LUẬN KINH DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Lại, thành tựu tu hành là do phát khởi tất cả thứ tu hành thanh tịnh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đã dấy khởi tất cả thứ thanh tịnh khi tu hành mười nghiệp đạo thiện. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành. Như trong Kinh Thập Địa có nói: Bồtát này còn suy nghĩ sâu xa: Hành mười nghiệp đạo bất thiện, các nhân duyên đó tích tập lại khiến bị đọa vào các nẻo địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Hành mười nghiệp đạo thiện, các nhân duyên ấy được tích tập, khiến sinh vào cõi người, cho đến sinh nơi cõi trời Hữu Đảnh.

Lại, mười nghiệp đạo thiện trên đây được cùng với trí tuệ quán xét, hòa hợp, nhưng vì tu hành với tâm hẹp kém, tâm nhàm chán, sợ hãi ba cõi, xa lìa đại bi, theo người khác nghe âm thanh mà thông đạt. Do nghe âm thanh, ý nhận hiểu nên thành tựu thừa Thanh văn.

Lại, mười nghiệp đạo thiện thanh tịnh trên đây, do không theo người khác nghe âm thanh mà tự chánh giác, không thể có đầy đủ phương tiện của đại bi, nhưng có khả năng thông đạt được pháp nhân duyên sâu xa, nên thành tựu thừa Phật-bích-chi.

Lại, mười nghiệp đạo thiện thanh tịnh đầy đủ tăng trưởng với tâm rộng lớn vô lượng, vì các chúng sinh khởi tâm thương xót, dùng phương tiện gồm thâu, khéo phát đại nguyện, không bỏ tất cả chúng sinh, quán trí Phật rộng lớn, địa Bồ-tát thanh tịnh, Ba-la-mật thanh tịnh, nhập hành sâu rộng thành tựu.

Lại, mười nghiệp đạo thiện tăng thượng, tối thượng, là tất cả thứ thanh tịnh như mười lực, tập hợp hết thảy pháp Phật khiến được thành tựu. Vì thế ta nên cùng hành mười nghiệp đạo thiện, tu tập tất cả chủng loại, khiến được thanh tịnh đầy đủ. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.

Lại, thành tựu tu hành là do tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên tu tập mười nghiệp đạo thiện. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát không tham chấp nơi niềm vui riêng, tu tâp mười nghiệp đạo thiện là nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, thấy mình có khả năng thực hiện điều ấy. Do tâm từ bi, không phải chỉ trực tiếp hành tự lợi mà có thể tự lợi rồi lợi tha, tức có khả năng khiến nhiều người khác trụ nơi mười nghiệp đạo thiện. Thế nên Bồ-tát thành tựu tu hành. Do nghĩa này nên trong Kinh Thập Địa nói: “Do đó ta nên trước an trụ trong pháp thiện, cũng khiến người khác trụ trong pháp thiện, vì vậy gọi là thành tựu tu hành”.

Lại, như trong Kinh Thập Địa nói: “Bồ-tát này lại ở trong tất cả chúng sinh, khởi tâm an ổn, tâm mềm dịu, tâm từ tâm bi, tâm thương xót, tâm lợi ích, tâm giữ gìn, tâm ngã, tâm bình đẳng, tâm Thầy, tâm Thế Tôn”. Lại, Bồ-tát còn suy nghĩ: “Các chúng sinh này đã rơi vào nẻo tà kiến, ý ác, tâm ác, đã đi vào rừng rậm của nẻo ác. Ta nên khiến các chúng sinh đó đi theo con đường chân thật, trụ trong pháp như thật của đường chánh kiến”. Thế nên gọi là thành tựu tu hành.

Lại, thành tựu tu hành là tu tập nghiệp đạo thiện rốt ráo không cùng tận. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát vì không đoạn dứt Tam bảo, nên tu hành không gián đoạn, thường tu hành nghiệp đạo thiện không cùng tận, thế nên gọi là thành tựu tu hành. Như trong Kinh Vô Tận Ý nói: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Các Đại Bồ-tát trì giới Ba-la-mật là không cùng tận, do thường xuyên tu hành. Vì sao? Vì giới của hàng phàm phu là ở tại chỗ thọ sinh, nên có tận cùng. Trong cõi người mười điều thiện tận, nên có cùng tận. Các trời ở cõi Dục phước báo tận, công đức tận, nên có cùng tận. Các trời ở cõi Sắc, do thiền vô lượng tận, nên có cùng tận. Các trời ở cõi Vô sắc do thọ nhận nhập các định tận, nên có cùng tận. Tiên nhân của ngoại đạo hiện có các giới thoái mất thần thông tận, nên có cùng tận. Tất cả giới học, vô học của hàng Thanh văn vì chứng nhập biên vực cùng tận của Niết-bàn nên có cùng tận. Giới của Phật-bích-chi không có tâm đại bi tận, nên có cùng tận.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Giới thanh tịnh của Bồ-tát đều không có cùng tận. Vì sao? Vì ở trong giới ấy đã xuất sinh hết thảy giới, như gieo trồng không cùng tận thì quả cũng không cùng tận. Vì hạt giống Bồ-đề không thể tận, nên giới cấm của Như Lai cũng không có cùng tận.

Lại, thành tựu tu hành là xa lìa phiền não cấu uế của thân kiến. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do mười nghiệp đạo thiện của Bồ-tát đã xa lìa các cấu uế như ngã kiến v.v…, lúc đó gọi là nghiệp đạo thanh tịnh, thế nên Bồ-tát thành tựu tu hành. Tức như trong kinh kia đã nói: Giới thanh tịnh, đó là không chấp trước vào nẻo hý luận của tướng ngã v.v… Do vậy gọi là thành tựu tu hành.

Lại, thành tựu tu hành là do thành tựu hết thảy các thứ thanh tịnh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát tu hành tất cả chủng loại, tất cả quyến thuộc thanh tịnh của mười nghiệp đạo thiện. Lúc ấy, Bồ-tát gọi là thành tựu tu hành nghiệp đạo thiện, nên biết. Như trong kinh kia đã nêu rõ: Bồ-tát Vô Tận Ý nói: Chỉ có Tôn giả Xálợi-phất là giữ giới Bồ-tát với sáu mươi sáu sự thanh tịnh và việc tu trị cũng không thể cùng tận. Những gì là sáu mươi sáu sự? Đó là: (1) Đối với các chúng sinh khác không khởi não hại. (2) Đối với tài sản, vật dụng của người khác, không sinh tâm trộm cắp. (3) Đối với người nữ, vợ của kẻ khác, trọn không ngắm nhìn bất chánh. (4) Đối với các chúng sinh không hề lừa dối. (5) Trước hết không nói hai lưỡi đối với quyến thuộc của mình, biết dừng đúng lúc.

(6) Không nói lời thô ác, nhẫn nhục đối với kẻ hung dữ. (7) Không nói lời thêu dệt, thường nói khéo léo. (8) Đối với niềm vui của người khác không tham lam, ganh ghét. (9) Thứ nhất là không giận dữ, nên nhẫn nhục đối với lời nói thô ác. (10) Chánh kiến, không tà vạy theo đạo khác.

(11) Tin sâu đối với Phật, tâm không uế trược. (12) Tin thuận nơi pháp, học theo pháp thiện. (13) Tin kính nơi Tăng, tôn trọng Thánh chúng. (14) Năm vóc gieo sát đất vì tâm chí nhớ nghĩ đến Phật. (15) Năm vóc gieo sát đất vì suy nghĩ về chánh pháp.

(16) Năm vóc gieo sát đất vì tôn kính Tăng. (17) Giữ vững giới cấm, tất cả đều không phạm, cho đến một giới cấm nhỏ cũng không dám buông bỏ. (18) Trì giới không thiếu sót, không dựa vào thừa khác. (19) Giữ giới không để giới bị sót, mất, lìa sinh xứ ác. (20) Giữ giới không bỏ dở, không để các kiết xen lẫn.

(21) Giữ giới không cấu nhiễm, chuyên tăng trưởng pháp trắng. (22) Giữ giới sâu xa này, tùy ý hồi hướng được tự tại. (23) Giữ giới được tán thán, bậc trí không chê trách. (24) Giữ giới thuần thiện, nghĩ biết đúng đắn. (25) Giữ giới không bị chê trách, tất cả giới không tán loạn.

(26) Giữ giới khéo vững chắc, ngăn giữ các căn. (27) Giữ giới được tiếng khen, được chư Phật nhớ nghĩ đến. (28) Giữ giới biết đủ, không gì là không đầy đủ. (29) Giữ giới ít dục, đoạn dứt tham tiếc. (30) Giữ giới tánh tịnh, thân tâm tịch diệt.

(31) Giữ giới A-lan-nhã, lìa mọi ồn náo. (32) Giữ giới Thánh chủng, không cầu ý khác. (33) Giữ giới oai nghi, tất cả căn thiện đều được tự tại. (34) Giữ giới như ngôn thuyết, mọi người đều hoan hỷ.

1. Giữ giới tâm từ, bảo vệ chúng sinh.

2. Giữ giới tâm bi, có thể nhẫn chịu các khổ. (37) Giữ giới tâm hỷ, không hề biếng trễ. (38) Giữ giới tâm xả, lìa mọi sân, ái. (39) Giữ giới tự tỉnh giác, tâm khéo phân biệt. (40) Giữ giới không tìm kiếm lỗi lầm, thiếu sót, gìn giữ tâm của người khác.

(41) Giữ giới khéo gồm thâu, khéo hộ trì. (42) Giữ giới tuệ thí, giáo hóa chúng sinh. (43) Giữ giới nhẫn nhục, tâm không giận dữ gây trở ngại. (44) Giữ giới tinh tấn, không thoái chuyển trở lại. (45) Giữ giới thiền định, nuôi lớn các chi thiền.

(46) Giữ giới trí tuệ, đa văn về căn thiện không chán đủ. (47) Giữ giới đa văn, học rộng vững chắc. (48) Giữ giới thân cận tri thức thiện, hỗ trợ thành tựu Bồ-đề. (49) Giữ giới xa lìa tri thức ác, lìa bỏ nẻo ác. (50) Giữ giới không tiếc thân, quán tướng vô thường.

(51) Giữ giới không tiếc thọ mạng, siêng hành căn thiện. (52) Giữ giới không hối, tâm được thanh tịnh. (53) Giữ giới không tà mạng, tâm hành thanh tịnh. (54) Giữ giới không lo buồn, nên thanh tịnh rốt ráo. (55) Giữ giới không thiêu đốt, tu tập nghiệp hành thiện.

(56) Giữ giới không kiêu mạn, tâm khiêm tốn, không kiêu căng. (57) Giữ giới không dâm, xa lìa các dục. (58) Giữ giới không tự cao, tâm bình đẳng ngay thẳng. (59) Giữ giới nhu hòa, tâm không xung đột. (60) Giữ giới điều phục, không gây não hại.

(61) Giữ giới tịch diệt, tâm không cấu uế. (62) Giữ giới thuận ngữ nói làm luôn thuận hợp. (63) Giữ giới giáo hóa chúng sinh, không lìa nhiếp nháp. (64) Giữ giới bảo vệ chánh pháp, không trái với như thật. (65) Giữ giới thành tựu như tụng, tâm bình đẳng đối với các chúng sinh. (66) Giữ giới thân cận Đức Phật, nhập Tammuội Phật, đầy đủ tất cả pháp của chư Phật. Thế nên gọi là thành tựu tu hành.

Lại, thành tựu tu hành là do thành tựu quả không chung. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát thành tựu việc tu hành mười nghiệp đạo thiện thâu giữ tâm Bồ-đề. Vì nghĩa này nên khi Bồ-tát chứng được Bồ-đề, là thành quả không chung. Do vậy gọi là thành tựu tu hành, nên biết.

Như trong Kinh Thánh Giả Sa Già La Long Vương có đoạn nói: “Này Long vương! Người lìa sát sinh được mười thứ pháp thanh tịnh. Do lìa sát sinh nên tất cả căn thiện đều hồi hướng về quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Khi người đó chứng đắc Bồ-đề, tâm được tự tại, thọ mạng vô lượng”.

Hỏi: Nên nói về nghĩa của nghiệp đạo. Thế nào là nghĩa của nghiệp đạo?

Đáp: Sẽ nói tiếp. Nói như thế nào? Do tạo tác nên gọi là tướng của nghiệp. Tức nghiệp gọi là đạo, vì có thể dẫn tới địa ngục, nên gọi là nghiệp đạo.

Lại, bảy nghiệp của thân, miệng là tướng của tự thể, gọi là nghiệp đạo. Ba nghiệp còn lại là ý tương ưng với tâm.

Lại, tức các nghiệp đó có thể tạo ra đạo (đường, nẻo), nên gọi là nghiệp đạo. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Chỉ có tâm là nghiệp, bảy nghiệp của tâm kia cùng khởi, gọi là đạo. Ba nghiệp còn lại cùng tương ưng, gọi là nghiệp đạo.

Hỏi: Nếu nghiệp gọi là đạo, thì tất cả nghiệp đều có thể dẫn đến địa ngục v.v… vì sao ba nghiệp còn lại chẳng phải là nghiệp đạo?

Đáp: Như bảy nghiệp kia, ba nghiệp này có thể tạo cội rễ cho bảy nghiệp kia, do tương ưng với nhau. Vì không thể như bảy nghiệp kia, nên không gọi là nghiệp đạo.

Hỏi: Tất cả các hành xấu ác như tham mùi vị ngon, uống rượu, ăn thịt, dùng tay đánh đập, đùa cợt như thế v.v… Tất cả hành thiện như lễ bái, cung kính cúng dường, xa lìa uống rượu v.v… vì sao không gọi là nghiệp đạo?

Đáp: Xa lìa hành uống rượu v.v… chỉ là nghiệp của tâm, có thể khởi bảy nghiệp, không phải là nghiệp của thân và miệng, thế nên không phải là nghiệp đạo. Nếu tạo ra nghiệp tương ưng với tâm, thì cũng là nghiệp đạo.

Hỏi: Nếu nghiệp đó tức có thể tạo ra đạo, gọi là nghiệp đạo, thì tướng như thế cũng hiểu là nghiệp đạo. Tất cả pháp đối với tâm đều nên gọi là nghiệp đạo. Nếu như thế vì sao chỉ nói mười thứ nghiệp đạo, không nói là vô lượng nghiệp đạo?

Đáp: Do chú trọng chỗ vượt hơn. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do trong các hành ác cùng hành thiện thì mười nghiệp đạo là quan trọng, còn các hành khác không phải là quan trọng, nên không nói là vô lượng.

Hỏi: Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì nghiệp là bất định. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Hoặc phương tiện có xa gần là quan trọng, còn chính nghiệp thì không quan trọng, do đó không nên chỉ nói mười nghiệp là nghiệp đạo, không nói vô lượng.

Đáp: Không phải vậy. Vì sao? Vì mười nghiệp đa số là quan trọng, còn phương tiện gần, xa đa phần đều là nhẹ. Lại, chúng sinh ở thế gian phần nhiều đều sợ mười nghiệp, không sợ phương tiện gần xa. Lại, mười nghiệp đạo có thể tạo ra sự bức bách sâu nặng, còn những thứ khác thì không thể. Thế nên ông nói nghiệp là bất định, nghĩa này đã giải đáp. Lại, ông vừa nói: Tất cả pháp đối với tâm đều nên gọi là nghiệp đạo. Nghĩa này không đúng? Vì sao? Vì bảy nghiệp hoàn toàn là rất quan trọng. Ba nghiệp của ý thì cũng nhẹ, cũng nặng. Uống rượu v.v… thì không như thế. Do nghĩa này, nên chỉ nói mười nghiệp kia gọi là nghiệp đạo, không nói các nghiệp khác là nghiệp đạo.

Hỏi: Xa lìa sự giết hại chúng sinh, nên nói về tướng của sự giết hại chúng sinh?

Đáp: Giết hại chúng sinh có tám thứ. Những gì là tám?

  1. Cố tâm giết hại.
  2. Bảo người khác giết.
  3. Định, không định về tướng của chúng sinh.
  4. Tâm nghi.
  5. Khởi phương tiện để hủy bỏ mạng sống.
  6. Tạo tác.
  7. Tướng không tạo tác.
  8. Tướng vô tác.

Những tướng này gọi là nghiệp của thân giết hại chúng sinh. Nghiệp của thân, miệng, ý đều là sát sinh.

Về cố tâm giết hại:

Hỏi: Có người nói: Tâm không tạo ra sát sinh mà thành tội sát sinh. Ví như chạm vào lửa. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như lửa có thể đốt cháy, nếu cố tâm tiếp xúc hay không cố tâm tiếp xúc đều có thể bị đốt cháy. Giết hại chúng sinh cũng như thế. Hoặc cố tâm giết hại hay không cố tâm giết hại, thảy đều mắc tội báo sát sinh?

Đáp: Không phải thế. Vì sao? Nếu không cố tâm giết hại mà mắc tội báo thì A-la-hán không đạt được Niết-bàn. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Do A-la-hán đã đoạn nhân của thế gian. Có tâm không gây tạo mà giết hại chúng sinh, như thế cũng nên sinh trở lại nơi thế gian, nhưng thật ra không phải thế. Do nghĩa này, nên nếu không cố tâm giết hại thì không mắc phải tội báo. Lại, nói như lửa thì nghĩa đó không đúng. Vì sao? Do trong nghiệp ác không có tâm ác ngăn cách. Đây là biện minh về nghĩa gì? Cũng như lửa kia, củi và tro có ngăn cách với tiếp xúc v.v… nhưng không đốt cháy. Như thế, trong nghiệp ác kia không có tâm ác ngăn cách, nên tuy lại giết hại chúng sinh, nhưng không thể mang báo. Thế nên nghĩa của dụ về lửa là không tương ưng.

Hỏi: Thế nào là người chết chịu khổ mà người sát sinh không mắc phải tội báo?

Đáp: Vì do tâm không hoại. Lại, nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì có khi xa lìa sức bức não chúng sinh lại có tội, xa lìa sự tạo lợi ích cho chúng sinh lại có phước. Như đoạn dứt căn thiện, từ bi vô tránh, định diệt tận v.v… đều vừa mắc tội, vừa được phước.

Hỏi: Vì sao gọi là bảo người khác giết?

Đáp: Vì không phải là thân mạng của mình.

Hỏi: Do nghĩa gì tự đoạn mạng mình không mắc tội báo?

Đáp: Do không thể giết mà giết. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Nếu có người khác là người có thể giết. Người có thể giết chết mạng sống thì mắc tội sát sinh. Do kẻ tự sát không có đối tượng để có thể giết hại, tức lại không có kẻ giết hại. Do không có người giết hại, nên tự đoạn thân mình, không mắc báo ác. Lại, ấm quá khứ không nối tiếp với ấm sát sinh này v.v… Thế nên, kẻ tự sát không mắc tội sát hại.

Hỏi: Kẻ tự sát thân, khởi sự nơi tâm là giết hại, đoạn mạng căn của con người, là đã phá hoại năm ấm, đã lìa bỏ cõi người, là tạo thành nghiệp giết hại. Vì sao không mắc tội báo sát sinh?

Đáp: Nếu thế, thì người A-la-hán nên mắc tội giết hại hay sao? Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do tướng chết của La-hán là tự hại thân, đoạn mạng sống của mình, nên A-la-hán kia cũng phải mắc tội đoạn dứt mạng sống, nhưng họ không có tội. Vì sao? Vì A-la-hán đã xa lìa tâm giận dữ v.v… Thế nên tự sát không mắc tội sát sinh.

Lại, định, không định về tướng của chúng sinh: Là tướng của chúng sinh định, tướng của chúng sinh không định, tức tướng của các chúng sinh ấy gọi là tướng của chúng sinh định, không định. Lại, tướng của chúng sinh định thì có trăm ngàn người khởi tâm, ở đó định giết chết người kia. Đó gọi là định. Hoặc giết người kia để thành tội giết hại. Hoặc giết một người khác mà không mắc tội giết hại. Không định nghĩa là do lìa bỏ tất cả, nên tùy sự giết hại mà mắc tội, do ở xứ ấy không lìa tướng chúng sinh.

Tâm nghi ngờ: Là tâm ngờ vực về sát sinh cũng phạm tội giết hại, do kẻ ấy là chúng sinh đã rời bỏ chúng sinh. Tâm tuy nghi nhưng vì bỏ tâm từ bi để sát hại chúng sinh, nên phạm tội sát sinh.

Khởi phương tiện để hủy bỏ mạng sống: Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Nếu người giết hại ở trong sự việc kia khởi tâm bất thiện, tất muốn đoạn mạng căn của chúng sinh ấy. Đó không phải là tâm từ bi, mà là tâm không ngăn chận tội sát hại, bỏ tâm chúng sinh, tạo phương tiện sát hại. Đó gọi là khởi.

Tạo tác, tướng không tạo tác, tướng vô tác: Tạo tác là sự việc đã gây tạo. Không tạo tác là không gây tạo sự việc, nhưng sự việc hành tác kia cùng khởi, tuy nghiệp giết hại đã diệt, nhưng pháp thiện, vô ký vẫn nối tiếp không dứt.

Hỏi: Thế nào là không tạo tác mà gọi là nghiệp?

Đáp: Do có thể cùng tạo nhân cho việc gây tội và cùng tạo nhân cho việc nhận quả. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì xứ xứ đều có trong nhân nói quả, trong quả nói nhân.

Như trong kinh, Đức Như Lai nói: Có thể thấy, có thể tiếp xúc, gọi là sắc không tạo tác. Do tạo tác không thể thấy, không thể tiếp xúc. Nhưng tạo tác gọi là có thể thấy, có thể tiếp xúc. Do người kia không tạo tác gọi là có thể thấy, có thể tiếp xúc. Như thế, nơi xứ kia, hoặc là thân, hoặc là sự việc dựa vào thân, dùng đao gậy v.v… để sát sinh, gọi là tạo tác, không tạo tác. Được gọi là nghiệp thân.

Lại, như người Tự tại miệng ra lệnh giết Tiên nhân, do có tâm giận dữ muốn giết hại chúng sinh. Sứ giả nhận lệnh, dựa vào khẩu lệnh của người Tự tại mà giết hại tín Tiên. Dạ-xoa dựa nơi tâm giận dữ của Tiên nhân mà giết hại chúng sinh. Người Tự tại kia cùng Tiên nhân đồng tạo ra nhân sát sinh. Kẻ được sai khiến, Dạ-xoa, khi thân nghiệp hình thành thì người Tự tại kia và Tiên nhân đều thành thân nghiệp không tạo tác.

Lại, như người thọ giới, lúc sắp thọ giới, thân động miệng nói, đến khi thọ giới thì đứng yên lặng, thân miệng không động. Thầy hành pháp yết-ma xong, người thọ giới kia thành tựu nghiệp thân không tạo tác. Sự việc ở đây cũng như thế. Lại, như sự việc của nghiệp miệng. Nhưng miệng không nói, chỉ biểu lộ bằng cử chỉ, như gật đầu, nháy mắt, nhướng mày, đưa tay lên. Các tướng như vậy biểu hiện nơi sự việc trước cũng được thành tựu nghiệp miệng không tạo tác.

Lại, hợp thân tạo nghiệp, nhưng thân không động, miệng nói vô số phương tiện tạo nghiệp của thân. Lúc sự việc đó hoàn thành, cũng được thành tựu nghiệp thân không tạo tác.

Có người nói: Miệng, ý cũng được tạo thành nghiệp sát sinh. Nghiệp sát sinh này là nghiệp của ý, miệng, không phải là nghiệp của thân. Tuy có lời này, nhưng nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì nếu tức khi miệng nói tâm nghĩ, thành sát sinh, thì đó có thể là nghiệp miệng, có thể là nghiệp ý. Điều này nhằm làm rõ về nghĩa gì? Nếu miệng và ý là thể của nghiệp sát, thì người Tự tại ra lệnh giết chúng sinh kia, tâm của Tiên nhân cũng nghĩ đến sự giết chết chúng sinh kia. Tức khi lệnh và niệm hiện hành thì mạng sống của chúng sinh kia phải chấm dứt. Nhưng sự việc này không như thế. Do kẻ được sai khiến kia tin nơi Tiên nhân, còn thân nghiệp của Dạ-xoa lúc thành là thành sự sát sinh. Nếu không như thế, thì khi người Tự tại kia miệng nói giết đi, và lúc Tiên nhân kia tâm nổi giận, tức nên thành sát sinh, nhưng thật sự là không thành.

Lại còn có lỗi. Vì người Tự tại kia tuy miệng ra lệnh sát sinh, nhưng kẻ được sai khiến chưa kịp giết hại. Người Tự tại kia chứng được kiến đạo, còn kẻ nhận lệnh sau đấy mới sát sinh. Nếu miệng vừa ra lệnh giết xong mà thành sát sinh, thì chứng quả kiến đạo rồi, sau đó là sát sinh, nhưng nghĩa này không phải thế, do được xa lìa nhân sát sinh cùng tâm ác phá giới v.v… Thế nên, không dùng hai nghiệp miệng và ý làm thể của sát sinh. Vì sao? Vì nghiệp không sai biệt. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì tướng của nghiệp thiện, bất thiện và vô ký v.v… mỗi thứ đều khác nhau. Do tướng không sai biệt, thế nên nghiệp của thân, miệng, ý tức không sai bịêt. Nhưng vì phương tiện xa gần nên thân miệng ý thành nghiệp sát sinh. Đây tức không ngăn được.

Hỏi: Miệng nói giết hại, thì nghiệp sát đã thành trọn vẹn hay chưa?

Đáp: Chưa thành. Vì sao? Vì vượt quá thời gian. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Là do những thời gian nào? Do những phương tiện nào? Do những nơi chốn nào? Khi người giết hại kia đã vượt quá thời gian, nơi chốn v.v… như từ nơi người ấy đã nói.

Người giết hại thì mắc tội, người bảo giết hại không có tội. Nghiệp của thân là dựa vào thân để tạo nghiệp, gọi là thân nghiệp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Dựa nơi thân để tạo nghiệp, tùy theo thân đã tạo, gọi là thân nghiệp.

Hỏi: Không mạng để có thể giết. Vì sao đoạn thân mạng là mắc tội sát sinh?

Đáp: Tuy không có thân mạng thật, nhưng đoạn dứt thể hòa hợp vẫn gọi là sát sinh. Như chặt cây rừng, tắt tim đèn v.v… Nếu có thần ngã thì thần ngã ấy là thường còn, không có nghĩa sát sinh.

Hỏi: Gây tổn hại những ấm nào gọi là giết? Hại trong quá khứ, hại nơi vị lai, hay hại trong hiện tại. Nếu giết hại trong quá khứ, thì quá khứ đã diệt. Nếu giết hại nơi vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu giết hại ngay nơi hiện tại thì trong hiện tại sát-na không dừng?

Đáp: Có người nói: Trụ nơi đời hiện tại thì hoại diệt, còn đời vị lai thì thể của ấm hòa hợp.

Lại có người nêu: Hoại nơi cả đời vị lai và hiện tại. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do trong ấm hiện tại đao gậy có thể dẫn đến, có thể tạo sự giết hại.

Lại có người cho: Năm ấm tự diệt, không phải nhân duyên diệt.

Lại có người nói: Trong ấm hiện tại, chỉ hủy hoại sắc ấm. Do đao, gậy v.v… có thể cắt đứt, có thể va chạm. Bốn ấm kia thì không thể cắt đứt, chạm.

Lại có người nêu: Giết hại cả năm ấm. Bốn ấm kia tuy tự nó không thể va chạm, nhưng dựa vào sắc ấm để trụ. Sắc ấm đã hoại thì bốn ấm kia cũng hoại theo. Như chiếc bình đã vỡ thì nước hay sữa cũng mất.

Lại có người cho: Chỉ giết hại ấm vô ký, do trong ấm vô ký, đao, gậy có thể va chạm, do không va chạm, ấm có hai thứ, tất cả nghiệp có ba thứ, như trước đây đã nói, nên biết.

Hỏi: Trong kinh, Đức Như Lai có nói: Có hai thứ nghiệp: Một là nghiệp sinh khởi. Hai là nghiệp tạo tác. Hai thứ nghiệp này nói rộng thì có ba, là nghiệp thân, miệng và ý. Ba thứ nghiệp này sai biệt như thế nào? Từ nơi chỗ dựa mà nói, hay là từ nơi thể mà nói, hay là từ nơi phát sinh mà nói? Nếu từ nơi chỗ dựa mà nói, tức là một nghiệp, do tất cả nghiệp đều nương dựa nơi thân. Nếu từ nơi thể mà nói, tức là một nghiệp, do tất cả nghiệp chỉ là khẩu nghiệp. Nếu từ nơi phát sinh mà nói, tức là một nghiệp, do tất cả nghiệp đều từ tâm phát sinh.

Đáp: Dựa nơi ba thứ lớp có ba thứ nghiệp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do tâm suy nghĩa tức là nghiệp của tâm. Dựa nơi nghiệp của tâm ấy khởi nghiệp của thân, miệng. Do nương dựa nơi tâm, nên khởi nghiệp của thân và miệng, theo thứ lớp như thế, nên biết.

Có tạo tác hay không tạo tác, nên biết. Nghiệp thân và miệng có sai khác, nên biết. Lại, thân nghiệp tạo tác là dựa vào oai nghi của thân. Nương dựa vào thân để tạo ra vô số hình tướng kia. Đó gọi là nghiệp do thân tạo.

Hỏi: Do thân có đi, lại, có động, chuyển, nên gọi là thân nghiệp. Vậy nếu không đi, không lại, không gọi là nghiệp chăng?

Đáp: Nếu nói đi, lại là thân nghiệp, việc này không đúng. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu vi trong từng sát-na không trụ. Sát-na không trụ ấy theo nơi chốn nào diệt? Đã không đi, không đến, thì sao nói là đi, đến, động, chuyển, gọi là nghiệp của thân.

Hỏi: Nghĩa này không phải thế. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp trong từng sát-na đều không dừng, có thể nói như thế, nhưng cũng thấy có pháp dừng lại trong sát-na không phải là không dừng. Vậy sao nói là không đi, không đến?

Đáp: Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Do pháp hữu vi hoàn toàn không trụ. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Vì tất cả các pháp hữu vi kia đều không nhân, không duyên, tự nhiên mà diệt. Đây lại là nghĩa gì? Do pháp có thể tạo tác là có nhân duyên, nhưng diệt. Pháp tức là không vật, nếu không vật thì pháp kia không tạo. Do pháp hữu vi không nhân, không duyên, tự nhiên diệt. Nếu chính lúc pháp sinh, không diệt, thì về sau cũng không nên diệt. Nếu không diệt thì nhất định là thật. Nếu nhất định là thật, thì không nên đổi khác. Nếu như thế thì không nên theo nhân duyên diệt kia mà diệt.

Hỏi: Tôi thấy có pháp đã từ nhân duyên diệt. Các pháp như củi v.v… đều từ nhân duyên như lửa v.v… kia mà diệt. Trong tất cả lượng thì lượng hiện thấy là hơn hết. Do nghĩa này nên tất cả pháp đều từ nơi nhân duyên diệt?

Đáp: Làm sao nhận biết các pháp như củi v.v… đều dựa vào nhân duyên như lửa v.v… mà diệt? Tôi đã nói không nhân, tự nhiên mà diệt. Người này nên suy nghĩ: Vì nhân nơi lửa v.v…, các pháp như củi v.v… diệt, nên không thấy chăng? Hay là không nhân duyên, tự nhiên diệt nên không thấy chăng? Nghĩa này là thế nào? Nhân duyên vốn nối tiếp diệt, cái khác lại không sinh, thế nên không thấy, không phải là nhân duyên diệt, như gió thổi tắt đèn, tay làm dứt tiếng chuông rung. Những sự nhận biết như thế là do trí so sánh nhận biết.

Đã nói không phải là sự việc có thể tạo ra. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Nếu có một pháp từ nhân duyên diệt, nên tất cả pháp đều từ nhân duyên diệt, nên không có pháp nào không phải từ nhân duyên diệt. Cũng như pháp sinh, tất cả thảy đều từ nhân duyên sinh, không có pháp sinh nào không từ nhân duyên. Như tâm, âm thanh, ngọn lửa, không phải do nhân duyên diệt, do chúng không chờ đợi nhân duyên mới diệt.

Hỏi: Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì tâm sau sinh thì tâm trước diệt, âm thanh sau phát ra thì âm thanh trước diệt, do pháp trước đợi pháp sau, thế nên biết được chúng đều từ nhân duyên diệt?

Đáp: Nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì tâm và âm thanh kia không chờ đợi. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Do nhận biết có nghi nên nhận biết về quyết định. Hai pháp không cùng nhau như khổ, vui, tham, giận đều cũng như thế. Lại, do tâm và âm thanh trước thì nhanh, tâm và âm thanh sau chậm, vậy làm sao tâm và âm thanh không nhanh có thể gây tổn hại cho tâm và âm thanh nhanh kia được? Thế nên, pháp diệt không từ nhân duyên.

Hỏi: Tuy chiếc đèn và ngọn lửa niệm niệm không trụ, do không nhân trụ mà có pháp diệt và phi pháp diệt. Dựa vào pháp diệt kia mà diệt ngọn đèn cháy. Thế nên, phải dựa vào nhân duyên mà diệt?

Đáp: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì do pháp không vật, làm sao có thể tạo ra nhân diệt. Lại, nhân sinh pháp diệt, không phải là pháp sát-na không trụ. Trong từng tâm sát-na, tâm sát-na hoàn toàn không thể làm nhân sinh, nhân diệt. Như vậy, tất cả các pháp hữu vi đều không từ nhân duyên diệt, nên biết.

Lại, như đã giải đáp, nếu dựa vào lửa v.v… có thể làm nhân diệt cho củi v.v…, như vậy, nhân sinh tức là nhân diệt. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Dựa vào những ngọn lửa nào, xuất sinh các sắc nào? Tức ngọn lửa kia có thể tạo ra sự nấu chín rất tốt, sự nung chín đó tạo thành nhân diệt. Vì thế, nên chính nhân sinh là nhân diệt, lại không có nhân khác. Nhưng nghĩa này không như thế. Làm sao một pháp ấy có thể khiến pháp sinh, có thể khiến pháp diệt.

Lại, nhân sai biệt như thế trong mỗi mỗi dị biệt của ngọn lửa, đều do phân biệt hư vọng, như nhân tro, nước ép, rượu đắng, tuyết, mặt trời, đất, nước, lúa gạo có thể sinh những màu sắc của sự nấu chín khác nhau ở nơi đó, làm sao phân biệt.

Hỏi: Không đúng. Vì sao? Vì lửa đun nước, nước do lửa mà cạn, vậy lửa là nhân diệt chăng?

Đáp: Như vừa mới giải thích, làm thế nào nhận biết được nước là nhân nơi lửa mà cạn, không phải tự nhiên cạn.

Hỏi: Nếu thế thì lửa là do cái gì tạo ra?

Đáp: Cảnh giới của lửa tăng thượng, dựa vào lực của lửa kia, lực của nước yếu dần, cho đến thời gian sau này, thể của nước nối tiếp đoạn dứt không khởi. Lửa ấy được tạo ra không phải là lửa đã diệt. Thế nên tất cả pháp hữu vi tự nhiên diệt, không nhân duyên diệt. Do pháp diệt kia sát-na không trụ, nên liền diệt. Thành tựu các pháp không trụ trong sát-na như thế. Do sát-na không trụ, nên pháp này không đi đến xứ kia.

Hỏi: Tôi ở xứ khác cũng thấy pháp này. Nếu pháp không đi, làm sao có thể ở xứ khác thấy và ở xứ khác nhận biết?

Đáp: Như cỏ và ngọn lửa cháy, thế nên không đi. Do đó, thân oai nghi gọi là thân tạo pháp. Nghĩa này đã thành, không phải cho là khác với thân, riêng có pháp thật. Như một phương sinh sắc, gọi là sắc dài. Dựa vào sắc dài đó, lại thấy sắc khác, gọi là sắc ngắn. Dựa nơi bốn phương, nên thấy sắc của bốn phương, Nương dựa vào vật tròn, nên gọi là sắc tròn.

Như vậy là có các sắc dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp. Ví như kéo một cục lửa đi thẳng không đoạn, không dứt, sẽ thấy lửa nối tiếp gọi là lửa dài. Nếu khối lửa ấy tiếp tục đi vòng quanh không đoạn, không dứt, gọi là lửa tròn. Tùy theo những thứ chuyển đổi mà thấy nhiều thứ hình dáng khác nhau của ngọn lửa.

Như vậy lìa lửa thì không riêng có hình tướng nơi pháp thật. Nếu lìa lửa, ngoài ra còn có pháp hình tướng tức nên có hai tướng dò xét nhau. Nhãn căn thì thấy thân dài, xúc căn thì thấy thân ngắn. Vì một sắc nhập, chẳng phải là hai căn thấy, giống như pháp tiếp xúc dài, ngắn v.v… Trong sắc như vậy nên biết.

Pháp tiếp xúc chỉ là tâm, không phải là căn hiện tại có thể nắm bắt, có thể nhận biết. Như thấy màu sắc ngọn lửa, trong xúc sinh nhớ nghĩ, nhận biết. Như ngửi mùi thơm của hoa, trong sắc sinh niệm. Pháp này nên như thế, dựa vào pháp khác, nhớ nghĩ pháp khác mà không có một pháp xúc chạm. Ở trong oai nghi, thật có dựa nơi pháp tiếp xúc có được pháp khác. Thế nên không thật có pháp oai nghi của thân.

Hỏi: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì như trong đêm tối lờ mờ, thấy từ xa hình sắc của bức tường đất hoặc dài hay ngắn, sự việc này nên là thật?

Đáp: Chỉ thấy màu sắc lờ mờ mà phân biệt hư vọng về các màu sắc, hình dáng dài ngắn v.v… không khác như con kiến cùng thấy mình đang đi, cùng thấy vây quanh. Sự việc này cũng như thế. Cái khác với oai nghi của thân lại không có pháp thật, chỉ có oai nghi của thân mới gọi là pháp tạo tác. Không lìa ngoài thân, có riêng pháp tạo tác. Như vừa nói tâm tư duy, là trong tâm tạo ra sự phân biệt về ta như thế, như thế, có thể sinh ra nghiệp của thân, miệng, gọi là nghiệp của tâm. Nếu thân đã tạo gọi là nghiệp của thân. Nếu miệng đã tạo gọi là nghiệp của miệng, không riêng có pháp thật nào khác với ba nghiệp.

Hỏi: Khác với nghiệp của thân, miệng, thật có pháp riêng. Vì sao? Vì có ba thứ sắc vô cấu được tăng trưởng, không tạo ra nghiệp đạo v.v… Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như trong kinh, Đức Như Lai có nói: “Sắc gồm ba thứ: (1) Có sắc có thể thấy, có thể ngăn ngại. (2) Có sắc không thể thấy, có thể ngăn ngại. (3) Có sắc không thể thấy, không thể ngăn ngại”.

Sắc vô cấu nghĩa là sắc vô lậu. Thế nào là sắc vô lậu? Sắc vô lậu nghĩa là pháp vô lậu. Thế nào là pháp vô lậu? Nghĩa là ở trong sắc quá khứ, hiện tại, vị lai, không sinh tâm sân, ái. Cho đến trong thức không sinh sân giận, tham ái. Do nghĩa này nên gọi là pháp vô lậu. Nếu như thế lìa pháp không tạo tác, ở xứ nào có sắc không thể thấy, không thể gây trở ngại. Là vô lậu. Nên nhận biết tức có pháp không tạo tác lìa sự tăng trưởng của nghiệp thân, miệng, ý. Trong kinh, Đức Như Lai có nói: Người có tâm tin, là những thiện nam, thiện nữ tu hành bảy thứ công đức, ngày đêm thường sinh công đức, tăng trưởng công đức, trong các hành đi, đứng, ngủ, thức v.v… Nếu lìa nghiệp của thân, miệng lại không còn không tạo tác, làm sao pháp của tâm khác có thể tăng trưởng được? Thế nên phải biết, lìa nghiệp của thân, miệng để có pháp không tạo tác.

Lại, tự không tạo nghiệp mà bảo người khác tạo nghiệp, nếu không có không tạo tác nghiệp này làm sao thành?

Lại nữa, không phải chỉ sai khiến người tạo nghiệp tức được gọi là thành tựu nghiệp đạo, do nghiệp kia chưa thành. Lại còn có lỗi là tuy tạo nghiệp nhưng chưa có thật thể thành tựu. Do như trong kinh, Đức Như Lai có nói: “Các Tỳ-kheo! Ngoại nhập có mười một nhập, không gồm thâu không thể thấy, không thể ngăn ngại, mà không nói là không phải sắc”. Đây do nghĩa gì nên lại nói thế? Do Đức Như Lai thấy trong pháp nhập gồm thâu sắc không tạo tác, nên mới nói như thế.

Lại có người nêu vấn nạn: Nếu không có pháp không tạo tác cũng nên không có tám Thánh đạo, do trong định không có chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Nên biết, nhất định có pháp không tạo tác.

Lại có vấn nạn: Nếu không có pháp không tạo tác, thì lìa Ba-lađề-mộc-xoa cũng nên không có giới không tạo tác, vì sau khi thọ giới xong, tức là không tạo tác. Như trong lúc ngủ nghỉ và những người mất trí do điên loạn v.v… cũng gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Do đó nên biết nhất định có pháp không tạo tác.

Lại có kinh, trong đó Đức Như Lai nói: Lìa bỏ chỗ chính yếu của phá giới. Nếu không có pháp không tạo tác sao lại nói xa lìa chỗ chính yếu của phá giới. Thế nên phải biết là có pháp không tạo tác.

Đáp: Vấn nạn này thật phức tạp. Tuy dùng nhiều lời lẽ để nêu bày, nhưng về nghĩa đều không đúng. Vì sao? Vì ông vừa dẫn lời Đức Như Lai nói trong kinh có ba thứ sắc, nhưng lại không hiểu ý của Như Lai nơi kinh. Nghĩa này là thế nào? Tất cả lực thiền định của Thánh nhân, nhận thấy sắc của cảnh giới Tam-muội, dựa nơi lực của Tam-muội mà sinh sắc kia. Vì sắc kia không phải là cảnh giới của nhãn căn, nên không thể thấy. Tất cả vật còn lại đã không có khả năng ngăn ngại nên không thể ngăn ngại.

Hỏi: Nếu nói không phải là cảnh giới của nhãn căn, nên không thể ngăn ngại, thì sao gọi là sắc?

Đáp: Ông đã lìa tâm ý về có sắc không tạo tác. Vì sao được gọi là sắc không tạo tác? Lại đáp: Sắc này mới thật là sắc nơi Tam-muội của trí Thánh thuộc cảnh giới vô lậu, không đồng với sắc hữu lậu của thế gian.

Lại, nói sắc vô lậu, tức là dựa vào sắc của lực thiền định, Tammuội kia, được gọi là vô cấu. Thánh nhân đã ở trong Tam-muội vô lậu nên nói là pháp vô lậu.

Lại có người nói: “Sắc của A-la-hán cùng với sắc bên ngoài, đều gọi là vô lậu, do đã lìa pháp hữu lậu”.

Tôi không chấp nhận nghĩa này.

Lại, tăng trưởng công đức, nghĩa này là thế nào? Vì pháp như thế. Như thế như thế thí chủ dâng thí vật, thường thường thọ dụng.

Như thế như thế thường xuyên thọ dụng, là dựa vào lực công đức của người thọ dụng, nên dù thí chủ có tâm niệm khác nhưng vẫn dựa nơi tâm niệm gốc, thể nối tiếp tu tập một cách tỉ mỉ, chín chắn, thì càng thù thắng. Do chuyển biến tốt đẹp, nên ở đời vị lai sẽ thành tựu được nhiều quả phước đức.

Dựa vào nghĩa này, nên Đức Như Lai nói: Sinh nhiều công đức, tăng trưởng công đức, chẳng phải lìa tâm, lìa sắc mà có pháp không tạo tác.

Hỏi: Thế nào là thân tâm khác, dựa vào thân tâm khác? Trong thân tâm khác, nối tiếp chuyển biến vi tế, tăng trưởng phước đức?

Đáp: Thế nào là thân tâm khác dựa vào thân tâm khác? Trong thân tâm khác có pháp không tạo tác. Lại đáp: Nhưng nghĩa này không đúng. Tôi dựa nơi nghiệp của thân, tâm và nghiệp của miệng nên có được công đức thiện, ác. Dựa nơi tâm gốc, tạo ra tâm gốc không mất, thể luôn tương tục, kể cả các trường hợp ngủ nghỉ, điên loạn v.v… thường được tăng trưởng. Không tạo tác là tự mình không tạo, lại sai người khác tạo, làm sao thành được nghiệp đạo. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Vì dựa vào kẻ được sai khiến dấy khởi pháp giết hại chúng sinh kia. Thế nên, thể nối tiếp vi tế của kẻ được sai khiến kia càng chuyển biến sinh thô. Do nghĩa này nên có thể phát sinh nhiều lỗi lầm trong đời vị lai. Cũng lại không chỉ kẻ được sai khiến tạo ác, mà người tự tạo ác và việc tạo ác đã xong, trong đời vị lai cũng sinh nhiều lỗi lầm. Thế nên, ở trong đời vị lai thân thể nối tiếp chuyển sinh, gọi là nghiệp đạo, do ở trong nhân đã nêu rõ về nghĩa của quả. Xa lìa chỗ chính yếu của phá giới: Ông nay vì có bệnh điên loạn nên mới nêu bày như thế chăng? Nếu thật sự có bệnh ấy, thì hãy mau tìm Trần tô mà uống cho chóng khỏi, không nên nói vô số những lời phi pháp.

Hỏi: Vì sao chỉ thêm cho tôi có pháp không tạo tác, mà ông tự lập từ tâm khởi thể tương tục vi tế, có pháp tăng trưởng?

Đáp: Tôi không thêm cho ông có pháp không tạo tác. Nhưng pháp ông đã nói không có nghĩa như thế. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do dựa nơi tâm nên thân, miệng hành sự. Khi công việc xong là đã thành nghiệp đạo. Ông hiện có pháp lìa tâm, thân, miệng. Ở trong pháp Phật không có nghĩa như thế. Các pháp như Vi trần, Thế tánh, Thời, Phương v.v… của Ni-kiền-tử thì lìa tâm mà có.

Các pháp như không có tâm thiện, ác như thế, thì bậc trí không chấp nhận, thế nên không lập việc lìa nơi sắc, tâm, ngoài thân, miệng có pháp không tạo tác.

HẾT – QUYỂN 4

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9