Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA
QUYỂN 3
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023
QUYẾT CHỨNG CỰC QUẢ ĐỆ NHỊ THẬP NHỊ
Phẩm này tổng kết y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc: Cảnh và trí ngầm khế hợp nhau, nhân quả đồng nhất. Những người vãng sinh do trong tâm không có ý niệm phân biệt, nên bên ngoài cũng xa lìa các cảnh phân biệt. Do không phân biệt, nên thanh tịnh, bình đẳng, chỉ thọ hưởng sự vui sướng tối thượng, trụ trong Chánh Định Tụ, quyết chứng cực quả.
KINH VĂN:
Phục thứ A Nan! Bỉ Phật quốc độ, vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật, nguyệt, tinh diệu, trú dạ chi tượng, diệc vô tuế, nguyệt, kiếp số chi danh, phục vô trụ trước gia thất. Ư nhất thiết xứ, ký vô tiêu thức danh hiệu, diệc vô thủ xả phân biệt, duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc.
VIỆT DỊCH:
Lại này A Nan! Cõi nước Phật ấy, chẳng có tối tăm, ánh lửa, nhật, nguyệt, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm; cũng không có danh từ năm, tháng, kiếp số, lại chẳng trụ trước nhà cửa. Hết thảy mọi nơi, chẳng có tiêu thức, danh hiệu, cũng chẳng có phân biệt lấy bỏ, chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng.
GIẢNG:
Theo Hòa Thượng Tịnh Không, đoạn kinh văn trên có ba đoạn nhỏ:
*Thứ nhất là cảnh giới Tây phương Cực Lạc”vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật, nguyệt,tinh diệu, trú dạ chi tượng” không giống thế giới Sa Bà. Thế giới Cực Lạc là một vùng quang minh, không có ban đêm, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng.
*Thứ hai là người ở thế giới Cực Lạc không chấp vào tướng ngã, nên tất cả đều không cần tên gọi. Nơi ở của họ không có biển hiệu, không có số nhà, không có tên đường phố, nên nói: “Phục vô trụ trước gia thất, Ư nhất thiết xứ, ký vô tiêu thức danh hiệu”. Điều nầy đối với chúng ta thật là bất tiện! Nhưng hãy an tâm, sinh đến thế giới Cực Lạc, dù vãng sinh đến cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hạ hạ phẩm, thậm chí vãng sinh về biên địa, đều được oai thần bổn nguyện của đức Phật A Di Đà gia trì, mọi người đều có lục thông thì lấy chi là chướng ngại?!
*Thứ ba là “duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc” (Chỉ hưởng khoái lạc, thanh tịnh tối thượng). Cảnh trí ở thế giới Cực Lạc là “cảnh trí nhất như, tuyệt chư trần cấu”. Tất cả mọi phiền não, phân biệt, chấp trước đều chấm dứt, chỉ còn có cảm thọ thanh tịnh, tối thượng khoái lạc. Cái cảm thọ nầy phàm phu chúng ta không tài nào tưởng tượng được.
Sách A Di Ðà Sớ Sao bảo: “Nếu nói một cách dung hòa, thì tuy có mặt trời, mặt trăng, nhưng bị quang minh của Phật và thánh chúng che lấp nên cũng như không có. Xét về mặt Lý, phải không có mặt trời, mặt trăng mới hợp lẽ. Vì sao vậy? Từ cõi trời Ðao Lợi trở lên đã không cần đến mặt trời, mặt trăng, huống là cõi Cực Lạc?” Theo Liên Trì đại sư, xét về mặt Lý thì phải không có mặt trời, mặt trăng mới đúng. Hội bản này lấy ý hai bản Ðường dịch và Tống dịch, nói thẳng là chẳng có mặt trời, mặt trăng, rất phù hợp với ý của Liên Trì đại sư.
Bản Hán dịch lại ghi: “Vô Lượng Thanh Tịnh Phật đảnh trung quang minh cực đại minh. Kỳ nhật, nguyệt, tinh thần, giai tại hư không trung trụ chỉ, diệc bất phục hồi chuyển vận hành, diệc vô hữu tinh quang. Kỳ minh giai tế bất phục hiện” (Quang minh từ trên đảnh của Vô Lượng Thanh Tịnh Phật (tức là A Di Ðà Phật) sáng chói cùng cực; mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đều bị ngưng giữa không trung, chẳng xoay chuyển vận hành được nữa, cũng chẳng còn có tinh quang. Các quang minh ấy đều bị khuất lấp, chẳng còn hiện). Câu này rất phù hợp với cách nói dung hòa của đại sư Liên Trì, quang minh của mặt trời, mặt trăng cõi Cực Lạc bị quang minh của các vị thánh che lấp nên chẳng hiện được; cũng phù hợp với kinh nầy nói: “Nhật, nguyệt, hỏa, châu giai nặc diệu” (Mặt trời, mặt trăng, lửa, châu đều bị ẩn lấp ánh sáng).
Phẩm “Lễ Phật Hiện Quang” trong kinh nầy cũng nói: “Thanh Văn, Bồ Tát nhất thiết quang minh, tất giai ẩn tế, duy kiến Phật quang, minh diệu hiển hách” (Hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát đều bị ẩn lấp, chỉ thấy quang minh của Phật sáng ngời rực rỡ). Quang minh của Bồ Tát còn bị phủ lấp, huống là quang minh của mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v. Vì vậy, cõi Cực Lạc “vô hữu hôn ám, hỏa quang, nhật, nguyệt, tinh diệu, trú dạ chi tượng” (chẳng có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm), mà chỉ luôn sáng chói.
“Diệc vô tuế nguyệt kiếp số chi danh” (Cũng chẳng có danh từ năm, tháng, kiếp số): Trên thế gian nầy phải có năm, tháng, ngày, đêm, kiếp số vì địa cầu, mặt trăng, mặt trời, tinh vân… đều vận hành, tự chuyển hoặc là bị chuyển (do Thái Dương hệ chứa các tinh tú ấy cũng xoay vần) nên bèn có ngày, đêm, tháng, năm, kiếp số v.v.dần trôi. Theo bản Hán dịch: “Nhật, nguyệt, tinh thần, giai tại hư không trung trụ chỉ, diệc bất phục hồi chuyển vận hành” (Mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều ngừng giữa hư không, chẳng còn xoay chuyển vận hành được) nên cõi Cực Lạc dẫu có mặt trời, mặt trăng, tinh tú đi nữa, nhưng chúng không vận chuyển thì làm sao có ngày đêm sai khác cho được!
Thời gian không biến đổi nên “vô tuế nguyệt kiếp số chi danh” (chẳng có danh từ ngày đêm, năm, tháng, kiếp số). Chỉ thuận theo các phương khác mà nói có năm, tháng. Nên biết: Thời gian có là từ chuyển động. Xét về cội gốc, chuyển động phát sinh từ ý niệm. Do vọng niệm tiếp nối nên có thời gian. Khoa học cận đại đã thừa nhận thuyết của Ái Nhân Tư Thản (Einstein): “Thời gian chỉ là do ảo giác của con người”. Thuyết này khá phù hợp với điều chúng ta đang bàn ở đây.
Theo sách chú giải của cụ Hoàng: Với ý “phục vô trụ trước gia thất” (lại cũng không trụ trước nhà cửa), các bản dịch cũng không hề nói xác quyết là có nhà cửa hay không. Nhưng theo câu kinh: “Sở cư xá trạch tận cực nghiêm lệ, hoặc tại hư không, hoặc tại bình địa” (Nhà cửa họ ở đều rất trang nghiêm, đẹp đẽ hoặc ở trên hư không, hoặc trên mặt đất) trong phẩm “Thọ Dụng Cụ Túc” ở phần trước đã nói rõ, chẳng phải là nhất định không có nhà cửa; chữ “vô” trong “phục vô trụ trước gia thất” chỉ có nghĩa là chẳng chấp trước vào tướng nhà cửa.
Hội chúng cõi Cực Lạc nghe toàn âm thinh Vô Ngã, nên tâm họ thanh tịnh cũng tương ưng với điều được nghe.Ðã không có Ngã thì làm sao có ý tưởng “nhà cửa của mình”? Vì vậy, đối với nhà cửa mình ở chẳng hề chấp trước, nên nói: “phục vô trụ trước gia thất” (lại không trụ chấp nhà cửa). Hơn nữa, do Nhân và Ngã đều không, nên mọi thứ cần gì đến “tiêu thức, danh hiệu” (tiêu thức là biểu tượng nhằm để phân biệt một cá nhân; chẳng hạn như các huy hiệu gia tộc).
Do trí và tâm xa lìa “thủ xả phân biệt” (phân biệt lấy bỏ) nên diệu cảnh hiện bày. Tâm tịnh ắt quốc độ tịnh, tâm lìa phân biệt nên cảnh cũng không phân biệt. Trí và cảnh như một, dứt tuyệt mọi trần cấu nên bảo: “Duy thọ thanh tịnh tối thượng khoái lạc” (Chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng). Kinh “Xưng Tán Tịnh Ðộ” cũng nói: “Duy hữu vô lượng thanh tịnh hỉ lạc” (Chỉ có vô lượng hỉ lạc thanh tịnh).
KINH VĂN:
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sinh, nhược đương sinh, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ, quyết định chứng ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hà dĩ cố? Nhược Tà Định Tụ, cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố.
VIỆT DỊCH:
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sinh, hoặc sẽ sinh, đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì cớ sao? Nếu là kẻ Tà Định Tụ và Bất Định Tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy.
GIẢNG:
“Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân”: Chữ “thiện” ở đây là có tiêu chuẩn, đó là người đã thực hành được phước thứ nhất trong “Tịnh nghiệp tam phước”, đã đề cập trước đây. Đoạn kinh văn trên nói về quả thành tựu của nguyện thứ hai mươi chín “Trụ Chánh Định Tụ” và nguyện thứ mười hai “Định thành Chánh Giác” của đức Phật A Di Đà. Đây là cốt lõi của toàn bổn hoài A Di Đà Phật,là thánh quả của vô lượng diệu hạnh, là trí lực phương tiện đạt đến mức cùng cực, là chỗ rốt ráo của đại nguyện độ sinh.
“Nhược dĩ sinh, nhược đương sinh, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ.” (Hoặc đã sinh, hoặc sẽ sinh, đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ)
Thực tại mà nói, hai chữ “Chánh Định” trong “Chánh Định Tụ” ở đây cũng tương đồng với “Chánh Định” trong “Bát Chánh Đạo”. Có “Chánh Định” mới sinh trí tuệ, mới có thể tự độ và độ tha.
Kinh văn nhắc đến “Tam Tụ“: “Chánh Định Tụ”, “Tà Định Tụ” và “Bất Định Tụ”. Chữ “Tụ” có nghĩa là giống nhau, cùng loại. Ba Tụ này được các Kinh luận Tiểu thừa lẫn Đại thừa đề cập đến, nhưng nội dung sai khác rất nhiều:
* Tam Tụ hiểu theo Tiểu Thừa như Câu Xá Luận nói: Các thánh giả từ Sơ Quả trở lên thuộc về Chánh Định Tụ, kẻ tạo nghiệp Ngũ Vô Gián thuộc về Tà Định Tụ, còn lại những kẻ khác không thuộc hai Tụ trên gọi là Bất Định Tụ.
Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Sơ quả Tu Đà Hoàn là quả Nhập Lưu, đã nhập vào dòng thánh. Họ đã đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc của tam giới. Phàm phu chúng ta, một phẩm cũng chưa đoạn, nên cách nhìn, cách nghĩ đều sai lầm. Cho nên, trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy “Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín…đắc A La Hán dĩ, nãi khả tín nhữ ý” (Phải dè dặt, chớ có tin mình! Chừng nào chứng A La Hán mới có thể tin ý mình). “Ý” ở đây là chỉ Đệ Lục ý thức và thức thứ bảy Mạt Na. Tánh của hai thức nầy là chấp ngã và chấp pháp, phiền não chưa đoạn nên không thể tin được.
Do cách nghĩ, cách nhìn của A La Hán không còn có sai lầm nên có thể tin được. Tiêu chuẩn “không còn có sai lầm” ở đây là tuyệt đối không rơi vào lục đạo, tam ác đạo. Mới biết, chúng sinh trôi lăn trong lục đạo là do cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của họ. Muốn cải sửa cách nghĩ, cách nhìn sai lầm này, chúng ta phải dựa vào kinh Phật.
Tu Đà Hoàn trước tiên là phá được “thân kiến”, không chấp thân này là ta. Đây là cửa ải khó nhất đầu tiên. Phàm phu lục đạo, có mấy ai mà không chấp thân này là ta; Ngay cả trời Dục giới, trời Sắc giới cũng còn chấp trước. Trong kinh nói rất tường tận: Trời Vô Sắc giới tuy không có “hiện sắc” nhưng vẫn có “vô biểu sắc”, vẫn có sắc tướng. “Vô biểu sắc” là gì? “Biểu sắc” là vật chất, sắc tướng của họ không phải là vật chất, nên chúng ta gọi họ là “vô sắc”. Ví như khi chúng ta liên tưởng đến một người, hình tướng của người đó liền hiển hiện trong tâm chúng ta, đó là “vô biểu sắc”. Cái “vô biểu sắc” này, người chung quanh không thấy, ngay cả mắt chúng ta cũng không thấy, nhưng chư Phật, Bồ tát đều thấy.
Người cõi trời Vô Sắc vẫn còn chấp trước, nên không ra khỏi tam giới, lục đạo. Đến lúc nào họ thật sự giác ngộ: Thân này chẳng phải là ta mà là “ta sở hữu” thì kiến giải đó mới chính xác, khi xả thân, thọ thân sẽ không còn đau khổ, xem như quần áo đã cũ rách thì vứt bỏ thôi, thay bộ đồ mới. Kinh Bát Nhã nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Kiến giải của Tu Đà Hoàn tuy chính xác, nhưng tư tưởng vẫn có vấn đề, cho nên họ chưa ra khỏi lục đạo, nhưng tam ác đạo thì dứt khoát họ không rơi vào. Mới biết, đọa tam ác đạo là do kiến giải sai lầm. Muốn vượt thoát tam ác đạo, chúng ta phải có “chánh kiến” ( tức là cái thấy đúng), tiến thêm bước nữa là có “chánh tư duy” (suy nghĩ đúng) thì mới ra khỏi lục đạo. Có “chánh tư duy” là đã chứng quả A La Hán. Cho nên, Câu Xá Luận mới nói: Sơ quả Tiểu thừa trở lên mới là “Chánh Định Tụ”. Tiêu chuẩn của “Chánh Định Tụ” ở đây là không đọa vào tam ác đạo.
* Tam Tụ hiểu theo Ðại Thừa có nhiều cách:
1. – Trí Ðộ Luận, quyển bốn mươi lăm nói: “Một là Chánh Định Tụ quyết định nhập Niết Bàn. Hai là Tà Định Tụ quyết đọa ác đạo. Ba là Bất Định”.
Ở thế gian nầy có dạng người không tin nhân quả, không tin có luân hồi. Họ chấp trước con người chỉ có một đời, nên thích làm gì thì cứ tha hồ làm, đây là Tà Định Tụ. Tiền đồ của họ nhất định rơi vào tam ác đạo. Nhân quả, luân hồi không phải tin là có, không tin thì không có. Trong kinh giáo Đại thừa có nói: Tiêu chuẩn nhất định là nhập Bát Niết Bàn mới gọi là Chánh Định. Việc nầy muốn đạt được phải tu pháp Đại thừa; Tiểu thừa chỉ chứng A La Hán, chưa thể thành Bồ tát, thành Phật. Cho nên, theo Đại thừa: Tiểu thừa không phải là Tà Định mà là Bất Định Tụ.
2. – Thích Ðại Diễn Luận, quyển một bảo: “Có ba thuyết: – Một là trước khi đạt địa vị Thập Tín thì thuộc Tà Định Tụ, do chẳng tin vào quả báo của nghiệp. Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng), Thập Thánh (Thập Địa Bồ Tát) gọi là Chánh Định Tụ do thuộc địa vị Bất Thoái. Thập Tín gọi là Bất Định Tụ do hoặc tiến hoặc thoái chẳng quyết định.” (Ðại Thừa Khởi Tín Luận có cùng quan điểm này). Cách nói này cũng rất hay! Đến Thập Trụ là minh tâm kiến tánh thì đã có Định rồi.
– “Hai là, trước khi đạt Thập Tín và ngay cả địa vị Thập Tín thuộc về Tà Định Tụ. Ðại Quả Giác là Chánh Định Tụ. Tam Hiền, Thập Thánh thuộc về Bất Định Tụ.”
“Đại Quả Giác” là quả vị cứu cánh của Như Lai. Hay nói cách khác, Chánh Định chỉ có một người, thành Phật mới gọi là Chánh Định. Bồ tát, Tam Hiền, Thập Thánh đều là Bất Định Tụ. Cách nói này cũng có lý; bởi Tam Hiền, Thập Thánh cũng phải từng bước nâng cao, có lúc họ cũng bị thoái chuyển. Trong kinh Phật nói: Đến Bát Địa (tức Bất Động Địa) mới thật sự được Tam Bất Thoái (Vị Bất Thoái, Hành Bất Thoái và Niệm Bất Thoái). Chỉ có vãng sinh Tây phương Cực Lạc là nhanh chóng, dễ dàng nhất, cho dù sinh đến Phàm Thánh Đồng Cư, hạ hạ phẩm cũng đều được viên chứng Tam Bất Thoái. Điều nầy thật vô cùng tuyệt diệu.
– “Ba là, trước khi đạt đến Thập Tín là Tà Định Tụ, Thập
Thánh là Chánh Định. Thập Tín và Tam Hiền thuộc về Bất Định Tụ.”
Tóm lại, các thuyết bất đồng, Tiểu Thừa coi từ Sơ Quả trở lên đã thuộc về Chánh Định. Ðại Thừa thì hoặc lấy việc quyết định nhập Niết Bàn, hoặc lấy địa vị từ Tam Hiền trở lên, hoặc địa vị từ Thập Ðịa trở lên, hoặc dùng địa vị Ðại Giác Phật Quả làm tiêu chuẩn phán định Chánh Định Tụ.
Kinh nầy nói chúng sinh cõi Cực Lạc đều trụ trong Chánh Định Tụ, ngài Tịnh Ảnh bảo: “Thuộc địa vị Bất Thoái nên gọi là Chánh Định. Chẳng cần biết là Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, chúng sinh hễ cứ sinh về cõi kia sẽ đều trụ trong Chánh Định”. Ngài Vọng Tây chia sẻ quan điểm nầy như sau: “Hết thảy phàm phu thiện, ác, nương theo nguyện lực của Phật sinh về cõi kia đều ở vào địa vị Bất Thoái nên gọi là Chánh Định Tụ”.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Hễ sinh về Tịnh Ðộ thì chẳng luận là phàm hay thánh, đều quyết định hướng đến Niết Bàn, quyết định hướng đến thiện hạnh, quyết định sinh trong đường thiện, quyết định hành lục độ, quyết định được giải thoát, nên chỉ có Chánh Định Tụ, không có hai thứ kia”. Sách Hội Sớ cũng nghĩ như vậy.
Sách Bình Giải dựa theo ý tổ Thiện Ðạo giải thích như sau: “Như Thích Ma Ha Diễn Luận giảng Chánh Định Tụ là từ Tam Hiền, Thập Ðịa cho đến Phật quả; Chánh Định Tụ của Tịnh tông cũng giống như vậy. Dẫu thị hiện có các địa vị Tam Hiền, Thập Thánh v.v. nhưng cuối cùng đều đạt đến Diệt Ðộ, chẳng qua chỉ có một cõi Niết Bàn, nhưng thị hiện sai biệt. Xét theo một pháp cú thì ngay nơi bản tướng, Thập Ðịa, Tam Hiền chính là chân thật trí tuệ vô vi Pháp Thân”.
Thuyết của sách Bình Giải đã hiển thị sâu xa ý kinh nầy, vì chủ lẫn bạn trong Tịnh Ðộ đều là Ðại Thừa, nên đều trụ trong Chánh Định Tụ. Dẫu thị hiện Thập Thánh, Tam Hiền v.v. nhưng về bản thể đều quyết định nhập Niết Bàn, ngay nơi tướng nầy chính là Pháp Thân.
“Giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ” (đều trụ trong Chánh Định Tụ.
– Chánh Định Tụ của chúng ta là gì?
– Chính là ba chữ “tín, nguyện, hạnh” chỉ cần có đủ ba yếu tố này thì nhất định được vãng sinh. “Quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Người vãng sinh đều thuộc Chánh Định Tụ, quyết định thành Phật, hiển thị sự bất khả tư nghị của Di Ðà đại nguyện đến mức độ cùng cực. Chẳng những “nhược dĩ sinh”, người đã vãng sinh Cực Lạc trụ trong Chánh Định Tụ, quyết chứng Vô Thượng Đạo mà “nhược đương sinh”, hết thảy những người cầu vãng sinh Cực Lạc trong hiện tại hoặc tương lai, chỉ cần phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm thì sẽ tương ưng với bổn nguyện Phật A Di Đà, dẫu còn trong uế độ, phàm phu đầy dẫy, tương lai vãng sinh ắt trụ trong Chánh Định Tụ, quyết chứng Bồ Đề. Đây quả thật là siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn, dứt bặt đối đãi một cách viên dung, phương tiện rốt ráo.
Bản Ðường dịch ghi: “Nhược đương sinh giả, giai tất cứu
cánh vô thượng Bồ Đề, đáo Niết Bàn xứ. Hà dĩ cố? Nhược Tà Định Tụ cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri, kiến lập bỉ nhân cố” (Nếu là kẻ sẽ sinh (về cõi Cực Lạc) đều rốt ráo Vô Thượng Bồ Ðề, đến chốn Niết Bàn. Vì cớ sao? Nếu là Tà Định Tụ và Bất Định Tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy). Đây là kinh văn trong “Vô Lượng Thọ Hội” của kinh Đại Bảo Tích.
“Nhược đương sinh”: “Đương sinh” là sẽ sinh, tức là hiện vẫn chưa sinh nhưng tương lai chắc chắn sẽ vãng sinh. Điều kiện quyết định được vãng sinh là phải kiến lập “chánh nhân vãng sinh” là: Đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với Phật A Di Đà. Nương theo chánh nhân nầy ắt sẽ được vãng sinh.
– Vậy, tâm của Phật A Di Đà như thế nào?
– Muốn cứu giúp tất cả chúng sinh trong một đời đều thành Phật đạo (nhất thiết giai thành Phật)
Nguyện của Phật A Di Đà thì ai ai cũng đều biết, đó là bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng hiển thị chân tâm muốn cứu giúp chúng sinh. Chúng ta cũng có thể thành tâm phát nguyện như Ngài. Trong đối nhân xử thế, tiếp vật, với con người, với cỏ cây hoa lá, với ruồi, muỗi, kiến, sâu, với trời đất quỷ thần, chúng ta phải dùng tâm chân thành cung kính mà đối đãi. Tự tu, cũng khuyên nhắc người khác cùng tu, để ai nấy đều được “Cứu cánh Vô Thượng Bồ Đề, đáo Niết Bàn xứ” (Rốt ráo Vô Thượng Bồ Đề, đến chốn Niết Bàn). Đến chốn Niết Bàn là phạm vi chân thật, là trở về tự tánh, cứu cánh viên mãn.
“Nhược Tà Định Tụ cập Bất Định Tụ, bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố. Nếu Tà Định hay Bất Định thì không đến được cảnh giới này. Vì sao vậy? – Vì họ chẳng thể “Kiến lập bỉ nhân”, chính là không thể kiến lập nhân duyên chính để vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc. Nhân duyên chính nầy là “vì sinh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín, nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”.
– Tà Định Tụ là gì?
– Là kẻ không có ý định sinh về thế giới Cực Lạc.
– Vì sao vậy?
– Vì đời này họ không thể thành tựu!
Xã hội ngày nay, tâm con người chỉ đặt vào mục đích kiếm tiền. Chưa kiếm được thì vắt óc tìm cách, đôi khi dùng cả thủ đoạn bất chánh, tạo ra vô số tội nghiệp! Kiếm được rồi, lại sợ mất! Suốt ngày căng thẳng! Tâm trí rối bời!
– Bất Định Tụ là gì?
– Là tâm không chuyên nhất! Phương hướng mục tiêu quá nhiều! Cứ nghiêng ngã: Nay thích học thứ này, mai lại thích học thứ kia. Không tự chủ, rốt cuộc chẳng việc nào thành tựu!
Chánh Định Tụ, đó chính là “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”.
Thiện Ðạo Đại sư đời Ðường, là bậc thâm nhập Kinh tạng đã chỉ rõ đại nguyện “nhập Chánh Định Tụ” của Phật Di Ðà tạo lợi ích cho cả nhân dân cõi Cực Lạc lẫn chúng sinh cõi Ta Bà. Sách Bình Giải viết: “Chánh Định Tụ trong cõi này (Sa Bà) là mật ích (lợi ích ngầm), Chánh Định Tụ trong cõi kia là hiển ích (lợi ích hiển nhiên)”. Sách còn viết: “Mật ích ngay trong đời này chính là giáo nghĩa bất cộng của kim gia (tức của ngài Thiện Ðạo)”.
Chúng ta thấy sách Bình Giải đã cực lực tán dương thuyết của ngài Thiện Ðạo: Người sẽ được vãng sinh, tuy thân còn đang ở cõi Sa Bà, nhưng đã ngầm hưởng được lợi ích, là nhập vào Chánh Định Tụ; đấy là diệu nghĩa thù thắng bất cộng của tổ sư. Gọi là “mật ích” vì người “đương sinh” đã ngầm hưởng được lợi ích này. Ngay trong kinh Tiểu Bổn cũng có đoạn tương đồng với giáo thuyết nầy, kinh chép: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc Bất Thoái Chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có kẻ đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi A Di Ðà Phật, thì những người ấy đều đắc Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Điều nầy cho thấy chúng sinh cõi Cực Lạc lẫn chúng sinh cõi Sa Bà đều hưởng được lợi ích thù thắng Bất Thoái Chuyển. A Di Ðà Phật đại nguyện, đại lực thật chẳng thể nghĩ bàn!
Nghĩa lý của kinh văn trong những phần trên đã được sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận của cư sĩ Bành Tế Thanh, tổng kết quy về tự tâm như sau: “Các sự trang nghiêm, các việc Phật sự nói trên, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, như trăng trong nước, như hình tượng được vẽ, như người được hóa hiện bởi huyễn thuật. Tất cả đều do thần lực của Phật tùy tâm chúng sinh mà ứng hiện. Nên biết, thần lực của hết thảy chúng sinh và thần lực của Như Lai vốn không hai, không khác. Nếu chẳng có đại nguyện, đại hạnh để phát khởi cái nhân thù thắng thì (chúng sinh sẽ) chẳng biết, chẳng hay, trầm luân muôn kiếp. Nếu có thể trong nhất niệm xoay trở lại, nhận rõ tự tánh sáng suốt, mới hay của gia bảo sẵn có, như vào núi báu nhặt của cải vô tận, như vào Hương quốc chạm vào đâu cũng thơm ngát. Phải đạt đến nơi mới ngơi nghỉ, chứ đừng bỏ cuộc nửa đường”.
Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: Cư sĩ Bành Tế Thanh là người thời Càn Long, đời nhà Thanh. Đây là một cư sĩ nổi tiếng của nhà Phật, một Bồ Tát cư sĩ tại gia, thông tông, thông giáo, cũng vãng sinh tịnh độ.
“Các sự trang nghiêm” là chỉ y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc.
“Các việc Phật sự”: Việc Phật hóa độ chúng sinh gọi là “Phật sự”.
“Chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu” (tức là: “vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”); câu này ý nói: Các sự trang nghiêm, Phật sự, ngay cả việc Phật xuất thế, Phật tu hành, Phật độ sinh, đều bao gồm hết trong đây.
“Như trăng trong nước, như hình tượng được vẽ” (Như thủy trung nguyệt, như huyễn sở hóa nhân)
“Nếu có thể trong nhất niệm xoay trở lại, nhận rõ tự tánh sáng suốt, mới hay của gia bảo sẵn có”. Trong Đại thừa thường nói: “Quay đầu là bờ”. Hôm nay, chúng ta đang trầm luân trong luân hồi lục đạo, nếu tĩnh giác quay đầu, chính là hướng đến con đường Phật đạo vô thượng, con đường dẫn đến giác ngộ, lìa khổ được vui, con đường không bị ngoại cảnh chi phối, thân tâm tự tạị…, đây là “gia bảo”. “Gia bảo” nầy là tự tánh vốn có. Đại Sư Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”.
“Như vào núi báu nhặt của cải vô tận, như vào Hương quốc, chạm vào đâu cũng thơm ngát) (Như nhập bảo sơn, thủ chi vô tận; như du Hương quốc, xúc xứ mông huân). Ví dụ này rất hay! Như ta đi vào núi báu, trên núi toàn là báu vật, lấy sao cho hết! Như đến xứ Hương, khắp nơi ngào ngạt hương quý, những gì ta tiếp xúc thảy đều thơm tho.
Nói thật, thế giới Tây phương Cực Lạc chính là núi báu, là xứ Hương. Quang minh, trân bảo, hương quý của thế giới Cực Lạc tràn ngập khắp vô tận thế giới, không nơi nào không có. – Vì sao chúng ta không thấy, cũng không ngửi được?! Hai câu dưới đây khích lệ chúng ta: “Phải đạt đến nơi mới ngơi nghỉ, chớ đừng bỏ cuộc nửa đường” (Yếu tu thân đáo phương hưu, thận vật bán đồ nhi phế).
Hiện nay, chúng ta không thấy quang minh Phật, không thấy châu báu, không ngửi được diệu hương, vì cỗ máy chúng ta đã bị hỏng! Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta đã bị ô nhiễm, do thân tâm không thanh tịnh! Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nhiều! Phải quyết tâm tinh tấn, không lười mỏi, học theo hạnh Phật, hành theo hạnh Phật, kiên trì nhìn thấu, buông bỏ là bí quyết để đạt đến Bảo sở.
Đại Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (1913-1992):
Người chuyên tâm chú giải Đại Kinh. Trước lúc vãng sinh 6 tháng, mỗi ngày cụ thị hiện niệm 140.000 câu Phật hiệu. Đến ngày 27-3-92, trên bãi cỏ trong bệnh viện, cụ đứng chắp tay niệm Phật và tự tại vãng sinh.