Vãng Sinh Tịnh Độ Luận Giảng Ký
 往生淨土論講記
Bồ tát Thế Thân tạo luận ::  Bồ Đề Lưu Chi dịch Hán văn 
Pháp sư Ấn Thuận giảng :: Thích Pháp Chánh dịch

 

Thế Tôn, con nhất tâm
Quy mệnh tận thập phương
Vô Ngại Quang Như Lai,
Nguyện sinh An Lạc Quốc.
Con y Tu đa la,
Tướng công đức chân thật,
Nói nguyện kệ tổng quát,
Tương ưng lời Phật dạy.
Quán tưởng thế giới kia,
Vượt quá hơn ba cõi.
Rốt ráo, như hư không,
Rộng lớn không ngằn mé.
Chánh đạo đại từ bi,
Sinh thiện căn xuất thế.
Ánh sáng sạch soi khắp,
Tựa mặt gương, nhật, nguyệt.
Đủ các loại trân bảo,
Đầy đủ diệu trang nghiêm.
Vô cấu quang rực rỡ,
Sáng sạch rọi thế gian.
Cỏ công đức bảy báu,
Mềm mại chuyển trái phải,
Chạm vào sinh thắng lạc,
Hơn Ca chiên lân đà.
Hoa báu ngàn vạn loại,
Phủ đầy khắp ao hồ,
Gió nhẹ lay hoa lá,
Ánh sáng soi lóng lánh.
Các cung điện lầu các,
Nhìn thấy khắp mười phương,
Cây báu đủ sắc màu,
Lan can vây khắp chốn.
Vô lượng báu nối kết,
Màn lưới khắp hư không,
Các loại linh vang vọng,
Giảng nói pháp vi diệu.
Mưa hoa, y trang nghiêm,
Vô lượng hương tỏa ngát.
Phật tuệ sáng thanh tịnh,
Diệt ngu tối thế gian.
Phạm âm Phật nhiệm mầu,
Vang  vọng khắp mười phương.
A Di Đà Chánh giác,
Pháp vương khéo trụ trì.
Đệ tử Phật thanh tịnh,
Hoa chánh giác hóa sinh.
Ưa thích mùi Phật pháp,
Thiền định làm thức ăn.
Diệt phiền não thân tâm,
Thọ lạc không gián đoạn.
Cõi thiện căn Đại thừa,
Bình đẳng, không tiếng ác,
Người nữ và khuyết tật,
Giống Nhị thừa không sinh.
Ước nguyện của chúng sinh,
Thảy đều được thỏa mãn.
Nên con nguyện vãng sinh,
Về cõi Phật Di Đà.
Vô lượng đại bảo vương,
Đài tịnh hoa vi diệu.
Thân quang sáng một tầm,
Sắc tướng vượt chúng sinh.
Tiếng Như Lai vi diệu,
Vang vọng khắp mười phương.
Không phân biệt như đất,
Nước, lửa, gió, hư không.
Trời, người, chúng bất động,
Do biển tịnh trí sinh.
Như núi chúa Tu Di,
Thắng diệu không ai bằng.
Chúng trượng phu trời người,
Kính, nhiễu quanh, chiêm ngưỡng.
Quán nguyện lực của Phật,
Gặp qua không luống uổng,
Khiến mau được đầy đủ,
Biển báu công đức lớn.
Nước An Lạc thanh tịnh,
Thường chuyển pháp vô cấu,
Hóa Phật Bồ tát nhật,
Như Tu Di trụ trì.
Ánh sáng sạch trang nghiêm,
Trong mỗi niệm mỗi thời,
Chiếu khắp các Phật hội,
Lợi ích các chúng sinh.
Mưa nhạc trời, hoa, y,
Diệu hương… để cúng dường,
Khen công đức chư Phật,
Không có tâm phân biệt.
Thế giới nào không có,
Báu công đức Phật pháp,
Con đều nguyện đến đó,
Chuyển pháp luân như Phật.
Con làm luận nói kệ,
Nguyện gặp Phật Di Đà,
Cùng với các chúng sinh,
Vãng sinh nước An Lạc. 

Con đã dùng kệ tụng nói tổng quát nghĩa văn của Kinh Vô Lượng Thọ. 

Luận nói: Bài Nguyện Sinh Kệ nêu lên ý nghĩa gì? Quán sát thế giới An Lạc, thấy Phật A Di Đà, nguyện vãng sinh về cõi đó. 

Quán thế nào? Làm thế nào để sinh khởi tín tâm? Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu tập ngũ niệm môn thành tựu, rốt ráo được sinh cõi nước An Lạc, thấy Phật A Di Đà. 

Ngũ niệm môn là gì? Một là lễ bái môn, hai là tán thán môn, ba là tác nguyện môn, bốn là quán sát môn, và năm là hồi hướng môn. 

Lễ bái thế nào? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì muốn vãng sinh cõi nước Cực Lạc. 

Tán thán thế nào? Xưng danh đức Như Lai (A Di Đà), đúng như tướng trí tuệ quang minh của Như Lai (A Di Đà), đúng như danh nghĩa của A Di Đà, vì muốn tu hành tương ưng như thật. 

Tác nguyện thế nào?  Tâm thường tác nguyện, nhất tâm chuyên niệm, rốt ráo được vãng sinh quốc độ An Lạc, vì muốn như thật tu hành xa ma tha. 

Quán sát thế nào? Trí tuệ quán sát, chánh niệm quán sát cõi nước Cực Lạc, vì muốn như thật tu hành tỳ bát xá na. 

Quán sát cõi nước Cực Lạc có ba loại: một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, hai là quán sát công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà, ba là quán sát công đức trang nghiêm của chư Bồ tát. 

Hồi hướng thế nào? Không xả bỏ tất cả chúng sinh, tâm thường phát nguyện, hồi hướng làm đầu, vì muốn thành tựu tâm Đại bi. 

Quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc như thế nào? Thành tựu bất khả tư nghì công đức giống như đặc tính của vật báu ma ni như ý. Hai pháp (công đức trang nghiêm của cõi Phật và ngọc như ý) là hai pháp tương tự tương đối. 

Quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, có mười bảy loại cần phải biết. Một là thành tựu công đức về sự thanh tịnh; hai là thành tựu công đức về  tánh; ba là thành tựu công đức về lượng; bốn là thành tựu công đức về hình tướng; năm là thành tựu công đức về các loại sự nghiệp; sáu là thành tựu công đức về diệu sắc; bảy là thành tựu công đức về xúc; tám là thành tựu công đức về sự trang nghiêm; chín là thành tựu công đức về vũ (mưa); mười là thành tựu công đức về quang minh (ánh sáng); mười một là thành tựu công đức về âm thanh vi diệu; mười hai là thành tựu công đức về chủ (Phật A Di Đà); mười ba là thành tựu công đức công đức về quyến thuộc (chúng đệ tử của Phật); mười bốn là thành tựu công đức về thọ dụng; mười lăm là thành tựu công đức về không có các nạn; mười sáu là thành tựu công đức về đại nghĩa môn, và mười bảy là thành tựu công đức về tất cả sở cầu đều được thỏa mãn. 

Thành tựu công đức về sự thanh tịnh, kệ nói: “Quán tướng thế giới kia, vượt quá hơn ba cõi.” 

Thành tựu công đức về lượng, kệ nói: “Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé.” 

Thành tựu công đức về tánh, kệ nói: “Chánh đạo đại từ bi, sinh thiện căn xuất thế.” 

Thành tựu công đức về hình tướng, kệ nói: “Ánh sáng sạch soi khắp, tựa mặt gương, nhật, nguyệt.” 

Thành tựu công đức các loại sự nghiệp, kệ nói: “Đủ các loại trân bảo, đầy đủ diệu trang nghiêm.” 

Thành tựu công đức về diệu sắc, kệ nói: “Vô cấu quang rực rỡ, sáng sạch rọi thế gian.” 

Thành tựu công đức về xúc (va chạm), kệ nói: “Cỏ công đức bảy báu, mềm mại chuyển trái phải, chạm vào sinh thắng lạc, như Ca chiên lân đà.”

Thành tựu công đức về sự trang nghiêm, có ba loại: một là trên mặt nước, hai là trên mặt đất, ba là trên hư không. 

Trang nghiêm trên mặt nước, kệ nói: “Hoa báu ngàn vạn loại, phủ khắp các ao hồ, gió nhẹ lay hoa lá, ánh sáng soi lóng lánh.” 

Trang nghiêm trên mặt đất, kệ nói: “Các cung điện lầu các, nhìn thấy khắp mười phương, cây báu đủ sắc màu, lan can vây khắp chốn.”

Trang nghiêm trên hư không, kệ nói: “Vô lượng báu nối kết, màn lưới khắp hư không, các loại linh vang vọng, giảng nói pháp vi diệu.” 

Thành tựu công đức về vũ (mưa), kệ nói: “Mưa hoa, y, trang nghiêm, vô lượng hương tỏa ngát.” 

Thành tựu công đức về ánh sáng, kệ nói: “Phật tuệ sáng thanh tịnh, diệt ngu tối thế gian.” 

Thành tựu công đức về âm thanh vi diệu, kệ nói: “Phạm âm Phật nhiệm mầu, vang vọng khắp mười phương.” 

Thành tựu công đức về chủ (Phật A Di Đà), kệ nói: “Chánh giác A Di Đà, Pháp vương khéo trụ trì.” 

Thành tựu công đức về quyến thuộc, kệ nói: “Đệ tử Phật thanh tịnh, hoa Chánh giác hóa sinh.” 

Thành tựu công đức về sự thọ dụng, kệ nói: “Ưa thích mùi Phật pháp, thiền định làm thức ăn.” 

Thành tựu công đức không có các nạn, kệ nói: “Diệt phiền não thân tâm, thọ lạc không gián đoạn.” 

Thành tựu công đức về đại nghĩa môn, kệ nói: “Cõi thiện căn Đại thừa, bình đẳng không tiếng ác, người nữ và khuyết tật, hàng Nhị thừa không sinh.”  

Thành tựu công đức về tất cả sở cầu đều được thỏa mãn, kệ nói: “Ước nguyện của chúng sinh, thảy đều được thỏa mãn.” 

Nói sơ lược về mười bảy loại công đức trang nghiêm của cõi Phật A Di Đà, thị hiện (nêu rõ) sự đại thành tựu công đức lợi ích của tự thân, thành tựu công đức sự lợi ích cho chúng sinh. Sự trang nghiêm của cõi Phật Vô Lượng Thọ là cảnh giới vi diệu đệ nhất nghĩa đế. Nên biết, mười sáu câu và một câu nói theo thứ tự như vậy. 

Quán sát công đức trang nghiêm của Phật (A Di Đà) như thế nào? Quán sát công đức trang nghiêm của Phật có tám loại: một là trang nghiêm về [pháp] tòa, hai là trang nghiêm về thân, ba là trang nghiêm về khẩu, bốn là trang nghiêm về tâm, năm là trang nghiêm về chúng [đệ tử], sáu là trang nghiêm về thượng thủ, bảy là trang nghiêm về chủ, tám là trang nghiêm về trụ trì không luống uổng (Hán: bất hư tác trụ trì 不虛作住持). 

Thế nào là trang nghiêm về [pháp] tòa của Phật? Kệ nói: “Vô lượng đại bảo vương, đài tịnh hoa vi diệu.” 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm thân? Kệ nói: “Thân quang sáng một tầm, sắc tướng vượt chúng sinh.” 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm khẩu (miệng)? Kệ nói: “Tiếng Như Lai vi diệu, vang vọng khắp mười phương.” 

Thế nào là quán sát sự trang nghiêm về tâm? Kệ nói: “Không phân biệt như đất, nước, gió, lửa, hư không.” 

Thế nào là quán sát sự trang nghiêm về chúng? Kệ nói: “Trời, người, chúng bất động, do biển tịnh trí sinh.”

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về thượng thủ? Kệ nói: “Như núi chúa Tu Di, thắng diệu không ai bằng.” 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về chủ? Kệ nói: “Chúng trượng phu trời người, kính, nhiễu quanh, chiêm ngưỡng.” 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về trụ trì không luống uổng? Kệ nói: “Quán bổn nguyện của Phật, gặp qua không luống uổng, khiến mau được đầy đủ, biển lớn báu công đức.”

Thấy được Phật A Di Đà, Bồ tát chưa chứng tịnh tâm, rốt ráo sẽ đắc pháp thân bình đẳng, so với Bồ tát đã chứng đắc tịnh tâm không khác. Bồ tát chứng tịnh tâm và các Bồ tát thượng địa (Nhị địa trở lên) rốt ráo đều chứng đắc tịch diệt bình đẳng. 

Nói sơ lược tám câu, thị hiện công đức trang nghiêm tự lợi lợi tha của đức Như Lai, thành tựu theo thứ tự, nên biết như vậy. 

Thế nào quán sát công đức trang nghiêm của Bồ tát? Quán sát công đức trang nghiêm của Bồ tát là quán sát các Bồ tát đó chánh tu hành thành tựu có bốn loại công đức cần phải biết. 

Bốn loại công đức nào? Một là ở trong một cõi Phật, thân không di động mà biến khắp mười phương, thị hiện các loại ứng hóa thân, như thật tu hành, thường làm Phật sự. Kệ nói: “Nước An Lạc thanh tịnh, thường chuyển pháp vô cấu, hóa Phật Bồ tát nhật, như Tu Di trụ trì.” 

Hai là các ứng hóa thân của Bồ tát trong tất cả mọi thời, không trước không sau, nhất tâm nhất niệm, phóng ánh sáng lớn, đều có thể biến khắp mười phương thế giới giáo hóa chúng sinh, dùng đủ loại phương tiện tu hành tạo tác để diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh. Kệ nói: “Ánh sáng sạch trang nghiêm, trong mỗi niệm mỗi thời, chiếu khắp các Phật hội, lợi ích các chúng sinh.”

Ba là các vị Bồ tát đó ở trong tất cả thế giới (không bỏ sót thế giới nào), chiếu đến đại chúng trong tất cả pháp hội của chư Phật (không bỏ sót pháp hội nào), cúng dường rộng lớn vô lượng, cung kính, tán thán chư Phật Như Lai. Kệ nói: “Mưa nhạc trời, hoa, y, diệu hương… để cúng dường, khen ngợi công đức Phật, không có tâm phân biệt.”

Bốn là Bồ tát đó ở trong tất cả thế giới ở mười phương, nơi không có Phật pháp, trụ trì trang nghiêm biển lớn công đức của Phật pháp tăng bảo, hiển thị tất cả Phật pháp khiến cho chúng sinh hiểu rõ, như thật tu hành. Kệ nói: “Thế giới nào không có, báu công đức Phật pháp, con đều nguyện đến đó, chuyển pháp luân như Phật.”

Phần trên nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm của cõi Phật, sự thành tựu công đức trang nghiêm của Phật, sự thành tựu công đức trang nghiêm của Bồ tát.  Ba loại thành tựu nguyện tâm trang nghiêm này, nói lược là nhập vào một câu pháp, một câu pháp tức là câu thanh tịnh (Hán: thanh tịnh cú 清淨句), câu thanh tịnh tức là chân thật trí tuệ vô vi pháp thân. 

Nên biết sự thanh tịnh này có hai loại. Một là khí thế gian thanh tịnh, hai là chúng sinh thế gian thanh tịnh. Khí thế gian thanh tịnh tức là phần trên nói về mười bảy loại thành tựu về công đức trang nghiêm của cõi Phật, gọi là khí thế gian thanh tịnh. Chúng sinh thế gian thanh tịnh là phần trên nói về tám loại thành tựu của Phật, và bốn loại thành tựu của Bồ tát, gọi là chúng sinh thế gian thành tựu. Như vậy, nên biết, một câu pháp bao gồm hai loại thanh tịnh. 

Bồ tát tu hành xa ma tha, tỳ bát xá na quảng lược như vậy thành tựu tâm nhu nhuyễn, biết được các pháp quảng lược đúng như thật, và như vậy thành tựu phương tiện hồi hướng. 

Thế nào là thiện xảo hồi hướng của Bồ tát? Bồ tát phương tiện thiện xảo hồi hướng nghĩa là tất cả công đức thiện căn do sự tu hành năm môn lễ bái, xưng tán, v.v…, không phải cầu an lạc cho chính mình, mà là ví muốn bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh, pháp nguyện nhiếp thủ chúng sinh đồng sinh cõi An Lạc của Phật A Di Đà, đây gọi là sự thành tựu phương tiện thiện xảo hồi hướng của Bồ tát. 

Bồ tát thành tựu sự hiểu biết khéo léo về hồi hướng như vậy, xa lìa ba loại trái nghịch (Hán: tương vi) với Bồ đề tâm: một là y vào trí tuệ, không cầu sự an vui cho chính mình, xa lìa tâm ngã tham trước tự thân; hai là từ bi môn, bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh, xa lìa tâm không muốn an lạc chúng sinh; ba là y vào phương tiện môn, phát tâm thương xót tất cả chúng sinh, xa lìa tâm muốn tự thân được cung kính cúng dường. Đây gọi là xa lìa ba loại tương vi với Bồ đề tâm. 

Nên biết phần trên nói về ba môn trí tuệ, từ bi, phương tiện nhiếp thủ Bát nhã, Bát nhã nhiếp thủ phương tiện. 

Nên biết, phần trên nói về xa lìa tâm ngã, không tham luyến tự thân, xa lìa tâm không an lạc chúng sinh, xa lìa tâm cung kính cúng dường tự thân. Ba pháp này xa lìa sự chướng ngại Bồ đề tâm. 

Nên biết phần trên nói tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm thanh tịnh an, tâm thanh tịnh lạc, ba loại tâm này nói lược thành một xứ, thành tựu diệu lạc thắng chân tâm. 

Nên biết, trí tuệ tâm, phương tiện tâm, thắng chân tâm như vậy của Bồ tát có thể vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. 

Đây gọi là Bồ tát ma ha tát tùy thuận năm loại pháp môn, những công hạnh tu tập tùy ý tự tại thành tựu. Như phần trên đã nói pháp môn tùy thuận thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp. 

Nên biết còn có năm pháp tu tập theo tuần tự sẽ thành tựu năm loại công đức. Một là cận môn, hai là đại hội chúng môn, ba là trạch môn, bốn là ốc môn, năm là viên lâm du hý địa môn. Năm môn này, bốn môn đầu là thành tựu nhập công đức, môn thứ năm là thành tựu xuất công đức. 

Tiến nhập môn thứ nhất, dùng sự lễ bái Phật A Di Đà để vãng sinh cõi Cực Lạc, sẽ được vãng sinh về thế giới đó, đây gọi là tiến nhập môn thứ nhất. 

Tiến nhập môn thứ hai, do tán thán Phật  A Di Đà, tùy thuận ý nghĩa của danh hiệu mà xưng danh của ngài, y vào sự quán tưởng quang minh của Như Lại mà tu hành, được nhập vào hàng ngũ đại chúng trong pháp hội của Như Lai, đây gọi là tiến nhập pháp môn thứ hai. 

Tiến nhập môn thứ ba, dùng nhất tâm chuyên niệm nguyện sinh cõi nước đó, tu tập công hạnh xa ma tha tịch tĩnh tam muội, được nhập vào thế giới Liên Hoa Tạng, đây gọi là nhập môn thứ ba. 

Tiến nhập môn thứ tư, dùng sự chuyên niệm quán sát sự diệu trang nghiêm của cõi nước đó, tu tập tỳ bát xá na, được sinh về cõi đó, thọ dụng sự an lạc của các loại pháp vị. 

Xuất môn thứ năm, dùng tâm đại từ bi quán sát tất cả chúng sinh đau khổ, thị hiện ứng hóa thân, trở vào trong vườn sinh tử, rừng phiền não, du hý thần thông, đến nơi cần phải giáo hóa, dùng bổn nguyện lực hồi hướng, đây gọi là xuất môn thứ năm. 

Nên biết Bồ tát nhập vào bốn môn, thành tựu công hạnh tự lợi. Bồ tát xuất môn thứ năm, thành tựu công hạnh hồi hướng lợi ích chúng sinh. Bồ tát tu tập năm môn như vậy, tự lợi lợi tha, mau được thành tựu  A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. 

 

Vãng Sinh Tịnh Độ Luận Giảng Ký 

Pháp sư Ấn Thuận giảng 1
Thích Pháp Chánh dịch 

A1. Huyền Luận. 
B1. Giải thích tựa đề. 

Bổn luận tựa đề là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá, gọi tắt là Luận Vãng Sinh Tịnh Độ, hoặc gọi tắt hơn nữa là Luận Tịnh Độ, hoặc Luận Vãng Sinh. 

 Tịnh độ tông Trung quốc y vào ba kinh một luận mà thành lập. Ba kinh là: (1) Kinh [Phật Thuyết] A Di Đà; (2) Kinh Vô Lượng Thọ (còn gọi là Kinh Đại A Di Đà), có nhiều bản dịch2; (3) Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Phật). Còn một luận tức là bổn luận (Luận Vãng Sinh Tịnh Độ). 

 Mọi người thường cho rằng [pháp môn] niệm Phật A Di Đà chỉ ở Trung quốc mới có, còn người Ấn độ không có niệm Phật A Di Đà, điều này không đúng. Trên thực tế, ở Ấn độ, đặc biệt là từ miền Tây bắc Ấn độ cho đến nước Ba tư hiện nay (xưa gọi là nước An tức) đã có rất nhiều người niệm Phật A Di Đà (hiện nay đã tuyệt tích). Chỉ có điều là họ không lập tông phái chuyên niệm Phật A Di Đà như người Trung quốc mà thôi.  

 Ngài Mã Minh trong Luận Đại Thừa Khởi Tín, và ngài Long Thọ trong Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa đã có đề cập đến pháp môn niệm Phật, hơn nữa, bổn luận [của Bồ tát Thế Thân] lại càng đặc biệt đề xướng pháp môn này. Cho nên biết rằng từ xưa ở Ấn độ đã biết niệm Phật, [nhưng chỉ sau khi] đến Trung quốc thì mới thịnh hành. Thế nhưng, phương tiện niệm Phật ở Ấn độ và ở Trung quốc cũng có sự khác biệt. Hiện nay giải thích đề mục, phân làm hai phần: (1) Kinh Vô Lượng Thọ, và (2) Ưu bà đề xá.

C1. Kinh Vô Lượng Thọ. 

“Vô lượng” tức là ý nghĩa của A Di Đà. Vô lượng thọ, tiếng Phạn là Amitāyus. Thọ mệnh của loài người đều có hạn lượng cho nên không triệt để, không cứu cánh. Người học Phật đạt đến cảnh giới cứu cánh tức là thường lạc ngã tịnh. “Thường” là một đức tánh của Phật. Thọ mệnh của Phật không có hạn lượng. Còn chữ “Kinh” là chỉ chung cho các bản kinh Vô Lượng Thọ. 

C2. Ưu bà đề xá. 

Ưu bà đề xá, một trong mười hai thể tài3 (còn gọi là mười hai phần giáo, hay mười hai bộ kinh) của kinh điển Đại thừa, là một loại luận điển y theo nghĩa kinh mà giải thích. Ở Ấn độ, luận có hai loại: (1) Một loại giống như chú sớ ở Trung quốc, giải thích ý nghĩa của từng câu, từng chữ, gọi là thích kinh luận; (2) một loại gọi là Tông kinh luận, lấy ý nghĩa của kinh làm tông, sau đó phát huy ý nghĩa mà không chú trọng đến câu văn. Bổn luận là tông kinh luận

Đối với bổn luận, người đọc cần phải chú ý là bổn luận không giảng giải cũng không làm sáng tỏ nghĩa lý của Kinh Vô Lượng Thọ mà chỉ căn cứ vào kinh này để nêu ra một pháp môn tu hành. Cho nên toàn thể bộ luận thuyết minh cách nào niệm Phật, cách nào phát nguyện vãng sinh, cho nên đây là bộ luận lấy sự tu hành làm chủ yếu. 

B2. Phật A Di Đà và Tịnh độ Cực Lạc.

C1. Phật A Di Đà. 

Niệm Phật không phải chỉ là dùng miệng xưng danh hiệu Phật mà phải là mỗi niệm đều không quên Phật và tịnh độ của Phật, đồng thời phải phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ của Phật. Hiện nay, trước hết giảng về Phật A Di Đà. 

Phật A Di Đà tức là vô lượng Phật. Nói vô lượng, trước tiên phải biết “lượng” là gì. “Lượng” lớn nhỏ, lâu mau, nhẹ nặng, dài ngắn tức là có thể đo lường, so sánh với nhau. Mọi vật trên thế gian, không có một vật nào mà không thể đo lường, suy tư, bàn luận, dùng câu văn để giải thích; thế nhưng, đối với cảnh giới của đức Phật đã đạt đến thì không thể đo lường, so sánh, suy tư, bàn luận cho nên gọi là vô lượng. Ví như các dòng nước trôi vào biển lớn tức thời mất đi tên gọi của chúng, chỉ gọi chung là nước, bình đẳng với nhau, không thể phân biệt, không thể giải thích. 

Lại nữa, tuy phước đức, trí tuệ, v.v…, của chúng sinh đều khác biệt, nhưng đến lúc thành Phật thì pháp thân bình đẳng với nhau, hoàn toàn không khác biệt, tức là trở thành vô lượng. Trong mắt của chúng sinh tuy có vô số Phật, nhưng thật ra trong cảnh giới của Phật, một Phật tức là tất cả Phật, tất cả Phật tức là một Phật, giống như Kinh Hoa Nghiêm đã nói. Kinh Bát Chu Tam Muội nói: “Tu hành pháp [quán] niệm Phật A Di Đà, đến lúc thành tựu Bát Chu Tam Muội liền được thấy Phật, thấy  đức Phật A Di Đà mà cũng là thấy tất cả Phật hiện tiền”, cho nên có thể nói Phật A Di Đà là đại biểu chung của tất cả Phật. Đây là ý nghĩa căn bổn của Phật A Di Đà. 

Nguồn gốc của Phật A Di Đà và Kinh Hoa Nghiêm rất thâm sâu, như bổn luận có nói đến phát nguyện vãng sinh thế giới Liên Hoa Tạng của Phật A Di Đà. Thế giới Liên Hoa Tạng tức là thế giới Hoa Nghiêm của Kinh Hoa Nghiêm. Lại như Bát Thập Bát Phật Sám Hối Văn là y vào phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của Kinh Hoa Nghiêm mà soạn ra. Những hành giả Tịnh Độ Tông đều biết “Phổ Hiền thập đại nguyện vương đạo quy (dẫn về) Cực Lạc”, cho nên pháp môn Phật A Di Đà và Kinh Hoa Nghiêm có quan hệ rất sâu xa. Ngài Liên Trì4, tổ thứ tám của Tịnh Độ Tông, đã dùng ý nghĩa của Hoa Nghiêm Tông để giải thích Kinh A Di Đà. 

 Ý nghĩa của “vô lượng” đặc biệt nhấn mạnh đến vô lượng quang và vô lượng thọ. Amitābha (A di đa bà da, 阿彌陀婆耶) là Vô lượng quang, còn Amitāyus (A di đà sưu tư, 阿彌陀廋斯) là Vô lượng thọ. Quang có hai loại: (1) Phật thân quang biểu thị Phật thân thanh tịnh, và (2) trí quang biểu thị trí tuệ vô biên đều là đối tượng mong cầu của chúng sinh, nhưng phải đến giai vị Phật mới đạt được cứu cánh. Lại nữa, Amṛta (A di rị da, 阿彌唎多) có nghĩa là cam lộ. Người Ấn Độ gọi cam lộ, theo ý nghĩa thông thường là thuốc bất tử, thật ra [bất sinh] bất tử là ý nghĩa “thường” của Phật. Cụm từ “a di rị đa” trong Chú Vãng Sanh là có ý nghĩa này. Cho nên Phật Cam Lộ Vương cũng tức là Phật A Di Đà. Kinh nêu tên Vô Lượng Thọ hình như là thuận theo thế tục, nếu y vào ý nghĩa phía dưới của bổn luận thì phải lấy “vô lượng quang” làm chủ yếu. 

 Phần trên là bổn nghĩa của A Di Đà. Người đời nay xưng niệm [Phật] A Di Đà, [đều nghĩ rằng đó là vị Phật có một] tiền thân là tỳ khưu Pháp Tạng, hiện nay đã thành Phật [và đang] thuyết pháp ở Tây phương. Trong tương lai, sau khi Phật A Di Đà diệt độ, Bồ tát Quán Thế Âm sẽ kế vị làm Phật 5. Nếu như vậy thế giới Tây phương Cực Lạc cũng có phương vị cho nên thọ mạng, lãnh thỗ đều không phải là vô lượng. Điều này phải giải thích thế nào? Đây là bởi vì tâm lượng của chúng sinh hữu hạn cho nên phải nói như vậy. Như trong Kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phất hoài nghi đức Phật Thích Ca chiêu cảm uế độ, nhưng ngài không biết rằng thấy cõi Phật ô uế là do mắt của ngài thấy như vậy, chứ không phải cõi Phật vốn là như vậy. Hiện nay, cõi Phật A Di Đà, vốn là vô lượng, nhưng vì chúng sinh có tầm mắt hữu lượng, cho nên phương tiện nói cõi Phật A Di Đà ở phương tây như vậy mà thôi. Đây là trong vô lượng thị hiện hữu lượng khiến cho chúng sinh từ hữu lượng đạt đến vô lượng.

C2. Tịnh độ Cực Lạc.

Kế đến giảng về cõi nước Cực Lạc. Trước tiên biện biệt tịnh độ là có hay không có? Giả như không có tịnh độ thì làm sao có sự vãng sinh? Hiện nay nói về tịnh độ có hay không có. Có hai trường hợp:

1. Những đời thường hay võ đoán cho rằng tịnh độ là mê tín, lý do là vì những người tin tịnh độ chưa hề thấy qua, mà cũng chưa từng đi đến đó, cho nên không thể chứng minh tịnh độ là có.

2. Những người tin Phật cho rằng phải có vì  kinh đã nói như vậy.

Hiện nay dùng lý luận để phán đoán, không cần phải do thân thể trải nghiệm mà cũng không cần phải hoàn toàn dựa vào lời dạy trong kinh mà vẫn có thể nhận định rằng phải có tịnh độ. Ở đây đưa ra luận chứng như sau: 

1. Như hiện nay (năm 1963), khoa học tiến bộ, đã chứng thật thế giới hiện nay của chúng ta chỉ là một hành tinh trong vô lượng tinh cầu, điều này cho biết rằng ngoài thế giới này còn có những thế giới khác.

2. Lại hỏi rằng các loại thế giới có ưu liệt khác nhau hay không? Chỉ cần nhìn thấy các địa phương trên thế gian có sự ưu liệt thì có thể suy đoán rằng các loại thế giới cũng có sự ưu liệt khác nhau. 

3. Nếu thế giới có ưu liệt, thử hỏi thế giới hiện nay của chúng ta có phải là tốt đẹp nhất hay không? Dĩ nhiên là không. Như vậy, có thể biết rằng phải có sự tồn tại của những thế giới tốt đẹp hơn, điều này không thể nghi ngờ. Hơn nữa, hiện nay khoa học đang có nghi vấn về vấn đề dĩa bay, chúng ta có thể nhận biết rằng các tinh cầu khác cũng có thể có sự tồn tại của những sinh vật có trí tuệ cao hơn chúng ta.

Từ những lập luận trên biết rằng không những có tịnh độ mà có rất nhiều, và hơn nữa có những sự thù thắng khác nhau. Trong giới Phật giáo, có người chủ trương duy tâm tịnh độ, cho rằng tịnh độ là ở trong tâm của chúng ta, ngoài tâm thật sự không có tịnh độ. Nếu nói như vậy, hoàn toàn đi ngược ý của Phật. Nên biết, thế giới là do tâm hiển hiện, thế nhưng nếu đã nói như vậy thì cũng phải biết rằng uế độ cũng là do tâm hiển hiện. Hiện nay nếu đã thừa nhận cõi uế do tâm hiển hiện là có thật trước mắt, tại sao lại không thừa nhận tịnh độ do tâm hiển hiện là có thật? Cho nên nếu đã tin tịnh độ thì phải tin rằng chúng thật có, không thể chấp lý bỏ sự. 

Lại nữa, liên quan đến thế giới Cực Lạc, xưa nay cũng có những sự tranh luận về cõi tịnh độ này là báo độ của Phật, hay là hóa độ (thế giới mà Phật thị hiện  vào)? Theo học thuyết hai thân, xưa nay cho rằng Phật có pháp thân và ứng hóa thân. Cõi của pháp thân là Thật báo độ, cõi của ứng hóa thân là Hóa độ. Hiện nay nếu cõi tịnh độ Cực Lạc là Thật báo độ thì những chúng sinh tội ác làm sao sinh về? Còn nếu cõi này là Hóa độ thì những chúng sinh chưa đoạn phiền não đều có thể y vào nguyện lực của chính mình và nguyện lực của Phật mà được vãng sinh, nhưng nếu như vậy, cõi tịnh độ hình như không được cứu cánh. 

Vấn đề hiện nay, tuy không cần phải nghiên cứu sâu xa, nhưng nhìn từ các bản kinh Vô Lượng Thọ, cõi Cực Lạc này hình như chuyên vì hóa đạo các chúng sinh cõi uế mà thị hiện để nhiếp độ, tiếp dẫn. Nếu y theo lời dạy của Kinh Bát Chu Tam Muội, hành giả tu tập thành tựu Bát Chu Tam Muội được đức Phật A Di Đà hiện thân thuyết pháp, nhưng hành giả lúc đó khởi niệm quán sát: “Phật có đến hay không? Ta có đi (vãng sinh) hay không? Không đến không đi mà Phật hiện tiền, bèn biết là Phật do tâm hiện, tâm đó niệm Phật, tâm đó tác Phật, Phật tức là tâm, tâm tức là Phật.” Nếu quán sát như vậy, ngộ nhập chư pháp thật tướng, nhân đây vãng sinh Cực Lạc, thì thế giới Cực Lạc không phải là ứng hóa độ. Hành giả, lúc hoa khai thấy Phật, ngộ vô sinh nhẫn, thì cõi tịnh độ đó không phải tại Tây phương, không phải tại Đông phương mà là biến khắp tất cả mọi nơi, đây tức là Báo độ. 

 Trong Đại tạng kinh, vấn đề liên quan đến Tịnh độ rất nhiều, không phải như hiện nay nói chỉ có ba loại mà thôi. Tịnh độ được tiêu biểu trong các kinh điển, có loại giống như Báo độ của Phật, có loại giống như Ứng hóa độ, cho nên đã dẫn đến nhiều sự tranh biện của cổ nhân. Như nói: “Niệm Phật liền được sinh Cực Lạc”, một số người giải thích rằng niệm Phật liền được vãng sinh, chẳng hạn như nói “đới nghiệp vãng sinh”, lại có một số người khác lại cho rằng đây là ý nghĩa “biệt thời”6, nghĩa là tuy nói vãng sinh, nhưng không phải là vãng sinh liền, mà phải trải qua nhiều đời tu tập, cuối cùng mới được chắc chắn vãng sinh, chứ không phải chỉ cho sự vãng sinh hiện đời. Giống như người đời nói “nhất bổn vạn lợi”, nghĩa là buôn bán lần hồi, tích tụ mà được, chứ không phải là vừa bỏ vốn một đồng liền có được mười ngàn đồng. Sự giải thích khác biệt này đương nhiên là từ sự hiểu biết khác nhau về Phật thân độ mà phát sinh. Thật ra Tịnh độ chỉ có một, nhưng thấy có Báo độ, Hóa độ đều là do trình độ tu hành của chúng sinh mà quyết định. Nếu như công phu tu hành thâm hậu thì vẫn có thể ở Hóa độ chứng đắc pháp thân, tức là Hóa độ mà cũng là Báo độ! 

B3. Ý nghĩa của sự vãng sinh Cực Lạc. 

Vì sao muốn vãng sinh Cực Lạc? Vì sao phát nguyện như vậy? Nên biết pháp môn Tịnh độ là pháp môn Đại thừa, Tiểu thừa không có mười phương tịnh độ, cho nên cầu vãng sinh Tịnh độ là điểm đặc sắc của Đại thừa. Thế nhưng yếu nghĩa của Đại thừa là trên cầu thành Phật dưới độ chúng sinh, nếu như niệm Phật mà không rời khỏi tâm nguyện này thì phù hợp với ý nghĩa vãng sinh Cực Lạc. Nếu chỉ vì muốn lìa khổ được vui thì đây là căn tính Tiểu thừa. Thế nhưng phát tâm Đại thừa, vì sao phải cầu sinh Cực Lạc? Nhân vì ở cõi uế, nhân duyên không đầy đủ, học Phật không dễ dàng, tuy phát Bồ đề tâm, nhưng những giềng mối chướng ngại rất nhiều. Đối với vấn đề sinh lão bệnh tử hoàn toàn không thể chủ động, cho nên cần phải vãng sinh Cực Lạc. “Chư thượng thiện nhân cùng tụ hội một nơi”, quyết chắc không thoái thất Đại tâm (Bồ đề tâm). Bồ tát Mã Minh7, trong Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Đức Như Lai có phương tiện thù thắng khiến cho không thoái chuyển (không thoái thất Bồ đề tâm)”, đây là có ý nghĩa này8. Chúng ta có thể thấy rằng ý nghĩa rốt ráo của sự vãng sinh là vì không muốn thoái thất Bồ đề tâm. Đến như Bát địa Bồ tát Mã Minh và Sơ địa Bồ tát Long Thọ 9vãng sinh Tịnh độ so với hành giả phát tâm cầu sinh Tịnh độ có sự khác biệt rất lớn.  

Các vị Bồ tát Sơ địa đã chứng ngộ vô sinh nhẫn10, tùy nguyện vãng sinh Tịnh độ, như nước chảy xuống ghềnh, đây là một xu thế tất nhiên, so với người phát tâm cầu sinh Tịnh độ có sự khác biệt. Cho nên chúng sinh, bất luận cao thấp, đều có thể vãng sinh, chỉ trừ những người không phát Bồ đề tâm là không có phần. 

B4. Tác giả và dịch giả. 

Ở Ấn Độ, luận là do Bồ tát Đại thừa và A la hán Tiểu thừa tạo; tạo có nghĩa là trước tác (sáng tác). Bồ tát là những người phát Bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Một hữu tình giác ngộ đến cực điểm thì gọi là Bồ tát. Vasubandu (Bà Tẩu Bàn Đậu 婆藪槃豆), xưa dịch là Thiên Thân, ngài Huyền Tráng dịch là Thế Thân. Thật ra hai lối dịch này đều không được thỏa đáng. Bởi vì chữ Thiên, tiếng Ấn Độ là Deva (Đề bà 提婆), Bandu (Bàn đậu) là tên một vị thần, cũng không có ý nghĩa “thế”, vị thần đó được người đời thân cận, người muốn có con, cầu xin liền được, cho nên gọi là Thế Thân (thiên). Vị Bồ tát Thế Thân này rất nổi tiếng, là một trong hai vị Đại bồ tát của Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tông). Ở Ấn Độ, ngài có danh tiếng lớn, được tôn xưng là “Thiên bộ luận sư.” Bộ Luận Thông Minh (Luận Câu Xá) của Tiểu Thừa là do ngài tạo. Bộ Luận Tam Thập Duy Thức trong Đại Thừa (người đời sau chú giải thành bộ Luận Thành Duy Thức) là bộ luận căn bổn của Duy Thức Tông cũng là do ngài tạo. Nhân vì ngài đối với toàn thể Phật giáo có một sự nhận thức vô cùng thâm sâu, cho nên đối với pháp môn Niệm Phật ngài cũng có những kiến giải rất là độc đáo. 

 Hiện nay nói sơ lược về tiểu sử của Bồ tát Thế Thân. Ngài hạ sinh ở miền Tây bắc Ấn Độ, vào khoảng chín trăm năm sau khi Phật diệt độ (khoảng thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ năm TL). Gia đình có ba anh em, người anh là ngài Vô Trước11, người em là Sư Tử Giác đều là những người xuất gia trong Phật pháp. Vào thời đó, người xuất gia ở Ấn Độ đều là xuất gia trong các giáo đoàn Tiểu thừa. Ngài xuất gia với Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, trước tiên học tập Tiểu thừa, sáng tác Câu Xá Luận12. Người anh là ngài Vô Trước được diện kiến đức Di Lặc, đắc được Duy Thức Quán, biết được em mình mê thích Tiểu Thừa, bèn giả bệnh, gửi thư gọi ngài về, sau đó giải thích ý nghĩa Đại thừa. Ngài Thế Thân giác ngộ, bèn hối lỗi tạ tội, muốn cắt lưỡi mình để tạ tội phỉ báng Đại thừa, nhưng ngài Vô Trước khuyên ngài nên dùng cái lưỡi [đã từng hủy báng Đại thừa] để hoằng dương Đại thừa, ngài bèn vâng lời kế nghiệp anh mình. Những luận điển mà ngài sáng tác, không có vấn đề nào mà không thảo luận đến, còn đối với kinh điển Đại Thừa, không có chỗ nào mà ngài không xiển dương ý nghĩa. Luận này là một tác phẩm nổi danh, y cứ vào yếu nghĩa của toàn thể kinh điển Đại Thừa mà giải thích Kinh Vô Lượng Thọ. 

Người dịch là ngài Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi13 ở vào đời Nguyên Ngụy (元魏). Nguyên Ngụy tức là Thác Bạt Ngụy (拓跋魏)14

Thiên Trúc tức là Ấn Độ. Tam Tạng là chỉ cho các bậc đã tinh thông Tam tạng kinh luật luận. Bồ Đề Lưu Chi (菩提流支, Skt: Bodhiruci), Bồ Đề có nghĩa là giác, Lưu Chi có nghĩa là mong cầu, ham thích, Bồ Đề Lưu Chi có nghĩa là mong cầu, ham thích sự giác ngộ. Trong lịch sử, vị đại sư này có địa vị rất cao, quan hệ rất lớn đối với Phật giáo Trung Quốc. Vào đời Nguyên Ngụy, ngài từ Ấn Độ đến Trung Quốc, phiên dịch rất nhiều kinh điển, chủ yếu đều là những luận điển của hai ngài Vô Trước và Thế Thân, như Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa, Kinh Thập 

Địa, v.v… đều có luận điển, đặc biệt là Luận Thập Địa Kinh. Bản dịch của luận này phong thịnh một thời, đưa đến sự thành lập Địa Luận Tông15, sau đó diễn biến thành Hoa Nghiêm Tông16, có ảnh hưởng cực kỳ thâm sâu đối với Phật giáo Trung Quốc. Thế nhưng những dịch thuật về Duy Thức của ngài  so với những dịch thuật của ngài Huyền Tráng sau này có nhiều điểm khác biệt. Thuyết “chân tâm” mà ngài đề xướng đặc biệt phù hợp với sở thích của người Trung Quốc. Luận này là do ngài phiên dịch, đối với các hành giả Niệm Phật ở Trung Quốc cũng có một sự khải thị sâu rộng. 

Người đời nay chỉ biết rằng ngài Huệ Viễn là thỉ tổ của pháp môn Tịnh Độ, nhưng không biết rằng vào thời ngài Huệ Viễn17 vẫn chưa có sự chuyên tông hoằng dương [pháp môn này]. Nên biết, người đầu tiên chân chánh  hoằng dương pháp môn Tịnh Độ là ngài Pháp sư Đàm Loan (曇鸞). Nhưng sự hoằng dương Tịnh Độ của ngài Đàm Loan cũng xuất phát từ một nhân duyên đặc biệt. Nguyên lai, ngài Đàm Loan, một học giả chuyên môn nghiên cứu Tứ luận18, do vì thể lực suy nhược, sợ rằng mệnh yểu thì không thể hoằng pháp, bèn đi tìm đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh ở vùng Giang Nam để học pháp trường sinh. Sau đó trên đường trở về Bắc Ngụy, ghé đến Lạc Dương thì gặp ngài Bồ Đề Lưu Chi. Ngài Đàm Loan thuật lại việc cầu kinh Tiên thì bị ngài Bồ Đề Lưu Chi quở trách cho là việc hư vọng. Ngài Đàm Loan thỉnh ngài Bồ Đề Lưu Chi truyền trao phương thuật trường sinh của Phật giáo, ngài Bồ Đề Lưu Chi bèn trao quyển Luận Vãng Sinh Tịnh Độ mà ngài mới phiên dịch này cho ngài Đàm Loan. Ngài Đàm Loan theo đó tu tập được đại ngộ bèn cực lực hoằng dương, đồng thời soạn một quyển chú sớ nhan đề Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ Chú. Tiếp đến do ngài Đạo Xước19 kế thừa, sau đó truyền đến ngài Thiện Đạo20 thì pháp môn Tịnh Độ A Di Đà trở nên long thạnh. Cho nên Tịnh Độ sở dĩ phổ biến một thời (Hán: phong mị nhất thế 風靡一世) là do đại công của quyển luận do ngài Bồ Đề Lưu Chi phiên dịch này. 

A2. Chánh thức giải thích. 
B1. Nói tổng quát phần Vãng Sinh Kệ.

Bổn luận trước tiên dùng kệ tụng nói tổng quát, sau đó giải thích phần trường hàng. Tên phần kệ tụng là Vãng Sinh Kệ, tức là phải nguyện vãng sinh Tịnh Độ, và dùng kệ này để cầu sinh. “Kệ”, tiếng Phạn là  gāthā, có nhiều thể loại, hoặc là mỗi câu bốn chữ, hoặc năm chữ, cho đến tám chữ. Cứ bốn câu là một bài kệ, gần giống như thể thơ của Trung Quốc. 

Nguyện Sinh Kệ là tên chung của cái bài kệ phía dưới. Các bản của tạng kinh đời Tống, đời Minh, v.v…, đều đặt cụm từ “Nguyện Sinh Kệ” phía trước các bài kệ, chỉ có bản của tạng kinh Cao Ly là đặt cụm từ “Nguyện Sinh Kệ” vào trong đề mục, đọc là “Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ”, đây là điều nhầm lẫn. 

 Nguyện Sinh Kệ có cả thảy hai mươi bốn bài kệ. Hai bài kệ đầu là quy kính thuật ý, nêu rõ sự hoằng dương tán thán này không phải là ý riêng của tác giả mà là do Phật thuyết, còn tác giả thì không có công lao gì hết. Đây là biểu hiện sự cung kính đối với Phật, hơn nữa, biểu thị sở đắc của tác giả hoàn toàn là đến từ đức Phật. Cho nên, phàm các đệ tử của Phật tạo luận đều sử dụng thái độ như vậy, quy kính Tam Bảo. Ở đây, bổn luận chỉ quy kính Phật bảo. 

Thế Tôn, con nhất tâm quy mệnh tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai, nguyện sinh An Lạc Quốc. 

 “Thế Tôn”, tiếng Phạn là Bhagavān (Bà Già Bà 婆伽婆, hoặc Bạc Già Phạm 薄伽梵), có nghĩa là bậc được tất cả thế gian xuất thế gian tôn kính.  

“Con nhất tâm quy mệnh”, nhất tâm có nghĩa là chuyên tâm nhất chí, quy mệnh tín ngưỡng Thế Tôn. Nếu như không nhất tâm, tức là tín tâm không tha thiết. “Quy mệnh”, tiếng Phạn là Namo, ở đây có ý nghĩa như câu “Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân21” trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm. “Quy tín” thì cần phải quy y tín ngưỡng hoàn toàn, không có một chút do dự. Nếu như chỉ tin một phần này mà không tin các phần khác thì không được gọi là quy tín. Đây không phải là tin tưởng một cách mù quáng, mà đương nhiên phải là do lý trí quyết trạch, thế nhưng, một khi đã quy tín thì cần phải nhất tâm tín ngưỡng, không còn giữ lại kiến giải riêng tư của mình. Đây là điều kiện chung cho các tôn giáo, không phân Đại thừa, Tiểu thừa, không ai mà không như vậy. 

 “Tận thập phương Vô Ngại Quang Như Lai”, Vô Ngại Quang Như Lai tức là Vô Lượng Quang Như Lai, nghĩa là Phật A Di Đà là đối tượng của sự quy mệnh. Vô ngại quang, mỗi một tia sáng (quang) đều vô ngại, không như các vật khác, mà cũng không giống âm thanh, có sự ngăn ngại. Chỉ có ánh sáng là có thể dung hợp thành một, nhưng vẫn bị vật khác chướng ngại. Hiện nay quang minh (ánh sáng) của Phật A Di Đà (thân quang, trí quang) thì chắc chắn có thể chiếu khắp muôn phương mà không bị vật làm chướng ngại. “Như Lai” là một trong mười hiệu của Phật, tiếng Phạn là Tathāgata. “Như” có nghĩa là tương đồng bình đẳng, tức là tuyệt đối vô phân biệt. “Lai” (đến), trong tiếng Phạn, cũng có thể dịch là “khứ” (đi), có ý nghĩa “biến động.” Nếu như thể hội chân như, đắc thành Phật đạo thì gọi là Như Lai. 

“Nguyện sinh An Lạc Quốc”, “quốc” có nghĩa là thế giới. An Lạc Quốc, còn gọi là Cực Lạc Quốc. Nguyện sinh Cực Lạc Quốc là ý nghĩa của lý do “quy mệnh Phật A Di Đà.” 

Con y Tu đa la, tướng công đức chân thật, nói nguyện kệ tổng quát, tương ưng lời Phật dạy. 

Bài kệ này nêu lên bổn ý của sự tạo luận. “Tu đa la” tiếng Phạn là Sutra, tức là khế kinh, có nghĩa là khế lý và khế cơ22. Công đức vô lậu23 của Phật, cùng các loại công đức của thế giới Cực Lạc đều là chân thật, cứu cánh, viên mãn, vô lậu, tương ưng với chân lý24. Hiện nay nói Nguyện Sinh Kệ, bao quát tất cả các loại công đức chân thật vừa nêu trên, tương ưng với lời dạy (Hán: giáo giới 教誡) của đức Phật. Ở đây, không phải chỉ y vào một kinh, hoặc một phần, hoặc một đoạn của kinh, mà là tìm tòi tướng công đức của thế giới Tây phương trong tất cả các kinh Vô Lượng Thọ để nói lên Nguyện Sinh Kệ này. 

Quán tưởng thế giới kia,
Vượt quá hơn ba cõi. 
Rốt ráo, như hư không,
Rộng lớn không ngằn mé. 
Chánh đạo đại từ bi,
Sinh thiện căn xuất thế. 
Ánh sáng sạch soi khắp,
Tựa mặt gương, nhật, nguyệt. 
Đủ các loại trân bảo, 
Đầy đủ diệu trang nghiêm.
Vô cấu quang rực rỡ,
Sáng sạch rọi thế gian. 
Cỏ công đức bảy báu, 
Mềm mại chuyển trái phải,
Chạm vào sinh thắng lạc,
Hơn Ca chiên lân đà. 
Hoa báu ngàn vạn loại, 
Phủ đầy khắp ao hồ, 
Gió nhẹ lay hoa lá,
Ánh sáng soi lóng lánh. 
Các cung điện lầu các, 
Nhìn thấy khắp mười phương,
Cây báu đủ sắc màu,
Lan can vây khắp chốn. 
Vô lượng báu nối kết, 
Màn lưới khắp hư không,
Các loại linh vang vọng,
Giảng nói pháp vi diệu. 
Mưa hoa, y trang nghiêm,
Vô lượng hương tỏa ngát.
Phật tuệ sáng thanh tịnh,
Diệt ngu tối thế gian. 
Phạm âm Phật nhiệm mầu,
Vang  vọng khắp mười phương. 
A Di Đà Chánh giác,
Pháp vương khéo trụ trì.
Đệ tử Phật thanh tịnh, 
Hoa chánh giác hóa sinh. 
Ưa thích mùi Phật pháp, 
Thiền định làm thức ăn. 
Diệt phiền não thân tâm,
Thọ lạc không gián đoạn. 
Cõi thiện căn Đại thừa, 
Bình đẳng, không tiếng ác,
Người nữ và khuyết tật,
Giống Nhị thừa không sinh.
Ước nguyện của chúng sinh,
Thảy đều được thỏa mãn. 
Nên con nguyện vãng sinh,
Về cõi Phật Di Đà.
Vô lượng đại bảo vương,
Đài tịnh hoa vi diệu. 
Thân quang sáng một tầm,
Sắc tướng vượt chúng sinh.
Tiếng Như Lai vi diệu, 
Vang vọng khắp mười phương.
Không phân biệt như đất,
Nước, lửa, gió, hư không.
Trời, người, chúng bất động,
Do biển tịnh trí sinh. 
Như núi chúa Tu Di,
Thắng diệu không ai bằng. 
Chúng trượng phu trời người, 
Kính, nhiễu quanh, chiêm ngưỡng. 
Quán nguyện lực của Phật, 
Gặp qua không luống uổng,
Khiến mau được đầy đủ,
Biển báu công đức lớn. 
Nước An Lạc thanh tịnh, 
Thường chuyển pháp vô cấu,
Hóa Phật Bồ tát nhật,
Như Tu Di trụ trì. 
Ánh sáng sạch trang nghiêm, 
Trong mỗi niệm mỗi thời,
Chiếu khắp các Phật hội,
Lợi ích các chúng sinh. 
Mưa nhạc trời, hoa, y, 
Diệu hương… để cúng dường,
Khen công đức chư Phật,
Không có tâm phân biệt.
Thế giới nào không có, 
Báu công đức Phật pháp,
Con đều nguyện đến đó,
Chuyển pháp luân như Phật. 

Hai mươi mốt bài kệ trên nói rộng về công đức trang nghiêm. Trong phần trường hàng bên dưới, chúng ta sẽ giải thích tường tận.

Con làm luận nói kệ, 
Nguyện gặp Phật Di Đà, 
Cùng với các chúng sinh,
Vãng sinh nước An Lạc. 
 
Bài kệ cuối này hồi hướng lưu thông. Gặp Phật A Di Đà, ngoài trường hợp mệnh chung thấy Phật, còn có trường hợp lúc sinh tiền thấy Phật, trong mộng thấy Phật, trong định thấy Phật, v.v… Sơ tổ Tịnh Độ Tông là ngài Huệ Viễn đã từng đôi lần thấy Phật.

Thế nhưng, ở đây sở nguyện của Bồ tát Thế Thân là mệnh chung vãng sinh gặp Phật. Bồ tát Thế Thân đem công đức tạo luận hồi hướng cho mình và chúng sinh có thể nhân đây mà đều được vãng sinh Cực Lạc. Hồi hướng có nghĩa là hồi đây hướng kia, đem công đức này để dùng vào việc khác (chẳng hạn như vãng sinh).

Con đã dùng kệ tụng nói tổng quát nghĩa văn của Kinh Vô Lượng Thọ. 

B2. Giải thích trường hàng. 
C1. Nêu tông lược thích. 

Luận nói: Bài Nguyện Sinh Kệ nêu lên ý nghĩa gì? Quán sát thế giới An Lạc, thấy Phật A Di Đà, nguyện vãng sinh về cõi đó. 

Tác giả y vào Nguyện Sinh Kệ mà phân biệt rộng rãi, khiến cho cương mục rõ ràng, điều lý phân minh. Các vị Bồ tát ở Ấn Độ tạo luận, phần lớn là tông kinh, không chú trọng đến việc giải thích câu văn. Nguyện Sinh Kệ ở phần trên là muốn nêu lên ý nghĩa gì? Đáp: Quán tưởng thế giới Cực Lạc như đang ở ngay trước mắt, khiến cho sự thù thắng ở cõi đó hiển hiện rõ ràng, hơn nữa, được thấy đức Phật A Di Đà, khiến cho tín tâm kiên định, mà phát nguyện vãng sinh về cõi đó.  

Niệm Phật có nhiều phương pháp, ngài Huệ Viễn(?)25 đề xướng Trì danh niệm Phật, còn bộ luận này của ngài Thế Thân thì chủ trương Quán tưởng niệm Phật. Nhưng thật ra ngài Thế Thân cũng không chỉ chuyên chú trọng quán tưởng, như phần dưới sẽ thấy, chẳng qua, ngài dùng pháp quán tưởng làm trọng tâm mà thôi. Pháp môn tu tập mà Kinh Kim Cương đề xướng là Thật tướng niệm Phật26. Có người cho rằng “hành giả tu Thật tướng niệm Phật vãng sinh thượng phẩm thượng sinh, cần phải có căn cơ cực lợi mới có thể tu được, còn như chúng sinh đời mạt pháp tâm ý thô phù rất dễ tán động, chỉ có pháp môn Trì danh niệm Phật là thích hợp với căn cơ của họ.”  

Phần trên vừa nói, cố nhiên là sự thật, thế nhưng nếu có phương pháp thỏa thiện, và được hành giả chuyên tu hướng dẫn thì vẫn có thể tu trì, từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, không ai là không thành tựu. Ví như, trước tiên quán bạch hào khiến cho thấy được rõ ràng, sau đó nới pháp quán rộng ra thì, một cách bất chợt, có thể thấy được toàn thân. Hiện nay, có người cho rằng cảnh giới Hoa Nghiêm là huyền đàm, thật ra người tu nào tu được đều có thể được thành tựu. Lúc tu, trước tiên cần phải “an lập”, tức là hệ niệm một tướng, chỉ thấy phù động bất thực, nhưng sau đó tâm dần dần ổn định, lúc bấy giờ gọi là an trụ. Tu trì như vậy thì có thể thành công (vãng sinh). 

Quán thế nào? Làm thế nào để sinh khởi tín tâm? Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu tập ngũ niệm môn thành tựu, rốt ráo được sinh cõi nước An Lạc, thấy Phật A Di Đà. 

Tu tập ngũ niệm môn, tức là tu tập năm loại pháp môn niệm Phật. Tín, tức là tín nguyện, quán là trí tuệ. Phật pháp như biển lớn, dùng tín để tiến vào, dùng trí tuệ để vượt qua. Tu tập ngũ niệm môn này là phương tiện để tu quán và sinh khởi tín tâm. Nhưng cần phải tu tập thành tựu mới được sinh về Cực Lạc, chứ không phải chỉ  tu tập một đời là được vãng sinh. Niệm Phật là dùng tâm mà niệm (), hiện nay dùng chữ [khẩu] niệm ( – miệng niệm ra tiếng) là sai. Niệm có nghĩa là tâm chuyển biến trên một đối tượng (cảnh sở duyên). Nhưng niệm Phật nghĩa là lúc nào tâm cũng gắn liền với Phật, niệm Pháp là lúc nào cũng không quên “tất cả pháp bất sinh bất diệt, …”, đây cũng có nghĩa là “hệ niệm không quên.” Tịnh Độ Tông có pháp môn Tam thời hệ niệm là có ý nghĩa này. Nếu có thể niệm đến Nhất tâm bất loạn tức là đắc thiền định, thành tựu trí tuệ, không còn pháp nào khác. Niệm niệm nối tiếp nhau mà không lìa khỏi một niệm, nếu có thể được như vậy thì có thể vãng sinh thấy Phật A Di Đà. 

Ngũ niệm môn là gì? Một là lễ bái môn, hai là tán thán môn, ba là tác nguyện môn, bốn là quán sát môn, và năm là hồi hướng môn. 

Bên trên là nêu sơ lược tên của ngũ niệm môn. Một là thân nghiệp, hai là khẩu nghiệp và ba bốn năm là ý nghiệp. Tu quán sát môn có thể đắc trí tuệ, tu hồi hướng môn đắc được công đức đại bi. Năm pháp này là từ cạn đến sâu, nếu tu cả năm môn, nhất định sẽ được vãng sinh. Lại nữa, ngũ niệm môn này, luận chủ y vào Nguyện Sinh Kệ mà thành lập. Y vào hai bài kệ đầu thành lập lễ bái môn, tán thán môn và tác nguyện môn; y vào hai mươi mốt bài kệ kế thành lập quán sát môn; y vào bài kệ cuối thành lập hồi hướng môn. Phần dưới giải thích sơ lược ngũ môn. 

Lễ bái thế nào? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì muốn vãng sinh cõi nước Cực Lạc. 

Dùng thân nghiệp kính lễ, hoặc chắp tay, hoặc xá xuống, hoặc đảnh lễ, nhưng phải lễ Phật như Phật đang hiện tiền. Ứng Cúng, tức là A la hán, đáng được thọ nhận sự cúng dường của trời người. Chánh Biến Tri, tức là Tam miệu tam bồ đề, hoặc Tam miệu tam phật đà, nghĩa là vừa chánh tri mà vừa biến tri (biết tất cả đúng như thật). Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri là ba đức hiệu của Phật. Dùng thân nghiệp lễ kính Như Lai vì có ý “một lòng nguyện sinh về  Cực Lạc.”

Tán thán thế nào? Xưng danh đức Như Lai (A Di Đà), đúng như tướng trí tuệ quang minh của Như Lai (A Di Đà), đúng như danh nghĩa của A Di Đà, vì muốn tu hành tương ưng như thật.  

Thông thường dùng miệng trì danh niệm Phật là thuộc vào tán thán môn. Vì sao? Như đứa trẻ gọi mẹ hay sao?  Không phải như vậy. Bởi vì danh hiệu Phật là vạn đức hồng danh, xưng danh cũng giống như tán thán công đức của Phật, như A Di Đa Bà Da (Amitabha), tức là Vô Lượng Quang, biểu thị tướng trí tuệ quang minh của Như Lai. Quán xét để tư duy nghĩa lý, đây là ý nghĩa chân thật của chữ “tán thán.” Nhân vì Phật danh vô lượng, công đức của ngài cũng vô lượng, bất khả tư nghì, cho nên xưng danh tức là dùng khẩu nghiệp mà xưng tụng công đức của Phật. Giống như người đời sùng bái một nhân vật, muốn xưng danh người đó, trước tiên cần phải biết danh xưng đó đại biểu sự vĩ đại nào của họ, nếu không sẽ không thể nói lên sự sùng bái được. 

Xưng danh như vậy cũng đồng như tán thán.  

Người tu hành, trong quá trình tu học Phật pháp, tất cả công hạnh đều là tu hành, hoặc tu phước, hoặc tu tuệ, nhưng nếu chân thật tu hành thì phải là sự tu hành tương ưng với định tuệ. Đối với danh hiệu Phật có sự liễu giải sâu xa, trì danh như vậy thì có thể y vào sự [quán] niệm mà tiến tu định tuệ, từ đó được sự gia bị của Phật, vãng sinh Cực Lạc. Còn đối với vấn đề cầu đắc định thì có nhiều phương tiện, như trì chú, chú ý dưới rốn, …, tuy cũng đắc định nhưng không thể vãng sinh Cực Lạc. Chỉ là lúc niệm Phật, đối với công đức của Phật A Di Đà hiểu rõ một cách thâm thiết, tín nguyện đầy đủ, mới có thể tương ưng mà vãng sinh Cực Lạc. 

Tác nguyện thế nào?  Tâm thường tác nguyện, nhất tâm chuyên niệm, rốt ráo được vãng sinh quốc độ An Lạc, vì muốn như thật tu hành xa ma tha. 

Tác nguyện có nghĩa là phát nguyện. “Tâm thường tác nguyện”, cần phải thường thường tác nguyện. “Nhất tâm chuyên niệm”, quyết định vãng sinh An Dưỡng. Tác nguyện vãng sinh như vậy là vì muốn như thật tu hành xa ma tha. Xa ma tha (Samatha), tiếng Hán dịch là chỉ (). Tâm của phàm phu tán loạn bay nhảy, phải dùng “chỉ” để giữ (buộc) tâm vào một cảnh, không cho nó loạn động. Sự quan hệ giữa niệm và chỉ là: niệm như sợi dây buộc (trói) không cho động, đến lúc tâm tĩnh lặng (Hán: tĩnh chỉ 靜止) thì gọi là chỉ, cũng gọi là trụ tâm. Cho nên tu định thật ra là tu niệm. Nếu như có thể niệm niệm nối tiếp, chánh niệm phân minh, thì có thể đắc chỉ. Đắc chỉ tức là chân thật tu hành. 

Quán sát thế nào? Trí tuệ quán sát, chánh niệm quán sát cõi nước Cực Lạc, vì muốn như thật tu hành tỳ bát xá na. 

Sự quán sát thông thường chỉ là nghe người khác nêu lên vấn đề rồi dùng tâm tán loạn để phân biệt sự lý. Như vậy không phải là ý nghĩa của sự quán sát mà ở đây muốn nói. Chân chánh quán sát thì phải cần đến định, y vào định mới có thể thành quán. Nếu không, quán sát một hồi lâu thì sẽ chóng mặt nhức đầu, bôn chôn mất ngủ. Nếu như có thể đắc chỉ rồi quán, thì có thể đắc trí tuệ. Cho nên Đại Học nói: “Tĩnh lặng sau đó có thể suy tư (Hán: tĩnh nhi hậu năng lự 靜而後能慮)”, đại khái giống như nghĩa lý ở đây. Giống như ngọn đuốc trong gió, gió thổi không ngừng, làm sao mà chiếu sáng vật khác? Thế nhưng, quán tuệ và chỉ khác nhau. “Trí tuệ quán sát” cũng có sự phân biệt, tìm cầu, quyết trạch. Giả như một người quán sát một đóa hoa hồng, nhìn một cách chăm chú, thì có thể do quán mà thành chỉ; nếu như quán sát ý nghĩa màu đỏ thế nào, …, thâm nhập phân biệt, quyết trạch thì lại có thể từ chỉ mà tu tập thành quán. Giống như pháp quán bất tịnh, quán sự tướng biến hóa, cầu tướng chân thật của nó (thể tính, tác dụng, hình tướng), đây tức là quán. Ở đây, đối tượng để quán sát là Phật A Di Đà, quốc độ, và Bồ tát. “Chánh niệm”, nghĩa là buộc tâm một cảnh, không phân tán, đây gọi là niệm. Niệm có thể làm tâm thanh tịnh, khai trí tuệ, giảm phiền não thì gọi là chánh niệm. Tỳ bát xá na (Vipassana) là tiếng Phạn. Tu chỉ mà không tu quán thì sẽ ngừng ở định, không thể thành tựu trí tuệ. Cần phải tu quán mới được tiến bộ.  

Quán sát cõi nước Cực Lạc có ba loại: một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, hai là quán sát công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà, ba là quán sát công đức trang nghiêm của chư Bồ tát. 

Y vào kinh mà quán sát, có thể phân biệt làm ba loại: một là y báo của Phật, tức là cõi nước của Phật; hai là chánh báo của Phật, tức là Phật A Di Đà; ba là bạn lữ (quyến thuộc, đệ tử), tức là chư Bồ tát. 

Công đức là gì? Công, tức là dụng lực; đức, tức là thiện nghiệp. Như dụng công mà được thành tựu thiện nghiệp thì gọi là công đức. Hiện nay, tất cả cảnh giới trang nghiêm của thế giới Cực Lạc là từ đâu đến? Tất cả đều là do đức Phật A Di Đà tu tập thiện nghiệp mà thành tựu, dựa trên thành quả của sự tinh tiến tu hành của Phật A Di Đà cho nên gọi là công đức. 

“Trang nghiêm”, nghĩa là vi diệu trang sức. Chủ, bạn, quốc độ có vô lượng vô biên công đức trang nghiêm, tất cả đều phải quán sát. 

Hồi hướng thế nào? Không xả bỏ tất cả chúng sinh, tâm thường phát nguyện, hồi hướng làm đầu, vì muốn thành tựu tâm Đại bi. 

“Không xả bỏ tất cả chúng sinh”, giống như trong nhà lửa không xả bỏ những người thân thuộc. Đây mới là Bồ tát phát tâm, cho nên thường dùng “hồi hướng làm đầu”, nguyện tất cả chúng sinh đều sinh Cực Lạc, như vậy mới có thể thành tựu tâm Đại bi. Đây gọi là hoa khai thấy Phật, đắc vô sinh nhẫn, sau đó cưỡi thuyền từ đi tế độ chúng sinh. 

C2. Nói rộng sự quán sát. 
D1. Quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc. 

Quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc như thế nào? Thành tựu bất khả tư nghì công đức giống như đặc tính của vật báu ma ni như ý. Hai pháp (công đức trang nghiêm của cõi Phật và ngọc như ý) là hai pháp tương tự tương đối. 

Phần dưới, nói rộng sự quán sát, tức là môn thứ tư của ngũ niệm môn. Trước tiên, quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc.  

“Ma ni”, trong tiếng Phạn (mani), có nghĩa là  như ý. “Ma ni như ý” là nêu cả Phạn Hán cùng lúc. “Bất khả tư nghì lực” tức là tác dụng bất khả tư nghì.  

“Pháp tương tự tương đối”, đây là văn phạm thuần túy của tiếng Phạn, ý muốn nói là cõi Phật trang nghiêm bất khả tư nghì, tương tự như ma ni bảo châu, hai bên có thể so sánh với nhau, cho nên gọi là pháp tương tự tương đối. Đoạn văn này có ý như sau: Trong Phật pháp, ma ni bảo châu là một viên bảo châu rất nhỏ, cực kỳ trong sáng (Hán: minh tịnh 明淨), có thể khiến cho mọi người thỏa mãn tất cả nguyện vọng, cho nên gọi là như ý, hơn nữa, có thể tiêu tai miễn nạn, trăm bệnh không sinh. Hiện nay dùng để tỷ dụ thế giới Cực Lạc cũng giống như vậy: bình an, tự do, hạnh phúc, không tai không nạn, vàng ròng lát đất, bảy báu trang nghiêm, tất cả như ý, đến đi tự tại. Nhưng ở đây dùng “như ý” là nghĩa chính yếu, cho nên bất khả tư nghì. 

Quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, có mười bảy loại cần phải biết. Một là thành tựu công đức về sự thanh tịnh; hai là thành tựu công đức về  tánh; ba là thành tựu công đức về lượng; bốn là thành tựu công đức về hình tướng; năm là thành tựu công đức về các loại sự nghiệp; sáu là thành tựu công đức về diệu sắc; bảy là thành tựu công đức về xúc; tám là thành tựu công đức về sự trang nghiêm; chín là thành tựu công đức về vũ (mưa); mười là thành tựu công đức về quang minh (ánh sáng); mười một là thành tựu công đức về âm thanh vi diệu; mười hai là thành tựu công đức về chủ (Phật A Di Đà); mười ba là thành tựu công đức công đức về quyến thuộc (chúng đệ tử của Phật); mười bốn là thành tựu công đức về thọ dụng; mười lăm là thành tựu công đức về không có các nạn; mười sáu là thành tựu công đức về đại nghĩa môn, và mười bảy là thành tựu công đức về tất cả sở cầu đều được thỏa mãn. 

Quán sát công đức của cõi nước Cực Lạc tổng cộng có mười bảy sự việc, trước tiên nêu rõ danh mục. 

Thành tựu công đức về sự thanh tịnh, kệ nói: “Quán tướng thế giới kia, vượt quá hơn ba cõi.” 

Pháp môn tu tập trong luận này, đến đây phải từ trong định mà khởi quán. Hiện nay, những hành giả không thể tu định, đối với những bài trong luận này vẫn có thể phát sinh một sự hiểu biết, và vẫn có tác dụng. Vì sau này lúc tu chỉ, nhân vì sự hiểu biết này, sau khi đắc định có thể khởi quán. Nhưng quán công đức thanh tịnh của cõi Cực Lạc cần phải quán sát tướng trạng của nó siêu vượt hơn ba cõi – dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới có lòng dục của nam nữ, lòng dục làm lợi ích cho người khác, v.v… Điều này sáu cõi trời dục giới đều có. Không có lòng dục là cõi sắc tứ thiền, gồm có mười tám cõi trời. Vô sắc giới cũng có bốn cõi trời. Ba cõi cộng lại có hai mươi tám cõi trời, lưu chuyển sinh tử, nhiễm ô, trói buộc, bất tịnh. Đến như bậc A la hán, như ngài Mục Kiền Liên, v.v…, đều thoát ly ba cõi. Phàm phu không thoát ly được là vì bị ba cõi trói buộc, cho nên gọi phiền não là tạp nhiễm. Nếu đã có phiền não thì tất cả hành  nghiệp, bất luận thiện ác đều là bất tịnh, quả báo được chiêu cảm cũng bất tịnh. 

Không những chánh báo bất tịnh mà y báo cũng bất tịnh. Cho nên thế giới Cực Lạc đã là do công đức vô lậu của Phật A Di Đà tạo thành, tự nhiên không có ô nhiễm cho nên siêu xuất ba cõi. Thông thường gọi xuất thế cũng có nghĩa là vượt ra khỏi (xuất ly) ba cõi. 

Thành tựu công đức về lượng, kệ nói: “Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé.” 

Kinh A Di Đà không hề đề cập đến sự việc cõi Cực Lạc rộng lớn như hư không, không có ngằn mé. Ở đây chỉ là một phương tiện vì phàm phu mà nói như vậy. Nếu y vào trụ xứ của đức Phật, do vì khế nhập chân lý, sự lý vô ngại, tự nhiên không còn biên tế để bàn luận. 

Thành tựu công đức về tánh, kệ nói: “Chánh đạo đại từ bi, sinh thiện căn xuất thế.” 

Chữ “tánh”, tiếng Phạn có ý nghĩa đồng với chữ “giới”, có nghĩa là nhân tố27. Bởi thế, mười tám giới cũng được dịch là mười tám tánh28. “Thành tựu công đức về tánh”, tức là y vào nhân nào mà có nghĩa. Hiện nay giải thích. Do công đức vô lậu (thiện căn xuất thế) sinh, do thiện căn của sự đoạn phiền não phát sinh. Thế nhưng, rốt ráo là loại thiện căn xuất thế nào sinh? Một là chánh đạo, hai là từ bi. Chánh đạo, tức là bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định. Chánh đạo ở đây là chung với Tiểu thừa. Đại từ bi là pháp riêng (Hán: bất cộng) của Đại thừa, vì đây là nhân của sự thành Phật.  

Thành tựu công đức về hình tướng, kệ nói: “Ánh sáng sạch soi khắp, tựa mặt gương, nhật, nguyệt.” 

Hình tướng, tức là hình sắc, tướng mạo, dùng ánh sáng làm thể. Ánh sáng thanh tịnh viên mãn làm thể tánh, như mặt gương, như nhật (mặt trời), như nguyệt (mặt trăng). Như mặt gương là ví dụ cho sự thanh tịnh viên mãn, nhật nguyệt là ví cho sự rực rỡ (ánh sáng), thế nhưng ánh sáng cõi Phật mát mẽ (Hán: thanh lương 清涼), không giống như ánh sáng mặt trời tổn hại đến da người29

Thành tựu công đức các loại sự nghiệp, kệ nói: “Đủ các loại trân bảo, đầy đủ diệu trang nghiêm.” 

Đầy đủ các trân bảo, nghĩa là không phải chỉ có bảy báu. Do vì đầy đủ tất cả trân bảo, cho nên có thể đầy đủ sự vi diệu trang nghiêm30.  

Thành tựu công đức về diệu sắc, kệ nói: “Vô cấu quang rực rỡ, sáng sạch rọi thế gian.” 

Sắc, phân làm hiển sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng…), hình sắc (lớn, nhỏ, vuông, tròn…), biểu sắc (sự biểu hiện của thân, miệng…). Hiện nay công đức về diệu sắc bao gồm cả ba loại, nhưng cơ bản nhất là hiển sắc. Cho nên diệu sắc cũng có thể lấy quang sắc (hiển sắc) có thể thấy được làm chủ yếu. Đây là ánh sáng sáng sạch không cấu uế (Hán: vô cấu minh tịnh 明淨), chói lọi rực rỡ, chiếu soi thế gian, cực kỳ thanh tịnh31

Thành tựu công đức về xúc (va chạm), kệ nói: “Cỏ công đức bảy báu, mềm mại chuyển trái phải, chạm vào sinh thắng lạc, như Ca chiên lân đà.” 

Xúc là sự cảm giác của thân thể, nghĩa là thô (rõ ràng), tế (nhỏ nhiệm), trơn láng, sần sùi (Hán: sáp ), v.v… Ở thế giới Cực Lạc, mọi sự xúc chạm đều vi diệu, hiện nay chỉ nêu ra cỏ báu công đức để làm ví dụ, đại biểu cho những thứ khác. Cỏ công đức bảy báu, nghĩa là cỏ do công đức của bảy báu tạo thành, thế nhưng, những loại báu đó không phải giống như những loại báu thô cứng ở thế gian này, mà là do loại trân bảo mềm mại tạo thành, chạm vào tay thì uyển chuyển, phát sinh sự vui thích thù thắng, giống như Ca chiên lân đà, hoặc còn hơn như vậy. Ca chiên lân đà là một loại lụa trơn mịn nhất ở Ấn Độ, giống như tơ (Hán:  綢緞) ở Trung Quốc. 

Thành tựu công đức về sự trang nghiêm, có ba loại: một là trên mặt nước, hai là trên mặt đất, ba là trên hư không. 

Ở đây nói về sự trang nghiêm không phải chỉ là hương hoa, tràng phan, v.v…, được trưng bày trước mặt đức Phật. Hiện nay, sự trang nghiêm ở cõi Cực Lạc có ba loại: một là trên mặt nước, hai là trên mặt đất, ba là trên hư không đều có sự trang nghiêm thù thắng. 

Trang nghiêm trên mặt nước, kệ nói: “Hoa báu ngàn vạn loại, phủ khắp các ao hồ, gió nhẹ lay hoa lá, ánh sáng soi lóng lánh.” 

Ở trên mặt nước đều là phủ đầy hoa báu, gió lay hoa lá, tạo thành ánh sáng lung linh lóng lánh. 

Trang nghiêm trên mặt đất, kệ nói: “Các cung điện lầu các, nhìn thấy khắp mười phương, cây báu đủ sắc màu, lan can vây khắp chốn.” 

Ở thế giới Cực Lạc, cung điện trên mặt đất, không chướng ngại nhau, cho nên có thể thấy được mười phương như hư không. Lại có đủ loại cây báu, lan can vòng vây khắp mọi nơi. 

Trang nghiêm trên hư không, kệ nói: “Vô lượng báu nối kết, màn lưới khắp hư không, các loại linh vang vọng, giảng nói pháp vi diệu.” 

Trên hư không màn báu bủa khắp, các linh báu trên màn lưới phát ra âm thanh vang vọng. Ở thế giới Cực Lạc, nơi nào cũng nghe tiếng pháp, không phải như cõi thế gian ngũ trược32, khó mà nghe được Phật pháp32

Thành tựu công đức về vũ (mưa), kệ nói: “Mưa hoa, y, trang nghiêm, vô lượng hương tỏa ngát.”

Mưa có nghĩa là từ trên hư không rải xuống. “Mưa hoa, y, trang nghiêm”, trên hư không rải xuống hương hoa, y phục, và các phẩm vật trang sức nên gọi là mưa hoa y, v.v…, các sự trang nghiêm. Trong sự trang nghiêm có vô lượng hương, bất luận thuận gió, nghịch gió, không nơi nào là không có mùi hương tỏa ngát. 

Thành tựu công đức về ánh sáng, kệ nói: “Phật tuệ sáng thanh tịnh, diệt ngu tối thế gian.” 

Phần trên nói về quang minh (ánh sáng) là thuộc về hình sắc quang minh. Hiện nay là chỉ cho ánh sáng trí tuệ (trí tuệ quang) của đức Phật, quang minh thanh tịnh, giống như mặt trời chói lọi, có thể phá trừ sự ngu si, hôn ám, mê muội của thế gian. Đây là quang minh thuộc về cảnh giới tâm lý33

Thành tựu công đức về âm thanh vi diệu, kệ nói: “Phạm âm Phật nhiệm mầu, vang vọng khắp mười phương.” 

Người Ấn Độ cho rằng ngôn ngữ của họ là do Phạm Thiên truyền xuống, cho nên gọi là Phạm âm. Phạm âm ở cõi Cực Lạc có thể truyền đi rất xa, không cần phải tiếng lớn mới có thể truyền xa. Âm thanh đó hòa nhã vi diệu, truyền đi khắp mười phương, người nghe đều khởi tâm thanh tịnh34

Thành tựu công đức về chủ (Phật A Di Đà), kệ nói: “Chánh giác A Di Đà, Pháp vương khéo trụ trì.” 

Thế giới Cực Lạc đã là một cõi nước, tự nhiên phải có chủ, nhưng không giống như vua chúa ở thế gian dùng thống trị làm sự nghiệp. Ở đây, chủ là Chánh giác A Di Đà (Chánh giác có nghĩa là Phật). Pháp vương có nghĩa là tự tại đối với các pháp. Phật A Di Đà tự tại đối với các pháp. Trụ trì, trụ tức là an trụ bất động, trì là giữ cho không rơi xuống. Có thể an trụ Phật pháp, không cho rơi mất gọi là trụ trì, giống như vị phương trượng của một tự viện khéo trụ trì làm cho (Phật pháp) không bị biến chất. Phật pháp, nếu đã tiến bộ đến mức rốt ráo, tự nhiên không thể nói đến sự tiến bộ thêm nữa, điều đáng sợ là thâu nạp sự tạp nhạp khiến cho mất đi sự thuần chánh, cho nên cần phải khéo trụ trì khiến cho (Phật pháp) không bị biến chất, đọa lạc. 

Thành tựu công đức về quyến thuộc, kệ nói: “Đệ tử Phật thanh tịnh, hoa Chánh giác hóa sinh.” 

Sinh về thế giới Cực Lạc quan hệ đến sự sinh vào trong hoa sen (hóa sinh), nhưng hóa sinh có nhiều loại, cõi trời, cõi địa ngục đều là hóa sinh. Hiện nay, sự sinh này là gá vào hoa sen mà được sinh. Hoa sen có đặc tính khác thường là mọc từ bùn lầy mà không ô nhiễm. Đối với quyến thuộc ở cõi Cực Lạc, sự hóa sinh như vậy là tỉ dụ từ cõi ngũ trược vãng sinh về đó mà không ô nhiễm, cho nên gọi là đệ tử thanh tịnh của Phật (Hán: Như Lai tịnh hoa chúng 如來淨華眾). Nhân vì, dù là người có tội, nếu như đới nghiệp vãng sinh, bệnh độc phiền não của họ liền được chế phục, giống như bệnh sốt rét bị sức mạnh của thuốc trấn áp. Cho nên sự thanh tịnh của cõi An Lạc là phiền não đều bị chế phục nhưng chưa được đoạn trừ, nghiệp được [người vãng sinh] mang theo cũng không có cơ hội để hiện hành (Hán: khởi tác dụng 起作用). Hiện nay tịnh hoa chúng này từ đâu mà đến? Dùng phương thức nào để nhập vào hoa sen? Đây là con cái của Chánh giác (Phật) từ hoa sen hóa sinh, giống như phàm phu là do cha mẹ sinh, cho nên đều trở thành quyến thuộc của Phật A Di Đà. 

Thành tựu công đức về sự thọ dụng, kệ nói: “Ưa thích mùi Phật pháp, thiền định làm thức ăn.” 

Thế giới Cực Lạc cũng có sự thọ dụng [ẩm thực], thế nhưng không giống sự ăn uống của thế tục. Ẩm thực là phẩm vật dinh dưỡng dùng để duy trì sinh mệnh. Như chất độc không thể gọi là ẩm thực. Mùi vị Phật pháp tức là pháp hỷ, thiền tam muội tức là thiền duyệt, cả hai đều là pháp thực. Thiền còn gọi là tĩnh lự, có định có tuệ. Tam muội, còn gọi là đẳng trì, tức là định, có nghĩa là giữ tâm bình đẳng, không được tán loạn, hôn trầm, v.v… Tuệ mệnh của chúng sinh ở cõi Cực Lạc dùng định tuệ để trưởng dưỡng, cho nên dùng định tuệ làm sự thọ dụng. 

Thành tựu công đức không có các nạn, kệ nói: “Diệt phiền não thân tâm, thọ lạc không gián đoạn.” 

Bất luận là thân khổ, tâm não, ở cõi Cực Lạc đều không có. Bởi vì thân là do hóa sinh, cho nên không có cái khổ của tấm thân xác thịt, vả lại, phiền não cũng không sinh khởi, cho nên tâm ý cũng không có phiền não. Thường thọ các sự khoái lạc, mà cũng không có các vấn đề nhân sự (xích mích cá nhân, v.v…). 

Thành tựu công đức về đại nghĩa môn, kệ nói: “Cõi thiện căn Đại thừa, bình đẳng không tiếng ác, người nữ và khuyết tật, hàng Nhị thừa không sinh.”  

Nên biết quả báo của cõi Tịnh độ xa lìa hai loại lỗi lầm về tiếng ác (Hán: ky hiềm danh 譏嫌名): một là thể tính, hai là danh xưng. Thể tính có ba loại: một là hàng Nhị thừa, hai là người nữ, ba là người khuyết tật (các căn không đủ). Không có ba lỗi lầm nên này gọi là không có tiếng ác về thể tính. Danh xưng cũng có ba loại. Không những không có ba loại thể tính đó, mà cũng không nghe đến danh xưng (tên gọi) của Nhị thừa, người nữ và người khuyết tật, đây gọi là xa lìa tiếng ác về danh xưng. Bình đẳng tức là bình đẳng nhất tướng (cùng một hình tướng). 

Đại nghĩa môn tức là nghĩa môn của Đại thừa. Hành giả vãng sinh An Dưỡng đều dùng thiện căn Đại thừa làm nhân, bình đẳng mà không có tên xấu ác (danh từ mà người khác không muốn nghe). Ở đây, những sự kiện có thể bị ghép tên xấu ác là người nữ, người khuyết tật, và Nhị thừa (Thanh văn, Duyên giác). Thế giới Cực Lạc không có ba hạng người này, mà cũng không có ba loại tên gọi này, bởi vì mọi người đều là bình đẳng nhất tướng (một hình tướng giống nhau). Y vào đây mà nói, những Thanh văn ở cõi Cực Lạc là những vị Thanh văn đã hồi tâm hướng Đại thừa mà được vãng sinh, hoặc là do đức Phật hóa hiện để trang nghiêm cõi Tịnh độ35, chứ không phải cho rằng cõi Cực Lạc vẫn còn có hàng Nhị thừa. 

Thành tựu công đức về tất cả sở cầu đều được thỏa mãn, kệ nói: “Ước nguyện của chúng sinh, thảy đều được thỏa mãn.” 

Đây là điều thành tựu lớn nhất của thế giới Cực Lạc bởi vì có thể thỏa mãn tất cả nguyện cầu của chúng sinh, giống như châu báu ma ni. Cõi Cực Lạc tuy tốt đẹp, chẳng hạn như hương hoa trang nghiêm, bảy báu lót đất, nếu như không hợp với sự nguyện cầu của chúng sinh thì cũng không dùng được vào việc gì, cho nên câu này là quan trọng nhất, bởi vì biểu hiện mạnh mẽ công đức tự lợi lợi tha hoàn toàn viên mãn của đức Phật A Di Đà36

Nói sơ lược về mười bảy loại công đức trang nghiêm của cõi Phật A Di Đà, thị hiện (nêu rõ) sự đại thành tựu công đức lợi ích của tự thân, thành tựu công đức sự lợi ích cho chúng sinh. Sự trang nghiêm của cõi Phật Vô Lượng Thọ là cảnh giới vi diệu đệ nhất nghĩa đế. Nên biết, mười sáu câu và một câu nói theo thứ tự như vậy. 

Sự trang nghiêm diệu hảo của thế giới Cực Lạc là sự thành tựu công đức tự lợi lợi tha của Phật A Di Đà. Cảnh giới đó không thể hiểu được theo ý nghĩa của thế tục đế. Như nói xanh, vàng, đỏ, trắng, nhu nhuyễn, v.v…, đều không phải giống như người thế tục nhận biết được. Bởi vì cảnh giới thế gian là do vọng thức nhận biết phân biệt. “Đế” có nghĩa là mọi người công nhận. Tục đế tuy được mọi người thế tục công nhận, nhưng đó không phải là sự hiểu biết chân thật (Hán: chân tri 真知). Còn như Đệ nhất nghĩa đế37 (còn gọi là Thắng nghĩa đế), thì đây là cảnh giới đặc thù được chứng đắc bởi những bậc thánh đã đoạn trừ phiền não. Cảnh giới thật tướng được nhìn thấy, tuy là không hai (bất nhị), không phân biệt, nhưng những loại dị tướng vẫn là sai khác đầy dẫy. Như thế giới Cực Lạc hiện ra các loại sự tướng, đây là cảnh giới tức lý mà là sự, sự lý vô ngại, không phải vọng thức của người thế tục có thể biết được, mà là do trí tuệ của Bồ tát quán sát (mà thấy được). “Mười sáu câu và một câu”, mười sáu câu đầu là thành tựu công đức tự lợi, một câu sau cùng là thành tựu công đức lợi tha. Phần trên đã theo thứ tự đó mà giảng giải.

D2. Quán sát công đức trang nghiêm của Phật. 

Quán sát công đức trang nghiêm của Phật (A Di Đà) như thế nào? Quán sát công đức trang nghiêm của Phật có tám loại: một là trang nghiêm về [pháp] tòa, hai là trang nghiêm về thân, ba là trang nghiêm về khẩu, bốn là trang nghiêm về tâm, năm là trang nghiêm về chúng [đệ tử], sáu là trang nghiêm về thượng thủ, bảy là trang nghiêm về chủ, tám là trang nghiêm về trụ trì không luống uổng (Hán: bất hư tác trụ trì 不虛作住持). 

Trước tiên nêu ra tám loại quán sát công đức trang nghiêm của Phật, bên dưới sẽ giải thích. 

Thế nào là trang nghiêm về [pháp] tòa của Phật? Kệ nói: “Vô lượng đại bảo vương, đài tịnh hoa vi diệu.” 

Hiện nay quán sát Phật, trước tiên bắt đầu quán sát pháp tòa của Phật. Bên Tiểu thừa, pháp tòa của Phật chỉ là cỏ Cát Tường38, đức Phật hiện tướng của một tỳ khưu già (?). Bên Đại thừa không phải như vậy. Pháp tòa làm bằng bảy báu trang nghiêm, đủ loại khác nhau, nhân vì cảnh giới của chúng sinh khác nhau. Hiện nay quán pháp tòa của Phật là đài hoa sen thanh tịnh vi diệu do vô lượng đại bảo tạo thành. Đài này là dành cho Bồ tát thập địa39 sắp sửa thành Phật ngồi lên. Vì sao lại là đài hoa sen? Một là hoa sen sinh ra từ bùn lầy nhưng lại không ô nhiễm, hai là hoa sen có thực (gương sen). Hoa là nhân, thực là quả. Dùng nhân tu hành thanh tịnh (hoa) để kết thành Phật quả. Đài hoa sen này, đức Phật nhân vì tu tâm mà được thành tựu. Tâm này tuy là tâm hư vọng, như tu hành cũng không lìa khỏi vọng tâm này, lúc lìa khỏi những vọng tâm tức là hiển lộ chân tâm, hiện thành Phật đạo. Cho nên Kinh Bát Chu Tam Muội nói: “Tâm đó làm Phật, tâm đó là Phật.”

Thế nào quán sát sự trang nghiêm thân? Kệ nói: “Thân quang sáng một tầm, sắc tướng vượt chúng sinh.” 

Tướng là những đặc trưng rõ ràng trên thân rất dễ nhìn thấy, chẳng hạn như tướng bạch hào giữa chặn mày, v.v… Hảo là những tướng vi tế. Ba mươi hai tướng, tám mươi hảo (vẻ đẹp) là chỉ cho tướng hảo của hóa Phật. Còn nếu là chân thân của Phật (như Kinh Hoa Nghiêm nói) ắt sẽ có vô lượng tướng vô lượng hảo. Hiện nay nêu ra một tướng của ba mươi hai tướng gọi là thường quang tướng, nhân vì tướng ánh sáng này thường hiện hữu, không phải là do lúc hiện thần thông, hoặc lúc thuyết pháp đặc biệt phóng ra ánh sáng. Một tầm tức là tám xích, thật ra là một trượng40. Phật quang chiếu khắp mười phương, vì sao lại chỉ gọi là một tầm? Ví như lửa đuốc, ánh sáng vốn chỉ là một điểm, nhưng lại chiếu sáng cả một gian phòng, ý nghĩa là như vậy.

Sắc tướng vi diệu vượt trên tất cả chúng sinh. 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm khẩu (miệng)? Kệ nói: “Tiếng Như Lai vi diệu, vang vọng khắp mười phương.” 

Âm thanh của đức Như Lai vi diệu, trong Đại Tạng có một kinh chuyên tán thán Tam mật vi diệu của đức Như Lai, nói rằng bất luận xa gần, âm thanh đều phân minh rõ ràng như ở kế bên tai (của người nghe). Sự bí mật đó quả thật là bất khả tư nghì! Hơn nữa, tùy người nghe pháp, tùy căn cơ khác nhau mà nghe giảng pháp khác nhau, hoặc nghe giảng về Không, hoặc nghe giảng về Hữu, không phải chỉ là âm thanh nhu nhuyễn dễ nghe mà thôi. 

Thế nào là quán sát sự trang nghiêm về tâm? Kệ nói: “Không phân biệt như đất, nước, gió, lửa, hư không.” 

Tâm Phật như đất, không phân biệt sạch dơ, nặng nhẹ, một mực gánh vác. Lại không có sự phân biệt, giống như nước, lửa, gió, hư không, v.v… Chúng sinh hễ khởi tâm là phân biệt, còn đức Phật thì bất luận chê khen đều không phân biệt. Thế nhưng hiểu như vậy cũng chỉ là hiểu trên mặt sự tướng. Thật ra, tâm của đức Phật chả lẽ không có sự hiểu biết, phân biệt (Hán: liễu biệt 了別), làm sao lại có thể so sánh với đất nước gió lửa hư không? Cho nên dùng mặt kính để ví dụ thì dễ hiểu rõ tâm Phật. Đến thì phân minh rõ ràng, đi thì không lưu lại một chút dấu vết, không có tâm muốn chiếu, nhưng không lúc nào không chiếu, không vật nào không chiếu, không phải giống như gỗ đá không phân biệt.  

 Hiện nay, đức Phật làm thế nào để đạt đến trình độ vô phân biệt này? Nguyên lai, tâm vô phân biệt có hai loại: một là định tâm, hai là tuệ tâm. Phàm phu không biết định cảnh. Người tu hành đắc định, nhân vì tinh thần tập trung nên vọng niệm ngừng dứt. Lúc đầu, thỉnh thoảng vẫn còn vọng niệm đến quấy nhiểu (Hán: tập ), sau đó, sự phân biệt cũng đình chỉ, chỉ còn lại sự phân biệt vi tế, tiếp tục tu tập thì sự phân biệt vi tế cũng không còn, (hành giả bèn) tự cho rằng mình đã đắc vô phân biệt, thật ra không phải như vậy. Vô phân biệt của đức Phật là từ trong định tu quán, thông đạt tất cả pháp vô tự tánh, đắc được trí vô phân biệt mà đến. Như vậy, vô phân biệt mà không có gì không biết, trong kinh có ví dụ trống trời tự vang ra tiếng, đây là trường hợp này. 

Thế nào là quán sát sự trang nghiêm về chúng? Kệ nói: “Trời, người, chúng bất động, do biển tịnh trí sinh.” 

Chúng bất động là một hạng trời cao cấp, do tu bất động nghiệp chiêu cảm mà sinh. Bất động nghiệp tức là định nghiệp, tu tứ thiền, bát định mà đạt được. Lúc mới sinh vào cõi đó cũng có tâm tán động, lúc lâm chung cũng vậy, thế nhưng ở giai đoạn giữa, thường ở trong định, không phải như sáu cõi trời dục giới, đây gọi là chúng bất động. Những chúng sinh tu hành, trước khi thành Phật, thường tới lui (thác sinh) trong các cõi trời người, cho nên khi vãng sinh Cực Lạc, tuy vẫn còn đủ hình tướng trời người, nhưng lại do biển trí tuệ thanh tịnh mà sinh ra. Điều này trong phần quán sát sự thành tựu công đức về quyến thuộc đã nói qua. Nếu là những phàm phu thông thường thì do biển chánh giác (biến tri thanh tịnh của Phật) hóa sinh, nhưng các Đại bồ tát, tự mình đã đắc được thanh tịnh trí, do biển trí thanh tịnh của tự thân mà chuyển sinh về Cực Lạc. 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về thượng thủ? Kệ nói: “Như núi chúa Tu Di, thắng diệu không ai bằng.” 

Thượng thủ là những người có học vấn có đạo đức, bất luận đi đứng nằm ngồi đều ở hàng đầu trong chúng (Hán: thủ tịch 首席) thì gọi là thượng thủ. Các đại đệ tử trong chúng đệ tử, như thượng thủ của Phật Thích Ca là ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, thượng thủ của Phật Tỳ Lô Xá Na là ngài Văn Thù, Phổ Hiền, ở thế giới Cực Lạc là ngài Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Thượng thủ giống như trợ giáo (phụ giúp việc giảng dạy), trợ giúp Phật giáo hóa. Bậc thượng thủ này như núi Tu Di, thù thắng không thể so sánh. Dùng núi để ví dụ, một là cao lớn, hai là bất động. 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về chủ? Kệ nói: “Chúng trượng phu trời người, kính, nhiễu quanh, chiêm ngưỡng.” 

Chúng trượng phu là vì cõi Cực Lạc không có người nữ. Nhiễu quanh tức là đi nhiễu quanh đức Phật, hoặc một vòng, hoặc ba vòng. Đây là lễ tiết của người Ấn Độ biểu thị sự cung kính. 

Thế nào quán sát sự trang nghiêm về trụ trì không luống uổng? Kệ nói: “Quán bổn nguyện của Phật, gặp qua không luống uổng, khiến mau được đầy đủ, biển lớn báu công đức.” 

Nếu thuyết pháp mà không động được [tâm nguyện của] đại chúng tức là trụ trì một cách luống uổng. Bổn nguyện lực của Phật là quan trọng nhất. Không có nguyện lực đó, tuy chúng sinh có nguyện (vãng sinh) cũng không được vãng sinh. Nhân vì nguyện lực của Phật mà chúng sinh được vãng sinh về cõi Cực Lạc liền được bất thoái chuyển. Sự trụ trì không luống uổng bởi vì chúng sinh vãng sinh Cực Lạc rốt ráo đều được thành Phật. Bổn nguyện của Phật là thành lập một thế giới thanh tịnh nhất, trang nghiêm nhất để lợi lạc chúng sinh. 

Thật ra, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh là bổn nguyện chung của tất cả Bồ tát. Trên phương diện phát tâm Bồ đề, chư Phật đều giống nhau. Còn sự bất đồng là do các tiết mục nhỏ nhặt. Như bốn mươi tám nguyện của Phật  A Di Đà so với Phật Dược Sư có sự khác biệt. Bốn mươi tám nguyện có hai điểm quan trọng: một là những người vãng sinh đến thế giới Cực Lạc, tất cả sẽ là như vậy như vậy, hai là muốn được vãng sinh chỉ cần niệm Phật, đến lúc lâm chung được Phật nghinh đón, nhẫn đến mười niệm cũng được vãng sinh, cho nên không phân biệt chúng sinh tịnh uế (thiện ác), đều có thể nhiếp thọ. Nếu không, chúng sinh tâm uế trược làm sao có thể nương vào lực lượng của sự niệm Phật của chính mình mà được vãng sinh? Nhưng nay nương vào Phật lực mà được vãng sinh như vậy, cho nên sự trụ trì của Phật là không luống uổng. Như lúc Phật Thích Ca còn tại thế, có những người theo Phật xuất gia mà vẫn đọa địa ngục. Thế nhưng, nếu thấy được Phật ở cõi Thực báo trang nghiêm42

Nói sơ lược tám câu, thị hiện công đức trang nghiêm tự lợi lợi tha của đức Như Lai, thành tựu theo thứ tự, nên biết như vậy. 

Đây là kết luận sơ lược. Bảy câu đầu là tự lợi, câu cuối là lợi tha.

D3. Quán sát công đức trang nghiêm của Bồ tát. 

Thế nào quán sát công đức trang nghiêm của Bồ tát? Quán sát công đức trang nghiêm của Bồ tát là quán sát các Bồ tát đó chánh tu hành thành tựu có bốn loại công đức cần phải biết. 

Ở đây, Bồ tát là chỉ cho các bậc Đại bồ tát đã có sự tu tập, chứ không phải chỉ cho hàng Bồ tát sơ phát tâm. 

Bốn loại công đức nào? Một là ở trong một cõi Phật, thân không di động mà biến khắp mười phương, thị hiện các loại ứng hóa thân, như thật tu hành, thường làm Phật sự. Kệ nói: “Nước An Lạc thanh tịnh, thường chuyển pháp vô cấu, hóa Phật Bồ tát nhật, như Tu Di trụ trì.” 

Các vị Bồ tát không rời khỏi cõi Phật mà ứng hóa hiện khắp mười phương, điều này có thể dùng mặt trời làm ví dụ. Mặt trời bất động nhưng ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, chúng sinh ở mỗi địa phương đều nhìn thấy ánh sáng chiếu đến chỗ mình. Bồ tát từ sự tu tập lợi tha để tự lợi mình, cho nên phải như thật tu hành. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh giáo hóa chúng sinh, đây tức là Phật sự. Chúng sinh như hoa sen (chưa nở) trong bùn, hiện nay được ánh sáng như mặt trời của Bồ tát hóa hiện thân Phật chiếu đến thì hoa sen mới có thể nở ra. 

Hai là các ứng hóa thân của Bồ tát trong tất cả mọi thời, không trước không sau, nhất tâm nhất niệm, phóng ánh sáng lớn, đều có thể biến khắp mười phương thế giới giáo hóa chúng sinh, dùng đủ loại phương tiện tu hành tạo tác để diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh. Kệ nói: “Ánh sáng sạch trang nghiêm, trong mỗi niệm mỗi thời, chiếu khắp các Phật hội, lợi ích các chúng sinh.” 

Đoạn này nói các Bồ tát hóa hiện thân Phật ứng hiện thế gian, không có trước sau, mà là đồng thời đi khắp mười phương, phóng ánh sáng khắp nơi. Cho nên thân bất động là chân thân của Bồ tát, còn những thân đến nơi khác hoằng dương hóa độ là ứng hóa thân. Hiện nay nói thân Phật có ba loại: pháp thân, báo thân và hóa thân. Hóa thân tức là ứng hóa thân. Nhưng cũng có người nói pháp thân, ứng thân và hóa thân. Ứng thân tức đồng với báo thân. Hiện nay lấy quan điểm trước (pháp, báo, hóa) làm chánh. Lại có một cách phân loại: một là chân thân, hai là ứng hóa thân. Chân thân, nghĩa là ngoài ứng hóa thân có thọ mạng hữu hạn, lại có một chân thân thọ mạng vô lượng. Thế nhưng, muốn giảng một cách rõ ràng, phải nên như Duy Thức Tông phân thành bốn loại: pháp thân, tự thọ dụng thân, tha thọ dụng thân và hóa thân. Ngoại trừ pháp thân mà mọi người vốn sẳn có, Phật còn có thêm một tự thọ dụng thân thanh tịnh viên mãn do trí tuệ công đức trang nghiêm, cũng gọi là viên mãn báo thân. Đây là chân thân của Phật mà phàm phu không thể thấy được. Đức Phật lại còn có tha thọ dụng thân mà các vị Đại bồ tát có thể thấy được, nhưng các hàng phàm phu, Nhị thừa và các Bồ tát sơ phát tâm không thể thấy được. Thân Phật mà hàng Bồ tát chưa chứng ngộ (Tam hiền) và phàm phu thấy được, chẳng qua chỉ là hóa thân mà thôi.  Tha thọ dụng thân đã biến khắp mọi nơi, huống gì là chân thân? Thế nhưng các thân này đều không lìa pháp thân, cho nên có người gọi tất cả thân đều là pháp thân.  

Hiện nay nói Bồ tát: tất cả chúng sinh đều có pháp thân nhưng chưa được trang nghiêm, gọi là tố pháp thân (素法身)[nopte] Tố nghĩa là còn thô sơ chưa được tinh luyện. Tố pháp thân, ý nói đến Phật tính (hoặc Như Lai Tạng tại triền) của chúng sinh. Ðành rằng chúng sinh tất cả đều có Phật tính, nhưng cần phải tích tập công đức và trí huệ trong vô lượng kiếp để trang nghiêm (hay nói khác là để phát triển đến mức viên mãn) lúc đó mới gọi là Phật hay pháp thân đúng nghĩa.[/note]. Bồ tát một khi đăng địa (chứng Sơ địa), Bát nhã hiện tiền, có thể thấy được tha thọ dụng thân của Phật, mà bổn thân của vị Bồ tát đó cũng phần chứng pháp thân, và cũng có một ít phần từ bi Bát nhã. “Nhất tâm nhất niệm phóng ánh sáng lớn” nghĩa là trong một niệm tâm phóng ánh sáng lớn. Hàng phàm phu trong một niệm tâm chỉ thành tựu được một việc, tuyệt đối không thể làm nhiều sự việc khác nhau. Cần phải có nhiều niệm, trong một thời gian  lâu dài mới có thể thành tựu được một phần.  

Thế nhưng Bồ tát thì có thể trong lúc khởi tâm động niệm liền phóng ánh sáng lớn đến khắp mười phương để làm việc gì? Giáo hóa chúng sinh, dùng đủ loại phương tiện để diệt trừ tất cả chúng sinh khổ đau ách nạn. Thế nhưng, Bồ tát cứu khổ, không chỉ hạn định trong việc giáo hóa, mà có Bồ tát dùng thần lực khiến cho địa ngục được mát mẽ (Hán: thanh lương ), giống như vị vua trên thế gian có thể có quyền lực khiến cho các tù phạm tạm thời không bị ngục hình. 

Ba là các vị Bồ tát đó ở trong tất cả thế giới (không bỏ sót thế giới nào), chiếu đến đại chúng trong tất cả pháp hội của chư Phật (không bỏ sót pháp hội nào), cúng dường rộng lớn vô lượng, cung kính, tán thán chư Phật Như Lai. Kệ nói: “Mưa nhạc trời, hoa, y, diệu hương… để cúng dường, khen ngợi công đức Phật, không có tâm phân biệt.” 

Hóa thân của Bồ tát này ở trong tất cả thế giới (không bỏ sót thế giới nào), dùng ánh sáng chiếu đến đại chúng trong tất cả pháp hội của chư Phật (không bỏ sót pháp hội nào), dùng sự cúng dường rộng lớn vô lượng, cung kính, tán thán chư Phật trong tất cả thế giới43

Bốn là Bồ tát đó ở trong tất cả thế giới ở mười phương, nơi không có Phật pháp, trụ trì trang nghiêm biển lớn công đức của Phật pháp tăng bảo, hiển thị tất cả Phật pháp khiến cho chúng sinh hiểu rõ, như thật tu hành. Kệ nói: “Thế giới nào không có, báu công đức Phật pháp, con đều nguyện đến đó, chuyển pháp luân như Phật.” 

Bốn loại công đức của Bồ tát, một là như thật tu hành, trợ giúp Phật thuyết pháp, hai là phóng quang diệt khổ cho chúng sinh, ba là cúng dường chư Phật mười phương, bốn là đến các thế giới không có Phật pháp kiến lập Tam bảo. Bồ tát ứng hóa, nơi nào không có Phật pháp, hóa hiện làm Phật, thuyết pháp, độ tăng. Trụ trì công đức Tam bảo như biển lớn, khiến cho chúng sinh được tu hành. Lại không phải chỉ một nơi, mà là tất cả nơi nào không có Phật pháp, Bồ tát liền cưỡi thuyền đại nguyện đến đó để giáo hóa chúng sinh.

D4. Tất cả công đức trang nghiêm đều quy hướng về thanh tịnh. 

Phần trên nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm của cõi Phật, sự thành tựu công đức trang nghiêm của Phật, sự thành tựu công đức trang nghiêm của Bồ tát.  Ba loại thành tựu nguyện tâm trang nghiêm này, nói lược là nhập vào một câu pháp, một câu pháp tức là câu thanh tịnh (Hán: thanh tịnh cú 清淨句), câu thanh tịnh tức là chân thật trí tuệ vô vi pháp thân. 

Phần trên đã nói ba loại thành tựu tức là nguyện tâm trang nghiêm của Phật A Di Đà. Nếu không có nguyện này ắt không thể thành tựu. Nhưng nếu chỉ có nguyện xuông mà không hành thì rốt ráo cũng không thành tựu. Nguyên này tức là Bốn mươi tám nguyện, hoặc một nguyện Đại bồ đề. Nguyện tâm này trang nghiêm ba loại thành tựu, dùng một câu pháp mà có thể gồm thâu hết thảy mà nói, có thể nói tức là hai chữ “thanh tịnh.” Nhưng cái gọi là thanh tịnh tức là “chân thật trí tuệ vô vi pháp thân”, cũng tức là xuất thế vô lậu Bát nhã, để phân biệt với vọng thức hữu vi hữu lậu của thế gian. Ba loại trang nghiêm, tất cả đều thanh tịnh, và đều là do vô vi pháp thân hiển hiện. 

Bàn luận đến sự khác biệt của pháp hữu vi, vô vi, người Trung Quốc nói đến hữu vi vô vi, phần lớn thọ nhận sự ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Trong Phật pháp, hữu vi và vô vi rất đơn giản. “Vi” có nghĩa là tạo tác. Hễ có sinh, có diệt, có tác, có vi, có quả, có nhân, tất cả các loại nhân duyên hòa hợp mà sinh ra đều là pháp hữu vi. Còn pháp vô vi tức là Không tánh của các pháp. Ngay cả trí Bồ đề[noe]Trí Bồ đề tức bốn Phật trí (jnana): Ðại viên kính trí, Bình đẳng kính trí, Diệu quán sát trí, và Thành sở tác trí. Sự phânloại này thuộc Duy Thức pháp tướng tông. Tu tập để thành Phật nơi đây là do chuyển tám thức thành bốn trí. Nguyên tác trì chủng và hiện hành của thức và trí có thể nói là đồng nhất, chỉ khác ở nơi bản chất của chủng tữ và hiện hành mà thôi. Nghĩa là nếu hoàn toàn là chủng tử vô lậu thì thức sẽ thành trí và hiện hành sẽ từ uế độ phiền não thành tịnh độ an lạc.[/note] của Phật do chủng tử phát sinh cũng vẫn là pháp hữu vi. Trong pháp vô lậu vẫn có pháp hữu vi. Lại có một loại giải thích cho rằng hữu vi là do phiền não nghiệp tạo tác, nói cách khác, sinh tử tạp nhiễm đều là hữu vi. Nếu giải thích như vậy, nghiệp quả vô lậu phải là vô vi. Hai loại giải thích này trong Kinh A Hàm đều có. Nhưng ước định lối giải thích thứ nhất thì phạm vi của hữu vi sẽ rộng rãi hơn, nghĩa là ngay cả quả báo của giới định tuệ vô lậu của Phật cũng là pháp hữu vi. Hiện nay y vào lối giải thích sau, tức là trí tuệ vô lậu tương ưng với chân như đều được nhiếp vào vô vi pháp thân. 

Nên biết sự thanh tịnh này có hai loại. Một là khí thế gian thanh tịnh, hai là chúng sinh thế gian thanh tịnh. Khí thế gian thanh tịnh tức là phần trên nói về mười bảy loại thành tựu về công đức trang nghiêm của cõi Phật, gọi là khí thế gian thanh tịnh. Chúng sinh thế gian thanh tịnh là phần trên nói về tám loại thành tựu của Phật, và bốn loại thành tựu của Bồ tát, gọi là chúng sinh thế gian thành tựu. Như vậy, nên biết, một câu pháp bao gồm hai loại thanh tịnh. 

Tất cả pháp, không pháp nào không thanh tịnh, thanh tịnh không ngoài khí thế gian thanh tịnh (công đức trang nghiêm của cõi Phật), và hữu tình thế gian thanh tịnh (công đức trang nghiêm của Phật và Bồ tát). Cho nên một câu thanh tịnh bao gồm trí tuệ quán sát tất cả công đức của cõi Phật A Di Đà. 

B3. Giảng rộng về hồi hướng. 

Bồ tát tu hành xa ma tha, tỳ bát xá na quảng lược như vậy thành tựu tâm nhu nhuyễn, biết được các pháp quảng lược đúng như thật, và như vậy thành tựu phương tiện hồi hướng. 

Tâm nhu nhuyễn tức là tâm tánh nhu hòa mềm dịu, công phu thiền định thâm sâu cho nên được tự tại. Nếu tâm không nhu hòa mềm dịu ắt không thể đắc định, ắt không thể như thật quán sát hiểu rõ quảng lược các pháp, cho nên trước tiên phải tu tập xa ma tha (chỉ) thì tâm mới được nhu nhuyễn, tu tập tỳ bà xá na (quán) thì tâm mới có thể biết được các pháp như thật.  

Chỉ là gì? Quán là gì? Chỉ nghĩa là nhiếp tâm vào một đối tượng, an trụ bất động. Y vào bổn luận, thì niệm niệm phát nguyện [vãng sanh] mà đắc định. Nếu như tâm đối với cảnh phát khởi sự truy cầu phân biệt quán sát thì gọi là quán. Tu chỉ quán phát sinh ảnh tượng, tướng hiện ra trong tâm có hai loại: ảnh tượng có sự phân biệt (hữu phân biệt ảnh tượng) và ảnh tượng không có sự phân biệt (vô phân biệt ảnh tượng). Cái trước là pháp chỉ quán thông thường, như quán sổ tức, quán xương trắng, v.v…, đều là có sự phân biệt.  Nếu như tu quán Không, thì không có ảnh tượng phân biệt. “Tu hành quảng lược”, lược là tu chỉ, quảng là tu quán. “Các pháp quảng lược”, quảng là như phần trên đã nói về các công đức của pháp tòa, công đức thanh tịnh của cõi nước, v.v…, còn lược là câu cuối cùng, hai chữ “thanh tịnh” là quán tổng quát tất cả sự thanh tịnh. Tu hành như vậy mới có thể thành tựu thiện xảo hồi hướng. Lìa phiền não nghiệp khổ tức là thanh tịnh. Ngài Long Thọ trong Luận Đại Trí Độ có nói: “Thanh tịnh tức là nghĩa Không.” Bởi vì Không tánh thanh tịnh, biến khắp tất cả pháp, tất cánh không tịch. Tu hành như vậy, tâm được nhu nhuyễn, như thật quán sát mà được ngộ nhập (hoặc tuy chưa ngộ nhập, vì đã có thể biết như thật các pháp quảng lược, đạt đến cảnh giới tương tự chứng ngộ), y vào chỉ mà có thể thành tựu quán. Y vào chỉ quán mà thành tựu thiện xảo hồi hướng. Đại khái, phương tiện cần phải y vào Bát nhã mà sinh khởi. Hồi hướng có hai loại: phương tiện cần phải y vào Bát nhã mà sinh khởi.  

Hồi hướng có hai loại: phương tiện thiện xảo và vô phương tiện (xem kỹ Kinh Đại Bát Nhã). Phương tiện thiện xảo hồi hướng là hồi hướng mà không có ngã chấp pháp chấp, không chấp trước là có người hồi hướng, hiêu rõ tất cả pháp bình đẳng không tịch, phá trừ cả hai ngã chấp và pháp chấp, tương ưng với với Không, như vậy mà hồi hướng, đây gọi là thiện xảo. Trong Đại thừa, Kinh Bát Nhã nói: “Các loại công đức, nếu như không thể tương ứng với vô sở đắc không, thì không thể đạt được biển công đức của Phật.” Hồi hướng như vậy, cho nên Kinh Bát Nhã nói: “Vì vô sở đắc cho nên có thể động, có thể xuất, xuất tam giới đến biển Nhất thiết trí.” 

Thế nào là thiện xảo hồi hướng của Bồ tát? Bồ tát phương tiện thiện xảo hồi hướng nghĩa là tất cả công đức thiện căn do sự tu hành năm môn lễ bái, xưng tán, v.v…, không phải cầu an lạc cho chính mình, mà là ví muốn bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh, pháp nguyện nhiếp thủ chúng sinh đồng sinh cõi An Lạc của Phật A Di Đà, đây gọi là sự thành tựu phương tiện thiện xảo hồi hướng của Bồ tát. 

Công đức và thiện căn đều cùng là một sự vật, nhân vì do công mà được đức. Công đức này là căn (gốc) để phát sinh thiện quả, ví như lúa là công đức của sự cầy cấy, mùa xuân năm tới có thể y vào đó mà phát sinh lúa mới, túc là thiện căn. Ở đây, công đức thiện căn là chỉ cho phần trước tu hành công đức của ngũ niệm môn như lễ bái môn, tán thán môn, v.v… Dùng công đức này, không vì sự lợi ích cho tự thân mà là vì chúng sinh: bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh, phát nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sinh đồng sinh Cực Lạc. Hồi công đức tu hành của mình, hướng đến sự lợi lạc chúng sinh, cho nên gọi là hồi hướng. 

Bồ tát thành tựu sự hiểu biết khéo léo về hồi hướng như vậy, xa lìa ba loại trái nghịch (Hán: tương vi) với Bồ đề tâm: một là y vào trí tuệ, không cầu sự an vui cho chính mình, xa lìa tâm ngã tham trước tự thân; hai là từ bi môn, bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh, xa lìa tâm không muốn an lạc chúng sinh; ba là y vào phương tiện môn, phát tâm thương xót tất cả chúng sinh, xa lìa tâm muốn tự thân được cung kính cúng dường. Đây gọi là xa lìa ba loại tương vi với Bồ đề tâm. 

Đến đây, tu tập ngũ niệm môn đã được viên mãn, phần dưới tổng nhiếp điểm chủ yếu để nêu rõ sự việc “có thể tùy nguyện vãng sinh.” Bồ tát nếu có thể hồi hướng thiện xảo như vậy, thì có thể xa lìa ba pháp tương vi vớ Bồ đề (sự giác ngộ Đại thừa). Một là trí tuệ: ngã tâm tham chấp tự thân, tiếng Phạn là tát ca da kiến (thân kiến), tức là ngã chấp và ngã sở chấp. Có hai loại: từ sự phân biệt phát sinh sự chấp thô (nhìn thấy được), và từ vô thỉ vốn sẳn có là sự chấp vi tế (khó thấy được). Muốn phá trừ loại kiến chấp này chỉ có nương vào trí tuệ. Nhân vì loại kiến chấp này dùng tình chấp làm căn bản, sinh ra đã vốn có, cho nên cần phải y vào trí tuệ môn mới có thể không cầu sự an lạc cho riêng mình. Đây là bởi vì Bát nhã trong Phật pháp là thông đạt tất cả pháp vô ngã. Hai là từ bi: tâm không muốn an lạc chúng sinh, tức là tâm không muốn là cho chúng sinh được an lạc. Nếu có thể xa lìa tâm này thì tức là tâm từ bi. 

Lòng [tham] ái của phàm phu chỉ hạn hẹp trong một gia đình, một dòng họ, không thể [từ] ái tất cả chúng sinh, bạt trừ sự khổ của tất cả chúng sinh.  Nếu như niệm niệm đều muốn bạt trừ sự khổ cho tất cả chúng sinh thì sẽ không khởi tâm muốn tự thân được cung kính cúng dường. Nếu có thể như vậy thì có thể xa lìa tâm trái nghịch với tâm Bồ đề. Nếu sự tạo tác trái nghịch với tâm Bồ đề tức là không thể thành Phật. Cho nên không phải chỉ biết lễ bái, tán thán mà không có trí tuệ, từ bi, phương tiện, hồi hướng thì sẽ trái nghịch với Bồ đề môn, và như vậy sự thấy Phật sẽ không còn là một sự dễ dàng. 

Bồ tát xa lìa ba loại pháp trái nghịch với Bồ đề môn như vậy sẽ đạt được ba pháp tùy thuận Bồ đề môn. Một là tâm thanh tịnh vô nhiễm, bởi vì không vì tự thân mà cầu các sự an lạc. Hai là tâm thanh tịnh an, bởi vì bạt trừ khổ cho chúng sinh. Ba là tâm thanh tịnh lạc, vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc Đại bồ đề, vì nhiếp thủ chúng sinh vãng sinh nước An Lạc. Nên biết đây gọi là đầy đủ ba pháp tùy thuận Bồ đề môn. 

Tương phản với phần trên thì sẽ đạt được ba pháp tùy thuận với Bồ đề môn. Ba pháp là: (1) Nhân vì không có ngã chấp nên tâm thanh tịnh, không vì tự thân tham nhiễm sự khoái lạc. (2) Tâm thanh tịnh an là vì có thể bạt trừ chúng sinh khổ, có thể khiến cho chúng sinh an vui. (3) Tâm thanh tịnh lạc là tâm khiến cho chúng sinh đắc Bồ đề, đạt được sự vãng sinh tịnh độ. 

Nên biết phần trên nói về ba môn trí tuệ, từ bi, phương tiện nhiếp thủ Bát nhã, Bát nhã nhiếp thủ phương tiện. 

Phần trên nói ba môn trí tuệ, từ bi, phương tiện tổng nhiếp hai trí Bát nhã và phương tiện. Ý nghĩa chủ yếu của Bát nhã là vô ngã, quán chiếu tất cả pháp Tính không. Nếu không phá trừ chấp ngã ngã sở, rốt ráo không phải là trí tuệ. Trong phương tiện, lấy phương tiện thiện xảo hồi hướng là phương tiện tối thượng (trên hết). Phương tiện tức là diệu dụng (thiện xảo), từ Bát nhã mà sinh khởi. Kinh nói trước tiên đắc Bát nhã, sáu nói đắc phương tiện. Như đãi cát được vàng ví cho Bát nhã, dùng vàng chế thành những khí cụ trang nghiêm, là ví dụ cho phương tiện. Hiện nay tổng nhiếp thành hai môn Bát nhã và phương tiện, còn môn từ bi được nhiếp vào phương tiện, nhân vì từ bi cùng với phương tiện đều do Bát nhã phát sinh. 

Nên biết, phần trên nói về xa lìa tâm ngã, không tham luyến tự thân, xa lìa tâm không an lạc chúng sinh, xa lìa tâm cung kính cúng dường tự thân. Ba pháp này xa lìa sự chướng ngại Bồ đề tâm. 

Y vào trí tuệ, phương tiện mà bàn luận tam môn, y vào sự viễn ly tức là xa lìa ba loại chướng ngại Bồ đề tâm. Bồ đề tâm vô chướng (không bị chướng ngại) tức là Bồ đề tâm do hai trí xa lìa sự chướng ngại. 

Nên biết phần trên nói tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm thanh tịnh an, tâm thanh tịnh lạc, ba loại tâm này nói lược thành một xứ, thành tựu diệu lạc thắng chân tâm. 

Y vào sự vô nhiễm (lìa) chướng mà nói đến phần thanh tịnh. Ba loại tâm này nói lược thành một xứ nghĩa là tống hợp thành một xứ. Hợp ba tâm thanh tịnh này thì thành tự thắng diệu lạc chân tâm. “Thắng” nghĩa là thù thắng, siêu vượt tất cả thế tục, lại có nghĩa là thông đạt Không vô ngã chân như pháp tính, như nói thắng nghĩa đế, chân như, v.v… Cho nên “thắng”, “chân”  tức là vô nhiễm, không hư vọng, bổn tướng của tất cả các pháp. Diệu lạc, nghĩa là sự an lạc do xa lìa sự trói buộc. 

Nên biết, trí tuệ tâm, phương tiện tâm, thắng chân tâm như vậy của Bồ tát có thể vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. 

Tâm vô chướng tức là tâm Bồ đề tâm vô chướng. Bồ tát đầy đủ bốn tâm này cho nên có thể vãng sinh cõi nước thanh tịnh của Phật A Di Đà. 

Đây gọi là Bồ tát ma ha tát tùy thuận năm loại pháp môn, những công hạnh tu tập tùy ý tự tại thành tựu. Như phần trên đã nói pháp môn tùy thuận thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trí nghiệp, phương tiện trí nghiệp. 

Tổng kến năm môn ở trên. Tác nguyện môn là ý nghiệp, quán sát môn là trí nghiệp, phương tiện hồi hướng môn là phương tiện trí nghiệp. Năm loại pháp môn tùy thuận này, nếu như đầy đủ thì sự vãng sinh Tây phương giống như cầm bằng khoán trong tay (bảo đảm). 

 Đến đây có một vấn đề phát sinh, quán chung cõi nước An Lạc vừa nêu trên, dù là trang nghiêm, nhưng sự vãng sinh về Tây phương không dễ dàng. Tâm thức chúng sinh vốn có mâu thuẫn, vừa muốn sinh về cõi nước chí cực viên mãn, vừa hy vọng vãng sinh dễ dàng, không thể nào có có hai cùng một lúc. Vì vấn đề này mà có sự nghiên cứu xem Cực Lạc rốt ráo là loại thế giới nào. Có người cho rằng đó là báo độ vì đó là nơi mà báo thân của Phật A Di Đà cư trú. Chúng sinh nếu như không thể tu tập ngũ niệm môn viên mãn thì không thể vãng sinh, cho nên mới có thuyết nói niệm Phật vãng sinh là biệt thời ý. Lại có một thuyết khác cho rằng cõi Cực Lạc là hóa độ của Phật A Di Đà, như trong các Kinh A Di Đà đại bổn, tiểu bổn đều nói. Cõi đó có thời gian, có địa điểm, có Nhị thừa cho nên phải là cõi của hóa thân. Thế nhưng nếu là hóa độ thì thế giới Cực Lạc lại không phải là nơi lý tưởng nhất. Hiện nay cái nhìn của ngài Thế Thân tương đối viên mãn, nhận rằng đây là báo độ, bởi vì không có Nhị thừa, người khuyết tật và người nữ, cho nên cần phải tu tập đầy đủ ngũ niệm môn mới có thể vãng sinh, nhưng đây lại cũng không phải là điều dễ dàng. 

B4. Thành tựu theo tuần tự. 

Nên biết còn có năm pháp tu tập theo tuần tự sẽ thành tựu năm loại công đức. Một là cận môn, hai là đại hội chúng môn, ba là trạch môn, bốn là ốc môn, năm là viên lâm du hý địa môn. Năm môn này, bốn môn đầu là thành tựu nhập công đức, môn thứ năm là thành tựu xuất công đức. 

Hiện nay, năm pháp này cũng không lìa năm môn lễ bái, v.v… Thế nhưng ở đây nói rằng tu tập một môn thì có sự thành tựu của một môn, hoặc cạn hoặc sâu, đều được vãng sinh Cực Lạc, mà cũng là theo tuần tự mà đi vào: (1) Cận (gần) môn là đến cảnh giới Cực Lạc, (2) đại hội môn, được dự vào đại pháp hội, (3) trạch (nhà) môn, giống như đăng đường (vào nhà), (4) ốc (phòng) môn, giống như nhập thất (vào phòng), và (5) viên lâm du hý địa môn, tùy ý hóa độ chúng sinh. Vãng sinh đến cõi Cực Lạc, mục đích là thành Phật đạo, hóa độ chúng sinh, đâu phải chỉ là vào phòng nghỉ ngơi mà thôi, cho nên phải đi ra ngoài vườn rừng (viên lâm). Hiện nay y vào luận này, không phải y vào sự chuyên niệm (Phật A Di Đà) để ấn định ngôi vị cao thấp, mà dùng sự phát tâm tu hành, càng vào càng sâu, để làm sự tuần tự tu hành thành tựu. 

Tiến nhập môn thứ nhất, dùng sự lễ bái Phật A Di Đà để vãng sinh cõi Cực Lạc, sẽ được vãng sinh về thế giới đó, đây gọi là tiến nhập môn thứ nhất. 

Vì sao lễ bái Phật A Di Đà? Chỉ vì nguyện sinh về cõi nước của ngài. Giả như tin tưởng kính trọng khẩn thiết, sáu thời lễ bái kiền thành ắt được vãng sinh cõi nước An Lạc. 

Tiến nhập môn thứ hai, do tán thán Phật  A Di Đà, tùy thuận ý nghĩa của danh hiệu mà xưng danh của ngài, y vào sự quán tưởng quang minh của Như Lại mà tu hành, được nhập vào hàng ngũ đại chúng trong pháp hội của Như Lai, đây gọi là tiến nhập pháp môn thứ hai. 

Tùy thuận ý nghĩa của danh hiệu mà xưng danh của Như Lai, tức là xưng danh cần phải biết ý nghĩa của danh hiệu, cho nên xưng danh tức là tán thán công đức của Phật. Miệng xưng niệm danh hiệu A Di Đà, tâm quán tưởng thân quang, trí quang của Vô Ngại Quang Như Lai chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Trì danh niệm Phật như vậy ắt sẽ được tham dự vào trong hàng ngũ đại chúng của pháp hội của Phật A Di Đà. 

Tiến nhập môn thứ ba, dùng nhất tâm chuyên niệm nguyện sinh cõi nước đó, tu tập công hạnh xa ma tha tịch tĩnh tam muội, được nhập vào thế giới Liên Hoa Tạng, đây gọi là nhập môn thứ ba. 

Trong định chỉ có ý thức, các thức khác đều không hiện khởi, cho nên mắt không thấy sắc, tai không nghe thanh, nhẫn đến thân không có cảm giác va chạm. Ý thức nhất niệm đẳng lưu tương tục, an trụ, tịch tĩnh. Tâm định ắt có sự khinh an, khi ra khỏi định thì thân tâm có sự tinh tiến. Hiện nay dùng nhất tâm chuyên niệm phát nguyện sinh An Lạc làm phương tiện được nhập vào thế giới Liên Hoa Tạng, có thể thấy được trụ xứ của Phật A Di Đà, thấy được chân tướng của thế giới Cực Lạc. Hai phần trên là tán tâm, ở đây là định tâm. Y vào môn này có thể thấy được cõi mà hai phần trên không thấy được, chỉ là cõi ứng hóa mà thôi. 

Tiến nhập môn thứ tư, dùng sự chuyên niệm quán sát sự diệu trang nghiêm của cõi nước đó, tu tập tỳ bát xá na, được sinh về cõi đó, thọ dụng sự an lạc của các loại pháp vị. 

Trong định khởi quán sát tuệ, chuyên niệm quán sát tất cả công đức trang nghiêm của cõi nước, của Phật và Bồ tát. Quán tuệ thành tựu, chứng nhập tịnh tâm địa, có thể thọ dụng sự an lạc của pháp vị Đại thừa. Đây tức là tha thọ dụng độ (báo độ). Bồ tát đã chứng được một phần pháp thân, thành tựu mục đích sùng cao của sự thấy Phật A Di Đà. Ba môn trên dùng tín nguyện làm chủ, còn môn này là  Bát nhã tuệ. Cho nên phần đầu của luận nói “làm thế nào quán sát, làm thế nào sinh khởi tín tâm” và y vào đây mà an lập ngũ môn. 

Xuất môn thứ năm, dùng tâm đại từ bi quán sát tất cả chúng sinh đau khổ, thị hiện ứng hóa thân, trở vào trong vườn sinh tử, rừng phiền não, du hý thần thông, đến nơi cần phải giáo hóa, dùng bổn nguyện lực hồi hướng, đây gọi là xuất môn thứ năm. 

Bồ tát đã chứng pháp thân thì nên dùng tâm đại bi, thương xót chúng sinh khổ não, khởi ứng hóa thân, thân Phật, thân Bồ tát, hoặc thân của các loại chúng sinh, trở lại vườn sinh tử, rừng phiền não. Thân ứng hóa của Bồ tát cùng sinh hoạt với chúng sinh, thị hiện có hình tướng sinh tử phiền não. Du hý thần thông, phát động các loại phật sự, độ thoát chúng sinh. Du hý có nghĩa là tự tại, du hý thần thông tức là thần thông tự tại. Bốn phần trên là tự lợi, hướng thượng tu học cho nên gọi là tiến nhập, phần này là lợi tha, trở vào sinh tử cho nên gọi là xuất. 

Nên biết Bồ tát nhập vào bốn môn, thành tựu công hạnh tự lợi. Bồ tát xuất môn thứ năm, thành tựu công hạnh hồi hướng lợi ích chúng sinh. Bồ tát tu tập năm môn như vậy, tự lợi lợi tha, mau được thành tựu  A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. 

Phần này tổng kết. Tự lợi lợi tha là Bồ tát hạnh, tu Bồ tát hạnh có thể thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô thượng chánh đẳng bồ đề), tức là thành Phật. Mau được thành tựu, nghĩa là do y vào bổn nguyện lực của Phật A Di Đà mà tu hành, giống như đứa bé nương vào sự nâng đỡ của người lớn mà tập bước đi, không còn phải lo lạc đường, hoặc vấp ngã, ắt phải đạt đến mục đích. Đây là lý do mà pháp môn Niệm Phật gọi là mau được thành tựu. 

Năm môn xuất nhập ở phần trên, hiện nay thử đem ví dụ ra để làm sáng tỏ. Thành phố Bắc Bình, xưa gọi là Bắc Kinh, là đế đô của nhiều triều đại. Muốn đến Bắc Kinh để gặp hoàng đế, nếu như đến ngoại thành, tức là thành Bắc Kinh, giống như môn thứ nhất: cận môn. Đi vào nội thành, thấy đường xá rộng rãi, dân chúng tới lui đông đúc, giống như môn thứ hai: đại hội chúng môn. Lại đến gần Tử Cấm Thành, từ xa trông thấy cung điện đền đài lúc nhúc, giống như môn thứ ba: trạch môn. Đi vào điện đường cung viện, thấy sự phú lệ đường hoàng, không thể mô tả, hoàng đế và quần thần tại nơi đó bàn luận quốc sự, giống như môn thứ tư: ốc môn. Sau khi thân cận hoàng đế, được tự tại tới lui quán sát, trông thấy tất cả vườn rừng trong nội thành, nhà giàu nhà nghèo, giống như môn thứ năm: viên lâm du hý địa môn.  

Năm môn này, nếu ước định nhiều người mà nói, tùy vào công đức tu hành có cạn có sâu khác biệt, tuy nói khác biệt, nhưng đều được sinh cõi Cực Lạc, như đồng là vào thành Bắc Kinh. Nếu ước định một cá nhân mà nói, thì ban đầu do sự lễ bái, càng tu càng sâu, rốt ráo thành tựu Phật đạo. Nhưng lúc đầu tiên dùng thân nghiệp lễ bái tức đã có thể vãng sinh Cực Lạc, ắt sẽ thành Phật đạo, cho nên có thể nói là dị hành. 

Luận này tổng nhiếp tất cả các Kinh A Di Đà, hoằng dương pháp môn Đại tịnh độ. Chân chánh phổ bị tam căn, có thể cạn có thể sâu, ai nghe được luận này, không thể xem thường mà bỏ qua không chịu tu tập./.