LUẬN KINH DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 7

Hỏi: Nên nói về nghĩa của hồi hướng cùng nghĩa của phương tiện. Thế nào là nghĩa của hồi hướng? Thế nào là nghĩa của phương tiện?

Đáp: Nếu xoay chuyển các công đức của căn thiện có được ở xứ khác, hướng về Bồ-đề Phật, đó gọi là hồi hướng.

Lại, dựa nơi Bồ-đề Phật, khởi tâm tu hành vô lượng thứ môn, nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ, đều tập hợp các căn thiện. Vì nhằm chứng đắc Nhất thiết chủng trí, nên dựa vào cảnh giới Bát-nhã của thế đế, tạo phương tiện hồi hướng, khiến các thứ đều chuyển theo. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đều dựa vào cảnh giới Bátnhã của thế đế, nhận biết nhân giống quả, tu nhân hữu lượng, tâm sâu xa thành tựu công đức nơi đạo bất cộng của Bồ-tát, tăng trưởng pháp thù thắng, đặt trong vô lượng quả báo. Thế nên gọi là phương tiện hồi hướng.

Lại, do hồi hướng Đồng, Thắng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Lược nói là Đại Bồ-tát có hai thứ hồi hướng. Đó là:

  1. Đồng hồi hướng.
  2. Thắng hồi hướng.

Đồng hồi hướng: Là tất cả căn thiện thảy đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí.

Thắng hồi hướng: Như trong Kinh Vô Tận Ý, phần Bố thí quả có đoạn nói: Cần ăn thì cho ăn để có đầy đủ năm thứ quả báo: mạng sống, biện tài, sắc đẹp, năng lực, niềm vui. Cần uống cho uống, để lìa bỏ các khát ái. Như thế, thí y phục thì được sắc đẹp. Thí xe cộ thì được an vui, thí đèn thì được mắt sáng, thí âm nhạc thì được thiên nhĩ thanh tịnh. Như thế, cho đến thí cho cả tủy não nên được thân kim cang kiên cố, không tan hoại v.v…

Lại, Đồng hồi hướng là ban cho tất cả chúng sinh an vui. Thắng hồi hướng là đối với người chưa có tâm tin, thì khiến có tâm tin. Nếu có người phá giới thì khiến họ trì giới. Người không có văn tuệ thì khiến họ đạt được văn tuệ. Người biếng trễ thì giúp họ được tinh tấn. Người hay quên thì giúp họ nhớ giữ. Người tâm tán loạn thì khiến họ được thiền định. Người không có trí tuệ thì giúp đạt được trí tuệ. Người keo kiệt tham tiếc thì giúp khiến thành tựu tâm xả v.v…

Lại, Đồng hồi hướng là hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Thắng hồi hướng là vì xả bỏ các sự việc bên ngoài. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đạt được sự giàu có lớn, nhiều của cải, nên Bồ-tát xả thí tất cả chi phần như tay chân v.v… kể cả các căn, vì muốn cho hết thảy chúng sinh đều đầy đủ tay chân, các căn v.v…

Các thứ hồi hướng như thế v.v… đều được nói rộng trong tất cả các kinh, nên biết.

Lại, Bồ-tát vì muốn làm thanh tịnh cõi nước của chư Phật nên hồi hướng. Nghĩa này là thế nào? Bồ-tát vì muốn làm thanh tịnh bốn thứ nghĩa, nên đối với các pháp trắng như bố thí v.v… đều hồi hướng về Bồ-đề Phật. Những gì là bốn thứ nghĩa? Đó là: (1) Muốn làm thanh tịnh cõi nước của chư Phật. (2) Muốn làm thanh tịnh tâm Bồ-đề. (3) Muốn giáo hóa khiến tâm của chúng sinh được thuần thục, thanh tịnh. (4) Muốn làm thanh tịnh tất cả pháp Phật. Vì không mong đạt được ngôi vị ở thế gian nên Bồ-tát hồi hướng. Không vì cầu an lạc cho tự thân, nên Bồ-tát hồi hướng. Không vì nhận lấy quả vị Thanh văn, Phật-bích-chi nên Bồ-tát hồi hướng.

Lại, các pháp bố thí được thực hiện để hồi hướng, để xa lìa hết các nhân, là do các Bồ-tát đã nhận lấy nhân của Nhất thiết chủng trí, nên khéo nhận biết phương tiện hồi hướng.

Lại, Bồ-tát có bốn thứ sự việc nếu hành thí thì làm tiêu tan hết các công đức: (1) Không hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. (2) Cầu sinh vào cõi trời, người ở thế gian. (3) Không có phương tiện hồi hướng. (4) Gần gũi tri thức ác. Như thế, tất cả căn thiện có được từ hành thí của Bồ-tát đều mất hết.

Nếu Bồ-tát hành bố thí v.v… có ba thứ pháp thường hiện tiền, bấy giờ các công đức như bố thí v.v… của Bồ-tát nhằm xa lìa hết các nhân, có thể thành tựu Nhất thiết chủng trí. Ba pháp đó là: (1) Chánh biến tri về tâm Bồ-đề. (2) Thương xót chúng sinh. (3) Không trái với lời dạy của Như Lai.

Lại, do thâu nhận phương tiện. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát, cho đến chỉ thâu giữ chút ít căn thiện cũng có thể thành tựu được quả rộng lớn. Là do các chúng sinh ở thế gian hành bố thí, chỉ nhận lấy quả báo của cõi trời, người. Còn các Đại Bồ-tát hành bố thí là nhằm nhận lấy Bồ-đề Phật. Thế nên Bồ-tát thành tựu phương tiện hồi hướng.

Như trong Kinh Phương Tiện, Đức Như Lai có nói: Này Thiện nam! Đại Bồ-tát dùng trí phương tiện, cho đến đem một bữa ăn để thí cho một người, tức có thể bố thí đầy đủ cho khắp các chúng sinh. Vì sao? Vì Bồ-tát có trí tuệ phương tiện, nên dùng một bữa ăn, cho đến đem thí cho loài súc sinh, nhưng tâm Bồ-tát luôn nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh, lại đem căn thiện đó đều nguyện hồi hướng về Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát bố thí vì hai thứ việc, thế nên bố thí cho các chúng sinh: (1) Cầu địa Nhất thiết trí. (2) Hồi hướng về Đại Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện nam! Đại Bồ-tát dùng sức của phương tiện nên lúc hành bố thí đều đã hành đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì khi nhìn thấy kẻ đến cầu xin, các Đại Bồ-tát đã tự điều phục tâm keo kiệt, ganh ghét, tăng trưởng tâm đại xả, nên thành tựu được Bố thí Ba-la-mật.

Lại, các Bồ-tát do tự thân trì giới bố thí cho người trì giới, nếu có người phá giới, đều giúp họ thành tựu trì giới. Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Trì giới Ba-la-mật.

Lại, các Bồ-tát hành bố thí với tâm từ, tâm không giận và tâm định. Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Nhẫn nhục Ba-la-mật.

Lại, các Bồ-tát bố thí vô số các thức ăn uống đủ loại mềm, cứng v.v… với ba nghiệp thân miệng ý tới lui tiến dừng thuận hợp. Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật.

Lại, các Bồ-tát lúc hành bố thí, đều chuyên tâm nơi một niệm, hoan hỷ không tán loạn, không mong cầu việc gì khác. Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Thiền Ba-la-mật.

Lại, các Bồ-tát lúc hành bố thí, đều quán xét pháp tướng: Cái gì là có thể xả bỏ? Cái gì là có thể thọ nhận? Người nào sẽ nhận quả báo? Bồ-tát quán xét như thế và không thấy một pháp nào. Do không thấy một pháp nào, nên không có cái gì là có thể xả bỏ, có thể thọ nhận, có thể nhận quả báo. Đó gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Những phương tiện như thế v.v… là phương tiện hồi hướng, đã được nói rõ trong các kinh, nên biết.

Hỏi: Nên nói về hồi hướng tịnh, không tịnh. Như trong bố thí có tịnh và không tịnh, thì trong hồi hướng này cũng có tịnh, không tịnh như thế. Vậy thế nào là tịnh, thế nào là không tịnh?

Đáp: Nhân tu hành quả, như trong tất cả các kinh khác đã nói rộng, nên biết.

* Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm đại từ? Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm đại bi?

Hỏi: Vì sao Đức Như Lai nói khéo nhận biết phương tiện hồi hướng, sau đấy mới nói về thành tựu tâm từ?

Đáp: Vì giữ giới và bố thí là thuộc về công đức tu đạo đối trị tâm tán loạn, nên quyết định sẽ được nhận quả báo ở cõi Dục. Bồ-tát dùng phương tiện hồi hướng để thâu giữ quả báo đã quyết định ở cõi Dục, chuyển đổi để cầu Đại Bồ-đề, chỉ rõ về quả đó, nhất định không chỉ rõ việc khéo có thể tu tập đạo Bồ-tát.

Lại, trì giới, bố thí là công đức của tu đạo do tâm Tam-muội nên quyết định chiêu cảm quả báo ở địa thiền định. Bồ-tát dùng phương tiện hồi hướng để thâu giữ các quả báo quyết định ở cõi thiền, chuyển đổi để cầu Đại Bồ-đề, chỉ rõ về quả đó, nhất định không chỉ rõ việc khéo có thể tu tập đạo Bồ-tát. Thế nên, Đức Như Lai giảng nói về phương tiện hồi hướng.

Lại nữa, nói thành tựu tâm từ, câu này nêu rõ về nghĩa gì? Vì các phàm phu không nhận biết đúng như thật về pháp giới chân thật nên từ vô thỉ đến nay đã hành tập không có trí. Do không có trí nên không thể lìa bỏ các pháp ngã, ngã sở. Vì vọng chấp nơi ngã, ngã sở, nên đối với cảnh giới sắc, tâm bị ái trói buộc. Thế nên, tâm thường cầu quả báo ở thế gian, hành tạo đủ thứ xấu ác, tự nhiên thành quả báo thế gian. Như thế, tu hành giới, thí nhất định thành tựu quả báo đồng cảnh giới.

Nhưng tâm Bồ-tát thấy được hết thảy lỗi lầm tai họa hiện có của thế gian, thấy rõ các lợi ích an lạc của Niết-bàn, khéo có thể nhận biết pháp giới chân thật, khéo nhận biết nhân duyên của các hành hữu vi, tâm của Bồ-tát chỉ vì Bồ-đề vô thượng nên tu tập giới, thí v.v… Vì nhằm cứu độ các chúng sinh nơi thế gian bị đọa lạc vào nẻo hiểm nạn, nên Bồ-tát trì giới, bố thí. Tuy không nhận quả báo thế gian, nhưng vì các chúng sinh nên Bồ-tát hành tập tất cả pháp thiện. Bồ-tát không vì tự thân để nhận lấy quả báo, chỉ làm tăng trưỡng lực công đức lớn từ sự tu tập, để tâm có thể thâu nhận các phương tiện hồi hướng, tùy thuận thành tựu quả báo được cầu.

Hỏi: Nên nói về bốn vô lượng. Thế nào là Bồ-tát thành tựu bốn vô lượng? Thế nào là hành? Thế nào là biện tài của thế gian? Thế nào là thể? Thế nào là tướng? Thế nào là các địa có sai biệt? Dựa vào xứ nào? Quán theo cảnh giới nào? Quán theo pháp nào? Thế nào là tương ưng? Thế nào là chứng đắc? Thế nào là nghĩa thành tựu?

Đáp: Thế nào là Bồ-tát thành tựu bốn vô lượng? Là do bốn vô lượng đó khác với ngoại đạo v.v… Việc này nêu bày về nghĩa gì? Các hàng ngoại đạo tuy cũng tu hành bốn vô lượng, nhưng vì tâm ái thấm vướng, nên chỉ thành tựu quả báo ở cõi Sắc.

Lại, người Thanh văn, Phật-bích-chi nơi tất cả căn thiện đều vì tự thân, tâm luôn vì sự an vui của tự thân, nên giữ lấy Niết-bàn. Vì sợ phiền não nóng bức, nên điều phục các kiết sử, tu hành vô lượng không phải vì chúng sinh. Còn các Đại Bồ-tát v.v… tâm luôn vì hết thảy chúng sinh nên tu tập các hành, thảy đều chuyển thí cho tất cả chúng sinh, dùng tâm từ bi phát khởi giới, thí v.v…, do muốn đem lợi ích cho các chúng sinh, nên dù bị đủ các thứ bức bách, khổ não, do lỗi lầm tai họa xấu ác của thế gian, nhưng Bồ-tát không hề từ bỏ các chúng sinh. Vì nhằm diệt trừ các khổ não cho mỗi mỗi chúng sinh, khiến các thứ khổ não ấy hoàn toàn vắng lặng, nên Bồ-tát quan sát vô lượng thân của các chúng sinh, trong mỗi mỗi thân có vô lượng vô số khổ não sai biệt.

Lại, Bồ-tát nhận biết đúng như thật về mỗi mỗi phương tiện, nhằm cứu độ chúng sinh ra khỏi vô lượng khổ não. Bồ-tát đã dùng vô lượng thời gian, tuy đã thấy rõ cảnh giới Niết-bàn, nhưng là để quán vô lượng chúng sinh, có thể thành tựu vô lượng pháp Phật. Do nghĩa này nên gọi là Bồ-tát thành tựu vô lượng.

Lại, do nhận lấy khắp các quả. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Đại Bồ-tát cùng tu hành vô lượng vô biên hành nên hành từ cũng vô lượng v.v… vì vậy Bồ-tát thành tựu vô lượng. Như trong Kinh Vô Tận Ý, Thánh giả Vô Tận Ý nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát tu tập hành từ cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì hành từ của Bồ-tát là vô lượng vô biên. Tu tập tâm từ là cảnh giới của chúng sinh không có hạn lượng, nên Bồ-tát tu tập tâm từ là phát tâm che trùm khắp.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Ví như hư không, không đâu là không trùm khắp, tâm từ của Bồ-tát này cũng lại như thế. Tất cả chúng sinh đều được che trùm khắp hết.

Này Đại đức Xá-lợi-phất! Như cảnh giới của chúng sinh là vô lượng vô biên, không thể cùng tận, Bồ-tát tu tập tâm từ cũng lại như thế, tức cũng vô lượng vô biên không thể cùng tận. Vì hư không vô tận, nên cảnh giới của chúng sinh vô tận. Vì chúng sinh vô tận, nên Bồ-tát tu tập tâm từ cũng không thể cùng tận v.v….

Lại, vì tạo sự an ổn cho người khác, cho họ công đức, nên Bồtát phát tâm tu hành. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Đại Bồ-tát tu tập bốn vô lượng không vì tự thân, mà vì hết thảy chúng sinh, vì muốn đem lại sự an ổn hoàn toàn, cùng cho họ tâm công đức, thế nên Bồ-tát thành tựu. Như trong Kinh Vô Tận Ý, có đoạn nói: Bồ-tát Vô Tận Ý nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Tâm từ này có khả năng tự hộ trì thân mình. Tâm từ này cũng có thể tạo lợi ích cho người khác. Tâm từ này là không tranh cãi. Tâm từ này có khả năng đoạn trừ hết thảy các giận dữ, nghi ngờ, oán hận.

Thế nào là hành giả gọi là có sự chán lìa? Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Là dựa vào sự chán lìa nên đạt được bốn vô lượng. Tức trong lãnh vực thiền thứ nhất, vô lượng hiện có là do chán lìa cõi Dục mà được. Như vậy, cho đến trong thiền thứ tư vô lượng hiện có là do chán lìa ba thiền mà được. Về sau này, khi tạo phương tiện là chúng hiện tiền.

Hỏi: Những gì là vô lượng dùng làm phương tiện tu hành?

Đáp: Tâm từ dựa nơi thân ái mà khởi. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Bồ-tát nếu muốn tu hành bốn vô lượng, lúc này tâm đối với hết thảy chúng sinh có ba thứ phân biệt: (1) Phân biệt về thân. (2) Phân biệt về oán. (3) Phân biệt không thân, không oán.

Trong phân biệt về thân lại chia làm ba phần, nơi ba phần đó, đối với những người thân bậc thượng, cùng khởi lên tâm ban cho sự an ổn, vui vẻ. Đó là cha mẹ và những vị Sư Tăng khác được tôn trọng. Do từ vô thỉ đến nay, tâm đã quen hành theo nẻo ác, khó có thể bình đẳng, thế nên phải phân biệt báo ân như vậy. Trong phần phân biệt về thân không thể bình đẳng để chuyển tăng cho sự tu tập.

Lại nói đến bình đẳng: Hoặc tâm như trong phần thân tăng thượng kia. Hoặc trong phân biệt về oán tâm trụ nơi bình đẳng, như tâm đem lại an lạc cho cha mẹ không khác. Bấy giờ gọi là thành tựu tâm từ. Tâm bi, hỷ, xả cũng lại như vậy, nên biết.

Nhưng vô lượng xả là từ trong chỗ phân biệt không oán không thân dấy khởi mới thành tựu.

Lại, các Đại Bồ-tát không lìa phiền não, tu tập địa thiền với vô lượng phương tiện. Nếu đoạn trừ phiền não, thâu giữ thiền thứ nhất vô lượng, như vậy bốn vô lượng theo thứ lớp sẽ thành tựu, nên biết.

Lại, nói bốn vô lượng tức có ba thứ quán: quán chúng sinh, quán pháp, và quán không.

Khi mới phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát chưa nhận biết tướng chúng sinh, đồng với quán vô lượng của hàng ngoại đạo, Thanh văn, Phậtbích-chi. Đó gọi là quán chúng sinh vô lượng.

Lại, các Bồ-tát tức quán chúng sinh vô lượng như vậy, theo thứ lớp dần dần tăng trưởng thắng thượng, nhận biết đúng như thật về tướng chúng sinh, tu tập hạnh Bồ-tát, Bồ-tát cũng chưa nhận biết tướng của hết thảy pháp hữu vi, chỉ dựa vào chúng sinh giả danh nơi các hành hữu vi, dấy khởi tướng chúng sinh theo hý luận, tức giữ lấy hành hữu vi này cho là chúng sinh, gọi là quán pháp vô lượng.

Lại, các Bồ-tát có thể nhận biết đúng như thật về hành tướng hữu vi, đạt được pháp nhẫn vô sinh. Theo tâm từ, sau đó quán bình đẳng sinh Bát nhã, gọi là tâm từ, là quán không vô lượng.

Như giác phần cùng với tâm từ tương ưng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như tâm từ, sau đó sinh giác phần trạch pháp, gọi là từ. Như thế, từ vô lượng kế đến quán bình đẳng được Bát-nhã, gọi là từ vô lượng. Đó gọi là quán không vô lượng.

Lại, các Đại Bồ-tát vì ban cho người khác niềm vui, theo tâm từ, nên khởi tất cả hành. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Đại Bồtát dấy khởi các hành đều từ tâm từ sinh ra. Vì đem lại lợi ích cùng tạo an ổn cho các chúng sinh khác, vì chứng được pháp nhẫn vô sinh, nên Bát-nhã của Đại Bồ-tát từ nơi tâm từ khởi ban niềm vui và sự an ổn cho tất cả chúng sinh, giống như tâm từ nên gọi là từ.

Lại, pháp nơi cảnh giới Thế đế và pháp nơi cảnh giới Đệ nhất nghĩa đế cùng lần lượt dựa nhau tăng trưởng có lực, nên có thể tu hành rộng, thành tựu quán không, gọi là hoàn toàn thanh tịnh, gọi là tâm từ.

Thế nào gọi là cảnh giới của thế đế làm nhân của Bát-nhã? Do các Bồ-tát thấy rõ thể của các pháp, dựa nơi tâm từ bi quan sát chúng sinh, các hành tác không rơi vào địa Thanh văn và Phật-bích-chi. Do nghĩa này nên các nẻo hành tác không hề bỏ chúng sinh. Đó tức gọi là cảnh giới của thế đế với các pháp như từ bi v.v… làm nhân của Bát-nhã.

Thế nào gọi là cảnh giới của đệ nhất nghĩa đế với từ bi v.v… của cảnh giới thế đế làm nhân của Bát-nhã? Do các Bồ-tát muốn làm thanh tịnh các pháp như từ bi của cảnh giới thế đế, do nhận biết dựa nơi hành tướng khởi các phiền não của chúng sinh, để quan sát hành tướng của chúng sinh bị phiền não cấu nhiễm. Do nhận biết đúng như thật phiền não phát khởi từ hành tướng chúng sinh, thế nên Bồ-tát đã xa lìa hết thảy phiền não, là nhân không thanh tịnh của tâm từ v.v… Đó gọi là Bát-nhã có khả năng làm nhân cho pháp của cảnh giới thế đế. Các Bồ-tát cùng tu hành phương tiện Bát-nhã như thế là tu tập rộng các hành, do vậy thành tựu pháp nhẫn vô sinh. Bấy giờ, Bồ-tát quán không, không bỏ chúng sinh, là nhân của các hành tác.

Tâm từ thanh tịnh rốt ráo gọi là tâm từ. Đó gọi là quán không thuộc tâm từ.

Thế nào là biện tài của thế gian? Giải thích về tên gọi vô lượng kia do có thể quan sát vô biên chúng sinh nên gọi là vô lượng.

Thế nào là thể? Thể của tâm từ bi là căn thiện không sân. Vì sao? Vì đó là pháp đối trị sân giận.

Lại, đối trị xứ có thể khởi sân giận đó gọi là từ. Đối trị xứ không thể khởi sân giận, đó gọi là bi. Lại, đối trị tâm khởi từ bỏ chúng sinh, đó gọi là từ. Đối trị tâm đánh đập chúng sinh, đó gọi là bi.

Đó là do cầu công đức nên có thể sinh ra vô lượng, không phải cầu lỗi lầm nên có thể sinh ra vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát cho đến những người đoạn dứt căn thiện, hoặc cầu công đức thấy rõ quả của nghiệp tịnh, cho đến biên A-la-hán, hoặc tìm lỗi lầm thấy rõ quả của nghiệp ác. Vì sao? Vì thấy trong hiện thân của A-la-hán nhận quả của nghiệp bất thiện, không thấy những nghiệp khác của quá khứ không dứt hết, cho là thân hiện tại của A-la-hán tạo ra điều ác. Do nghĩa này, nên đối với A-la-hán không thể phát khởi từ bi vô lượng.

Thể của tâm hỷ là căn hỷ. Thể của tâm xả là căn thiện không tham.

Hỏi: Nếu như thế tức không phải là pháp đối trị của tham dục và căn hại v.v…?

Đáp: Không đúng. Do căn thiện không giận là pháp tương ưng nên nói như thế.

Hỏi: Nếu tâm xả có thể đối trị pháp tham, thì quán bất tịnh cũng đối trị pháp tham chăng?

Đáp: Ông nhận biết những pháp tham nào, tâm xả có thể đối trị? Và những pháp tham nào quán bất tịnh có thể đối trị?

Hỏi: Tôi không biết.

Đáp: Ông có nghe nói: Tham sắc thì quán bất tịnh có thể đoạn trừ. Tham dâm thì tâm xả có thể đoạn dứt. Bốn vô lượng này cùng với tâm lần lượt làm thể cho năm ấm.

Thế nào là tướng? Đem tướng an vui ban cho chúng sinh, khiến chúng sinh được yên ổn, đó gọi là tướng của từ. Cứu vớt tướng khổ của chúng sinh, đem lại các tướng vắng lặng, tịch tĩnh, do thương xót chúng sinh, đó gọi là tướng của bi. Xa lìa tâm không vui thích, là pháp đối trị tánh ganh ghét, đó gọi là tướng của hỷ. Bỏ tướng ái, không ái, là pháp trái với nhân hành tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, tự nhiên hiện bày tự tại, đó gọi là tướng của xả.

Thế nào là các địa có sai biệt? Trừ hỷ vô lượng, còn ba vô lượng kia hiện có trong sáu địa, nên biết. Sáu địa đó là thiền vị lai, thiền trung gian và bốn thiền căn bản. Thiền thứ nhất, thiền thứ hai có hỷ vô lượng, ba vô lượng còn lại đều hiện hữu khắp trong bốn thiền, do hỷ vô lượng lấy hỷ căn làm thể.

Dựa vào xứ nào? Dựa vào cõi Dục. Bốn vô lượng hiện khởi trong cõi Dục, không phải ở xứ khác. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi Dục có nhiều khổ não. Thấy chúng sinh khổ, nên khởi tâm ban cho an vui.

Thấy chúng sinh khổ nên khởi tâm cứu vớt khổ. Do ở cõi Sắc, Vô sắc không có khổ não. Lại, là pháp đối trị não hại. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì bốn vô lượng là sự đối trị các pháp như hại v.v… Do nghĩa này, nên trong kinh nói: Tu hành tâm Từ ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tựu sự lìa bỏ tâm hại. Tu hành tâm Bi ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tựu sự lìa bỏ tâm giận. Tu hành tâm Hỷ ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tựu sự lìa bỏ tâm không vui thích. Tu hành tâm Xả ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tựu sự lìa bỏ tâm tham dục hại. Ở cõi Sắc, Vô sắc, tham dục, hại thảy đều không có v.v… Do nghĩa này, nên không phải ở cõi Sắc và Vô sắc phát khởi bốn vô lượng, mà ở trong cõi Dục, chỉ nơi ba châu thiên hạ không phải ở châu Uất-đơn-việt.

Quán theo cảnh giới nào? Nghĩa là Từ quán về an lạc. Bi quán về cứu khổ. Hỷ quán về cảnh giới hỷ. Xả quán về cảnh giới xả.

Quán theo pháp nào? Nghĩa là quán về thân năm ấm của chúng sinh trong cõi Dục, hoặc quán hai ấm. Lại, nếu đồng tâm, đồng loại, tức là năm ấm. Nếu không đồng tâm, đồng loại, đó là hai ấm. Hoặc quán chúng sinh không có tâm. Hoặc quán chúng sinh có một ấm. Hoặc quán chúng sinh chỉ có hai ấm.

Hỏi: Trong kinh có nói: Từ bi hỷ xả hiện hữu khắp một phương nơi hư không pháp giới, như vậy cho đến trùm khắp cả mười phương thế giới. Ở đây chỉ nói quán chúng sinh, nghĩa đó là thế nào?

Đáp: Hiện hữu khắp mười phương: Nghĩa là quán hết thảy chúng sinh hiện có dựa nơi thế giới mà trụ, nên nói là trùm khắp mười phương thế giới, không phải cho là trùm khắp khí thế gian kia. Nói trùm khắp, là chỉ rõ về chúng sinh hiện có trụ nơi khí thế gian kia.

Lại, ở địa thiền thứ nhất quán vô lượng chúng sinh trong cõi Dục. Ở địa thiền thứ hai quán vô lượng nơi cõi Dục và thiền thứ nhất. Như thế, cho đến địa thiền thứ tư quán vô lượng nơi cõi Dục, cho đến thiền thứ ba.

Lại, ở địa thiền thứ nhất quán vô lượng nơi cõi Dục và thiền thứ nhất. Như thế, cho đến địa thiền thứ tư quán vô lượng nơi cõi Dục, cho đến thiền thứ tư.

Lại, Từ quán ở cõi Dục cho đến thiền thứ ba. Vì sao? Vì tâm từ quán cảnh giới an vui. Lại, căn lạc hiện có từ cõi Dục, cho đến thiền thứ ba.

Bi quán từ cõi Dục cho đến thiền thứ nhất. Vì sao? Vì tâm bi quán cảnh giới khổ, do chúng sinh trong cõi Dục có nhiều khổ não. Lại, căn khổ sinh khởi từ cõi Dục cho đến thiền thứ nhất.

Hỷ quán từ cõi Dục cho đến thiền thứ hai. Vì sao? Vì tâm hỷ có tướng vui vẻ, phấn khích. Lại, căn hỷ phát sinh từ cõi Dục cho đến thiền thứ hai.

Xả quán từ cõi Dục cho đến thiền thứ tư. Vì sao? Vì quán xả là tướng xả bỏ. Lại, căn xả phát sinh từ cõi Dục cho đến thiền thứ tư.

Lại có người nói: “Tất cả vô lượng chỉ quán chúng sinh ở cõi Dục”.

Thế nào là tương ưng? Địa thiền thứ nhất và thiền thứ hai tương ưng với căn hỷ, căn xả. Địa thiền thứ ba tương ưng với căn lạc, căn xả. Thiền vị lai, thiền trung gian và địa của thiền thứ tư đều tương ưng với căn xả.

Thế nào là chứng đắc? Nếu sinh ở thiền thứ ba và thứ tư thì chứng được ba thứ vô lượng, trừ hỷ vô lượng. Vì sao? Vì từ ba thiền trở lên không có căn hỷ.

Lại, sinh ở cõi Dục lìa phiền não cùng sinh ở thiền thứ nhất, thiền thứ hai chứng đắc bốn thứ vô lượng. Như trong kinh Đức Như Lai nói: “Từ vô lượng là đến xứ Biến tịnh, dùng làm biên vực. Bi vô lượng là đến xứ hư không, dùng làm biên vực. Hỷ vô lượng trên đến xứ Thức vô biên, dùng làm biên vực. Xả vô lượng là đến xứ Vô sở hữu, dùng làm biên vực. Vì sao? Vì thuộc về thiền thứ nhất căn bản.

Đây là nói rõ về nghĩa gì? Vì vô lượng là phát sinh từ xứ Vô biên hư không dùng làm biên vực nên nói như thế”.

Lại có người nói: “Đạo Thánh của xứ đó lấy danh từ vô lượng để nêu bày. Vì sao? Vì có thể giáo hóa chúng sinh có căn tánh như thế, vì nhờ nghe danh từ vô lượng, nên được hội nhập đạo Thánh”.

Lại có người nói: “Vì dựa nơi sự đối trị theo phần giác phần Bồđề mà nói”. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do phần giác đối trị thiền thứ ba, tức là phần giác của thiền đó dùng tên từ mà nói. Cứ như thế cho đến xứ Vô sở hữu, dựa vào pháp đối trị kia và dùng tên xả mà nói.

Lại có người nói: “Vô lượng kia là pháp tương tợ”. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Từ quán an vui, thọ nhận an vui, cho đến trong thiền thứ ba dùng bi quán khổ, nhưng xứ Vô biên hư không lại mâu thuẫn với sắc. Do hỷ quán không vui, nhưng xứ thức vô biên thì thức hỷ an trụ. Do xả quán xả, nhưng xứ Vô sở hữu xả bỏ “vô sở xả”, nên nói là xả.

Lại, trong Tu-đa-la khác cũng có đoạn nói: Này Đại đức Xá-lợiphất! Bồ-tát mới phát tâm dùng bốn vô lượng quán nơi chúng sinh, gọi là quán chúng sinh. Đại Bồ-tát hành trì hạnh Bồ-tát, quán những việc mình đã làm, nên gọi là quán pháp. Các Đại Bồ-tát đã chứng được pháp nhẫn vô sinh thâm diệu, nên gọi là quán không.

Hỏi: Bốn vô lượng là quán nơi chúng sinh, vì sao lại nói là quán pháp, quán không?

Đáp: Vì tất cả hành đều nhằm đem lại lợi ích cho người khác, do Từ là pháp tương tợ. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Đại Bồ-tát vì các chúng sinh nên tu tập hết thảy hành, đều lấy Bát-nhã làm gốc, thế nên Bát-nhã lấy tên gọi từ để nói. Vì tướng của từ nơi Bát-nhã đó có thể cho người khác niềm vui. Như thế, Bồ-tát xả bỏ an lạc của tự thân, nên Bát-nhã Ba-la-mật là tướng ban an vui cho người khác. Do vậy, Bát-nhã lấy tên gọi Từ để nêu bày. Do đó, quán pháp, quán không đều là từ bi nơi Bát-nhã.

Lại có người nói: Tâm từ quán không là lấy tên gọi Từ để nói. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát quan sát chúng sinh, lại vì tự thân tìm cầu phương tiện xa lìa phiền não, lại quán các hành hữu vi, khi được tâm vô lượng sâu xa, tức là đạt được lực của Bát-nhã rốt ráo. Bồ-tát nghĩ như vầy: Các chúng sinh ấy vì bị không trí che lấp, nên không thể thấy, biết đúng như thật về pháp giới. Ta sẽ khiến họ dần dần theo thứ lớp để được nhập nơi chánh đạo.

Lại, trong Tu-đa-la khác cũng có nói: Đức Phật bảo các Tỳkheo: Về quá khứ bảy năm Ta tu hành tâm từ thế giới thành hoại đã trải qua, do bảy lần không sinh trở lại nơi này, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn kiếp làm Chuyển luân Thánh vương.

Hỏi: Nếu nói quả báo của bốn vô lượng đạt được, không phải là ở cõi Dục, thì vì sao trong kinh Đức Như Lai lại nói là đạt được quả báo do tu hành vô lượng, cho đến được làm Chuyển luân Thánh vương trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp?

Đáp: Trong kinh đó đã dựa vào vô lượng của ba địa nên nói như thế. Nghĩa này là thế nào? Có quả báo vô lượng của địa nơi cõi Dục là được làm Chuyển luân Thánh vương. Có quả báo vô lượng của địa nơi thiền thứ nhất là được làm Phạm Thiên vương. Có quả báo vô lượng của địa nơi thiền thứ hai là được sinh lên cõi trời Thiểu Quang.

Lại, ở cõi Dục, khởi tâm Tam-ma-bạt-đề, thì quả báo hiện có là được làm vua Đế-thích và Chuyển luân vương. Ở thiền địa căn bản thì quả báo hiện có là được làm Phạm Thiên vương, sinh nơi cõi trời Thiểu Quang.

Lại, trong Tu-đa-la khác có đoạn nói: Phật bảo: Này các Tỳkheo! Về đời quá khứ, lúc ấy có sư ngoại đạo tên là Thiện Nhãn Thế Tôn. Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn kia đạt được thần thông, lìa phiền não thuộc cõi Dục. Này các Tỳ-kheo! Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn ấy có vô lượng Thanh văn, còn đệ tử thì có vô lượng trăm, vô lượng ngàn, vô lượng vạn, vô lượng trăm ngàn vạn.

Này các Tỳ-kheo! Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn ấy hiện có chúng Thanh văn giữ giới đầy đủ. Những người ngoại đạo ấy tu tập bốn phạm hạnh, lìa phiền não nơi cõi Dục, tu bốn phạm hạnh, được sinh lên cõi trời Phạm Thế.

Này các Tỳ-kheo! Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn kia hiện có nhiều đệ tử không thể tu tập đầy đủ bốn phạm hạnh, nên trong số các đệ tử ấy, hoặc có người sinh lên cõi trời Tha-hóa-tự-tại, có người sinh trong cõi người.

Bấy giờ, Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn ấy khởi tâm như vầy: Nay ta không biết nên làm thế nào để cùng với đệ tử đi đến một xứ, sinh ở một xứ. Lại khởi suy nghĩ: Ta nên dựa nơi tâm từ, tu tập thiền thứ hai, sinh lên cõi trời Thiểu Quang.

Này các Tỳ-kheo! Lúc ấy, Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn đã tu tập tâm từ thượng đại, nhập thiền thứ hai, sinh nơi thiền thứ ba v.v…

Hỏi: Nếu các Đại Bồ-tát v.v… vì tạo lợi ích cho người khác nên đối với các chúng sinh khởi tâm bình đẳng, thì vì sao lại tự sinh tâm thù thắng, tâm từ tu tập thiền thứ hai, sinh lên cõi trời Thiểu Quang, mà không giảng nói pháp sinh lên cõi trời Thiểu Quang cho các đệ tử?

Lại có vấn nạn: Sư ngoại đạo Thiện Nhãn Thế Tôn kia, có pháp đã giảng nói hơn hẳn pháp của Phật. Vì sao? Vì họ đều được sinh trên nẻo thiện, còn hàng Thanh văn của Như Lai có người bị đọa vào nẻo ác?

Đáp: Ở đây không có lỗi lầm. Vì sao? Vì Bồ-tát đều quán xét căn cơ khi giảng nói pháp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do ngoại đạo Bà-la-môn v.v… kia trong đêm dài sinh tử đã có sự suy nghĩ: Đầu tiên, cho xứ Phạm thiên là nơi chốn rốt cùng, thuận theo tâm ưa thích nên sinh lên xứ đó, không thể tu hành bốn vô lượng để được sinh lên thiền thứ hai. Do nghĩa này, Bồ-tát khéo nhận biết tâm của đệ tử mình, nên không nói pháp tu tập bốn vô lượng cho họ để được sinh lên thiền thứ hai.

Lại, do không có năng lực. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Có người nói: Ngoại trừ Đức Phật xuất hiện ở đời, không ngoại đạo nào có khả năng tu đủ hai thiền vô lượng để sinh lên thiền thứ hai, chỉ trừ các Bồ-tát đại lực v.v…

Lại nói: Pháp của ngoại đạo vượt hơn pháp của Phật: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì ngoại đạo nhận lấy quả báo ở thế gian.

Lại, do vì thời tiết. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Có thời gian như thế, có nhiều chúng sinh sinh vào xứ của nẻo thiện, huống chi lại có vô lượng chúng sinh tu hành vô lượng.

Lại nói: Đệ tử của Như Lai có người bị đọa vào đường ác, điều đó không phải lỗi ở Như Lai.

Lại, trong Tu-đa-la khác có nói: Có ba thứ hạnh: Phạm hạnh, Thiên hạnh, Thánh hạnh. Phạm hạnh là bốn vô lượng. Thiên hạnh là bốn thiền. Thánh hạnh là ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề.

Hỏi: Do nghĩa gì nói bốn vô lượng gọi là Phạm hạnh?

Đáp: Do bốn vô lượng là nhân của Phạm thiên. Lại do người tu hành có thể chứng đắc từ trong thân. Lại do để đối trị phi phạm hạnh.

Hỏi: Vì sao các căn thiện ở trong cõi Sắc, chỉ nói vô lượng dùng làm việc phước?

Đáp: Vì tạo lợi ích cho người khác. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Người thế gian phần nhiều ở trong lợi ích của người khác sinh tướng công đức. Còn trong những lợi ích còn lại thì không sinh nhiều như vậy.

Hỏi: Trong Tu-đa-la khác lại có nói: Có bốn hạng người có thể sinh công đức của Phạm thiên. Đó là: (1) Nơi đất thuộc khí thế gian, chốn nào chưa có tháp thì xây tháp. (2) Trồng tạo vườn rừng để thí cho Tăng bốn phương. (3) Hòa hợp lại trước sự phá hoại Tăng. (4) Có thể sinh khởi bốn tâm vô lượng.

Hỏi: Nếu tu bốn vô lượng, được quả sinh lên cõi Phạm thiên, được nói là thành tựu quả của Phạm thiên. Ba thứ như xây tháp v.v… được quả Phạm thiên v.v…, nghĩa này là thế nào?

Đáp: Vì dựa nơi phạm hạnh để nói nên không có lỗi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Chẳng phải lập dựng tháp v.v… là thành tựu quả Phạm thiên. Nếu có người dựa vào phạm hạnh nơi Như Lai, xây tháp Xá-lợi, người đó có thể sinh công đức của phạm hạnh.

Lại, dựa vào người tu phạm hạnh, bố thí vườn rừng, người thí cho như thế, thành tựu được phước của phạm hạnh.

Lại, dựa vào đạo Thánh tu tập phạm hạnh, tạo hòa hợp trước sự phá Tăng, sẽ được quả báo của Phạm thiên.

Lại do pháp tương tợ kia. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Ba thứ thành tựu quả báo Phạm thiên từ việc xây dựng tháp v.v… công đức có được không phải hoàn toàn như nhau. Quả của bốn vô lượng thì công đức kia chỉ có phần ít nghĩa tương tợ. Như người thành tựu bốn tâm vô lượng, người đó sẽ thâu nhận thành tựu vô lượng công đức lợi ích cho chúng sinh. Đây cũng như thế. Nếu người ở trong khí thế gian kia, nơi chốn chưa có tháp, xây tháp Xá-lợi, thí cho Tăng vườn rừng, tạo hòa hợp loại bỏ sự phá Tăng, người đó có thể thành tựu vô lượng phước đức. Vì thế nên nói: Tu tập bốn vô lượng cùng ba thứ hành như xây tháp v.v… đều có nghĩa tương tợ.

Hỏi: Công đức của phạm hạnh về lượng như thế nào?

Đáp: Có người nói: Tùy thuộc vào những hành nghiệp nào nên được làm Chuyển luân Thánh vương bốn châu thiên hạ, uy lực tự tại. Công đức của phạm hạnh về lượng là như thế.

Lại có người nói: Tùy thuộc vào những hành nghiệp nào nên được làm Đế thích Thiên vương uy lực tự tại. Công đức của phạm hạnh về lượng là như thế.

Lại có người nói: Tùy thuộc vào những hành nghiệp nào nên được làm Ma vương ở trong cõi Dục sức mạnh tự tại. Công đức của phạm hạnh về lượng là như thế.

Lại có người nói: Tùy thuộc vào những hành nghiệp nào nên được sinh vào cõi Phạm thiên. Công đức của phạm hạnh về lượng là như vậy.

Lại có người nói: Phạm thiên thỉnh Phật chuyển pháp luân, theo đó nên được phước báo, lượng công đức của phạm hạnh là như thế.

Hỏi: Lại có những kinh khác, trong đó Đức Như Lai đã nói: “Nếu người có thể thành tựu tâm từ, thì công đức của người ấy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi, đao không thể chặt đứt, các độc không thể hại, sống lâu không bị chết yểu”. Do nghĩa gì mà nói như thế?

Đáp: Cảnh giới hiện có của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn. Tất cả thiền định cũng không thể nghĩ bàn. Tất cả các nghiệp cũng không thể nghĩ bàn.

Lại có người nói: Nếu người có khả năng ban cho vô lượng chúng sinh vô lượng sự yên ổn, do đấy nên nói là người ấy, các nhân duyên bên ngoài đều không thể gây tổn hại.

Lại, người đó nhớ nghĩ đến bốn đại của cõi Sắc. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Do người ấy tu tập tâm từ về con người, nhập vào tâm từ, dựa vào cõi Sắc, thành tựu thân bốn đại của cõi Sắc. Vì nghĩa này nên các nhân duyên bên ngoài không thể tổn hại.

Hỏi: Do nghĩa gì trong kinh này chỉ nói tu hành tâm từ, tâm bi được nhiều công đức, không nói đến tâm hỷ, tâm xả?

Đáp: Do tu hành, phần nhiều là nhằm đem lại lợi ích cho mọi người. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì tu tập tâm Từ, Bi là ban vui và cứu khổ. Nương nơi Từ, Bi nên khởi tâm tu hành về xả, thí v.v… được vô lượng phước. Còn Hỷ, Xả thì không thể như thế. Nghĩa này là thế nào? Do tâm Hỷ kia khi thấy chúng sinh khác tự tu nghiệp thiện, tự nhận được an vui, nên người kia sinh Hỷ. Vì thế nên như Hỷ, Xả cũng như vậy. Do chúng sinh khác tự tâm phân biệt, tâm giận dữ, tâm yêu thương, tâm không tổn hại, nên gọi là Xả. Vì nghĩa này, nên Hỷ, Xả phước ít, Từ, Bi phước nhiều. Do tâm Từ, Bi đã thành tựu việc ban cho người khác vô lượng an vui, lợi ích, không phải do tâm hỷ, tâm xả thành tựu. Vì đối trị với giận dữ, gọi là tâm từ. Căn thiện không giận dữ dùng làm thể, do nghĩa đối trị tối thắng với giận dữ. Vì sao? Vì do tâm giận dữ nên xả bỏ các chúng sinh, trái ngược với việc đem lại lợi ích cho tất cả các loài. Thế nên, Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả các loài, tức nên đối trị những gì là không lợi ích. Nhân đấy, trong kinh này đã nói đến tu hành đối trị do tâm Từ, Bi v.v…

Lại, phát tâm Bồ-đề, tu các hành thiện đều lấy tâm từ, bi làm gốc. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Tức trong Tu-đa-la này nói đến tâm không thoái chuyển, thành tựu nhân của việc phát tâm Bồ-đề. Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, đầu tiên mới sinh là đã dựa nơi tâm từ bi làm gốc, nên có thể tu tập vô lượng công đức, không phải là tâm hỷ, tâm xả v.v… Do từ nghĩa ấy, nên trong kinh này chỉ nói tâm từ, bi sinh nhiều công đức, không nói tâm hỷ, tâm xả. Vì vậy, trong Kinh Thập Địa đã nói: “Bồ-tát ấy phát tâm Bồ-đề, tâm này lấy đại bi làm gốc. Như thế v.v… là thành tựu trọn vẹn được nghiệp thân miệng ý đại từ, đại bi”.

Lại, Tam-muội nơi nghiệp thân miệng ý này dựa nơi tâm từ bi mà khởi ban cho tướng an lạc nên gọi là tâm từ. Do thấy nhân trong thế gian nên nói về quả. Ví như vẽ một bức tranh với cây cảnh trang trí, rồi từ trong nhân nói quả, thành tựu nghiệp thân miệng ý không hại, dùng bi để đối trị tâm hại, không sinh nghiệp thân miệng ý não loạn người khác.

HẾT – QUYỂN 7

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9