TU TẬP BÁT NHÃ BA LA MẬT BỒ TÁT QUÁN HẠNH NIỆM TỤNG NGHI QUỸ
Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH
Quy mệnh Bát Nhã Mẫu
Thân Diệu Pháp Thanh Tịnh
Nay Ta y Du Già
Diễn nói Pháp Quán Hạnh
Vận Tâm tràn Pháp Giới
Tất cả Phật Sát Hải
Tưởng thân nhiễu vòng quanh
Do đây được giải thoát
Tưởng thân nhiễu quanh Phật
Mỗi mỗi trước chư Phật
Chúng Bồ Tát vây quanh
Cậm vật diệu cúng dường
Các Như Lai ba đời
Với chúng Đại Bồ Tát
Duyên Giác và Thanh Văn
Tất cả Tạng Chính Pháp
Thảy đều hết không dư
Tưởng khắp: ở thân mình
Trước tất cả với Chúng
Rõ ràng như đối mắt
Đều từ Tâm Tịnh, sinh
Vật cúng dường rộng nhiều
Tác vô lượng cúng dường
Không cách khoảng, tác lễ
Cung điện, diệu phất, lọng
Vô số mọi lầu gác
Tràng hoa, bột hương xoa
Mọi loại báu trang nghiêm
Các Nghi Cúng Dường ấy
Tràn khắp hư không giới
Tâm ân cần gia trì
Phụng hiến các Như Lai
Sát thổ cũng như Không (Śūnya: trống rỗng)
Phật cũng như sát thổ
Pháp cũng lại như Phật
Cúng dường cũng như Pháp
Tất cả đều vô lượng
Mười phương vô biên cõi
Biết xong, nói lời này
Kính lễ các Như Lai
_ Biến lễ Nhất Thiết Như Lai Chân Ngôn là:
“Án, tát phộc đát tha nghiệt đa, bả na, mãn đà nẫm, ca lỗ nhĩ”
Mọi loại Thắng , vô lượng
Kinh Đại Thừa đã nói
Đà La Ni Phật Tâm
Ân cần nên xưng tụng
Sẽ sinh Tâm tịnh tín
Chuyên chú ở một cảnh
Vì các loại Hữu Tình
Quán sát Thắng Bồ Đề
Trật áo hở vai phải
Quỳ gối phải sát đất
Thành tâm chắp tay trụ
Nên nói lời như vầy
Tự làm, dạy người làm
Tự vui, vui theo người
Do tội thân, miệng, ý
Nguyện chư Phật thương xót
Đời này: một ức tội
Cho đến đời vô thủy
Rồi sẽ ngồi Bồ Đề
Chẳng dám vi phạm nữa
Như vậy Thắng Sám Hối
Chân thật quán sát nên
Dùng Phật Nguyện Trí Hỏa ( Lửa Trí Nguyện của Phật)
Thiêu đốt không dư sót
Năng Thủ với Sở Thủ
Tất cả đều Duy Tâm
Cúng dường các cõi Phật
Ý Năng Thủ , Sở Thủ
Bầ Tát trụ Đẳng Dẫn (Samāpatti)
Thấy Tâm như hình tượng
Năng Thủ tưởng phân biệt
An trụ nơi Không Tính (Śūnyatā: Tính trống rỗng)
Hai tướng: Tính, Vô Tính
Đây gọi là Không Tướng (Tướng trống rỗng)
Vô Tính, Phi Vô Tính
Chẳng lìa nơi một tính
Năng , Sở với Cúng Dường
Ba loại lìa phân biệt
Do không phân biệt nên
Cúng dường này thù thắng
Như vậy Thắng Cúng Dường
Với dùng Pháp tuyền nhiễu (xoay vòng quanh)
Tất cả tội lỗi nặng
Trừ diệt không dư sót
Tham Tính (Tính tham) biết vô tham (Không có tham)
Liền vào Tham Tính Không (Sự trống rỗng của tính tham)
Sân Tính (Tính giận dữ) biết vô sân
Liền vào Sân Tính Không
Si Tính (Tính ngu si) biết vô si
Liền vào Si Tính Không
Như vậy ở các Hoặc
Quán sát Lý Thật Tướng
Nếu có Trí Tuệ này
Do Không (Trống rỗng), Vô phân biệt (không có phân biệt)
Như hoa sen dưới nước
Chẳng nhiễm các tội lỗi
Người tu hành quán chiếu như vậy, tĩnh thân tâm xong, liền kết Tam Muội Gia Ấn
Hai Vũ (2 bàn tay) cài nhau hợp
Rồi để trên trái tim
Quán Phật khắp Hư Không
Tụng Chân Ngôn ba biến
_ Chân Ngôn là: “Án, phộc nhật-lãng nhạ lễ “
Tiếp kết Kim Cương Phộc
Mười Độ (10 ngón tay) cài bên ngoài
Mật phộc thành tướng Ấn
Kim Cương Phộc Chân Ngôn
_ Chân Ngôn là: “Phộc nhật-la, mãn đà “
Như trước: Kim Cương Phộc
Rút kéo ở trên tim
Hay diệt các Kiết Sử
Mở hiện cung giải thoát
_ Nên tụng Khai Tâm Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la, mãn đà, đát-la tra”
Tiếp kết Phát Trí Ấn
Như trước: Kim Cương Phộc
Định Tuệ ( 2 ngón cái) vào trong chưởng (lòng bàn tay)
Triệu vào Trí Viên Tịch
_ Chân Ngôn là: “Án, phộc nhật-la, phệ xá, ác”
Tiếp kết Kim Cương Quyền
Tiến Lực (2 ngón trỏ ) trụ Thiền Trí (2 ngón cái)
Thân Ngữ Ý Kim Cương
Mật hợp chẳng nghiêng động
_ Tụng Kim Cương Quyền Chân Ngôn là:
“ Phộc nhật-la, mẫu sắt-trí, hàm”
Tiếp kết Tam Muội Gia
Tự thành thân Phổ Hiền
Kết xong, dựng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa)
Thân ngồi ở vành trăng
_ Liền tụng Tam Muội Gia Chân Ngôn là:
“Án, tam ma dã, tát-đát-noan”
Tiếp kết Đại Chân Thệ
Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) ngược vào Phộc
Dựng Đàn Tuệ (2 ngón út) Định Trí (2 ngón cái)
Một độ (1 lần) chạm tim ba (3 lần)
Tạng thức chán lìa Chủng ( hạt giống)
Hay trừ tội tăng trưởng
_ Lại nên tụng Chân Ngôn là:
“Án, tam ma dã, hộ, tố la đa, tát-đát-noan”
Tiếp nên tác Tịch Trừ
Kết Kim Cương Dược Xoa (Vajra Yakṣa)
Hai Vũ (2 bàn tay) Kim Cương Quyền
Co Đàn Tuệ (2 ngón út) Thiền Trí (2 ngón cái)
Đặt ở hai mép miệng
Tưởng thân đồng Tôn ấy
Lớn tiếng tụng Chân Ngôn Trái phải nên nhìn ngó
_ Kim Cương Dược Xoa Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, dược khất-xoa, hàm”
Hết thảy loài gây chướng
Thảy đều chạy tứ tan
Hai mắt tưởng MA
Chuyển như vòng Nhật Nguyệt
Chỉ Quán (2 tay) Kim Cương Quyền
Đều để ở hai háng
Tùy nghi tác tuyền thị (xoay nhìn)
Dùng thành mười phương Giới
_ Tụng Kim Cương Nhãn Chân Ngôn là: “Án, phộc nhật-la niết-lị sắt-trí , ma tra”
Nên vào Tam Ma Địa (Samādhi: Định)
Phộc Ấn , tướng như trước
Ngửa đặt trên Kiết Già
Thẳng thân, sửa ngay ngắn
Nhắm mắt vào Chính Định
Quán Phật khắp Hư Không
Tràn đầy như hạt mè
Tất cả Như Lai ấy
Nhớ Thệ Nguyện xưa kia
Khác miệng cùng âm thanh
Dạy truyền, nói Chân Ngôn
Chuyên chú Lý Thật Tướng (?Gia trì người tu hành)
“Án, tát phộc dụ nga, chất đa một cữu-bả na dạ nhĩ”
Chuyên chú Lý Thật Tướng
Luôn tụng Chân Ngôn này
An trong Tâm quán sát
Dần khiến vòng Pháp Giới
Tất cả tướng Hư Không
Hư Không cũng Vô Tướng (Không có tướng)
Giáo Du Già chân thật
Tràn khắp cả mười phương
Hành Giả đã vào Bát Nhã Ba La Mật Thậm Thâm Thể Tính Tam Ma Địa ắt ở trong Tính chân thật, chứng vành trăng lớn (Đại nguyệt luân) đồng với Pháp Giới. Anh sáng chiếu khắp, lặng lẽ trong mát, khởi Đại Bi thương tất cả Hữu Tình, 3 cõi sáng rực, như một chữ tưởng Thâm Sinh Bạt Tế rồi tác niệm này: “Nay Ta làm thế nào để khiến cho người chưa độ được độ, người chưa giải thoát khiến được giải thoát, người chưa an ổn khiến được an ổn, người chưa Niến Bàn khiến được Niết Bàn?!”
Liền nhập vào Bản Tôn Tam Ma Địa, quán thân là Bát Nhã Ba La Mật Phật Mẫu đội mão Ngũ Phật, Với áo khoác ngoài (thiên y ), Anh Lạc, hào quang màu vàng tràn khắp trong lỗ chân lông , tuôn ra vô lượng chư Phật. Lại tác niệm này: “Thân Ta
và Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát không có hai, không có khác”
Tức dùng Kim Cương Hộ Bồ Tát ( Vajra-Rakṣa) gia trì bốn nơi
Hai Vũ (2 bàn tay) Kim Cương Phộc
Dựng Tiến Lực (2 ngón trỏ ) như kim
Ấn : tim, trán, họng, đỉnh Thành Bản Tôn Du Già _ Liền tụng Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la, la khất-xoa, hám”
Tiếp kết mão Ngũ Phật
Hai tay Kim Cương Phộc
Hình Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) như đao
Tiến Lực (2 ngón trỏ) phụ lóng trên
Đặt Đỉnh, tiếp bốn phương
Hai Quyền buộc trước trán
Như Man (tràng hoa) cột sau đỉnh
Thế rũ xuống như đai
_ Nhất Thiết Như Lai Bảo Quan Chân Ngôn là:
“Án, bộ, khiếm”
_ Tiếp tụng Kim Cương Bộ Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la tát-đát phộc”
_ Tiếp tụng Bảo Bộ Chân Ngôn là :
“Phộc nhật la, la đát-ná”
_ Tiếp tụng Liên Hoa Bộ Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la, đạt la-ma”
_ Tiếp tụng Sự Nghiệp Bộ Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la, yết la-ma”
_ Tiếp tụng Kim Cương Man Quán Đỉnh Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, ma la, tích tru giả mãn, hàm”
Tiếp kết Giáp Trụ Ấn
Hai Vũ ( 2 tay ) Kim Cương Ấn
Hoàn Giáp với Tự Tha
Ngón trỏ, tướng cột kết
Luôn thành nơi Đại Hộ
_ Liền tụng Giáp Trụ Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, ca phộc tả, phộc nhật-lý, cú lỗ, phộc nhật-la, hàm”
Dùng Giáp Trụ Ấn này với tụng Chân Ngôn mà mặc áo giáp liền được Tính Kim Cương thâm sâu với được thọ mệnh của Kim Cương, suốt đời được gia hộ lớn, ở tất cả nơi không có gì có thể gây tổn hoại được.
Mặc áo giáp xong, đặt ngay trong lòng bàn tay , vỗ khiến cho vui vẻ _Tiếp tụng Kim Cương Hoan Hỷ Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la , đô sử-dã, hộc”
Do Tâm Chân Ngôn này
Giải Phộc được vui vẻ
Đắc được thể Kim Cương
Như Kim Cương Tát Đỏa
Vào khắp Kim Cương xong
Đại Ấn như nghi tắc
Trước thân cần phải kết
Suy tư Đại Tát Đỏa
Thấy Trí Tát Đỏa (Jñāna-satva) ấy
Nên quán ở tự thân
Câu triệu dẫn vào Phộc
Khiến vui tác thành tựu
_ Liền tụng Bát Nhã Ba La Mật
Biến Nhập Chân Ngôn là:
“Án, đạt ma ,phộc nhật-la, ác”
_ Tiếp tụng Bát Nhã Ba La Mật Quán Niệm Tâm Chân Ngôn là:
“Án, đạt ma, phộc nhật-lý, niết-lị xả-dã, nhược, hồng, noan, hộc”
Đây là Đại Tát Đỏa Câu Triệu dẫn vào Phộc, khiến cho tâm vui thích. Tụng Tam muội gia, tát-đát-noan (Samaya stvaṃ) biến nhập sau lưng rồi ở trong vành trăng quán tưởng Tát Đỏa (satva) của Ấn ấy, tu tập quán tự thân. Kim Cương Ngữ đã thành, hay thành tựu các Ấn.
Hành Giả liền ở trong Đàn, trước Tượng Bản Tôn tưởng lầu gác 7 báu, mở 4 cửa. Ở trong Điện, quán tưởng Địa Tự Môn (慖 _ DHĪḤ) thành Bát Nhã Ba La Mật Phật
Mẫu có 10 vị Ba La Mật vây quanh với 8 vị Cúng Dường, 4 cửa Câu Tỏa và Thiên Chúng của 8 phương. Đều dùng chữ Chủng Tử gốc (Bản Chủng Tử) quán tưởng mà thành. Lại tưởng thân mình ở cõi Trời A Ca Ni Tra (Akaniṣṭha: Sắc Cứu Cánh) thuộc Sắc Giới.
Liền nên tác Thỉnh Ấn
Câu tập, tác búng tay
Ứng thỉnh tất cả Phật
Khoảng sát na, chư Phật
Và Kim Cương Bồ Tát
Ứng đầy tất cả Đàn
Tập Hội Mạn Trà La
Tức mau chóng Đại Ấn
Quán Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva)
Một lần xưng trăm tám (108 )
Do kết tập Ấn, vui
Như Lai đều kiên cố
Kim Cương Tát (Vajra-satva) tự thành
Bạn lành rồi an trụ
Các Môn, tất cả xứ
Câu Đẳng rồi tác nghiệp
Dùng Đại Yết Ma Ấn _ Triệu Tập Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, tam ma dã, nhạ nhược”
Tiếp nên kết bốn Nhiếp
Hai Vũ (2 tay) Kim Cương Quyền
Giao uyển (giao cổ tay) kết Đàn Tuệ (2 ngón út)
Ngón trỏ như Đại Câu (móc câu lớn)
Như Sách (sợi dây) cũng như Tỏa (cái khóa) Lưng tay cùng gần nhau _ Kim Cương Câu Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-lãng củ thế, nhược”
_ Kim Cương Sách Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la bá thế, hàm”
_Kim Cương Tỏa Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la hướng ca lệ, hàm”
_ Kim Cương Linh Chân Ngôn là:
“Phộc nhật-la nghiễn đái, hộc”
Do Kim Cương Câu triệu
Hay làm các sự nghiệp
Do Nghi Kim Cương Sách
Hay dẫn tất cả vào
Kim Cương Tỏa tương ứng
Kham nhận tất cả Phộc
Do Kim Cương vào Phộc
Hay thành các Biến Nhập
Liền dâng vật Át Già, tụng Bách Tự Minh mà phụng hiến
“Án, phộc nhật-la tát-đát phộc (1 ) tam ma dã ma nỗ bá la dã (2) Phộc nhậtla tát-đát phộc (3) để-phệ nộ bả để sắt-tra (4) niết-lị trọc minh bà phộc (5) tô đố sử-dụ mính bà phộc (6) A nỗ la cật-đố mính bà phộc (7) tô báo sử-dụ mính bà phộc (8) tát phộc tát trẫm mính bát-la dã sai (9) tát phộc yết ma tô giả mính (10) chất đá thất-lị dược, cú lỗ (11) hồng, ha, ha, ha, ha cốc, bà nga noan (12) tát phộc đát tha nga đá (13) phộc nhật-la mãng mính muộn giả (14) phộc nhật-lị bà phộc (15) ma ha tam ma gia tát-đát phộc, ác (16)”
Do dùng Bách Tự Minh Chân Ngôn dâng nước Át Già cho nên hết thảy nguyện cầu mau được thành tựu
_ Tiếp tụng Kim Cương Hỷ Hý Chân Ngôn là :
“Hệ la để, phộc nhật-la, vĩ la tứ-nễ, đát-la tra”
_ Tiếp Kim Cương Man Chân Ngôn là:
“Hệ la để, phộc nhật-la, hạ tế, ha ha”
_ Tiếp Kim Cương Ca Chân Ngôn là:
“Hệ la để, phộc nhật-la, nghĩ đế, đế đế”
_ Tiếp Kim Cương Vũ Chân Ngôn là:
“Hệ la để, phộc nhật-la, nễ-lị để duệ, phệ ba, phệ ba”
Lại tác 4 Ngoại Cúng Dường để phụng hiến
_ Tiếp Kim Cương Hoa Man Chân Ngôn là:
“Hệ, phộc nhật-la, la để”
_ Tiếp Kim Cương Thiêu Hương là:
“Ma ha la đa, phộc nhật-lị, hộc”
_Tiếp Kim Cương Đăng Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, lộ giả ninh”
_Tiếp Kim Cương Đồ Hương Chân Ngôn là:
“Ma ha thất-lị, phộc nhật-lị, tứ”
Người Tu Hành tạm trụ ở Tam Ma Địa của 8 vị Bồ Tát Cúng Dường này liền hay sinh ra Nghi Thức cúng dường biển mây rộng lớn của tất cả cõi Phật khắp 10 phương giới
_Tiếp kết Bản Tôn Tam Muội Gia Ấn: Hai Vũ (2 tay) tác Kim Cương Hợp Chưởng, đem ngón cái vịn bên cạnh 2 ngón trỏ. Tụng Bản Tôn Chân Ngôn 7 biến.
Chân Ngôn là: “Ná mô bà nga phộc đát-duệ, bát-la chỉ-nương, bá la nhĩ đá duệ. An, hột-lị , địa, thất-lị, truật-lỗ để, vĩ nhạ duệ, sa-phộc hạ”
_Tiếp nên tụng Niệm Châu Chân Ngôn là:
“Án, phộc nhật-la, ngu tứ-gia, nhạ bả, tam ma duệ, hồng”
Do tụng Chân Ngôn này gia trì Niệm Châu (tràng hạt) 7 biến cho nên niệm tụng một biến ắt thành ngàn biến. Như vậy Gia Trì đã xong. Bốn thời, ba thời cho đến hai thời. Hoặc 108 biến, hoặc 1000 biến.Phàm Thời Phận Biến Số thường định một Nghi Tắc. Trì tụng đủ số , như trước đội lên đỉnh đầu
Liền vào Bát Nhã Ba La Mật Tam Ma Địa. Lại ở trong trái tim quán vành trăng tròn đầy lớn đồng Pháp Giới. Ở trong quán Địa Tự Môn (DHĪḤ) mỗi mỗi rõ ràng, màu sắc như Kha Tuyết, chuyên chú rồi trụ, tức gọi là Xa Ma Tha (Śamatha: Thiền Chỉ)
Nhiếp các Tâm tán loạn, được Định xong liền tương ứng với Tuệ, nghĩ về nghĩa chữ Địa (Dhīḥ) là Tất cả Pháp Tính Tướng như Pháp Giới chẳng thể đắc. Đây gọi là Tỳ Bát Xá Na (Vipaśyanā: Thiền Quán)
Hoặc tương ưng cùng Định, hoặc tương ứng cùng Tuệ. Lâu dần thuần thục Định Tuệ Song Vận. Năng Quán, Sở Quán bình đẳng; thảy nên mau lìa Năng Thủ, Sở Thủ, thường tác quán chiếu như vậy thì đời này sẽ vào Sơ Địa, 16 đời sau thành Phổ Hiền Bồ Tát.
_Lại kết Bản Tôn Ấn, tụng Bách Tự Chân Ngôn.
Lại kết 8 Ấn Cúng Dường dâng nước Át Già
Dùng mắt Kim Cương nhìn bên trái Giải Giới
Liền kết Pháp Ba La Mật Ấn phụng tống Thánh Chúng. Tụng Kim Cương Giải Thoát Chân Ngôn là:
“Án (1) cật-lị đổ phộc(2) tát phộc tát đát phộc la-tha tất địa la-ná đa (3) dã tha nỗ nga (4) nghiệt sai đặc-noan (5) một đà vĩ sái diễm (6) bố nẵng la nga (7) ma nẵng dã đổ (8) Án phộc nhật-la thấp nga, tát đát phộc, mục”
Lại dùng Kim Cương Bảo Ấn quán đỉnh, Bị Giáp, Lễ 5 Phương Phật. Tức ra khỏi Đạo Trường, tùy ý Kinh Hành, đọc Kinh Điển Đại Thừa. Đem Phước thù thắng hồi hướng cho tất cả Hữu Tình mau chứng Bát Nhã Ba La Mật Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Sau đó liền nói công năng thù diệu rộng lớn vậy
_ Bát Nhã Ba La Mật Đa Căn Bản Chân Ngôn là:
“Nẵng mô bà nga phộc đế, bát-la chỉ-nương, bá la nhĩ đá duệ. An, hột-lị, địa, thất-lị, thú-lỗ để, vĩ nhạ duệ, sa-phộc ha”
Đức Phật nói:” Đà La Ni Ấn này có 4 tên gọi. Một là Bát Nhã Vô Tận Tạng. Hai là Bát Nhã Nhãn. Ba là Bát Nhã Căn Bản. Bốn là Kim Cương Bát Nhã Tâm
Đà La Ni Ấn này có công đức to lớn. Nếu hay chí tâm như Pháp thọ trì , tùy tụng một biến sẽ sinh ra một vạn tám ngàn (18000) Tu Đa La Tạng. Lại trong mỗi một Tu Đa La Tạng đó sinh ra hai vạn năm ngàn (25000) Tu Đa La Tạng. Lại trong mỗi một Tu Đa La Tạng đó sinh ra một trăm vạn (1000000) Tu Đa La Tạng. Lại trong mỗi một Tu Đa La Tạng sinh ra vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ Tu Đa La Tạng.
Như vậy cho đến triển chuyển xuất thế vô lượng vô tận Tu Đa La Tạng.
Hết thảy Đề Danh, Cú Nghĩa của Kinh mỗi mỗi chẳng đồng, chẳng trùng xuất
(không ghi giống nhau 2 lần). Như vậy niệm niệm sinh ra vô tận, vì thế nên gọi là Vô Tận Đà La Ni Ấn
Đà La Ni Ấn này tức là Tông Tổ của chư Phật ba đời ở mười phương , tất cả Bát Nhã Ba La Mật Mẫu là nơi cúng dường cung kính khen ngợi của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện dùng Tâm chí thành viết chép, đọc tụng, như Thuyết tu hành thì hết thảy tội nặng của người ấy trong trăm ngàn vạn ức hằng hà sa kiếp sinh tử chỉ trong phút chốc đều diệt hết không dư sót.
Hết thảy công đức của Đà La Ni Ấn này, nếu Ta trụ ở trong trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp khen ngợi vẫn chẳng hết được, huống chi người khác có thể khen hết được ư!…
Nếu muốn tu hành Pháp Bát Nhã, chỉ ăn một bữa, Trai Giới, dùng nước thơm tắm gội, mặc áo mới sạch, vào ở Đạo Trường. Điều cần yếu là trước tiên tụng Đà La Ni này và tác Ấn này đủ một trăm ngàn (100000) biến. Sau đó tu hành Pháp Bát Nhã còn lại thì quyết định thành tựu, vì thế nên gọi là Bát Nhã Căn Bản .
Đà La Ni Ấn này thảy soi tỏ tất cả Pháp Bát Nhã Ba La Mật cho nên gọi là Bát Nhã Ba La Mật Nhãn (con mắt Bát Nhã Ba La Mật)
Đà La Ni Ấn này đều hay tồi diệt tất cả chướng ngại , đều hay trụ giữ công đức của tất cả chư Phật Bồ Tát nên gọi là Kim Cương Bát Nhã Tâm
TU TẬP BÁT NHÃ BA LA MẬT BỒ TÁT QUÁN HẠNH NGHI QUỸ
_MỘT QUYỂN (Hết)_