Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

VÃNG SINH CHÁNH NHÂN ĐỆ NHỊ THẬP NGŨ

Trong phẩm “Tam Bối vãng sinh” chú trọng phẩm vị sau khi vãng sinh. Phẩm này bàn rộng thêm về chánh nhân vãng sinh. Ba bậc vãng sinh chính là quả của những chánh nhân sẽ nói trong phẩm nầy. Ða số các chánh nhân nói trong phẩm nầy đều giống với các Tịnh nghiệp nói trong Quán Kinh. Quán Kinh dạy:

“Sinh bỉ quốc giả, đương tu tam phước: 

– Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp.

– Nhị giả, thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.

– Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.

Như thị tam sự, danh vi Tịnh nghiệp. 

Phật cáo Vi Đề Hi: – Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng nghiệp, nãi thị quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật Tịnh nghiệp chánh nhân”. 

(Muốn) sinh về nước ấy, nên tu ba phước:

– Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp.

– Hai là thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.

– Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyên người tinh tấn tu hành. Ba sự ấy gọi là Tịnh nghiệp.

Phật bảo Vi Ðề Hi: – Ngươi biết chăng? Ba thứ chủng nghiệp ấy chính là chánh nhân tịnh nghiệp của quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời chư Phật).

Kinh còn dạy: “Phục hữu tam chủng chúng sinh, đương đắc vãng sinh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển. Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sinh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật nãi chí thất nhật, tức đắc vãng sinh”

 (Lại có ba hạng chúng sinh sẽ được vãng sinh. Những gì là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa. Ba là tu hành sáu niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sinh cõi ấy. Ðầy đủ các công đức này trong một ngày cho đến bảy ngày thì được vãng sinh).

“Tu hành sáu niệm” là: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, nhiệm Thí, niệm Thiên. “Thí” là bố thí, buông xả. “Niệm thiên” là lễ kính chư thiên. Vì sao niệm thiên? Vì chư thiên là người tu thượng phẩm thập thiện, làm được điều thứ nhất trong “tam phước” là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát”, đáng được tôn kính. Họ đầy đủ căn cơ Đại thừa, nếu gặp được thắng duyên, họ nhất định sẽ tu học Đại thừa.

KINH VĂN:

Phục thứ A Nan! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thử kinh điển, thọ trì, độc tụng, thư tả, cúng dường, trú dạ tương tục, cầu sinh bỉ sát, phát Bồ Đề tâm, trì chư cấm giới, kiên thủ bất phạm, nhiêu ích hữu tình, sở tác thiện căn tất thí dữ chi, linh đắc an lạc, ức niệm Tây Phương A Di Đà Phật, cập bỉ quốc độ. Thị nhân mạng chung, như Phật sắc tướng, chủng chủng trang nghiêm, sinh bảo sát trung, tốc đắc văn pháp, vĩnh bất thoái chuyển. VIỆT DỊCH:  

Lại nầy A Nan! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh điển nầy, thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường liên tục ngày đêm, cầu sinh cõi kia, phát Bồ Ðề tâm, trì các cấm giới, giữ vững chẳng phạm, lợi lạc hữu tình, các thiện căn đã làm đều đem thí cho (hữu tình) khiến họ được an lạc, ức niệm A Di Ðà Phật ở phương Tây và cõi nước kia. Người ấy lúc mạng chung sẽ đắc sắc tướng như Phật, các thứ trang nghiêm, sinh trong cõi báu, chóng được nghe pháp, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển.

GIẢNG:

Ðoạn kinh văn trên trích từ bản Tống dịch, nói về chánh nhân vãng sinh thứ nhất, gồm có sáu điều như sau:.

1- “Thọ trì kinh này” Quán kinh nói: “Đọc tụng Đại Thừa” đây là điều thứ ba trong Tịnh nghiệp tam phước.

Sách Quán Kinh Ước Luận bảo: “Không đọc Ðại Thừa sẽ không thể hiểu nổi tâm Phật. Không hiểu tâm Phật thì không khế hợp Phật trí. Không khế hợp Phật trí, dù có sinh cõi kia cũng không thấy được Phật”.

Ngay đầu phẩm kinh này đã dạy: “Văn thử kinh điển, thọ trì, độc tụng, thư tả, cúng dường, trú dạ tương tục” (Nghe kinh điển này thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, liên tục ngày đêm). Chữ “Thử kinh” (kinh này) chính là kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác. Kinh nầy là kinh Tịnh Ðộ bậc nhất, cũng chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm, được đức Thế Tôn  huyền ký trong kinh Vô Lượng Thọ như sau: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh, chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sinh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ”. Ý nói: Vào lúc kinh đạo diệt tận trong thời tương lai, riêng lưu lại kinh nầy một trăm năm, để làm phương tiện cứu vớt chúng sinh đời mạt pháp.  Chúng ta muốn vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc cũng phải nương vào bộ kinh này.

Chữ “thử kinh” trên đây cũng hàm chỉ tất cả các bản dịch Hán, Ðường, Ngô, Ngụy, Tống của kinh Vô Lượng Thọ lẫn các hội bản, tiết bản của các ông Vương Nhật Hưu, Bành Tế Thanh, Ngụy Thừa Quán. Chỉ cần thọ trì một trong các bản ấy, đều là chánh nhân. Nhưng riêng hội bản nầy của Ngài Hạ Liên Cư là hoàn thiện nhất, trì tụng bản nầy công đức càng thù thắng hơn.

Chữ “trú dạ tương tục” (ngày đêm liên tục) biểu thị sự dũng mãnh, tinh tấn, không hề gián đoạn.

2. – Cầu sinh bỉ sát” (Cầu sinh cõi kia): Ðem các công đức ngày đêm thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường hồi hướng cầu sinh Cực Lạc.

3. – Phát Bồ Ðề tâm”: Bởi“Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” là tông chỉ của kinh này, là khuôn phép chánh của ba bậc vãng sinh.

4. -“Trì chư cấm giới, kiên thủ bất phạm” (Trì các cấm giới, giữ vững chẳng phạm): Có nghĩa là phải nghiêm trì giới luật, như Quán Kinh dạy “cụ chư giới hạnh” (đủ các giới hạnh) hoặc “cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi). Bởi nếu không có giới hạnh, khác nào đồ đựng có lỗ thủng, dẫu siêng niệm Phật cũng khó bề được vãng sinh!

5. – “Nhiêu ích hữu tình” (Lợi lạc hữu tình) là hạnh lợi tha của Bồ Tát như phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện dạy: “Bồ Tát nhược năng tùy thuận chúng sinh, tắc vi tùy thuận chư Phật. Nhược ư chúng sinh tôn trọng thừa sự, tắc vi tôn trọng thừa sự Như Lai” (Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sinh, tức là tùy thuận chư Phật. Nếu tôn trọng, thừa sự chúng sinh, chính là tôn trọng, thừa sự Như Lai). Vì sao vậy?, Vì trong Kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói “tất cả chúng sinh vốn là Phật”, cho nên tùy thuận chúng sinh chính là tùy thuận cúng dường chư Phật. Hành nhân tu Tịnh nghiệp nên rộng hành hạnh lợi lạc chúng sinh, nên nói:

“Sở tác thiện căn tất thí dữ chi, linh đắc an lạc” nghĩa là: Đem tất cả công đức, thiện căn ta có được đều thí cho tất cả chúng sinh, khiến họ được an lạc. Nên nhớ: Bồ tát chỉ cho đi mà không cầu nhận. Tất cả tội khổ của chúng sinh ta đều chịu thay.

6- “Ức niệm Tây Phương A Di Đà Phật cập bỉ quốc độ” (Nhớ  niệm đức Phật A Di Ðà ở phương Tây và cõi nước kia). Diệu hạnh Niệm Phật là vua của các điều thiện, mầu nhiệm nhất trong các sự mầu nhiệm. Chánh nhân niệm Phật quả thật là quan trọng hàng đầu.

Trí Giả Đại sư là tổ sư của tông Pháp Hoa, cuối cùng Ngài cũng niệm Phật vãng sinh, Ngài không tu Chỉ Quán. Trung Phong thiền sư triều Nguyên, cuối cùng Ngài cũng niệm Phật vãng sinh. Chư vị Tổ sư này đã vì chúng ta mà thị hiện “diệu hạnh”, con đường thành Phật.

Trong kinh Đại Tập, đức Thế Tôn nói rất rõ: Xưng niệm Phật A Di Đà  cầu sinh thế giới Cực Lạc, đó là “vô thượng thâm diệu thiền”. Vì thế, niệm Phật là vua trong các thiện, là diệu trong các diệu.

Những điều trên là Nhân, tiếp đây sẽ nói về Quả. Nhân quả phụ thuộc vào nhau như bóng theo hình: “Thị nhân mạng chung, như Phật sắc tướng chủng chủng trang nghiêm”. Ý nói người ấy lúc lâm chung, được sắc tướng như Phật, có thân sắc vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng, đầy đủ các thứ công đức trang nghiêm như Phật.

“Sinh bảo sát trung, tốc đắc văn pháp, vĩnh bất thoái chuyển”. Ý nói sinh trong cõi báu, chóng được nghe pháp,vĩnh viễn không thoái chuyển. Được nghe pháp mới khai ngộ; khai ngộ là chứng quả.

KINH VĂN: 

Phục thứ A Nan! Nhược hữu chúng sinh dục sinh bỉ quốc, tuy bất năng đại tinh tấn Thiền Định, tận trì kinh giới, yếu đương tác thiện. Sở vị: Nhất bất sát sinh, nhị bất thâu đạo, tam bất dâm dục, tứ bất vọng ngôn, ngũ bất ỷ ngữ, lục bất ác khẩu, thất bất lưỡng thiệt, bát bất tham, cửu bất sân, thập bất si. Như thị trú dạ tư duy, Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, chủng chủng công đức, chủng chủng trang nghiêm, chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường. Thị nhân lâm chung, bất kinh, bất bố, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh bỉ Phật quốc độ.

VIỆT DỊCH:

Lại này A Nan! Nếu có chúng sinh muốn sinh cõi ấy, nhưng chẳng thể đại tinh tấn Thiền Định, giữ trọn kinh giới,  phải nên hành thiện, nghĩa là: Một không sát sinh, hai không trộm cắp, ba không dâm dục, bốn không nói dối, năm không nói thêu dệt, sáu không ác khẩu, bảy không nói đôi chiều, tám không tham, chín không sân, mười không si. Ngày đêm tư duy như vậy, các thứ công đức, các thứ trang nghiêm của Cực Lạc thế giới, của A Di Ðà Phật, chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường. Người ấy lâm chung không kinh, không sợ, tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Phật kia. 

GIẢNG:

Kinh văn trên đây là chánh nhân vãng sinh thứ hai. Trong  chánh nhân này có ba điều: Tu hành Thập Thiện; ngày đêm niệm Phật; chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường.

1. -Tu hành Thập Thiện: Theo sách Pháp Giới Thứ Ðệ, Thập Thiện là để dứt ác. Dứt những điều ác thì không não loạn người khác. Lại nên thực hành điều thiện để lợi lạc tất cả.

– Không sát sinh: Dứt ác hạnh sát sinh, phải nên thực hành điều thiện phóng sinh.

– Không trộm cắp: Dứt ác hạnh trộm cắp tài vật của người, nên hành điều thiện bố thí.

– Không tà dâm (Không dâm dục): Dứt ác hạnh hành dâm với người chẳng phải là thê, thiếp của mình, nên hành điều thiện cung kính.

– Không nói dối: Dứt ác hạnh dối gạt người, nên hành điều thiện nói lời chân thật.

– Không nói thêu dệt: Dứt ác hạnh nói lời ác, thêu dệt, điên đảo lý lẽ, nên hành điều thiện nói lời có lợi ích cho người khác.

– Không ác khẩu: Dứt ác hạnh nói năng ác nghiệt, hại người, nên hành điều thiện nói năng nhẹ nhàng, mềm mỏng.

– Không nói hai chiều: Dứt ác hạnh nói xúi dục thị phi, khuấy rối cả hai bên, nên hành điều thiện nói lời hòa hợp.

– Không tham: Ðối với các ác hạnh chẳng chán nhàm vừa kể, nên hành điều thiện Bất Tịnh Quán, quán cả sáu trần đều hư dối, chẳng sạch.

– Không sân: Dứt những ác hạnh sân nộ, nên hành điều thiện từ bi, nhẫn nhục.

– Không si (Không tà kiến): Dứt các hạnh “bài bác không nhân quả, tà tâm, nói càn”, nên hành điều thiện chánh tín, tâm quay về chánh đạo, tâm thiện sinh trí tuệ.

Trong ngu si, không tin nhân quả là điều nghiêm trọng nhất. Người ngu si không có chánh tín, không tin Tam Bảo, không tin đạo đức, không tin nhân quả, nói càn làm quấy, phải nên quay về với chánh đạo, nên nói: “yếu đương tác thiện” (phải nên hành thiện). Mười điều thiện trên đây là hạnh lành của thế gian cũng là căn bản của Phật pháp.

Báo Ân Luận nói: “Phàm là hành thiện đều có thể vãng sinh;

nhưng cần phải thường xuyên niệm Phật hồi hướng chuyển  việc thiện thế gian thành cái nhân Tịnh Ðộ. Vì vậy, Phật giảng các kinh đều nói kèm thêm hành thiện thế gian; nhưng riêng với mười điều thiện nầy Phật giảng riêng một kinh gọi là  kinh Thập Thiện Giới. Tịnh ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng, ba nghiệp nơi ý chính là căn bản của việc tu trì vậy”.

2. – Ngày đêm niệm Phật, kinh dạy: “Trú dạ tư duy, Cực

Lạc thế giới A Di Đà Phật, chủng chủng công đức, chủng chủng trang nghiêm” (Ngày đêm tư duy các thứ công đức, các thứ trang nghiêm của Cực Lạc thế giới và của Phật A Di Ðà).

Trong Vãng Sinh Luận, Thiên Thân Bồ Tát đã lập ra “Ngũ Niệm Môn” là Lễ Bái môn, Tán Thán môn, Tác Nguyện môn, Quán Sát môn và Hồi Hướng môn. Luận viết: “Thế nào là tán thán? Khẩu nghiệp tán thán, xưng danh đức Như Lai kia”. Và: “Quán sát có ba thứ, những gì là ba? Một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi nước Phật ấy; hai là quán sát công đức trang nghiêm của A Di Ðà Phật; ba là quán sát công đức trang nghiêm của các Bồ Tát trong cõi ấy”.

*“Lễ Bái môn”: Theo Hòa Thượng Tịnh Không, “Lễ” là chiếc phục ngạo mạn của chính mình.

*“Tán thán môn”, tán thán là chiết phục đố kỵ của chính mình. Đây là hai tật xấu lớn của con người, không những hại mình, hại gia đình, còn hại đến xã hội, quả báo không thể lường được!

*“Tác nguyện môn”: Đây chính là phát tâm Bồ Đề. Khi chưa giác ngộ, tất cả đều vì mình. Thật sự giác ngộ, tất cả đều vì người. Vì người mới thật sự là vì mình. “Tác nguyện” vô cùng quan trọng. Sau khi nguyện rồi thì quán sát.

*“Quán sát môn”. Nếu kèm cả miệng niệm thì gồm cả môn thứ hai là Tán thán môn. Quán sát hoặc tán thán như thế liên tục ngày đêm, nên kinh nói “Trú dạ tư duy” (ngày đêm tư duy)

*“Hồi hướng môn” là đem tất cả công đức đã tu học được hồi hướng vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Đây chính là hồi hướng tự tánh, hồi hướng Thật Tế, hồi hướng Bồ Đề. Chúng ta không cầu gì cả, chỉ cầu trí tuệ viên mãn, hồi hướng chúng sinh, đây là chọn lựa thông minh nhất.

3. – “Chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường”: Đây là môn thứ nhất, tức Lễ Bái môn. Luận viết: “Thế nào là lễ bái? Thân nghiệp lễ bái A Di Ðà Như Lai, Ứng Chánh Biến Tri, ý mong sinh về cõi kia”.

“Quy y” lại chính là quy mạng, Vãng Sinh Luận nói: “Nên biết rằng quy mạng chính là lễ bái, nhưng lễ bái chỉ là cung kính, chớ chưa thật sự là quy mạng. Quy mạng tất nhiên là lễ bái. Nếu suy như vậy thì quy mạng đáng trọng hơn”.  Chúng ta bỏ ác hành thiện, không cầu phước báu nhân thiên, chỉ cầu vãng sinh Tịnh Độ; đó mới thật là  quy mạng, nương tựa Phật A Di Đà.

“Chí tâm quy y đảnh lễ, cúng dường”  là thể hiện cả  tấm lòng thành kính tinh chuyên rất mực.  Nên nhớ: Trong tất cả cúng dường, pháp cúng dường là tối thượng. Lại nữa, trong pháp cúng dường, y giáo tu hành cúng dường là trên hết, hoàn toàn tương ưng với bổn nguyện của chư Phật, Bồ tát.

Vãng Sinh Luận nói: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu thành tựu Ngũ Niệm Môn thì rốt ráo được vãng sinh cõi nước An Lạc, gặp đức A Di Ðà Phật kia”.

Chữ “thiện” trong “thiện nam tử”, “thiện nữ nhân” này chúng ta phải lưu ý. Tiêu chuẩn của “thiện” nầy là phước thứ nhất trong Tịnh nghiệp tam phước: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Trong bốn câu này, Nho-Thích-Đạo đều bao hàm cả trong đó: “Hiếu thân tôn sư” “Đệ tử quy” (Nho học); “Từ tâm bất sát” “Cảm ứng thiên” (Đạo học); “Thập thiện nghiệp” là Phật học. Nói cách khác, ba căn bản NhoThích-Đạo này không làm được thì không phải là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Tiêu chuẩn này nhất định phải ghi nhớ. Từ đó cho thấy ba căn bản này thật vô cùng quan trọng. Nếu không phải là thiện nam tử, thiện nữ nhân, thì tu Ngũ Niệm Môn cũng không thể thành tựu!

Sau cùng, diệu nhân cảm diệu quả, nên lúc lâm chung được Phật thuận theo bổn nguyện, dùng oai thần “từ bi gia hựu” khiến thị nhân lâm chung, bất kinh, bất bố, tâm bất điên đảo” (người ấy lâm chung, không kinh, không sợ , tâm không điên đảo). Chữ “bất kinh” là không kinh hoàng, hoảng hốt. “Bất bố” là không sợ hãi, khiếp đảm; tâm “bất điên đảo” là tâm không lầm loạn. Nhờ vậy duy trì được chánh niệm tưởng nhớ đến Phật mà được vãng sinh. Kinh văn trong phẩm này không nói lâm chung thấy Phật, nhưng đã được vãng sinh thì tất nhiên Phật có đến tiếp dẫn. Nếu không, thì chỉ với tự lực, phàm phu làm sao có thể vãng sinh? Hơn nữa, phẩm này chỉ chuyên giảng nhân hạnh vãng sinh, không bàn nhiều đến quả cảnh vãng sinh.

KINH VĂN: 

Nhược đa sự vật, bất năng ly gia, bất hạ đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh. Hữu không nhàn thời, đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, khử ưu, từ tâm tinh tấn. Bất đương sân nộ, tật đố, bất đắc tham thiết, san tích, bất đắc trung hối, bất đắc hồ nghi. Yếu đương hiếu thuận, chí thành trung tín, đương tín Phật kinh ngữ thâm, đương tín tác thiện đắc phước. Phụng trì như thị đẳng pháp, bất đắc khuy thất. Tư duy thục kế, dục đắc độ thoát. Trú dạ thường niệm, nguyện dục vãng sinh A Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc. Thập nhật thập dạ, nãi chí nhất nhật nhất dạ bất đoạn tuyệt giả, thọ chung giai đắc vãng sinh kỳ quốc.

VIỆT DỊCH: 

Nếu (người) quá nhiều việc, không thể xuất gia, không rảnh rộng tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh. Lúc rảnh rỗi đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, bỏ lo, từ tâm tinh tấn. Không nên giận hờn, ganh ghét, không nên tham tiếc keo kiệt, không nên giữa chừng hối hận, không nên hồ nghi. Phải nên hiếu thuận, chí thành trung tín, nên tin sâu lời Phật dạy, nên tin hành thiện được phước. Phụng trì các pháp như vậy, không được thiếu sót. Suy nghĩ chín chắn, muốn được độ thoát. Ngày đêm thường niệm, nguyện muốn vãng sinh về cõi thanh tịnh của Phật A Di Ðà. Trong mười ngày mười đêm, cho đến một ngày một đêm không ngừng nghỉ, khi mạng chung đều được vãng sinh về cõi ấy. 

GIẢNG: 

Đoạn kinh văn trên đây là chánh nhân vãng sinh thứ ba, bao gồm năm điều (theo Hòa Thượng Tịnh Không):

1. – “Nhược đa sự vật, bất năng ly gia, bất hạ đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh. Hữu không nhàn thời, đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, khử ưu, từ tâm tinh tấn” (Nếu người quá nhiều việc, không thể xuất gia, không rảnh rộng tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh. Lúc rảnh rỗi đoan chánh thân tâm, tuyệt dục, bỏ lo, từ tâm tinh tấn): Đây là dạy chúng ta trong cuộc sống hằng ngày phải “đoan tâm tinh tấn”.

2.- “Bất đương sân nộ, tật đố, bất đắc tham thiết, san tích, bất đắc trung hối, bất đắc hồ nghi. Yếu đương hiếu thuận, chí thành trung tín” (Không nên giận hờn, ganh ghét, không được tham tiếc, keo kiệt,, không nên giữa chừng hối hận, không nên hồ nghi. Phải nên hiếu thuận, chí thành trung tín): Đây là dạy chúng ta phải “đoạn ác tu thiện”.

3. “Đương tín Phật kinh ngữ thâm, đương tín tác thiện đắc phước. Phụng trì như thị đẳng pháp, bất đắc khuy thất” (Nên tin sâu lời Phật dạy, nên tin hành thiện được phước. Phụng trì các pháp như vậy, không được thiếu sót): Đây là dạy chúng ta “tin sâu nhân quả”.

4. – “Tư duy thục kế, dục đắc độ thoát. Trú dạ thường niệm, nguyện dục vãng sinh A Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc. Thập nhật thập dạ, nãi chí nhất nhật nhất dạ bất đoạn tuyệt giả” (Suy nghĩ chín chắn, muốn được độ thoát. Ngày đêm thường niệm, nguyện muốn vãng sinh về cõi thanh tịnh của Phật A Di Ðà. Trong mười ngày mười đêm, cho đến một ngày một đêm không ngừng nghỉ): Đây là dạy chúng ta “niệm Phật lúc bận”. Công việc cho dù có bận rộn thế mấy, cũng nên dành một ngày một đêm, hai mươi bốn giờ, trong một tháng để chí tâm niệm Phật. Lúc nghỉ lễ lâu có thể tu Phật thất.

5. – “Thọ chung giai đắc vãng sinh kỳ quốc”: Đây là “diệu nhân diệu quả”, khi lâm chung đều được vãng sinh cõi ấy.

Loại chánh nhân này dành cho kẻ bận rộn trăm công nghìn việc nên “bất hạ đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh” (không rảnh rộng tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh). Những người như vậy nên nỗ lực hành thiện, khéo tranh thủ thời gian rảnh giữa cơn bận rộn để niệm Phật. Hễ gặp duyên liền tu, chẳng để luống qua, thì quyết định được vãng sinh. Ðiểm kỳ diệu của Tịnh tông, như Báo Ân Luận nói: “Chẳng lìa Phật pháp mà hành thế pháp, chẳng phế thế pháp mà chứng Phật pháp”.

Xã hội hiện nay con người quá bận cạnh tranh làm việc nên ít có thời gian nhàn rỗi; hình như họ không cạnh tranh thì không thể sống được! Kỳ thật đó là sai lầm! Hồ Tiểu Lâm lúc chưa học Phật, ngày ngày đều cạnh tranh với người. Sau khi học Phật, giác ngộ rồi, chuyên cần thực hành “Đệ tử quy”, không còn cạnh tranh với người. Ông nói với tôi (Hòa Thượng Tịnh Không), so với trước đây, sự nghiệp của ông ngày càng phát triển. Mới hiểu ra:Phát tài là trong mạng đã có; trong mạng đã có hà tất đi tranh?!

“Hữu không nhàn thời(lúc rảnh rỗi): Như trên đã nói, vì quá bận công việc chưa thể thân nhàn, tâm tịnh để rộng tu trai giới, phải nên nắm bắt thời cơ, hễ rảnh liền tu, trừ khử hết mọi tạp sự, âu lo việc đời, “dũng mãnh chuyên tu”. Ý này xuyên suốt từ câu “hữu không nhàn thời” cho đến “nhất nhật nhất dạ bất đoạn tuyệt” (một ngày một đêm không ngừng nghỉ).

“Ðoan chánh thân tâm” là giữ thân trang nghiêm, tâm ý ngay chánh. Phẩm ba mươi lăm “Trược Thế Ác Khổ” có ghi: “Nhữ đẳng năng ư thử thế, đoan thân chánh ý, bất vi chúng ác, thậm vi đại đức” (Các ông nếu có thể trong đời nầy đoan thân chánh ý, không làm các điều ác thì thật có đức lớn).

Phẩm thứ ba mươi sáu “Trùng Trùng Hối Miễn” (bao lượt khuyên lơn) cũng chép: “Nhược tào tác thiện vân hà đệ nhất? Đương tự đoan tâm, đương tự đoan thân, nhĩ, mục, khẩu, tỵ, giai đương tự đoan” (Nếu các ông muốn làm thiện thì thế nào là bậc nhất? Hãy nên tự đoan nghiêm tâm, nên tự đoan chánh thân, tai, mắt, mũi , miệng,  đều nên tự đoan chánh). Câu nầy dạy chúng ta “đô nhiếp lục căn”, sáu căn đều là Phật A Di Đà, ngoài Phật A Di Đà không có thứ gì khác.

– Tâm như thế nào mới là đoan chánh?

– Tâm niệm Phật A Di Đà là đoan chánh. Nếu quên mất Phật A Di Đà thì tâm đó là tâm tà.

– Nếu niệm Phật khác thì sao?

– Thì tâm đã lệch qua con đường khác! Cho nên, trong tâm chỉ có Phật A Di Đà, đây là chánh niệm.

 “Tuyệt dục”: Điều này rất quan trọng! Lúc tu tập phải đoạn dứt tư tưởng ái dục nam nữ, vì nó sẽ phá hoại công phu tu tập của ta.

“Khử ưu” là buông bỏ hết tất cả những mối ưu tư việc đời.

“Từ tâm” là tâm ban vui cho chúng sinh.

“Tinh tấn” là dũng mãnh tu thiện, đoạn ác. Sách Phụ Hành, quyển hai nói: “Với pháp không nhiễm là Tinh (精), niệm niệm  hướng về là Tấn (進): Ý nói tất cả pháp thế và xuất thế gian đều không nhiễm trước đó là “tinh”; niệm niệm chỉ có một phương hướng là thế giới Tây phương Cực Lạc và Phật A Di Đà, đây gọi là “tấn”.

Hoa Nghiêm Ðại Sớ, quyển năm ghi: “Tâm chuyên nơi pháp thì gọi là Tinh; chuyên tâm thực hành để đạt bổn thì gọi là Tấn”. Ý nói: Tinh là dốc lòng nơi Phật pháp. Dùng cái tâm tinh chuyên ấy để thấu đạt được bản tâm thì gọi là Tấn. Hiểu thấu bản tâm, sáng tỏ bản tánh của mình thì gọi là “đạt bổn”. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Ý nghĩa chữ “tinh tấn” do Ðại Sớ giảng có phần thù thắng hơn. Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Trong Tịnh Tông chúng ta nên tinh chuyên một lòng với “tín-nguyện-hạnh”. Dùng tâm tinh chuyên này để “đạt bổn”, chính là vãng sinh Tây phương Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, đây gọi là Tấn.

Từ câu “bất đương sân nộ, tật đố” (chẳng nên sân hận, ganh ghét) cho đến “chí thành trung tín” là khuyên bỏ ác tu thiện.

“Tật đố” (嫉 妒) là ganh tị điều tốt của người khác; làm hại người hiền cũng gọi là “tật” (嫉), tội này rất nặng! Vì sao vậy? Vì bậc hiền nhân có thể vì xã hội, đại chúng làm rất nhiều việc tốt. Nếu đem tâm ganh ghét, chướng ngại họ, họ sẽ không làm, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Thử hỏi: Ai là người chịu thiệt thòi? – Xã hội, đại chúng chịu thiệt thòi! Riêng họ thì không sao cả. Bạn đã đánh mất cơ hội lợi ích cho đại chúng, đấy là tội nặng! Thay vì phải “tùy hỉ công đức”, hết lòng tán thán, trợ duyên cho họ làm việc tốt; công đức thành tựu của họ cũng chính là công đức của bạn, tại sao không làm! Người trí tuệ luôn có tâm tùy hỉ; người không có trí tuệ mới khởi tâm ganh ghét. Cho nên, thấy việc tốt của người nên hoan hỉ tán thán; nếu có sức thì giúp họ thành tựu. Đây không phải chỉ thành tựu cho họ mà còn thành tựu lợi ích cho xã hội, chúng sinh.

“Bất đắc tham thiết, san tích” (không nên tham tiếc, keo kiệt):

 “Tham thiết” (貪 餮), chữ “thiết” (餮) là tham ăn tục uống.

Điều này cũng nghiêm trọng! Xã hội bây giờ tôi (tức Hòa  Thượng Tịnh Không) nghe nói, trong buổi dạ tiệc, một bàn ăn phải tiêu phí đến mấy mươi vạn tiền, bằng sinh hoạt phí một năm của gia đình bốn người, nghe thấy mà giật mình! Xã hội này biết bao nhiêu người cùng khổ, ba bữa không đủ ăn, sao có thể nhẫn tâm lãng phí như vậy?! Cho nên, điều này phải dứt hẳn. Nếu là người ăn chay cũng không nên thèm khát, hưởng thụ; không nên nghiên cứu món ăn này nọ cho ngon miệng, vậy là sai rồi! Nhất định phải buông xả niệm tham, ngay cả tham ăn cũng phải buông xả.

“San tích” (慳 惜) là keo kiệt, tiếc rẻ. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng như sau: “Tiếc rẻ cả tài lẫn pháp thì gọi là San”, tức là không thể buông bỏ cả tài lẫn pháp; không thể đem tiền tài và ngay cả Phật pháp làm lợi ích cho người khác, sợ người khác hơn mình! Tâm như vậy là không tốt! Đó là tâm luân hồi!

“Bất đắc trung hối” (không nên giữa chừng hối hận): chữ “Trung hối” (中 悔) là lòng tin không vững chắc, trước tin sau ngờ nên bảo là “trung hối”.  Vì sao hối hận? – Vì tâm tham chưa buông xả, ganh ghét chưa buông xả, nên chỉ nhất thời phát tâm làm việc tốt, sau khi làm xong thì hối hận!

“Bất đắc hồ nghi” (không nên hồ nghi): “Hồ nghi” là do tánh con cáo (hồ: 狐) hay nghi ngờ nên gọi là “hồ nghi”. Do dự chẳng quyết định nên gọi là “nghi” (疑). Do nghi niệm làm hại căn lành, giống như gai độc nên sách Vạn Thiện Ðồng Quy Tập ghi: “Vững tín căn để nhổ gai ngờ”. Cái “nghi” này rất đáng sợ! Không tin chính mình, không tin cha mẹ, không tin Thầy, Tổ, không tin luân lý đạo đức, không tin nhân quả nghiệp báo, không tin có thiên thần, cũng không tin có Phật, Bồ tát! Tác hại của cái ‘nghi” nầy là phá hoại hệ thống miễn dịch trong con người mình, đưa đến tật bệnh; đối với đại địa vốn kiên cố, vững chắc, nay trở thành rời rạc, mềm nhũng dễ lún sụp, địa cầu sắp tan hoại rồi!

– Làm thế nào để đoạn nghi sinh tín?

– Phải đọc kinh, nghe kinh thật nhiều! Nghe kinh ở đây là phải với tâm thành kính, nghe sao cho lọt, cho hiểu chớ chẳng phải nghe suông.

“Yếu đương hiếu thuận” (Phải nên hiếu thuận): Chính là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, là phước thứ nhất trong “Tịnh nghiệp tam phước” được nói trong Quán kinh, cũng là một trong các chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật.

“Chí thành trung tín”, “thành” (誠) là chân tâm, chân thật chẳng dối; “chí” (至) là đến mức cùng tột nhất. Lòng thành đạt đến mức tột cùng nên bảo là “chí thành”. “Trung” (忠) là không thiên, không tà, là tận tâm tận lực trung với nước nhà. Hai chữ “trung hiếu” chính là gốc của mọi mỹ đức thế gian. Chữ “tín” (信) ở đây chỉ về pháp thế gian, tức là chân thật chẳng dối.

 “Đương tín Phật kinh ngữ thâm” (Hãy nên tin lời kinh Phật sâu xa): Chữ “tín” ở đây lại chỉ pháp xuất thế, chỉ cho thật thể của các pháp, là tịnh đức của Tam Bảo. Tin ưa sâu xa căn lành của thế và xuất thế gian, khiến tâm trong lặng thì gọi là “tín”.

Duy Thức Luận nói: “Thế nào là Tín? Là có thể nhẫn chịu dục lạc một cách sâu xa, tâm tịnh thành tánh”. Thể tánh là tự tánh thanh tịnh, tịnh đến không khởi tâm, không động niệm, đấy là chân tịnh. Trong Đại Thừa giáo gọi là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại bảo: “Ðối với Tam Bảo tịnh tâm chẳng nghi thì gọi là Tín”. Câu Xá Luận lại bảo: “Tín khiến cho (tâm) người trong lặng”. Nay nghe kinh Phật liền tin tưởng sâu xa vào lời kinh.

Ðại Trí Độ Luận nói: “Có tin mới chứng nhập nổi”. Do đó, mới có thể từ nhân thừa tiến thẳng vào Ðại Thừa viên môn, niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ.

“Đương tín tác thiện đắc phước” (Nên tin làm thiện được phước): Nhờ tin nhân quả chẳng hư vọng nên gắng công, tinh tấn hướng thiện.

“Phụng trì như thị đẳng pháp” (Phụng trì các pháp như vậy): Chính là vâng giữ các điều thiện như trên đã nói.

“Bất đắc khuy thất” (không được thiếu sót) “khuy thất” (虧 失) là tổn giảm.

Tóm lại, những câu kinh trên đều nói về việc từ nhân thừa tiến thẳng vào Cực Lạc Nhất Thừa. Tiếp đó, kinh nói đến cách tìm cái nhàn trong khi bận rộn để tinh tấn niệm Phật.

“Tư duy thục kế, dục đắc độ thoát” tức là suy nghĩ chín chắn, muốn được độ thoát

“Nguyện dục vãng sinh” (Nguyện muốn vãng sinh) là xả uế cầu tịnh, đem hết thảy công đức hồi hướng vãng sinh.

“Trú dạ thường niệm A Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc” (Ngày đêm thường niệm cõi nước thanh tịnh của A Di Ðà Phật): Ðấy là chánh hạnh nhớ Phật, niệm Phật để vãng sinh. Liên tục như thế “thập nhật thập dạ, nãi chí nhất nhật nhất dạ” (trong mười ngày mười đêm cho đến một ngày một đêm): Trong mười ngày mười đêm là công hạnh phải có của hết thảy hành nhân; trong một ngày một đêm là công hạnh phải có của người nhiều thiện căn. Cứ tùy theo thiện căn mà thực hành không ngừng nghỉ như thế, khi mạng chung đều được vãng sinh. Do đó, kinh nói: “Thọ chung giai đắc vãng sinh kỳ quốc” (Khi mạng chung đều được vãng sinh cõi ấy). Ðây là chánh nhân vãng sinh của hành nhân thuộc loại thứ ba, công đức kém hơn hai loại trước.

Ðoạn kinh sau đây sẽ giảng rõ: Các hạng người vãng sinh, nhân hạnh tuy khác nhưng hễ sinh về cõi ấy đều là Ðại Thừa cả, đều cùng một loại.

KINH VĂN: 

Hành Bồ Tát đạo, chư vãng sinh giả, giai đắc A Duy Việt Trí, giai cụ kim sắc tam thập nhị tướng, giai đương tác Phật. Dục ư hà phương Phật quốc tác Phật, tùng tâm sở nguyện, tùy kỳ tinh tấn tảo vãn, cầu đạo bất hưu, hội đương đắc chi, bất thất kỳ sở nguyện dã. A Nan! Dĩ thử nghĩa lợi cố, vô lượng vô số bất khả tư nghị vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới, chư Phật Như Lai, giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức.

VIỆT DỊCH: 

Hành Bồ Tát đạo, những người vãng sinh, đều đắc A Duy Việt Trí, đầy đủ sắc vàng ba mươi hai tướng, đều sẽ thành Phật. Muốn làm Phật ở cõi nước Phật phương nào, đều như sở nguyện, tùy theo người ấy tinh tấn, sớm tối cầu đạo chẳng ngơi, sẽ đạt kết quả, không mất chí nguyện. Nầy A Nan! Do nghĩa lợi này, vô lượng vô số bất khả tư nghị vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới chư Phật Như Lai đều xưng dương tán thán công đức của Phật Vô Lượng Thọ.

GIẢNG:

Câu “hành Bồ Tát đạo” ngụ ý những người đã vãng sinh đến thế giới Cực Lạc đều là Ðại Thừa.

“Giai đắc A Duy Việt Trí” (đều đắc A Duy Việt Trí). Tiếp đó, kinh nói đến cái quả nhân hạnh. Chúng ta tu nhân dẫu thiên sai vạn biệt, nhưng được quả báo thì giống nhau, đều có thể vãng sinh về Tây phương Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà.  Hành nhân Ðại Thừa hết tuổi thọ sinh về cõi kia đều “đắc A Duy Việt Trí”, đây là nguyện thứ hai mươi “lâm chung tiếp dẫn”. “Giai cụ kim sắc, tam thập nhị tướng, giai đương tác Phật”:  Đều được thân sắc vàng tía, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu; chẳng những thân tướng giống như Phật A Di Đà mà còn “giai đương tác Phật” (đều sẽ thành Phật).

A Duy Việt Trí là Bất Thoái Chuyển. Có ba loại Bất Thoái Chuyển: Vị Bất Thoái, Hành Bất Thoái và Niệm Bất Thoái, phía trước chúng ta đã học qua.

“Dục ư hà phương Phật quốc tác Phật”: Những người vãng sinh, nguyện làm Phật ở phương nào thì không ai lại chẳng được thành tựu xứng với tâm nguyện mình; do vậy kinh nói “tùng tâm sở nguyện” (đều như sở nguyện).

“Tùng tâm sở nguyện” ở đây, theo Hòa Thượng Tịnh Không có hai ý nghĩa:

– Một là tâm nguyện của người đó lúc chưa thành Phật.

– Hai là tâm nguyện của chúng sinh có cơ duyên với người đó.

Bởi A Duy Việt Trí Bồ tát không còn có khởi tâm động niệm, không còn phân biệt chấp trước, nên hoàn toàn do chúng sinh có cảm thì họ liền có ứng. Hồi ứng nhất định là “tùy chúng sinh tâm” “ứng sở tri lượng” như kinh Lăng Nghiêm Phật đã nói.

“Tùy kỳ tinh tấn tảo vãn”: Còn lúc nào họ sẽ thành Phật là tùy thuộc vào hành nhân tinh tấn sớm tối khác nhau. Siêng tinh tấn “cầu đạo bất hưu” (cầu đạo chẳng ngơi) thì sớm sẽ thành Phật. Đây chính là điều sai biệt trong lẽ bình đẳng. Bình đẳng mà có sai biệt nên có thành Phật nhanh hay chậm. Ðiều bình đẳng trong sai biệt, đó chính là tất cả người vãng sinh đều sẽ thành Phật, không mất chí nguyện, nên kinh nói: “hội đương đắc chi, bất thất kỳ sở nguyện dã” (sẽ được kết quả, không mất chí nguyện). Sau cùng, đức Thế Tôn muốn lưu ý  hội chúng chú tâm, nên gọi tên ngài A Nan (là vị đương cơ của pháp hội) để dạy:

“Dĩ thử nghĩa lợi cố” (Do nghĩa lợi này). Chữ “lợi” ở đây  (利) có đến hai nghĩa:

– Một là “kiên lợi” (lợi ích kiên cố) cứng bén như kim cang phá hoại được tất cả mà chẳng bị tất cả phá hoại. Pháp môn niệm Phật là kim cang trí tuệ nên bảo là “lợi”

– Hai là pháp môn này có thể ban bố, phổ độ cho tất cả chúng sinh cái lợi chân thật.

Từ chỗ này, Hòa Thượng Tịnh Không liên tưởng đến tầng trời thứ năm là Hóa Lạc thiên và tầng trời thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại thiên. Phước báo của tầng trời thứ năm là “tâm tưởng sự thành”, nghĩ đến thứ gì thì tất cả đều hóa hiện ra. Phước báo của tầng trời thứ sáu lại càng lớn hơn, không cần nghĩ ngợi, cũng không cần biến hóa, bởi mọi thứ tầng trời thứ năm đều cúng dường họ.Thử hỏi:

– Người vãng sinh và thế giới Cực Lạc có quan hệ gì? – Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà giống như tầng trời thứ năm; người vãng sinh đến thế giới Cực Lạc giống như tầng trời thứ sáu. Mọi hưởng thụ của họ đều do Phật A Di Đà biến hóa ra để cúng dường họ. Phước báo niệm Phật vãng sinh thật quá ư tuyệt vời, nên mười phương Như Lai “giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức” (đều cùng xưng dương, tán thán công đức của Phật Vô Lượng Thọ). Phàm phu vãng sinh đều là Bất Thoái Chuyển, địa vị ngang bằng với Bổ Xứ Bồ Tát. Ðây chính là điều cả mười phương vị ngang bằng với Bổ Xứ Bồ Tát. Ðây chính là điều cả mười phương thế giới chư Phật không nơi nào có.