LUẬN KINH DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Hậu Ngụy, Đại sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 3
* Thế nào là đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi?
Đáp: Lúc ở nơi quả vị kiến đạo, các Bồ-tát đã xa lìa nhân của sự mệt mỏi như thân kiến v.v… Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các phàm phu chấp giữ tướng ngã, luôn bị bức não do vô số các thứ khổ trong sinh tử, nên trong thế gian sinh tâm mệt mỏi. Còn các Bồ-tát khi thấy rõ thể của các pháp, thảy đều xa lìa những vướng mắc về tướng ngã. Vì vậy, đối với các thế gian, tâm Bồ-tát không mệt mỏi.
Lại nữa, sở dĩ đối với các thế gian, tâm Bồ-tát không mệt mỏi, vì Bồ-tát đã xa lìa được năm thứ sợ hãi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Là do chúng sinh ở thế gian chưa lìa bỏ năm thứ sợ hãi, như sợ hãi không thể sống nổi v.v… nên đối với các thế gian tâm sinh mỏi mệt. Bồ-tát xa lìa hẳn năm thứ sợ hãi như sợ hãi không sống nổi v.v… là do đã xa lìa tướng ngã v.v… đã tu tập công đức, trí tuệ đầy đủ, nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại đạt được tâm một vị tạo lợi ích, nên tâm không mệt mỏi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Là do các Bồ-tát dựa nơi tâm từ bi, khởi hành tạo lợi ích cho người khác, cùng tâm sâu xa khéo tu tập. Như nước trong biển cả đều cùng một vị mặn, Bồ-tát cũng như thế, vì tâm một vị là tạo lợi ích cho mọi người. Do các Bồ-tát hành tạo lợi ích cho người khác cũng tức là tự lợi, vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên tu tập các hành, do đấy đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi.
Lại do Bồ-tát đạt được tâm an trụ nên đối với các thế gian tâm không mệt mỏi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đối với những khổ não nơi các nẻo ác như địa ngục: địa ngục Hoạt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Hợp, địa ngục Khiếu hoán, địa ngục Đa-ba-na, địa ngục Ba-đa-ba-na, địa ngục A-tỳ, đia ngục Cứu cánh la, địa ngục Tử thi, địa ngục Rừng đao, địa ngục Rừng gươm, địa ngục Xẻ, địa ngục An-phù-đà, địa ngục A-ba-ba, địa ngục A-trá-trá, địa ngục Ưubát-la, địa ngục Câu-vật-đầu, địa ngục Hương, địa ngục Phân-đà-lợi, địa ngục Ba-đầu-ma, với vô số thứ lạnh, nóng, nhận chịu đủ thứ khổ bức. Cùng với địa ngục là các nẻo súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, người, trời, đều cùng giết hại, cùng theo đuổi tìm kiếm, lôi kéo, cấu xé, ăn nuốt lẫn nhau, hoặc phát sinh, hoặc suy thoái, rồi khởi tâm ngã mạn, ganh ghét, giận dữ, ân ái biệt ly, oán ghét lại gặp nhau, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Vô số những tướng khổ não như thế, tuy thấy nghe nhưng Bồ-tát vẫn không lìa bỏ việc đem lại lợi ích cho chúng sinh. Tâm Bồ-tát hoàn toàn không thoái, không chuyển, an trụ trọn vẹn vào tâm Đại Bồ-đề. Đó gọi là Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại, không mệt mỏi là do thệ nguyện kiên cố. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát dựa nơi tâm đại từ bi cùng khởi hành tác lợi ích cho chúng sinh, hoàn toàn được các hành căn bản của tâm sâu xa, khéo nhận biết tâm kiên cố, tùy thuận nơi các nguyện, hành hóa đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Hỏi: Thế nào là nguyện kiên cố của Đại Bồ-tát?
Đáp: Có năm thứ pháp gọi là nguyện kiên cố của Bồ-tát. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Thừa Thanh văn không thể lay chuyển. (2) Thừa Phật-bích-chi không thể lay chuyển. (3) Các Luận của ngoại đạo không thể lay chuyển. (4) Tất cả các ma không thể lay chuyển được Bồ-tát. (5) Không do các thứ Luận không nhân, không duyên và tự nhiên có thể lay chuyển được. Thế nên nói Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại nữa, có năm pháp đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Nếu thấy suy tổn hay lợi ích, tâm không lo hay vui. (2) Mọi việc làm đã hoàn tất, nhận biết đúng như thật về đạo. (3) Nhận biết đúng như thật về đạo quả. (4) Tự thân đạt được tịch tĩnh. (5) Có tâm trừ bỏ khổ não cho các chúng sinh. Thế nên nói Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại, không mệt mỏi là do đạt được tâm đại từ, đại bi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đã thành tựu được tâm đại bi, thấy các chúng sinh đang đắm chìm trong vũng bùn đầy dẫy các khổ cực như sinh, già v.v… luôn bị vô minh làm cho mù tối, bị tham ái trói buộc không có nơi chốn để quay về, Bồ-tát vì có được diệu lực của tâm từ bi, lấy trí tuệ làm đầu, siêng hành tinh tấn, diệt trừ các thứ khổ của chúng sinh, vì các chúng sinh nên ở trong thế gian thọ nhận những nghiệp khổ não. Thế nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại có năm pháp để nhận biết Bồ-tát có tâm đại từ bi. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Vì ban cho chúng sinh an lạc ổn định, nên không tiếc của cải, vật dụng. (2) Không tiếc tự thân. (3) Không che chở, luyến tiếc thọ mạng. (4) Tu tập tất cả các hành không cần nhiều thời gian. (5) Thương yêu bình đẳng đối với thân, oán. Vì vậy Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại, không mệt mỏi là do có thể nhẫn chịu tất cả khổ não. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát biết dựa vào lực của duyên nên tâm luôn dũng mãnh, trải qua vô số kiếp, có thể thọ nhận khổ não. Do có thể nhẫn chịu tất cả khổ não, nên tâm Bồ-tát đối với các thế gian không mệt mỏi.
Có năm thứ pháp đối với các thế gian có thể thọ nhận khổ não. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Tin các pháp vô ngã. (2) Tin các pháp không. (3) Quán xét pháp thế gian. (4) Quán các nghiệp báo. (5) Quán xét các nghiệp đã hết. Bồ-tát vì các chúng sinh nên ở trong vô lượng kiếp thọ nhận khổ não.
Lại, không mệt mỏi là do tâm sâu xa luôn cầu Bồ-đề Phật. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát luôn đem tâm sâu xa ưa thích Niết-bàn, cầu Bồ-đề Phật. Do tâm kiên cố luôn tăng trưởng, nên Bồ-tát đã vì tất cả chúng sinh gieo trồng hạt giống căn thiện, là nhân duyên của Bồ-đề, hành trì các hành của thế gian. Thế nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại có năm pháp khiến Bồ-tát luôn cầu Bồ-đề vô thượng. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Không đồng với thừa khác, trí hơn hẳn các thừa khác. (2) Là bậc tối thượng, đứng đầu trong thế gian. (3) Tự độ mình. (4) Hóa độ người khác. (5) Đầy đủ tất cả tạng công đức.
Lại, không mệt mỏi là do lo giáo hóa các chúng sinh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do Bồ-tát ở trong đêm dài sinh tử luôn vì các chúng sinh có thể hóa độ trong các thế gian, tùy thuận để giáo hóa, vì nhằm đoạn trừ khổ não của chúng sinh nơi thế gian, tuy bị vô số mũi tên khổ bắn tới, nhưng đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi.
Lại, giáo hóa chúng sinh là quan sát tâm của chúng sinh, tùy thuận nơi các chúng sinh, đối với pháp của năm thừa, người nào nên thọ nhận sự hóa độ, Bồ-tát truyền trao cho họ. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Thừa Ứng Chánh Biến Tri. (2) Thừa Phật-bích-chi. (3) Thừa Thanh văn. (4) Thừa trời (5) Thừa người.
Lại, không mệt mỏi là do dũng mãnh, không sợ hãi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát dựa vào năng lực của đại trí tuệ, dựa nơi sức dũng mãnh, không sợ hãi, nên Bồ-tát tuy bị các mũi tên khổ của thế gian bắn phá, nhưng đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi.
Có năm pháp nhận biết Bồ-tát dũng mãnh không sợ hãi. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Đối với các thứ suy tổn hư hoại, tâm không lo lắng. (2) Thành tựu hết thảy các pháp lợi ích, tâm không vui mừng. (3) Thọ nhận các khổ não, tâm không buồn bã. (4) Được các an lạc thù thắng, tâm không hân hoan. (5) Hai tướng mừng, giận không thể lường biết được. Đó gọi là Bồ-tát dũng mãnh, không sợ hãi, nên biết.
Lại, không mệt mỏi là do Bồ-tát không chấp nơi thân mạng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Người thế gian do tham chấp nơi thân mạng, nên luôn bị mũi tên khổ của sinh tử bắn trúng, bèn nhàm chán thế gian sinh tâm mệt mỏi. Bồ-tát vui thích hành tác sự việc đem lại lợi ích cho chúng sinh, nhận biết đúng như thật về thân mạng, nên lìa bỏ không vướng chấp, vì nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh. Thế nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Bồ-tát có thể nhận biết năm thứ pháp nên không vướng mắc nơi tự thân. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Nhận biết thân không từ đời quá khứ đến. (2) Nhận biết thân không hướng về đời vị lai đến. (3) Nhận biết thân không phải là pháp vững chắc. (4) Nhận biết thân không thật có thần ngã. (5) Nhận biết thân không thật có ngã sở. Do vậy, Bồ-tát không chấp trước nơi tự thân.
Bồ-tát có khả năng nhận biết năm thứ pháp nên không tham đắm vào thọ mạng. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Sống dựa vào trí tuệ, không dựa nơi tà mạng. (2) Sợ hãi tất cả các pháp bất thiện. (3) Quán từ đời vô thỉ đến nay chưa từng không chết. (4) Bình đẳng cùng có với tất cả chúng sinh. (5) Không thể giữ gìn mãi.
Lại, không mệt mỏi là do không tham chấp nơi sự an vui của mình. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Chúng sinh do tham chấp nơi sự an vui của mình, nên thọ nhận vô số khổ, sinh tâm mệt mỏi, Bồ-tát thì xả bỏ mọi an lạc của tự thân, nhằm diệt trừ các thứ khổ của chúng sinh. Thế nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Bồ-tát nhận biết đúng như thật về năm thứ pháp nên không cầu an lạc cho riêng mình. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Nhận biết niềm vui như bọt nước. (2) Nhận biết niềm vui khi suy hoại thì khổ. (3) Được phương tiện của thế gian. Do các Bồ-tát dựa vào tri thức thiện, lắng nghe chánh pháp, buộc giữ niệm, tư duy dùng làm căn bản để đạt được phương tiện xuất thế cho mình và chúng sinh. (4) Không dựa vào trí của người khác. (5) Dựa vào lực của tự trí.
Lại, không mệt mỏi là do Bồ-tát hiện thấy tất cả các pháp bạch. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát dựa vào lực trượng phu nên được quả báo, vì các pháp bạch đều dựa vào lực trượng phu. Các sự việc đã diễn ra trong vô lượng kiếp. Bồ-tát đều hiện thấy như mộng. Nơi đời vị lai, Bồ-tát không dựa vào lực của người khác, chỉ dựa vào lực trượng phu của chính mình để tu tập các pháp bạch, suy nghĩ như thế này: “Nhất thiết chủng trí không phải người khác có thể ban cho, chỉ dựa nơi tự lực mới có được”. Bồ-tát nhận biết như thế, nên không nương vào người khác, tự phát tinh tấn, tu tập các hành, mau chóng chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Như Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: “Chỉ có Tinh tấn Bala-mật mới có thể chứng đắc Bồ-đề”. Thế nên Bồ-tát đối với các thế gian tâm không mệt mỏi.
Lại, không mệt mỏi là do chứng đắc trí tự nhiên. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đã vượt quá nhân của sự mệt mỏi, nên đã thành tựu tâm không mệt mỏi. Bồ-tát đã khéo nhận biết tất cả các pháp nhân duyên, dựa nơi pháp sinh pháp, thứ lớp tăng trưởng, như các bậc thang. Bồ-tát dựa vào cội rễ của Bát-nhã để thành tựu tinh tấn. Thế nên, Bồ-tát đã mau chóng chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Các câu như: Lại không thoái, không chuyển v.v…, trong tất cả các kinh khác đã nói rộng, nên biết.
Lại còn có nghĩa: Nói không thoái là do đã thành tựu được pháp của tâm sâu xa. Lại, không thoái là do đã thành tựu được tâm hành, tâm xả. Nói không chuyển là do thành tựu được pháp của tâm sâu xa.
Hàng phục được tất cả các ma oán đối là do Bồ-tát đã thành tựu được tâm khéo nhận biết phương tiện hồi hướng. Nhận biết như thật về tướng tự thể của tất cả các pháp là do đã thành tựu sự khéo nhận biết phương tiện, nên đối với các thế gian tâm Bồ-tát không mệt mỏi.
– Do đã thành tựu được tâm đại từ, tâm đại bi, do tâm không mệt mỏi, nên không dựa vào trí của người khác, tức Bồ-tát đã mau chóng thành tựu được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, vì đã thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật. Thế nên Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc: “Đại Bồ-tát đã hoàn toàn thành tựu tám pháp nên không thoái chuyển nơi quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng như thế v.v…”.
– Vì sao Đức Như Lai chỉ nói tám pháp không nhiều không ít?
Đáp: Đây không phải là câu hỏi chính đáng. Vì sao? Vì nếu Đức Như Lai có nói hoặc nhiều hoặc ít, thì cũng không cần thiết để đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên, không phải là không có nhân duyên khiến Đức Phật – Thế Tôn giảng nói tám pháp này. Do tám pháp ấy đã thành tựu đầy đủ nhân của Bồ-đề. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Từ sự thành tựu tâm sâu xa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật, là thành tựu hoàn toàn tám pháp này, Bồ-tát mới gồm đủ công đức, trí tuệ, nhanh chóng thành tựu Nhất thiết chủng trí. Do tám pháp này đầy đủ, thì thành tựu nhân của Bồ-đề Phật. Thế nên Đức Như Lai chỉ nói tám pháp không nhiều không ít.
Lại nữa, sở dĩ Đức Như Lai chỉ nói tám pháp: Là do tám pháp này đã gồm thâu đạo Bồ-tát. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Lược nói, Bồ-tát có hai thứ đạo:
- Đạo phương tiện có sai biệt.
- Đạo trí tuệ.
Các câu như: Thành tựu tâm sâu xa v.v… cho đến: Thành tựu sự khéo nhận biết phương tiện: Là chỉ rõ Đạo phương tiện có sai biệt. Thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật: Là chỉ rõ Đạo trí tuệ.
Vì thế trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Đề, Bồ-tát Văn-thùsư-lợi nói: Này các Thiên tử! Lược nói về đạo Bồ-tát Ma-ha-tát có hai, đấy là lược nói về đạo mau chóng chứng đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những gì là hai đạo? Đó là: (1) Đạo phương tiện. (2) Đạo trí tuệ. Đạo phương tiện: Là nhận biết, thâu giữ pháp thiện. Đạo trí tuệ: Là trí nhận biết đúng như thật về các pháp.
Lại, phương tiện là quán các chúng sinh. Trí tuệ là trí xa lìa các pháp. Lại, phương tiện là nhận biết các pháp tương ưng. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không tương ưng. Lại, phương tiện là quán con đường của nhân. Trí tuệ là trí diệt trừ con đường của nhân. Lại, phương tiện là nhận biết các pháp có khác nhau. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không khác nhau.
Lại, phương tiện là trang nghiêm cõi Phật. Trí tuệ là trí trang nghiêm cõi Phật bình đẳng, không sai biệt. Lại, phương tiện là đi vào nẻo hành nơi các căn của chúng sinh. Trí tuệ là trí không thấy có chúng sinh. Lại, phương tiện là được đến đạo tràng. Trí tuệ là trí có khả năng chứng đắc tất cả pháp Bồ-đề Phật.
Do nghĩa này, nên Đức Như Lai chỉ nói tám pháp không nhiều không ít.
Lại nữa, sở dĩ Đức Như Lai chỉ nói tám pháp: Là để gồm thâu trợ đạo và đoạn đạo. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Tức trong kinh kia nói: Lại nữa, này các Thiên tử! Các Đại Bồ-tát lại có hai thứ đạo tóm lược. Các Đại Bồ-tát do hai đạo này mà nhanh chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những gì là hai? Đó là: (1) Đạo hỗ trợ. (2) Đạo đoạn. Đạo hỗ trợ là năm pháp Ba-la-mật. Đạo đoạn là Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại, từ tâm sâu xa cho đến phương tiện, là dùng đạo hỗ trợ, gồm thâu năm Ba-la-mật. Thành tựu tâm xả là gồm thâu Bố thí Ba-la-mật. Thành tựu tâm hành là gồm thâu Trì giới Ba-la-mật. Thành tựu tâm sâu xa là gồm thâu Nhẫn nhục Ba-la-mật. Thành tựu tâm khéo nhận biết phương tiện hồi hướng là thành tựu sự khéo nhận biết phương tiện, gồm thâu Tinh tấn Ba-la-mật. Thành tựu tâm đại từ, thành tựu tâm đại bi là gồm thâu Thiền Ba-la-mật. Thành tựu Bát-nhã Ba-lamật là gồm thâu đạo đoạn.
Như thế, đạo có trở ngại, đạo không trở ngại, hữu lậu, vô lậu
v.v… đều có thể theo loại mà hiểu, nên biết.
Lại, gồm thâu đạo hữu lượng và vô lượng, như trong kinh kia đã nói: Lại có hai thứ đạo tóm lược: (1) Đạo hữu lượng. (2) Đạo vô lượng. Đạo hữu lượng là phân biệt giữ lấy tướng. Đạo vô lượng là không phân biệt giữ lấy tướng.
Lại, bảy câu, từ: Tâm sâu xa cho đến phương tiện: Là phân biệt giữ lấy tướng, gồm thâu đạo hữu lượng, nên biết. Như vậy, thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật là không phân biệt giữ lấy tướng, gồm thâu đạo vô lượng, nên biết.
Như thế, bốn nhà, bốn nhiếp, bốn vô lượng, ba mươi bảy phẩm, tất cả công đức của các Đại Bồ-tát, tùy theo nghĩa tương ưng, tám pháp đều gồm thâu, nên biết.
* Nên nói về nghĩa của tâm sâu xa. Thế nào là nghĩa của tâm sâu xa?
Đáp: Nghĩa của tâm sâu xa: Là tâm thật sự không trụ, không phải là tâm tương ưng với tướng khác của mạn, sử, tương ưng với năm ấm, dấy khởi nghiệp. Do tu hành làm tăng trưởng nhân quả, nên nhân của tâm sâu xa không cùng lìa bỏ quả của Niết-bàn, không cùng lìa bỏ sự tu tập căn thiện, vì không phải là tâm tương ưng. Hành thuộc về tụ ấm, Thể tùy thuận quả Niết-bàn, như nhân nơi văn tuệ sinh khởi các tuệ khác v.v… Đó gọi là tâm sâu xa.
Lại, tâm sâu xa là tâm ít khi trụ, lìa tâm tương ưng, là Thể của hành căn thiện, dựa vào hành dấy khởi hành. Cũng như dòng nước chảy, tuần tự sinh các pháp. Đó gọi là tâm sâu xa.
Lại, tâm sâu xa là dựa vào chủng tử sinh. Cũng như tất cả pháp trắng như sữa v.v… là tùy thuận nơi nhân duyên tu hành pháp thiện. Đó gọi là tâm sâu xa.
Lại, tâm sâu xa ví như vật bị cuốn lại đã lâu, dù có mở kéo ra, tạm thời rồi cũng trở lại như cũ. Tâm sâu xa cũng thế, tùy thuận nhân gốc tạo ra các pháp, rồi lại tiếp tục như cũ, không thể nói là một, không thể nói là khác. Đó gọi là tâm sâu xa.
Lại, tâm sâu xa là tu học pháp trắng, gọi là tâm sâu xa. Lại, tâm sâu xa là tâm tu hành tất cả pháp của căn thiện, thành tựu không mất, không tăng, không giảm pháp Đại Niết-bàn, gọi là tâm sâu xa.
Hỏi: Như trong Kinh Tỳ Ma La Cát Lợi Trí Sở Thuyết có nói: Đại Bồ-tát tu tập vô lượng hành có vô lượng tâm. Tâm sâu xa ấy là khởi hành gì?
Đáp: Tâm sâu xa này đều có thể phát khởi cầu Bồ-đề Phật với hết thảy các hành, đó gọi là tâm sâu xa. Vì sao? Vì do tâm sâu xa này phát sinh tất cả nhân của Bồ-đề, đều có thể tăng trưởng sức mạnh của các công đức. Ví như giới. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Như người giữ giới được căn thiện nơi giới, với vô lượng sai biệt của tất cả pháp thiện đều gọi là giới. Ba nghiệp thân, miệng, ý đều thành tựu, gọi là giới. Vì sao? Vì nghiệp thân, miệng, ý là cội rễ của các pháp thiện. Tâm sâu xa cũng thế, cùng với tất cả hành thiện dùng làm căn bản cho nhân của Bồ-đề Phật. Thế nên, trong Kinh Già Da Sơn Đảnh, Thiên tử Nguyệt Tịnh Quang Đức hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Tâm sâu xa thanh tịnh của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thùsư-lợi trả lời: Này Thiên tử! Tâm sâu xa thanh tịnh của các Đại Bồ-tát lấy tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng làm gốc. Vì nghĩa đó, nên trong kinh này đã nói đến tâm sâu xa.
Lấy tâm Bồ-đề làm gốc, như trong Kinh Kim Cang Mật Tích đã nói.
Do công đức của tâm sâu xa, các Đại Bồ-tát không hề lừa dối thế gian, vì thế nên nói là nhân của Bồ-đề, nên biết.
Hỏi: Do nghĩa gì để có thể nói các Đại Bồ-tát đã thành tựu tâm sâu xa?
Đáp: Do tất cả pháp được đối trị không thể làm lay chuyển. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Nghĩa là do vô số thứ khổ não không thể lay chuyển được. Tất cả Bồ-tát cầu tâm Bồ-đề, lúc ấy, Bồ-tát được gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Lại, các Bồ-tát đối với thân khác tâm ưa thích có sức hàng phục tâm ưa thích của tự thân. Câu này nêu rõ về nghĩa gì? Do Bồ-tát đó tự cầu tâm ưa thích, vì ban cho người khác niềm vui, nên tâm sâu xa hàng phục, lúc đó Bồ-tát gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Lại, thành tựu tâm sâu xa là do đạt đến cứu cánh. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì dựa nơi tâm sâu xa, các pháp thấp, vừa, và cao, theo thứ lớp tăng trưởng, cho đến hoàn toàn vững chắc, đó gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Lại, thành tựu tâm sâu xa là do khởi tâm khó xả mà có thể xả. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí khó thực hành như bố thí Ba-la-mật v.v…, lúc này tâm sâu xa phát khởi các tâm như tâm tu hành v.v… khi ấy Bồ-tát được gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết. Như trong Kinh Thánh Giả Vô Tận Ý nói: Dùng đầu để bố thí v.v… là việc làm rất khó xả mà có thể xả, gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Lại, thành tựu tâm sâu xa là do có khả năng hàng phục các tâm như keo kiệt, ganh ghét v.v… Câu này nêu bày về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đã hoàn toàn thành tựu tâm sâu xa, nên có khả năng hàng phục các pháp mâu thuẫn với đạo Bồ-đề, như tánh keo kiệt, ganh ghét v.v…, lúc đó, Bồ-tát gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết. Như trong Kinh Thánh Giả Vô Tận Ý nói: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát có tâm sâu xa, là do họ hàng phục được tâm đố kỵ, giáo hóa được các chúng sinh keo kiệt, ganh ghét v.v… Như vậy v.v… gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Lại, thành tựu tâm sâu xa là do nhân quả không cùng tận. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do nhân quả nơi tâm sâu xa của các Bồ-tát là vô tận, lúc đó được gọi là Bồ-tát mềm dịu, nên biết.
Nhân không cùng tận: Là tu hành rộng lớn vô lượng vô biên. Quả không cùng tận: Là tất cả pháp Phật đều vô lượng vô biên, do nhân của Tam bảo không đoạn dứt.
Lại, trong Kinh Vô Tận Ý có đoạn nói: Tâm sâu xa của Bồ-tát tu hành bố thí v.v… Do có thể xả thí tất cả vật cần dùng, đó gọi là Bồtát tu hành thành tựu. Lại nói: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Mười lực, bốn pháp không sợ hãi, mười tám pháp bất cộng của chư Phật Như Lai, lược nói cho đến tất cả các pháp Phật đều không thể cùng tận. Thế nên tâm sâu xa cũng không thể cùng tận. Do quả tu hành không thể cùng tận, nên nói Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa.
Lại, thành tựu tâm sâu xa là dựa vào kinh này để nói, nên biết. Trong kinh này nói: Này Bồ-tát Di-lặc! Nếu Đại Bồ-tát nghe tán thán Phật hay hủy báng Phật, tâm hoàn toàn vững chắc, không lay động đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Như vậy, nếu nghe tán thán Pháp, Tăng, hay hủy báng Pháp, Tăng cũng lại như thế. Bồ-tát nhận biết đúng như thật về mười hai nhân duyên như thế, tức là nhận biết Pháp thân của chư Phật Như Lai, thành tựu tâm kiên cố đối với Tam bảo, do tâm sâu xa chứng được trí vô lậu rốt ráo, nên tất cả ngoại đạo, các ma oán địch đều không thể làm cho thoái chuyển, thế nên Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa.
* Do nghĩa gì trước nói tâm sâu xa, sau đó mới nói tới tu hành (Thành tựu tâm hành)?
Đáp: Do sự tu hành kia là nhân của sự chứng đắc trí. Đây là làm rõ về nghĩa gì? Do tâm tu hành có thể làm nhân chứng đắc của tâm sâu xa. Do khởi tâm đại từ, đại bi, nên tâm này tức hộ trì quả vị Phật, nên biết. Nhưng tâm sâu xa kia không thể thấy được. Do dựa nơi tâm sâu xa, nên các thức như nhãn, nhĩ v.v… ở trong cảnh giới không thể phát sinh tâm gây tổn hại v.v… Vì đem lại lợi ích cho người khác, nên lìa bỏ hành giết hại v.v… là chỉ rõ về tâm kia. Vì ý nghĩa này nên trước nói tâm sâu xa, sau đó mới nói về tu hành, nên biết.
Lại nữa, chỉ rõ về nghĩa thứ lớp. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì tất cả các pháp đều phải nên sinh khởi theo thứ lớp như thế, nghĩa là trước nói tâm sâu xa, sau nói đến việc tu hành.
Hỏi: Thế nào là nghĩa tu hành?
Đáp: Vì tạo lợi ích cho người khác, nên khởi các nghiệp thân, miệng, ý với tâm sâu xa không gây tổn hại cho họ, gồm thâu hành tự lợi cùng hành lợi tha. Đó gọi là tu hành.
Hỏi: Thế nào là Bồ-tát thành tựu tu hành?
Đáp: Do Bồ-tát hành không chung với ngoại đạo, Thanh văn và Phật-bích-chi. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Vì mong cầu an lạc của thế gian nên các ngoại đạo tu tập nghiệp đạo thiện, chỉ tham vướng nơi quả báo là an lạc của thế gian, nên các hành tu tập đều thành tựu quả của thế gian. Do chỉ thành tựu quả thế gian, nên không thể thành tựu tu hành.
Lại, do hàng Thanh văn và Phật-bích-chi v.v… đều cầu an vui của Niết-bàn mà tu tập nghiệp đạo thiện, nhưng lìa bỏ tâm đại bi nên chỉ thành tựu quả Niết-bàn của Tiểu thừa. Đối với quả vị Bồ-tát, người Thanh văn kia không được gọi là thành tựu tu hành. Bồ-tát đã vượt quá tất cả thế gian, nhận thấy vô số lỗi lầm của các thế gian, cho đến không tham vướng quả báo an lạc của Chuyển luân Thánh vương, tuy có khả năng chứng đắc Niết-bàn của Tiểu thừa, nhưng vì dựa nơi tâm đại từ bi dũng mãnh, nên Bồ-tát xả bỏ Niết-bàn an lạc, cầu Bồ-đề Phật, tu hành mười nghiệp thiện, là để cứu độ hết thảy chúng sinh, thâu giữ những đại nguyện thù thắng. Tâm Bồ-tát chỉ lấy Nhất thiết chủng trí làm cứu cánh, thế nên Bồ-tát không đồng với tất cả ngoại đạo, Thanh văn và Phật-bích-chi v.v… khi tu hành mười nghiệp đạo thiện. Do đó gọi là thành tựu tu hành.
Lại, thành tựu tu hành là do thọ trì mười nghiệp đạo thiện tăng thượng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do sự tu hành mười nghiệp đạo thiện của Bồ-tát là vượt quá hàng Thanh văn, Phật-bích-chi v.v…, thế nên gọi là thành tựu tu hành.
Các Đại Bồ-tát có năm thứ pháp vượt hơn mười nghiệp đạo thiện của hàng Thanh văn. Những gì là năm pháp? Đó là:
- Chuyên tâm tu hành.
- Thường tu hành.
- Vì an ổn cho tự thân.
- Vì an ổn cho thân người khác.
- Khéo thanh tịnh.
Chuyên tâm tu hành: Là tâm hoàn toàn không lìa một vị.
Thường tu hành: Là không đoạn, không dứt, không dừng nghỉ.
Vì an ổn cho tự thân: Là tự thân nhận lấy sự an ổn của hàng trời, người và Đại Bồ-đề.
Vì an ổn cho thân người khác: Là ban cho tất cả chúng sinh sự an ổn và hoàn toàn hồi hướng về Đại Bồ-đề để cứu độ vô số chúng sinh.
Khéo thanh tịnh: Là không phá bỏ, không xét nét, không cấu nhiễm, không bị lệ thuộc, khéo đạt cứu cánh, không ăn, được bậc trí khen ngợi.
Phá bỏ là một phần ít tu trị, một phần ít không tu trị, nên gọi là phá bỏ. Cho nên Bồ-tát đầy đủ sự tu trị, nên gọi là không phá bỏ.
Xét nét là tự mình không tu hành, lại khuyên dạy người khác tu hành, nên gọi là xét nét. Bồ-tát luôn tự mình tu hành rồi khuyên bảo người khác tu hành, nên gọi là không xét nét.
Nhiễm là tự mình không tu hành, không chỉ dạy người khác tu hành, thấy người khác tu hành tâm không tùy hỷ, nên gọi là nhiễm. Bồ-tát tu hành đầy đủ, gọi là không cấu nhiễm.
Lệ thuộc là chủ yếu dựa vào trí của người khác mới có thể tu hành, nên gọi là lệ thuộc. Bồ-tát không dựa vào trí của người khác để có thể tu hành, nên gọi là không bị lệ thuộc.
Khéo đạt cứu cánh là chuyên niệm rốt ráo về tâm dục, chuyên niệm rốt ráo về tâm ái, chuyên niệm rốt ráo về tâm cung kính, chuyên niệm rốt ráo về tâm tin, chuyên niệm rốt ráo về tâm lo sợ, chuyên niệm rốt ráo về tâm vô thường. Do nghĩa này nên gọi là khéo đạt cứu cánh.
Ăn là hồi hướng về hữu thủ, có của cải để sinh sống, nên gọi là ăn. Bồ-tát không thủ nơi hữu, nên gọi là không ăn.
Bậc trí không khen ngợi là trong thừa Thanh văn, Phật-bích-chi hồi hướng về thế gian, trong Đại thừa hồi hướng về thừa Thanh văn và Phật-bích-chi, nên gọi là bậc trí không khen ngợi. Bồ-tát trong thừa Thanh văn và Phật-bích-chi không hồi hướng về thế gian, trong Đại thừa không hồi hướng về thừa Thanh văn và Phật-bích-chi, như vậy gọi là được bậc trí khen ngợi.
Lại, thành tựu tu hành là ra khỏi, vượt quá tất cả các thế gian. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát tu hành mười nghiệp đạo thiện, vượt hơn các thế gian, thế nên gọi là thành tựu tu hành, nên biết.
Bồ-tát có năm thứ pháp nên tu hành mười nghiệp đạo thiện, có thể vượt quá tất cả thế gian. Những gì là năm pháp? Đó là:
- Nguyện.
- An ổn.
- Tâm sâu xa.
- Khéo thanh tịnh.
- Phương tiện.
Nguyện: Là mọi phát nguyện của Đại Bồ-tát, tất cả hàng phàm phu, Thanh văn và Phật-bích-chi đều không thể phát nguyện như thế. Do đó, Bồ-tát dựa vào nguyện, tu hành mười nghiệp đạo thiện, tức có khả năng vượt quá tất cả thế gian, như trong kinh của Đại thừa, Kinh Vô Cấu Đức Nữ Sở Thuyết nói: Này Tôn giả Mục-kiền-liên! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi đạo tràng, thường vì tất cả hàng trời, người của thế gian làm phước điền, vượt hơn các hàng Thanh văn và Phật-bích-chi.
An ổn: Là do các Bồ-tát tuy bị các thứ khổ não sâu nặng của thế gian bức bách, nhưng Bồ-tát không hề xoay chuyển, luôn giữ lấy tâm cầu đạt Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng nên Bồ-tát chuyên tâm tu hành mười nghiệp đạo thiện. Thế nên Bồ-tát đã dựa nơi tâm an ổn, tu hành mười nghiệp đạo thiện, tức có khả năng vượt quá tất cả thế gian.
Tâm sâu xa: Là do tu hành tối thắng, do các Bồ-tát có tâm yêu mến vô cùng sâu xa, nên Bồ-tát tu hành mười nghiệp đạo thiện. Bồtát đã dựa nơi tâm sâu xa, tu hành mười nghiệp đạo thiện như vậy, nên có khả năng vượt quá tất cả thế gian.
Khéo thanh tịnh: Là từ Địa thứ ba trở lên gọi là Bồ-tát thanh tịnh. Vì sao? Là do các Đại Bồ-tát có ba thứ thanh tịnh để tu hành mười nghiệp đạo thiện. Bồ-tát đã dựa vào thanh tịnh, tu hành mười nghiệp đạo thiện nên có khả năng vượt quá tất cả thế gian.
Phương tiện: Nghĩa là Bồ-tát ở trong các pháp nào, dùng phương tiện gì để tu hành mười nghiệp đạo thiện? Bồ-tát có đủ phương tiện, còn các chúng sinh nơi thế gian đều không có phương tiện như thế. Bồ-tát đã dựa vào lực của phương tiện, tu hành mười nghiệp đạo thiện, nên có khả năng vượt quá tất cả thế gian.
Lại, thành tựu tu hành là do thời gian v.v… vô lượng. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát ở trong vô lượng đời, tu hành vô lượng hành của mười nghiệp đạo thiện, thế nên Bồ-tát thành tựu tu hành.
Lại, các Bồ-tát lại có năm thứ pháp nên tu hành vô lượng mười nghiệp đạo thiện. Những gì là năm pháp? Đó là:
- Vô lượng đời.
- Vô lượng pháp thiện.
- Vô lượng quán.
- Vô lượng tận.
- Vô lượng hồi hướng.
Vô lượng đời: Là do các Bồ-tát đã trải qua vô lượng đời tu hành mười nghiệp đạo thiện. Thế nên Bồ-tát trong vô lượng thời gian đã tu hành mười nghiệp đạo thiện.
Vô lượng pháp thiện: Là do các Bồ-tát tu hành vô lượng pháp thiện, vì pháp thiện kia là vô lượng, nên Bồ-tát đã khởi vô lượng nghiệp đạo thiện để tu hành. Như trong Tu-đa-la của Đại thừa, Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni, Đức Như Lai có nói: Này Ca-diếp! Như sinh tô có đầy trong bốn biển lớn, tất cả chúng sinh được thọ dụng. Đại Bồ-tát tu tập tất cả căn thiện hữu vi cũng lại như thế. Do các Bồ-tát hồi hướng đều nhận lấy trí vô lậu kia, nên có thể ban cho chúng sinh thọ dụng.
Vô lượng quán: Là do vô lượng chúng sinh mà quán. Do các Bồ-tát không phải vì chúng sinh hữu lượng mà tu hành mười nghiệp đạo thiện, không sinh khởi ý niệm này: Ta vì từng ấy chúng sinh mà tu tập căn thiện, hay không vì từng ấy chúng sinh mà tu tập căn thiện. Vì các Bồ-tát đều quán tất cả chúng sinh để tu tập căn thiện, nên Bồtát được vô lượng nghiệp thiện.
Vô lượng tận: Là như trong Tu-đa-la Như Lai Thanh Tịnh Tỳ Ni có nói: Này các Thiên tử! Ví như trưởng giả có vô lượng của cải, là người đại xả, là người hành tâm đại từ, là người hành tâm đại bi, là thương chủ lớn, vì thương xót tất cả chúng sinh làm người tu hành tâm không thoái chuyển, khởi tâm niệm: Ta có thể ban cho tất cả chúng sinh vô lượng vô biên niềm vui an ổn. Này các Thiên tử! Đại Bồ-tát cũng lại như thế. Do trụ nơi tâm sâu xa, vì các chúng sinh nên trụ trong tâm an ổn phát khởi tâm đại tinh tấn, suy nghĩ như vầy: Ta sẽ giáo hóa vô lượng vô biên chúng sinh đang bị khổ não, khiến đều được ở yên trong Niết-bàn an lạc. Thế nên Bồ-tát tu hành vô tận.
Vô lượng hồi hướng: Là như trong Địa thứ nhất v.v…, khởi vô lượng nguyện hạnh gồm mười câu cùng tận. Bồ-tát đã dùng mười câu cùng tận vô lượng đó để tu hành mười nghiệp đạo thiện, cũng lại vô lượng. Vì do dựa vào hồi hướng vô lượng trước đây, nên Đại Bồ-tát tu hành tất cả nghiệp đạo thiện, quả cũng lại vô lượng. Đó gọi là vô lượng hồi hướng.
Lại, thành tựu tu hành là do chân thật. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Đại Bồ-tát đã tu hành chân thật, hy hữu đối với mười nghiệp đạo thiện, thế nên Bồ-tát thành tựu tu hành.
Bồ-tát có năm thứ pháp thành tựu hy hữu. Những gì là năm pháp? Đó là:
- Khởi tâm đại dũng mãnh.
- Tinh tấn.
- Kiên cố.
- Tuệ.
- Quả.
Khởi tâm đại dũng mãnh: Là phát tâm có thể nhận lấy đạo quả Chánh đẳng Chánh giác vô thượng. Giả sử có người hoặc dùng hai ngón tay, hoặc một lóng tay, nâng cao Tam thiên đại thiên thế giới, với vô lượng kiếp đứng yên thì sự việc ấy không phải là khó. Phát tâm để chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, sự việc này mới là khó. Thế nên Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hy hữu.
Tinh tấn: Là Bồ-tát nghĩ như vầy: Chúng sinh có thể phát tâm đại dũng mãnh, vô lượng vô biên người siêng năng tinh tấn vẫn còn quá ít không đủ để nói. Nếu người có thể tinh tấn cầu Bồ-đề, sự việc ấy là hết sức hy hữu. Thế nên Bồ-tát nếu muốn cầu vô lượng công đức hy hữu bậc nhất, thì phải dựa nơi đại tinh tấn, tu tập nghiệp đạo thiện. Vì vậy nói Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hy hữu.
Kiên cố: Là do các Bồ-tát phát khởi đại tinh tấn, tu hành nghiệp đạo thiện, trụ trong lực kiên cố hy hữu bậc nhất để có thể tiến đến tinh tấn rốt ráo. Thế nên Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hy hữu.
Tuệ: Là như Bồ-tát nghĩ thế này: Các pháp như dũng mãnh, tinh tấn, kiên cố v.v… đều dựa vào căn bản của Bát-nhã mà có, thế nên Bát-nhã là pháp hy hữu. Vì sao? Vì dựa vào Bát-nhã mới có được sự dũng mãnh, tinh tấn, kiên cố. Thế nên Bồ-tát tự suy nghĩ: “Ta phải dựa vào pháp Bát-nhã hy hữu để tu hành nghiệp đạo thiện”. Vì thế, Bồ-tát thành tựu tâm Bát-nhã.
Quả: Là do dựa vào sự tu hành nghiệp đạo thiện v.v… nên có thể sinh ra quả là chứng được vô lượng vô biên tất cả pháp Phật. Do đó nói Bồ-tát thành tựu pháp hy hữu.
Lại, thành tựu tu hành là do phương tiện thâu giữ. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát đều dựa nơi sức mạnh của phương tiện nên gồm thâu hết thảy. Do vậy, việc tu hành nghiệp đạo thiện của Bồ-tát không đồng với hàng Thanh văn và Phật-bích-chi. Thế nên nói Bồ-tát thành tựu tu hành.
Bồ-tát có năm thứ pháp gồm thâu phương tiện. Những gì là năm pháp? Đó là:
- Trí thời xứ.
- Trí hồi chuyển nhập.
- Trí hòa hợp.
- Trí vừa ý.
- Trí thứ lớp.
Trí thời xứ: Nghĩa là do những thời nào nên giảng nói pháp như thế. Do những xứ nào để giảng nói pháp như thế. Tùy theo những thời nào nên giáo hóa chúng sinh như thế. Tùy theo những xứ nào để giáo hóa chúng sinh như thế. Bồ-tát đều nhận biết đúng như thật về tất cả việc đó, do dựa nơi trí thời xứ như thế như thế, giáo hóa chúng sinh như thế như thế. Đó gọi là trí thời xứ
Trí hồi chuyển nhập: Là Bồ-tát đã nhận biết đúng như thật về tất cả chúng sinh, ở trong pháp ngoại đạo nên xoay chuyển như thế, nên nhận biết đúng như thật ở trong pháp Phật nên hội nhập như thế. Nhận biết đúng như thật về sự xoay chuyển như thế. Nhận biết đúng như thật về việc đặt để chúng sinh trong an lạc. Nhận biết đúng như thật về sự đặt để trong pháp Phật như thế, không còn xoay chuyển nữa. Giữ lấy pháp ngoại đạo, nơi đó chẳng phải là quán mười hai nhân duyên, mà quán sự xoay chuyển. Đó gọi là trí hồi chuyển nhập.
Trí hòa hợp: Là tùy thuận nơi các chúng sinh, dùng những pháp môn nào để tương hợp khéo léo. Bồ-tát nhận biết các pháp môn kia, dựa vào các pháp môn kia để hòa hợp với các chúng sinh kia, như tín, như lực, như phần giáo hóa. Đó gọi là trí hòa hợp.
Trí vừa ý: Là Bồ-tát nhận biết ý định của chúng sinh, nhận biết niềm tin của chúng sinh, nhận biết rõ chúng sinh mong cầu điều gì. Bồ-tát nhận biết chúng sinh như thế, nên nhập vào sự tu hành của các chúng sinh đó, nhập nơi niềm tin, nhập nơi ý định mong cầu, nhập nơi ngôn ngữ. Vì biết tùy thuận như vậy, nên Bồtát khởi sự việc có thể giáo hóa. Như thế là khởi không hồi chuyển. Đó gọi là trí vừa ý.
Trí thứ lớp: Là Bồ-tát nhận biết nghiệp của chúng sinh, biết theo thứ lớp, biết một cách lần lượt. Đó là trong thừa Thanh văn, nói đến hành bố thí, trì giới, quả báo là sinh vào hàng trời người. Nói đến lỗi lầm các dục. Nói lỗi lầm cấu nhiễm của đời sống tại gia. Nói lợi ích của đời sống xuất gia v.v…
Lại nói về khổ, tập, diệt, đạo, tiếp theo nói về các quả Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, sau đó nói về nẻo giải thoát không thể hủy hoại, sau nữa là nói về sự vô ngại.
Ở trong thừa Phật-bích-chi nói về tích trữ là lỗi lầm, tán dụng là lợi ích. Nói tại gia thì lỗi lầm, xuất gia là lợi ích. Nói về hý luận là lỗi lầm, tịch tĩnh là lợi ích. Nói nơi xóm làng là lỗi lầm, chốn A-lannhã là lợi ích. Nói về phòng hộ các căn môn, biết hạn lượng trong ăn uống. Đầu đêm cuối đêm luôn siêng năng tinh tấn tu hành. Nói đến lỗi lầm của niệm tưởng trong quán, vui thích chốn thanh vắng trống trải. Nói về sự tôn trọng giới cấm, tôn trọng Tam-muội, tôn trọng Bát-nhã, không bị chê trách hay khen ngợi về lợi ích của tự thân, tán thán pháp sâu xa, không phải người khác nhận biết được.
Như thế v.v…, ở trong Đại thừa, thứ lớp giải thích quảng diễn về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Tiếp đến nói về thật, xả, tuệ diệt. Đó gọi là trí thứ lớp.
Lại, thành tựu tu hành là phát tâm Bồ-đề, mười câu nói về nguyện, mười câu nói về tận, mười câu nói về xa lìa pháp thoái chuyển, tu hành pháp không thoái chuyển, ca ngợi tinh tấn vững chắc, ca ngợi tâm kiên cố, ca ngợi trí an trụ. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
Lại, thành tựu tu hành là khen ngợi pháp của địa an trụ. Khen ngợi toàn bộ pháp của địa tất cánh. Nói về pháp của địa nhiễm thoái. Khen ngợi pháp của địa thanh tịnh. Khen ngợi pháp của địa có thể tiến tới. Khen ngợi pháp có thể đạt được của trung gian trụ địa. Nói pháp thoái chuyển của địa. Khen ngợi pháp của quả vị địa. Khen ngợi pháp quả tập khí của địa. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
Lại, thành tựu tu hành là nói về các Địa. Đó là địa Hoan hỷ, địa Ly cấu, địa Minh, địa Diệm, địa Nan thắng, địa Hiện tiền, địa Viễn hành, địa Bất động, địa Thiện tuệ và địa Pháp vân. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
Lại, thành tựu tu hành là do các Bồ-tát với tâm sâu xa thâu giữ pháp thắng diệu. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Là tâm sâu xa của Bồ-tát thâu giữ pháp diệu vì Tam bảo không đoạn dứt, vì giáo hóa chúng sinh nên hành trì hạnh Bồ-đề, vì Nhất thiết chủng trí nên tu tập nghiệp đạo thiện. Thế nên Bồ-tát thành tựu việc tu hành nghiệp đạo thiện.
Bồ-tát có năm thứ pháp để thâu giữ pháp diệu. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Vì muốn đền đáp công ơn của chư Phật. (2) Vì tự thân nên khiến cho pháp diệu thường trụ. (3) Cúng dường chư Phật. (4) Vì muốn đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh. (5) Vì pháp diệu khó đạt được.
Lại có năm thứ pháp gọi là thâu giữ pháp diệu. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Tự tu hành như thật. (2) Chỉ dạy kẻ khác tu hành như thật. (3) Hàng phục các thứ ma ác phá hoại. (4) Bỏ A-ba-đề-xá đen. (5) Thâu giữ đại A-ba-đề-xá.
Này các Tỳ-kheo! Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
Lại, thành tựu tu hành là do nghiệp đã tạo không thể chê trách. Đây là nêu rõ về nghĩa gì? Do các Bồ-tát trong tất cả việc làm, trụ trì, tu tập nghiệp đạo thiện v.v… đều không thể chê trách. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
Có năm thứ pháp giúp cho các nghiệp thành tựu không thể chê trách. Những gì là năm pháp? Đó là: (1) Mọi sự hành tác, tất cả đều có thể thành tựu. (2) Có thể đạt được quả lớn. (3) Không trái với pháp thiện. (4) Tùy thuận pháp thanh tịnh. (5) Đức xứng hợp với danh tiếng. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu tu hành.
HẾT – QUYỂN 3