Vô tránh: Là có khả năng phòng giữ các thứ phiền não của tất cả chúng sinh. Dùng tâm gồm thâu rộng khắp, tạo lợi ích cho chúng sinh, huân tu tự thể, thế nên, đầu tiên khởi nhập Tam-muội Vô tránh, tức người bố thí thì được quả báo trong hiện tại.
Nhập Định diệt tận: Là có khả năng thâu giữ vô lượng công đức, dùng vô lượng công đức huân tu tự thể, do Tam-muội này giống như Niết-bàn, thế nên từ đầu, khởi nhập Tam-muội Diệt tận, người bố thí tất được quả báo trong hiện tại.
Kiến đạo: Là xa lìa phiền não trong quả vị kiến đạo, dùng lực của đạo Thánh huân tu tự thể. Vì nghĩa này, thế nên đầu tiên khởi nhập kiến đạo, người bố thí thì được quả báo trong hiện tại.
Quả A-la-hán: Là xa lìa tất cả phiền não của quả vị tu đạo, tâm được tự tại, thế nên từ đầu, khởi quả của A-la-hán, người bố thí tất được quả báo trong hiện tại.
Lại, quả bố thí của Đại Bồ-tát như trong Kinh Vô Tận Ý và trong tất cả các kinh khác đều đã nói rộng, nên biết.
Nhưng các Đại Bồ-tát v.v… tu tập và hành trì bố thí, luôn hơn hẳn các bố thí của người khác, vì Bồ-tát đã lìa hành tự giữ lấy an vui cho mình, chỉ muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh nên hành bố thí.
Lại lược nói Bồ-tát vì cầu hai thứ pháp nên hành bố thí. Những gì là hai pháp?
- Cầu có được giàu lớn, nhiều tiền của.
- Cầu được thành tựu Ba-la-mật.
Lại, Bồ-tát khởi tâm như vầy: “Nếu ta không có được nhiều tiền bạc của cải, tuy có tâm bố thí, nhưng không có tài sản vật dụng để có thể bố thí”. Thế nên, Bồ-tát mới phát tâm muốn thành tựu sự giàu có lớn, nhiều tiền của để bố thí cho chúng sinh.
Dựa vào cách bố thí như thế, Bồ-tát sẽ thí bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân, mọi người đều nhận được lợi ích như nhau. Bồ-tát thấy rõ, dựa nơi bố thí sẽ thành tựu được vô lượng phước đức. Lược nêu tức có hai mươi lăm thứ: (1) Có khả năng thâu giữ tất cả oán đối. (2) Luôn cung cấp cứu tế cho hết thảy chúng sinh các vật như y phục, thực phẩm. (3) Tâm niệm không khiếp nhược. (4) Người thân khác không khi dể. (5) Thường được mọi người kính, tin, tôn trọng. (6) Tất cả quyến thuộc đều tin, nhận lời mình nói. (7) Lúc vào chốn đông người, tâm không sợ hãi. (8) Tất cả kẻ oán địch đều không thể gây tổn hại. (9) Thân thuộc đều hoan hỷ. (10) Quả báo trong hiện tại về tiền của luôn có, không thiếu. (11) Thường được người khác tìm cầu. (12) Mọi việc mình làm đều được thành tựu. (13) Những người vây quanh mình đều có tâm ái kính. (14) Những kẻ không ái kính thảy đều xa lìa. (15) Những thành tựu hiện có là những lợi ích thuộc thế gian và xuất thế gian đều thù thắng, thường được tất cả người thân mến mộ. (16) Nếu không tạo được lợi ích cho tất cả người thân, thì luôn thấy âu lo phiền muộn. (17) Ngăn chận hết thảy các điều ác. (18) Tự khiến an trụ trong các pháp thiện. (19) Thấy thần thông của kẻ khác, tâm không vui, chuộng. (20) Luôn tán thán tất cả công đức. (21) Che giấu tất cả lỗi lầm. (22) Từ bỏ hết thảy những gì không phải là tướng trượng phu. (23) Thành tựu tất cả tướng đại trượng phu. (24) Không có kẻ nghèo khổ, thấp kém ăn xin nào thấy mắt của thí chủ. (25) Hết thảy sự việc mong cầu tâm nêu đều đầy đủ.
Do vậy, Đại Bồ-tát thấy rõ hành bố thí có vô lượng công đức như thế v.v… và vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên tự mình có thể thành tựu đầy đủ năng lực như vậy.
Tin tưởng, vui vẻ bố thí, là dựa vào sự tin vui khi hành bố thí, nên có thể thực hiện đầy đủ Bố thí Ba-la-mật.
Hỏi: Từ tâm niệm thù thắng nên thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh, hay là từ phước điền thù thắng nên thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh?
Đáp: Có người nói: Từ tâm niệm thù thắng nên thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh. Vì sao? Vì hiện thấy sự việc bố thí là một, mà quả báo có sai biệt, cũng như hạt giống vậy. Nghĩa này là thế nào? Cũng như hạt giống gieo nơi đất v.v… là một, nhưng dựa vào hạt giống tức thấy có quả tốt đẹp. Những vật để thí như thế là một, nhưng dựa nơi tâm niệm thù thắng, kể cả bố thí cho các loài súc sinh v.v… do tâm lực nên được quả báo của hàng người trời, quả báo Chuyển luân Thánh vương, Thanh văn, Phật-bích-chi, Bồ-đề Phật. Chính vì nghĩa này nên dựa nơi tâm thù thắng sẽ được quả báo thù thắng.
Do vậy, được biết tâm thù thắng là quan trọng. Đây lại có nghĩa gì? Nếu sự việc bố thí là quan trọng, thì chỉ dựa nơi sự thí nên thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh, vậy thì lìa sự bố thí quan trọng đó, chỉ dùng tâm từ bi thí cho các súc sinh, thí cho phước điền, như bố thí cho Phật, tức không thành tựu quả báo của bố thí thanh tịnh. Lại nếu lìa các tâm niệm vui thích, thù thắng, tôn trọng v.v… mà bố thí cho Đức Như Lai, thì phải được thành tựu quả báo của bố thí thanh tịnh, nhưng thật sự thì không thành. Do nghĩa này nên thành tựu quả báo của bố thí thanh tịnh, tâm là nhân thù thắng. Nhưng sự thí nơi phước điền có thể sinh tâm thù thắng. Dựa vào nghĩa ấy, nên trong kinh Đức Như Lai đã ca ngợi phước điền.
Lại có người nói: Dựa vào phước điền thù thắng, dựa vào sự việc bố thí quan trọng nên thành tựu quả báo thanh tịnh. Vì sao? Vì do nghe bố thí, nhưng không biết phước điền đã đạt được quả báo tốt đẹp? Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tức không biết công đức của Phật v.v… là phước điền, bố thí cho Phật v.v… thì được quả báo thù thắng. Ví như có con khỉ thí mật cho Đức Như Lai và Bà-tư-tra-cathi-ca v.v… Lại như người nữ, với tâm ái niệm đem các thứ cờ phướn, lọng, vòng hoa v.v… bản tâm thật sự là nhằm cúng dường tháp đứa trẻ, nhưng thực tế là cúng dường tháp của Phật-bích-chi. Từ việc cúng dường Phật-bích-chi nên được vô lượng phước, không từ bản tâm ở bên đứa trẻ mà được phước. Như thế v.v…, do nghĩa ấy, nên từ phước điền thù thắng, cùng do sự bố thí quan trọng nên được quả báo tốt đẹp, không từ tâm mà được. Vì vậy nên biết, bố thí cho phước điền là quan trọng.
Lại có người nói: Không biết phước điền, không thờ kính phước điền, thì không thành tựu được quả báo của bố thí thanh tịnh. Như có người thí cho Ni-kiền-tử mà sinh tưởng là A-la-hán, vẫn không thành tựu được quả báo thanh tịnh.
Lại có người nói: Do ba yếu tố tâm, phước điền và việc bố thí v.v… hòa hợp. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Nếu người bố thí từ chỗ tôn trọng nên khởi tâm bố thí, biết phước điền v.v… có vô lượng công đức, và gặp được phước điền của chư Phật, Như Lai, hoặc đôi khi gặp đệ tử của Như Lai. Từ tâm tôn trọng khởi tâm bố thí, vật có thể thí là sự việc khó xả bỏ nhưng đã xả bỏ để bố thí. Ba thứ ấy hòa hợp mới thành tựu được quả báo thanh tịnh, nhưng tâm là quan trọng. Do nghĩa ấy, nên trong ba thứ vừa kể, chỉ tâm là quan trọng, là thù thắng, là người chủ có thể xả, là người chủ có thể thí.
Hỏi: Chủ xả bỏ và chủ thí cho có khác biệt gì?
Đáp: Có người đến xin, đem vật của người khác thí cho, đó là chủ có thể thí cho. Còn đem vật dụng của mình thí cho là chủ có thể xả bỏ.
Lại có người đến xin, nếu đem vật dụng của mình thí cho, là chủ có thể thí. Nếu người xin khởi tâm cầu vật quý giá, nhưng im lặng không nói, nhưng mình nhận biết, nên thí cho, là chủ có thể xả bỏ.
Lại, khi bố thí vật, tâm keo kiệt từng lúc hiện ra ngăn cách nhưng vẫn hành thí, là chủ có thể thí cho. Nếu không có tâm keo kiệt, từng lúc khởi như thế, là chủ có thể xả bỏ.
Lại, tuy thí vật cho người khác, do tâm keo kiệt, nên tự cầu quả báo, là chủ có thể thí cho. Nếu thí vật cho người khác, không do tâm keo kiệt để chuyên cầu quả báo cho mình, là chủ có thể xả bỏ.
Tlại, lìa tâm vui mừng v.v… khi hành bố thí, là chủ có thể thí cho. Cùng tâm hoan hỷ ở trong ba thời hành thí, tâm không hối tiếc, là chủ có thể xả bỏ.
Lại, nếu cầu quả báo thù thắng ở vị lai, là chủ có thể thí cho. Lìa quả báo thế gian, cầu quả Niết-bàn, là chủ có thể xả bỏ.
Lại, nếu bố thí mong cầu quả báo hiện tại, vị lai và quả Niếtbàn, là chủ có thể thí cho. Nếu phát tâm cầu quả Đại Bồ-đề, chỉ đem tâm đại bi thí cho chúng sinh, là chủ có thể xả bỏ.
* Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm khéo nhận biết phương tiện hồi hướng?
Hỏi: Vì sao nói giới, thí, sau đấy nói về khéo nhận biết phương tiện hồi hướng?
Đáp: Vì muốn chỉ rõ công đức so với đạo khác. Nghĩa này là thế nào?
Người ngoại đạo v.v… thì mong cầu an vui cho mình, nên tu giới, thí là hồi hướng về ba cõi.
Lại, người Thanh văn, Phật-bích-chi v.v… cũng vì tự thân nên cầu an lạc của Niết-bàn, tức tu giới, thí là hồi hướng về Niết-bàn.
Các Đại Bồ-tát vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên cầu Đại Niếtbàn, dùng tâm từ bi một vị bình đẳng ban vui cho chúng sinh. Vui thích tu hành giới, thí, là hồi hướng về đạo quả Đại Bồ-đề vô thượng. Do giữ giới, bố thí v.v… là đồng với các hàng ngoại đạo, Thanh văn, Phật-bích-chi.
Thế nên, Đức Như Lai chỉ rõ công đức của hồi hướng về đạo thù thắng, nói giới, thí, sau đấy nói đến khéo nhận biết phương tiện hồi hướng.
Lại, tu tập giới, thí với tâm tham vướng nơi quả báo an lạc của thế gian, thì khó có thể phòng hộ tâm. Do vậy, Đức Như Lai nói về giới, thí, sau đấy nói đến sự khéo nhận biết phương tiện hồi hướng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì giữ giới, bố thí v.v… không phải là hành Tam-muội, vì chỉ nhận lấy quả báo của cảnh giới như sắc tịnh diệu v.v… trong hàng trời, người nơi cõi Dục. Nhưng cảnh giới như sắc tinh diệu đó, tuy đã đem tâm ngăn chận các phiền não như tham v.v… nhưng vẫn không thể lìa khỏi được. Vì sao? Vì do từ đời vô thỉ nơi quá khứ đến nay, con người đã hành tập theo tham ái, nhiễm đắm nơi cảnh giới, do tâm giữ lấy các cảnh giới như sắc v.v… nên khó phòng hộ. Các Bồ-tát khi tu hành pháp phương tiện của địa, lúc này, tuy chưa lìa các phiền não như tham v.v… nhưng tu tập giới, thí, thì các phiền não như tham v.v… ấy đều không thể cấu nhiễm tâm.
Lại, vì đoạn trừ nghi, vậy nên Đức Như Lai nói giới, thí, tiếp sau mới giảng nói về việc khéo nhận biết phương tiện hồi hướng.
Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tức trong thế gian có người nghi là Bồtát không xa lìa phiền não khi tu tập giới, thí v.v… Do lợi căn, nên quán xét các pháp hữu vi tất cả đều là khổ, không, vô thường. Còn khi tu tập giới, thí, các phiền não như tham v.v… có cấu nhiễm nơi tâm Bồ-tát hay là không cấu nhiễm? Để đoạn trừ nghi ấy, bấy giờ Bồ-tát vì nhằm tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên đã xả bỏ mọi lợi lạc của riêng mình, cho đến không cầu quả báo an lạc nơi xứ của Chuyển luân Thánh vương, chỉ vì đem lại an vui cho hết thảy chúng sinh, nên dốc cầu Bồ-đề Phật, các căn thiện hiện có đều hồi hướng về Niết-bàn. Vì nghĩa này, nên Bồ-tát tuy chưa lìa thế gian, nhưng các thứ lỗi lầm tai họa hiện có của thế gian đều không thể khiến Bồ-tát bị cấu nhiễm.
Lại, dựa vào giới thanh tịnh nên hồi hướng thanh tịnh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do dựa vào lực của hành giữ giới thanh tịnh, nên Bồ-tát có thể xả bỏ. Do lực của xả, nên các pháp Bồ-tát mong cầu thảy đều thành tựu. Thế nên, Đức Như Lai giảng nói về giới, thí, sau đấy mới nói đến phương tiện hồi hướng. Trong kinh, Đức Như Lai đã nói: Người giữ giới, những nguyện ước, các hành tác, thảy đều được thành tựu. Vì sao? Vì giới thanh tịnh.
HẾT – QUYỂN 6