SỐ 1526
KINH BẢO KẾ TỨ PHÁP ƯU BA ĐỀ XÁ
Tác giả: Bồ tát Thiên Thân
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Tỳ Mục Trí Tiên
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Bà-già-bà trụ tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương-xá, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng và chúng Đại Bồ-tát hội đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Bảo Kế:

–Này Thiện nam! Bồ-tát có 4 thứ phát khởi tinh tấn, không lìa bố thí. Những gì là bốn? Đó là:

  1. Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh.
  2. Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả pháp Phật.
  3. Phát khởi tinh tấn với tướng tùy hình hảo trọn vẹn.
  4. Phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh.

Bốn thứ phát khởi tinh tấn như vậy, được nêu bày đầy đủ nơi kinh này.

Bốn thứ chánh pháp của Bồ-tát như thế đã giảng nói, làm rõ các hành vị tha của Bồ-tát được thâu tóm trong kinh thuộc Đại thừa.

Ở đây, nay sẽ giải thích.

Do nghĩa nào Bồ-tát kia có đầy đủ diệu lực lớn lao không thể lường, luôn siêng năng tinh tấn không cấu uế, không động, tinh tấn vững chắc tối thắng? Đức Thế Tôn nói kệ:

Thế Tôn, vua Mâu-ni

Tinh tấn không thể lường

Vô cấu, siêng, không động

Lực tinh tấn tối thắng

Nói Tu-đa-la này

Vì lợi ích những gì?

Lại nữa, do nghĩa gì gọi là Thế Tôn? Có những lợi ích gì nơi thành Vương-xá? Do nghĩa nào nên Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Bảo Kế? Vì sao Bồ-tát được gọi là Bảo Kế?

Này Thiện nam! Bồ-tát có bốn thứ phát khởi tinh tấn, không lìa bố thí. Bồ-tát như thế là thuộc về tộc họ nào? Những nghĩa ấy cần giải thích. Vì sao phát khởi bốn thứ tinh tấn, không nhiều, không ít? Thế nào là bố thí? Có bao nhiêu thứ bố thí?

Thế nào là phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh? Những điều này nên giải thích. Thế nào gọi là chúng sinh? Là có hay là không? Chúng sinh nếu có, nhưng tất cả các pháp đều nói lìa chúng sinh, làm sao có thể tránh khỏi? Chúng sinh nếu không, nhưng nói đầy đủ tất cả chúng sinh thì không tương ưng.

Bồ-tát bố thí vì phải có đầy đủ tất cả chúng sinh hay là không đầy đủ? Nếu đều đầy đủ thì vì nhân duyên gì tất cả chúng sinh không hay, không biết? Như Đức Thế Tôn đã nói với Long vương: “Nếu bốn pháp của Ta đã giữ lấy chúng sinh, thì tất cả các chúng sinh kia đều nên nhận biết pháp Ta giảng nói”. Nếu không đầy đủ thì tự mâu thuẫn với điều đã giảng nói trong Tu-đa-la.

Nếu nói phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả pháp Phật, thì Như Lai giảng nói: Những gì gọi là pháp Phật? Lại nữa, Bồ-tát bố thí như thế nào? Nếu đã đầy đủ tất cả pháp Phật như thế thì cần gì phải giảng nói sáu pháp Ba-la-mật? Nếu sự bố thí đó đầy đủ như thế, tức là không có năm Ba-la-mật. Nếu có sáu thì tự mâu thuẫn với lời Phật đã nói trong Tu-đa-la.

Nếu nói phát khởi tinh tấn với tướng tùy hình hảo trọn vẹn, thì tướng tùy hình hảo, theo nghĩa này cần giảng nói: Thế nào tướng tốt đẹp? Lại nữa, về nghĩa này Đức Thế Tôn đã giảng nói. Nếu Đức Thế Tôn nói về tướng tốt đẹp trọn vẹn, phát khởi tinh tấn về Thi-la Ba-lamật, thì Đức Phật đã giảng nói như thế. Nếu có Bồ-tát hy vọng muốn được tướng tùy hình hảo mà bố thí, nên biết đó là Bồ-tát chấp trước.

Do nghĩa gì ở đây thì tùy thuận nói Thi-la Ba-la-mật, còn xứ kia thì lại ngăn chận nhân duyên như thế? Nghĩa ấy cần nên nêu bày.

Nếu nói phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh, thì: Thế giới của chư Phật có bao nhiêu thứ thanh tịnh và bao nhiêu thứ không thanh tịnh? Nghĩa này cần nên nói.

Lại, thế giới của Đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni này là thanh tịnh hay không thanh tịnh? Nếu đều là thanh tịnh thì mâu thuẫn với lời Như Lai đã nói về cảnh giới trang nghiêm trong Kinh A Di Đà: “Ta nay đã ở nơi thế giới gồm đủ năm thứ ô trược xấu ác, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng”. Nếu không thanh tịnh, thì vì sao ở đây lại nói Bồ-tát có bốn thứ phát khởi tinh tấn, không lìa bố thí? Nghĩa ấy cần nên nói.

Nói tóm lại: Thế nào là phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh? Cho đến: Thế nào là phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh? Đức Thế Tôn đã giảng nói ở đây đều khó lãnh hội.

Như thế, Tu-đa-la thù thắng, thanh tịnh vô cấu bậc nhất, những vấn nạn đã nêu ấy, nay sẽ giảng nói:

* Pháp đã nói ở đây, về nghĩa là thế nào? Do nghĩa gì nên pháp kia không chướng ngại, không thể nêu lường, trí tuệ thù thắng lìa cấu uế, không thể nghĩ bàn, với thân, miệng, ý tốt đẹp, là Tu-đa-la bậc nhất, được các hàng trời, người, A-tu-la cúng dường, hành hóa thù thắng, tịch tĩnh, không thể tư duy, luận bàn, là pháp sáng suốt không gì sánh, không ai bằng, đã được giảng nói? Kệ nêu:

Không ngại, rộng, vô lượng

Thắng tuệ trên ba cõi

Thân không thể nghĩ bàn

Miệng, ý cũng như thế.

Trời, người, A-tu-la

Các chúng đã cúng dường

Nghĩa gì nói Kinh này?

Hành vô thượng lìa cấu.

Chánh giáo Phật đã nói

Tịch tĩnh, hạnh đệ nhất

Hào quang không gì sánh

Không thể nào nghĩ bàn.

Nay xin nói về nghĩa này vì có người nghi, tức để đoạn trừ nghi, đem lại lợi ích. Trong đại hội này có trời, người, có A-tu-la, hoặc rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà v.v… nghe Đức Phật Thế Tôn giảng nói Kinh này cho Bồ-tát.

Từ các thứ ngọc báu, thức ăn uống, xe cộ, y phục trang nghiêm, hoặc ngựa, hoặc voi, nơi chốn tu đạo, vườn rừng vui chơi, thành ấp, thôn xóm đông người đang ở. Hoặc đem cả đất đai, vợ con, các bộ phận như tay chân, tim, da, thịt, máu, xương tủy trong toàn thân để bố thí. Tuy nhiên, vừa nghe Đức Như Lai giảng nói xong, liền sinh tâm nghi: “Bồ-tát phát khởi tinh tấn được bao lâu với những việc bố thí khó hành như thế?”. Đức Như Lai quán xét nhận biết các chúng kia đang sinh khởi tâm nghi, nhằm dứt trừ nghi ấy, nên Đức Phật đã vì đại chúng thuyết giảng Kinh này, nói: “Này Thiện nam! Bồ-tát có bốn thứ phát khởi tinh tấn, không lìa bố thí, là pháp được tất cả người trí đề cập đến, không phải cho là Bồ-tát biếng trễ trong việc bố thí. Thế nên, bốn thứ phát khởi tinh tấn đã tạo được lợi ích như thế”.

Lại nữa, vì lợi ích nào Đức Như Lai nói đến hành thí thanh tịnh của Đàn Ba-la-mật như thế? Có người nhớ nghĩ, muốn nghe Đức Phật giảng nói hành thí thanh tịnh nơi Đàn Ba-la-mật, nghe xong là được lợi ích.

Người nào muốn nghe Ta giảng nói kinh này? Đó là các Bồ-tát như Bảo Kế v.v…

Các chúng Bồ-tát Đại Thánh như thế đều hiện diện đầy đủ, đã khéo ứng hiện nơi thế giới rồi đi đến đại hội này, đem các thứ thắng diệu cúng dường Đức Thế Tôn.

Sau khi cúng dường, Bồ-tát hỏi: Bạch Đức Thế Tôn! Con chưa biết Bồ-tát có bao nhiêu hạnh thanh tịnh? Kính xin Đức Thế Tôn giảng nói, con nay muốn được nghe.

Đức Thế Tôn nói: Này Thiện nam! Bồ-tát có đủ bốn thứ hạnh thanh tịnh. Đó là:

  1. Hạnh thanh tịnh của Ba-la-mật.
  2. Hạnh thanh tịnh nơi pháp phần Bồ-đề.
  3. Hạnh thanh tịnh nơi thần thông, trí tuệ cứu cánh.
  4. Hạnh thanh tịnh nơi hành tác thuần thục chúng sinh.

Thế nào là hạnh thanh tịnh của Bố thí Ba-la-mật? Đức Như Lai giảng nói như thế nào? Đức Thế Tôn đã giảng nói bốn thứ phát khởi tinh tấn của Bồ-tát không lìa bố thí v.v… đạt được lợi ích như thế.

Lại nữa, lợi ích của nghĩa này là gì? Ở đây, tôi nay nói rõ về lợi ích cho mình và lợi ích cho mọi người. Vì không nhận biết nhân của hai thứ lợi ích ấy, nên Đức Như Lai chỉ cho biết rõ nhân của lợi ích cho mình và cho người, do vậy nên giảng nói Tu-đa-la này. Vì sao tất cả người trí đều đã chỉ rõ? Vì có người đã phát tâm Bồ-đề, đối với bốn thứ phát khởi tinh tấn bố thí, người đó đã tạo đầy đủ lợi ích cho mình và cho người, không phải chỉ là sự nhớ nghĩ.

Phát khởi tinh tấn với tướng tốt đẹp trọn vẹn, phát khởi tinh tấn với đầy đủ pháp Phật, thế nên bố thí tạo được lợi ích đầy đủ cho mình.

Phát khởi tinh tấn với chúng sinh, phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh, thế nên bố thí tạo được lợi ích cho người khác, lợi ích là như thế.

Lại nữa, còn có lợi ích nào? Nghĩa này nay sẽ giảng nói. Nếu có Bồ-tát không học trí bố thí, Đức Như Lai sẽ bảo Bồ-tát đó học trí bố thí. Bậc Nhất thiết trí đã tạo lợi ích nên chỉ rõ như thế. Nếu có Bồtát không học trí bố thí nhưng cũng hành thí, thì gọi là bố thí, không phải là Ba-la-mật. Như Đức Thế Tôn giảng nói Đàn Ba-la-mật, trong đó nêu dạy: “Nếu người nào trải qua Hằng ha sa số kiếp tu hành bố thí mà không học trí bố thí, Bồ-tát như thế chỉ được gọi là bố thí, không phải là Ba-la-mật”.

Lại nữa, còn có lợi ích nào? Nghĩa này nay sẽ giảng nói. Nếu có Bồ-tát muốn hành bố thí ít nhưng được quả báo nhiều thì dùng phương tiện gì? Nếu Bồ-tát kia không học phương tiện thiện xảo thì bậc Nhất thiết trí sẽ khiến họ học, tạo lợi ích, vì họ giảng nói kinh ấy. Bậc Nhất thiết trí đem bốn thứ ấy chỉ rõ cho họ, do phương tiện này nên hành bố thí ít mà được quả báo nhiều. Như phương tiện thiện xảo nơi Tu-đa-la đã giảng nói, tức khéo dùng phương tiện nên Bồ-tát bố thí ít mà hành hóa sâu rộng, tạo vô lượng lợi ích như thế.

Lại nữa, còn có lợi ích nào? Nghĩa này nay sẽ giảng nói. Nếu có Bồ-tát lìa nơi trí nguyện, Đức Như Lai khiến trí nguyện của Bồtát ấy hòa hợp, được lợi ích như thế, bậc Nhất thiết trí chỉ rõ: Bồ-tát không phát nguyện thì không bố thí. Lại nguyện như thế này: Hôm nay tôi hành bố thí đầy đủ với các thực phẩm v.v… nguyện nơi đời vị lai, sẽ dùng pháp vô thượng để bố thí với đầy đủ mười lực, bốn pháp vô sở úy, pháp bất cộng v.v… Như thế, pháp Phật, tướng tùy hình hảo, đều được chứng đắc. Tôi sẽ khéo làm thanh tịnh thế giới của Phật, lợi ích là như thế.

Lại nữa, còn có lợi ích nào? Nghĩa này nay sẽ giảng nói. Bồtát cầu nơi bốn thứ đầy đủ, nhưng không học nhân bố thí. Vì biết rõ lợi ích của nhân, nên bậc Nhất thiết trí đã chỉ rõ: Nếu ông muốn cầu đạt bốn thứ đầy đủ, nên hành bốn thứ phát khởi tinh tấn để hành bố thí. Những gì là bốn? Đó là: (1) Chúng Tăng đầy đủ. (2) Trí đầy đủ. (3) Thân đầy đủ. (4) Thế giới Phật đầy đủ. Bậc Nhất thiết trí chỉ rõ: Nếu ông muốn cầu đạt bốn thứ đầy đủ, nên hành bốn thứ phát khởi tinh tấn để hành bố thí. Nếu nói phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh thì được Chúng Tăng đầy đủ. Nếu nói phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả pháp Phật thì được Trí đầy đủ. Nếu nói phát khởi tinh tấn với tướng tùy hình hảo trọn vẹn thì được Thân đầy đủ. Nếu nói phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh thì được Thế giới Phật đầy đủ.

Lợi ích như thế là lợi ích cho mình và cho người, nên Đức Như Lai giảng nói Kinh này.

– Lại nữa, do nghĩa gì gọi là Thế Tôn? Có những lợi ích gì nơi thành Vương-xá? Hai vấn nạn này, như nơi phần Ưu-ba-đề-xá về tâm Bồ-đề đã giảng nói, nên biết.

– Vì sao Bồ-tát được gọi là Bảo Kế? Nghĩa ấy nay sẽ giảng nói. Vì căn thiện đã được trọn vẹn như thế, trải qua vô số, vô lượng trăm ngàn A-tăng-kỳ kiếp, nên Bồ-tát có được nhục kế bằng ngọc báu, giá trị bằng bảy báu đầy khắp trong mười Tam thiên đại thiên thế giới, thế nên vị Thánh ấy tên là Bảo Kế. Ví như dùng tay cầm nắm kim cương, nên gọi là Tay kim cương. Như vậy, vì trong nhục kế có ngọc báu, nên gọi là Bảo Kế. Ba điều khéo đầy đủ, phần Ưu-ba-đề-xá như đã nói trong kinh kia nên biết.

– Vì sao phát khởi bốn thứ tinh tấn, không nhiều không ít? Nghĩa ấy nay sẽ giảng nói. Do nhân của suy tưởng, nhớ nghĩ đến bốn thứ phát khởi tinh tấn ấy, nhớ tưởng đến lợi ích đầy đủ rốt ráo. Bốn thứ đó có vật gì khiến tưởng, nhớ đến lợi ích? Điều ấy tôi nay sẽ giảng nói về lợi ích của mình và người. Bốn thứ đó không cần nhiều, cũng không được ít. Lại tưởng nhớ đến lợi ích rốt ráo nên không được nói ít. Đức Như Lai đã nói bốn thứ phát khởi tinh tấn như thế. Ví như người đàn ông có hai chân thì đi được, lại không dùng nhiều, nhưng một chân thì không đi được. Đây cũng như thế.

– Thế nào là bố thí? Có bao nhiêu thứ bố thí? Hai thứ vấn nạn này và ba điều khéo đầy đủ, nơi phần Ưu-ba-đề-xá trong kinh kia đã giảng nói, nên biết.

– Thế nào gọi là chúng sinh? Là có hay là không? Phần Ưu-bađề-xá về tâm Bồ-đề trong kinh kia đã nêu bày, nên biết.

– Bồ-tát bố thí vì phải có đầy đủ tất cả chúng sinh hay là không đầy đủ? Nghĩa ấy nay sẽ nói.

Bồ-tát hành đầy đủ, thế nào là đầy đủ? Bồ-tát đối khắp hết thảy muôn loài, tâm đều bình đẳng, xả bỏ tất cả vật, bố thí rộng khắp, đầy đủ thệ nguyện đối với tất cả chúng sinh. Bồ-tát làm thế nào xả bỏ tất cả vật hiện có, tất cả các vật trong ngoài, nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát, tâm được thanh tịnh. Thí cho người đến cầu xin, như vật của mình, từ vật mình tưởng cho đến xem tất cả chúng sinh với tâm bình đẳng.

Nếu Bồ-tát bố thí, xa lìa ngã chấp, thí cho y phục, thức ăn uống, là bố thí đầy đủ cho tất cả chúng sinh. Nếu chúng sinh không nhận lấy của bố thí, điều đó không phải lỗi ở Bồ-tát.

Tâm Bồ-tát thí cho tất cả người ăn xin, cũng như Long vương. Ví như Long vương, đối với tất cả người cầu xin thảy đều cho một cách bình đẳng, nếu có người không nhận, thì không phải là lỗi của Long vương. Ví như Long vương nổi lên đám mây dầy đặc rộng lớn che khắp hư không, bình đẳng trút xuống trận mưa, thì những đám cỏ thuốc, cây rừng đều sinh trưởng nhanh chóng, các chốn ao hồ đều ngập tràn. Nơi xứ cao không nhận được nước mưa, điều đó không phải là lỗi của Long vương. Cũng như thế, Bồ-tát bình đẳng hành thí đến khắp tất cả người ăn xin. Nếu có người nào không tới nhận lãnh thì không phải lỗi của Bồ-tát, vì Bồ-tát đã hành đầy đủ theo nguyện của tất cả chúng sinh.

Bồ-tát bố thí phát nguyện như thế này: “Tôi vì muốn tạo đầy đủ mọi an lạc vô thượng cho tất cả chúng sinh, nên nguyện đem vô số các vật dụng thí cho tất cả chốn sinh sống, thường xuyên tạo mọi đầy đủ cho hết thảy chúng sinh”. Thế nên, Bồ-tát phát nguyện bố thí cho tất cả nơi sinh sống đều được giàu có an vui. Chính vì diệu lực của sức phát nguyện và diệu lực của bố thí đã huân tập nên Bồ-tát đã đời đời, xứ xứ, hành trì bố thí cho vô lượng chúng sinh thảy đều đầy đủ. Lìa các thứ bất thiện như sát sinh là vô úy thí đầy đủ cho hết thảy chúng sinh. Như Đức Thế Tôn đã nói: “Dứt bỏ sự giết hại các loài, đó là bố thí sự không sợ hãi, không oán ghét, cho tất cả chúng sinh”. Vì bố thí như thế v.v… là chỉ cho chúng sinh cảnh giới Niết-bàn rốt ráo, khiến vô lượng chúng sinh đều trụ trong Niết-bàn diệu lạc. Vì thọ nhận lời Phật thọ ký xong, nên Bồ-tát về sau tự chọn lấy Niết-bàn.

Do nhân duyên trừ bỏ khổ đạt được an vui, như thế là Bồ-tát đã tạo mọi đầy đủ cho tất cả chúng sinh.

* Những gì gọi là pháp Phật? Nghĩa này nay sẽ giảng nói. Pháp thân là nương dựa vào mười lực, bốn vô sở úy và mười tám pháp bất cộng. Đây là pháp Phật. Do tất cả các pháp đó đều là do Phật nhận biết, nên gọi là pháp Phật, như Thánh giả Văn-thù-sư-lợi nói kệ:

Chánh giác không nghĩ bàn

Như Lai không thể lường

Hàng Thanh văn, Duyên giác

Đều không thể lượng xét.

Huống tất cả chúng sinh

Biết được Như Lai sao?

Phàm phu hành hý luận

Như Lai dứt hý luận.

Chỉ Phật mới biết Phật

Nương dựa hành pháp Phật

Trí, thân, tâm tự nhiên

Trừ Phật, không ai hiểu.

* Lại nữa, thế nào là Bồ-tát bố thí đầy đủ tất cả pháp Phật? Như thế thì cần gì phải giảng nói sáu pháp Ba-la-mật. Nghĩa ấy nay sẽ nói rõ. Thật có sáu thứ, do ý gì chỉ nói về bố thí? Nghĩa này nay sẽ nêu.

Đây là ý nói Bồ-tát khéo dùng phương tiện. Như Bồ-tát khéo dùng phương tiện bố thí thì có thể hành trì đầy đủ sáu Ba-la-mật. Như nơi kinh Thiện Phương tiện đã nói, nơi kinh Úc Già La Vấn đã nói. Bồ-tát tại gia bố thí đầy đủ sáu Ba-la-mật. Thế nào là đầy đủ? Nghĩa là Bồ-tát có nhiều thứ của cải vật báu, ai đến xin đều thí cho với tâm không phân biệt. Như thế gọi là Bố thí Ba-la-mật. Dựa nơi tâm Bồ-đề để tu hành bố thí, như thế gọi là Trì giới Ba-la-mật. Đối với người cầu xin, không giận dữ, không loạn động, như thế gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Nếu bố thí cho người khác ta còn gì để dùng? Không có tâm như thế, có được năng lực như thế, gọi là Tinh tấn Bala-mật. Như có người cầu xin, nếu bố thí rồi, không bực không hối, tự tâm mừng vui, sinh tâm ý thiện, như thế gọi là Thiền định Ba-lamật. Nếu bố thí rồi, đối với tất cả pháp, tâm không thủ đắc, không mong được quả báo. Như trí tuệ thông sáng, không chút vướng mắc, nơi pháp luôn hoan hỷ, vui thích, không tham chấp, chỉ mong cầu quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, như thế gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Nói tóm lại, đều đầy đủ hết thảy sáu pháp Ba-la-mật như thế trong hành bố thí.

Lại, như trong kinh thuộc Đại thừa, Đức Thế Tôn đã giảng nói vô lượng sự đầy đủ nơi sáu Ba-la-mật. Như vậy, tất cả đều gồm thâu trong Kinh này.

Lại, trụ nơi Địa lớn, các Bồ-tát v.v… đều có ý niệm như vậy. Bồ-tát kia trụ nơi Địa lớn theo ý của các Bồ-tát, luôn bố thí đầy đủ với tất cả pháp Phật.

Lại, vì đối trị để giáo hóa các chúng sinh, nên Đức Thế Tôn đã giảng nói pháp. Hoặc có chúng sinh nên dùng môn bố thí để giảng nói đầy đủ tất cả pháp Phật cho họ. Hoặc có chúng sinh nên dùng các môn khác, cho đến dùng môn trí tuệ.

Lại nữa, do chỉ rõ thệ nguyện của Bồ-tát, là Bồ-tát luôn đáp ứng đầy đủ ý muốn của người cầu xin, nên phát nguyện như vầy: “Như tôi đã đáp ứng đầy đủ mọi ý muốn của người cầu xin, xin đem căn thiện này nguyện đạt được đầy đủ tất cả pháp Phật”. Nói như thế thì không có lỗi.

* Thế nào là tướng tốt đẹp? Nghĩa đó nay sẽ giảng nói.

Có ba mươi hai tướng: Đó là tay chân đều có dấu vân bánh xe, khéo trụ an ổn, bằng phẳng. Tay chân đều mềm mại. Kẽ giữa hai ngón tay, chân đều có màng lưới mỏng. Có bảy nơi bằng phẳng, đầy đặn. Ngón tay dài, thân rộng lớn, ngay ngắn. Cổ như mình con sò, lông trên thân đều xoay hướng lên. Đùi vế như đùi vế của Nai nhân ni. Cánh tay bằng, thẳng, âm mã vương tàng, da tươi màu vàng ròng, ở mỗi lỗ chân lông đều có một sợi lông, trong chân mày đều có hào quang trắng, gương mặt sáng rỡ. Vai như vai sư tử, trước sau đều tròn trịa. Lưng Phật ngay ngắn, phẳng, là thượng vị trong các mùi vị. Thân thể Phật tròn đầy như Ni-câu-đà. Trên đảnh cao tròn, cuống lưỡi của Phật rộng dài, nói tiếng Phạm vi diệu. Má tươi nhuận, răng trắng bằng đều, khít, gồm bốn mươi chiếc, mắt trong trẻo, xanh biếc như mắt Ngưu vương.

Tám mươi vẻ đẹp: Mu bàn chân nõn nà, trơn nhẵn, ngón tay tròn có hoa tay, mạch tay không lộ ra, mắt cá, gót chân đều bằng phẳng, đốt xương rắn chắc, sít sao, mép dưới đôi bàn chân bằng, có chỉ vắt ngang, ngay ngắn, sâu, nhẵn, mịn màng, lưỡi nói theo thứ lớp, mạch lạc, sắc môi đỏ tươi, như quả Tần-bà, không cao, không thấp, lưỡi đỏ, mềm, mỏng như lưỡi của voi chúa trắng. Tiếng nói của Phật như sấm vang trong mây, âm thanh tốt đẹp như tiếng nói của Bồ-tát Văn-thù.

Đầy đủ các tướng tốt: Hai cánh tay ngang bằng, thân thể sạch sẽ, xiêm y cũng thế, toàn thân đều mềm mại, các bộ phận đều cân đối, mỗi bộ phận của thân thể đều khít khao, tùy theo chỗ rộng hẹp, cách ngồi của Phật rất tròn đầy, lưỡi ngay thẳng, luận bàn với lời lẽ hay đẹp theo trình tự. Cuống lưỡi đều sâu, nói những điều bí mật của tiên vương, hiện bày những điều thiện tịnh bậc nhất, rất đáng ưa thích, lìa tối tăm như ánh chớp sáng soi khắp. Bước đi của Phật luôn xoay về bên phải như bước đi của Sư tử, Ngưu vương, Long vương. Lưỡi không dài, ngắn, mà tròn đẹp. Hai hông không lộ ra, vì đã lìa bỏ dục ác. Thân Phật không có nốt ruồi đen, không chút vết bẩn bám bên ngoài, tròn trịa, nhanh nhẹn. Đôi chân không cao, luôn sạch, không nhơ, mỉm cười mà thong thả, mắt như chiếc lá xanh ở Bà-lada, lúc Phật cười, vị trí chân mày, mặt đều như pháp, đều theo thứ lớp tương ưng. Chân mày ngay ngắn, không cong, lông mày không ít, không nhiều, đều hoàn toàn xa lìa mọi lỗi lầm, không ai có thể chê bai, nghi trách.

Các căn đều tốt đẹp hơn hết. Vầng trán rộng, hiện đủ vẻ vui bậc nhất. Gương mặt và trán đều bằng phẳng, đầy đặn, như trên toàn thân, không trắng không đen, luôn tỏa ra mùi thơm, không chắc, không đục, mạch lạc, khít khao. Vẻ đẹp vi diệu, thù thắng có Nan-đềtoàn-bạt-đà-ma-na (?), thân hình cân đối thích hợp và tóc xoay theo chiều từ phải sang trái, không rối.

* Vì sao ở đây Đức Phật bảo cho biết tướng tốt trọn vẹn là Trì giới Ba-la-mật, nhưng ở chỗ kia lại ngăn nghĩa này? Nay nói về hành nghiệp ban đầu, Bồ-tát nhớ nghĩ về tướng tốt, hy vọng muốn có được. Vì nhằm tạo lợi ích cho Bồ-tát, nên Đức Phật dùng phương tiện để chỉ rõ. Bồ-tát tu hành chưa lâu, nên còn ái mộ tướng tốt, lìa bỏ lợi ích. Tâm bi bố thí luôn tương ưng với lợi ích, điều như thế nên ngăn chận.

Lại nữa, nếu người tham đắm nơi sắc thân vi diệu, cùng tướng tốt trọn vẹn rồi luôn hy vọng nhớ nghĩ, Bồ-tát nên vì người đó mà ngăn chận. Nếu có chúng sinh thành tựu đầy đủ lợi ích, thì Bồ-tát cần chỉ bảo cho người đó: Ở đây có chúng sinh thấy thân tướng tốt trang nghiêm của Như Lai, vì phát tâm Bồ-đề nên nói như thế, như trong Tu-đa-la Chuyển Nữ Thân đã nêu.

Lại nữa, người chưa phát tâm Bồ-đề, vì nhằm tạo lợi ích cho họ, nên chỉ dạy.

Lại nữa, người đã phát tâm Bồ-đề từ lâu, vì lợi ích tương ưng với không v.v… nên ngăn chận. Lại, vì muốn được phước đức và lợi ích đầy đủ, thế nên Bồ-tát chỉ bảo về trí viên mãn, vì lợi ích đầy đủ nên ngăn chận. Lại, có người cầu tướng tùy hình hảo đầy đủ trọn vẹn của Thế Tôn, do chấp giữ nơi tướng nên ngăn chận.

Lại nữa, vì lỗi lầm tham vướng nơi hỷ lạc v.v…, vì lợi ích của sự tịch tĩnh, nên vì họ mà ngăn chận.

Do nhân duyên như thế nên trong Kinh này không ngăn chận.

* Thế giới của chư Phật có bao nhiêu thứ thanh tịnh, có bao nhiêu thứ không thanh tịnh? Nghĩa ấy không thể nói hết.

Phần không thanh tịnh kia tóm tắt có hai thứ:

  1. Tướng chúng sinh.
  2. Tướng hành.

Tướng chúng sinh: Nghĩa là những lời nói lỗi lầm của chúng sinh.

Tướng hành: Nghĩa là lỗi lầm của hành, tức là hành ác và lỗi lầm của các chúng sinh kia, do chúng sinh dựa vào vô số các thứ kiến chấp hư vọng.

Hành lỗi lầm kia là những lỗi lầm khiến sa vào hầm hố, gò đống, chông gai v.v… ở những địa điểm như thế, đa số những thứ cần dùng như thức ăn uống, y phục, vật báu đều thiếu thốn.

Công đức của chúng sinh cùng đối như thế, nên hành công đức nơi thế giới thanh tịnh. Ở thế giới đó còn có vô lượng diệu lực thệ nguyện tự tại của Bồ-tát, nên nhận biết như thế.

Thế giới của chư Phật có vô biên công đức, nên nguyện lực tự tại của Bồ-tát là vô biên, và sự phát khởi tinh tấn ở đây cũng vô biên. Những công đức như thế là không thể kể hết.

Lại, thế giới thanh tịnh của chư Phật này chỉ nói một phần ít. Ngoài ra còn nhiều nữa, nên biết. Như Đức Thế Tôn giảng nói: “Có mười hai thứ đạo tràng các công đức được hòa hợp tụ hội, nơi đó đều thanh tịnh, biết được thế giới Phật”. Những gì là mười hai đạo tràng? Đó là:

1. Đạo tràng kiếp số hòa hợp tụ hội: Đạt được do đạo tràng công đức đều trọn vẹn.

2. Đạo tràng thời gian hòa hợp tụ hội: Đạt được do luôn hành pháp không để thời gian luống qua.

3. Đạo tràng chúng sinh hòa hợp tụ hội: Đạt được là do trí pháp.

4. Đạo tràng thế giới hòa hợp tụ hội: Đạt được là do khéo làm thanh tịnh.

5. Đạo tràng điều ngự chúng sinh hòa hợp tụ hội: Đạt được là do không bó buộc.

6. Đạo tràng thừa hòa hợp tụ hội: Đạt được là do hành trì một hạnh.

7. Đạo tràng Đà-la-ni hòa hợp tụ hội: Đạt được là do không có vật gì khác.

8. Đạo tràng pháp Phật hòa hợp tụ hội: Đạt được là do không có pháp của tất cả ngoại đạo.

9. Đạo tràng công đức hòa hợp tụ hội: Đạt được vì không có dua nịnh.

10. Đạo tràng tâm ngay thẳng sâu xa hòa hợp tụ hội: Đạt được do bản tánh tịnh, đời sống tịnh, chỗ ở của chúng sinh tịnh.

11. Đạo tràng Thánh hòa hợp tụ hội: Đạt được vì không xa lìa phước điền.

12. Đạo tràng đạo hòa hợp tụ hội: Đạt được vì nhân nơi Đức Phật trước nên sự hành hóa đạt tới.

* Lại, thế giới của Đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni này là thanh tịnh hay không thanh tịnh? Nay nói về sự thanh tịnh.

Do đâu biết là thanh tịnh? Do tâm của Đức Thế Tôn đã hoàn toàn thanh tịnh.

Nếu gặp phải người do tâm không thanh tịnh nên thấy thế giới của Phật này không thanh tịnh. Dựa nơi ý đó, nên Đức Thế Tôn nói: “Ta nay đã xuất hiện nơi thế giới xấu ác gồm đủ năm thứ ô trược và đã chứng đắc Bồ-đề vô thượng”. Như trong Tu-đa-la Vô Cấu Xưng (Kinh Duy Ma) đã nói: “Bồ-tát muốn có được thế giới Phật thanh tịnh, trước hết phải làm thanh tịnh tâm mình. Tùy theo tâm mình thanh tịnh thì thế giới Phật thanh tịnh”.

Bấy giờ, vâng theo oai thần của Phật, Tuệ mạng Xá-lợi-phất liền suy nghĩ, nghi hoặc: “Nếu tâm Bồ-tát thanh tịnh, thế giới Phật thanh tịnh, thì hiện nay Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni của ta, khi còn làm Bồ-tát, tâm ý của Ngài há không thanh tịnh, sao thế giới của Phật lại không thanh tịnh như thế?”.

Lúc ấy, do nhận biết ý nghĩ của Tuệ mạng Xá-lợi-phất, nên Đức Phật hỏi: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý của Tôn giả thế nào? Tôn giả chớ nên nghĩ như vậy, vì mặt trời, mặt trăng há không thanh tịnh chăng nhưng sao người mù không trông thấy?”.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất thưa: “Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn! Vì đó là do lỗi của người mù, không phải là lỗi của mặt trời, mặt trăng”.

Đức Phật bảo: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chúng sinh cũng như vậy. Vì tội là do không trí nên không trông thấy thế giới thanh tịnh của Như Lai, không phải là lỗi ở Như Lai. Này Tôn giả Xá-lợiphất! Thế giới này của Ta luôn tự thanh tịnh nhưng Tôn giả không nhìn thấy”.

Khi đó, Phạm vương Loa Kế nói với Tuệ mạng Xá-lợi-phất: “Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Xin Đại đức chớ bảo thế giới của Phật đây là không thanh tịnh. Thế giới của Phật Thích-ca Mâu-ni đây là thanh tịnh”.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất hỏi Phạm vương: “Vì sao thế giới của Phật đây là thanh tịnh?”.

Phạm vương đáp: “Này Đại đức Xá-lợi-phất! Ví như cung điện trang nghiêm, thù diệu của trời Tha-hóa-tự-tại, tôi thấy thế giới thanh tịnh của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni với công đức trang nghiêm cũng lại như thế”.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất lại hỏi Phạm vương: “Nay tôi chỉ thấy thế giới của Đức Phật này toàn là gò nổng, hầm hố, gai gốc, gạch cát, các núi đất đá, đầy dẫy mọi thứ cấu uế, xấu ác”.

Phạm vương Loa Kế nói: “Này Đại đức Xá-lợi-phất! Vì tâm của Nhân giả nghĩ như thế, nên thấy có gò đất, hầm hố cùng những vật cấu uế v.v… Vì Nhân giả tin là không thanh tịnh, nên nhìn thấy thế giới của Đức Phật đây không thanh tịnh. Lại nữa, này Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu người nào có thể đối với tất cả chúng sinh, tâm đều bình đẳng, tâm sâu xa thanh tịnh, thì người đó sẽ trông thấy thế giới của Phật đây đều thanh tịnh”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn ấn ngón chân xuống đất, tức thì hiện ra cả Tam thiên đại thiên thế giới đều được trang nghiêm đầy đủ bằng vô lượng trăm ngàn châu báu công đức không thể tính kể. Ví như thế giới Bảo Trang Nghiêm của Đức Phật Bảo Trang Nghiêm có vô lượng châu báu công đức thắng diệu, thì ba ngàn đại thiên thế giới này cũng lại như vậy. Tất cả đại chúng đều trông thấy và khen ngợi là sự việc chưa từng có, hết thảy đều thấy mình đang ngồi trên hoa sen báu.

Lúc này, Đức Thế Tôn bảo Tuệ mạng Xá-lợi-phất: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nay Tôn giả đã nhìn thấy thế giới Phật của Ta với vô lượng công đức thù thắng trang nghiêm chăng?”.

Tuệ mạng Xá-lợi-phất bạch: “Bạch Đức Thế Tôn! Con đã trông thấy. Con vốn không được thấy, không được nghe, hôm nay, con mới được thấy thế giới thanh tịnh trang nghiêm không thể nghĩ bàn của Đức Thế Tôn”.

Đức Phật nói: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế giới Phật của Ta thanh tịnh như thế, do chúng sinh thấp kém nên thấy không thanh tịnh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như chư Thiên tuy cùng có một dụng cụ đựng thức ăn bằng ngọc báu, nhưng tùy thuộc vào nghiệp lực của họ nên phần cơm không đồng nhau. Như thế, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chúng sinh cùng sinh trong một thế giới Phật, nếu tâm người nào thanh tịnh thì sẽ trông thấy thế giới của Đức Thế Tôn thanh tịnh. Hôm nay, Ta đem kinh này để lường xét, nên nói là thanh tịnh”.

* Nói tóm lại: Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh: Là Đức Như Lai chỉ rõ tâm của tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả pháp Phật: Là chỉ rõ sự tự chứng ngộ. Phát khởi tinh tấn với tướng tốt đẹp trọn vẹn: Là từ Như Lai hiện rõ.

Phát khởi tinh tấn dựa nơi thế giới thanh tịnh của Bồ-tát Phổ Hiền: Là chỉ rõ tất cả chúng sinh đều được an lạc sung mãn.

Lại còn có nghĩa:

  1. Như người bệnh nhàm chán.
  2. Như nghe nói đến thuốc chữa bệnh.
  3. Như người mong được thuốc.
  4. Như nhà cửa nơi người bệnh đang ở.

Lại còn chỉ rõ:

  1. Là diệu lực của tâm đại bi.
  2. Chỉ rõ diệu lực của trí tuệ.
  3. Diệu lực của thân, tâm.
  4. Diệu lực của sự tu tập tâm ngay thẳng, tâm sâu xa, chỉ rõ như thế.

Lại còn có nghĩa:

1. Nói rõ là không bỏ tất cả chúng sinh.

2. Chứng đắc tất cả pháp Phật như mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Phật.

3. Chứng được thân, hiển bày không có gì đáng chê trách.

4. Đạt được Pháp vương vô thượng của Phật, tương ưng với thế giới.

Lại còn có nghĩa:

1. Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả chúng sinh: Là chỉ rõ về Bố thí Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật.

2. Phát khởi tinh tấn với đầy đủ tất cả pháp Phật: Là chỉ rõ về Bát-nhã Ba-la-mật, Trí Ba-la-mật.

3. Phát khởi tinh tấn với tướng tốt đẹp trọn vẹn: Là chỉ rõ về Nhẫn nhục Ba-la-mật, Phương tiện Ba-la-mật.

4. Phát khởi tinh tấn với thế giới Phật thanh tịnh: Là chỉ rõ về Trì giới Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật.

HẾT