TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 11

 

CHƯƠNG III: TẬP THIỀN

TRONG PHẦN 4 CỦA CHƯƠNG III

(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có bốn vị).

1. Truyện ngài Tự Tại trụ núi Phục Ngưu ở kinh đô Lạc Dương, thời Tiền Đường:

Thích Tự Tại, họ Lý, người ở xứ Ngô Hưng. Lúc sanh Sư có điềm kỳ lạ, khi vừa khôn lớn, mỗi lúc ngồi thì Sư bắt chân kiết già, người thân lấy làm lạ. Sư giã từ cha mẹ, đến xin xuất gia ở Kính Sơn, thọ giới cụ túc tại Tân Định. Đến lúc du phương tham học, Sư theo pháp tich của Thiền Sư Đạo Nhất ở Nam Khương, mở giải chân tông, vượt hẳn đồng bạn, Đạo dự Khổng Chiêu, đi đứng ưu du, thường ẩn trong hang núi. Thiền lữ bốn phương tìm đến rất đông.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư ở tại Hương Sơn thuộc Lạc Kinh, cùng với Thiền sư Thiên Nhiên kết bạn không trái nghịch. Sư thường thích đến các cảnh xưa, nghĩ có được vết tích của các bậc Tiền Hiền để ưa thích quan sát, như tại núi Long Môn thấy được chỗ Tam Tạng Pháp sư dịch kinh vào thời Hậu Ngụy, tại núi Vương Ốc thấy được nơi Hổ đấu của Thiền sư Trù, ở núi đó uống nước suối ngọt nên đổi tên thành chùa Cam Tuyền. Tại Tung Sơn là suối Ngựa quỳ của Pháp sư Phạm, Sư ở mà không đắm luyến, Sư có soạn “Tam thương ca”, từ ý đều hay đẹp. Cảnh tỉnh khai mở kẻ mê mờ, có lợi ích ở đời trước.

Khoảng đầu niên hiệu Càn Đức (963…, thời Bắc Tống), tại đất Thục, dòng họ Vương, có Tiểu Quân Sứ Trần Công lấy vợ và các cháu gái của Cao Trung Lệnh Biền. Như người giữ giới bất sát hơn hai mươi năm, sau ở tại đất Thục làm Nam hôn thú, lễ phải giết hại. Ban đầu Cao không muốn. Thân thích bà con nói: “Tự mình giữ giới, hành lễ đãi rượu, thì lấy gì làm vui khách”. Cao trái phạm trong chốc lát bèn có nhiều nguy hại, bỗng nhiên chưa tới mười ngày mà mắc bệnh rất lạ, miệng chỉ nói hoảng, như thế qua ba đêm rồi sống lại, kể lại việc ở minh giới rằng: “Ban đầu bị kẻ sứ mặc áo đen đuổi bắt đem vào miếu Thành Hoàng ở Kỳ Phủ. Thần miếu mặc áo tay rộng, đội mũ cao cùng với một võ sĩ mặc áo giáp vàng ngồi đối mặt nhau, kẻ sứ dẫn Cao đến gặp Thần. Võ sĩ nói năng lăng xăng, khiển trách Cao phá giới. Bèn chèn giữ lấy cổ tay quát mắng: “Ta là thần tướng hộ giới, vì ngươi hai mươi năm ăn ngủ không rảnh, đâu ngờ bỗng dưng ngươi chợt khởi tâm giết hại, chóng khuyết giới kiểm. Mạng sống ngươi tuy chưa hết mà tội cũng rất sâu nặng, phải đưa đến minh ty để trừng phạt tội cố phạm ấy”. Thần Thành Hoàng hỏi Cao rằng: “Ngươi còn tu pháp lành gì để chuộc lại lỗi lầm chăng?” Cao tuy thường tụng Kinh “Thượng Sanh” rất nhiều biến, đến lúc hoảng hốt đó đều không nhớ biết. Trong khoảng khắc lo sợ, Cao thưa rằng: “Tụng được Tam Thương tụng, Nhất Bát Hòa-thượng ca”, bèn chắp tay hướng về Thần, gắng tiếng mà niệm. Thần và võ sĩ đều rung tai chống tay đứng nghe, nhan sắc dần dần vui vẻ, đến hết chương thần đều rơi lệ. Mới nói với Cao rằng: “Tha ngươi trở về nhân gian, nhưng phải tha thiết tu đạo pháp lành”. Cao vái từ chưa xong, bỗng nhiên ngồi dậy trình bày sự việc như thế. Từ đó, hai bài ca tụng “Tam thương” và “Nhất bát”, mọi người đều truyền viết đọc tụng. Bài Nhất Bát Hòa-thượng, ca từ hợp với lý, khuyên nhủ suy nghĩ rất sâu sắc, nhưng văn thể quá vắn tắt, không bằng điển nhã của bài Tam Thương.

Trở lại, Sư sai đệ tử đến Giang Nam chọn lựa nơi núi non đẹp nhất, bảo: “Ta nguyện sang đó ở tới già!” Đệ tử đến huyện Đô Xương; thuộc Giang Châu, thấy có rừng suối tốt đẹp nên trở về báo lại. Trên đường đi trải qua huyện Diệp, kẻ tăng người tục thỉnh Sư ở lại, đến chùa Khai Nguyên ở Tùng Châu Sư thị tịch, thọ tám mươi mốt tuổi. Nhằm niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821).

Liên hệ thử bàn:

Xét theo các luật tạng, người xuất gia phạm giới thì vời lấy hai tội: 1. là trái với Phật chế, và 2. là thẳng vào nghiệp đạo. Ông Cao là người cư sĩ vốn không thọ giới, không trái phạm lỗi lầm với Phật chế, chỉ có tội nghiệp đạo, đâu được có thần hộ giới? Huống gì ông Cao đã giữ giới bất sát thì thầm cảm quả sanh thiện của chỉ trì vô tác. Nhân tốt đẹp hay có đến cuối cùng gặp phải u trách. Xin báo cùng các vị trong năm chúng đệ tử Phật phải sợ thần Hộ giới là vậy đó. Ngay thế giới sáng tỏ thì có giới pháp, trong thế giới âm thầm thì có quỷ thần.

Kế nữa có ngài Thích Nam Ấn trụ chùa Nguyên Hòa Thánh Thọ, ở phủ Thành Đô. Sư họ Trương. Tánh thức sáng suốt, thọ học ích lợi không thỏa mãn. Sư được ý chỉ sâu mầu của Tổ Tào Khê mà không lấy làm sở chứng. Sư đến gặp thầy ở chùa Tịnh Chúng, chỗ gọi là “Gấm rơi máy rửa để mài thêm, Rồng ngậm đuốc đi mà phá tối”. Sư từ Giang Lăng đi đến đất Thục, ở phía Nam Giang Thục, Sư cắt cỏ kết am, Tăng chúng đều quy ngưỡng dần thành chùa Phật.

Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (78), Cao Tư Không Sùng Văn Bình sau khi cởi mở, đổi tên chùa là Nguyên Hòa Thánh Thọ, ban đầu tên là Bảo Ứng. Sư hóa duyên sắp mãn, đến đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư thị tịch, xây tháp an táng trong chùa. Trong thời Pháp nạn Hội Xương, tháp bị phá hủy. Đến niên hiệu Đại Trung (87-860), Sư phục hồi lại trên nền cũ chùa Bảo Ứng ở Giang Bắc, xây dựng chùa nầy và lấy lại tên Thánh Thọ. Sư có đệ tử nối dõi là Ngài Nghĩa Phục, phục hưng thiền pháp.

2. Truyện ngài Vô Nghiệp trụ chùa Khai Nguyên ở Phần Châu, thời Tiền Đường:

Thích Vô Nghiệp, họ Đỗ, người ở xứ Thượng Lạc, thuộc Thương Châu. Mẹ của Sư họ Lý, bỗng nhiên nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Xin ở nhờ được chăng?” thế rồi mang thai, đêm sanh ra Sư có ánh sáng khác lạ soi chiếu khắp phòng. Đến tuổi nhi đồng, Sư chẳng ham thích vui đùa, đi thì nhìn thẳng, ngồi thì kiết già. Sư đến chỗ chúng tăng, mọi người thấy đều ngợi khen “đây là bậc pháp khí vô thượng, nên mau cho xuất gia để tiếp nối làm ngời sáng Tam bảo”.

Năm chín tuổi, Sư thưa với cha mẹ: “Xin được nương tựa Thiền sư Chí Bổn ở chùa Khai Nguyên trong bổn quận”. Và Sư được ngài trao cho các Bộ kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Duy-ma, Tư Ích, Hoa Nghiêm v.v… Cứ năm hàng trở xuống, Sư tụng một lần không sót. Năm mười hai tuổi, Sư được xuống tóc xuất gia. Hễ tham dự ở các trường giảng tịch, hễ Sư nghe liền hiểu. Những bạn đồng học có điều chưa hiểu, Sư tùy theo đó mà mổ xẻ khiến đều đến được cửa huyền. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc với Luật Sư U ở Tương Châu. Đối với bộ Tứ Phần Luật sớ, chỉ qua một mùa hạ tập học, Sư có thể diễn giảng lại. Sư kiêm giảng kinh Niết-bàn cho chúng tăng nghe, pháp hội mở hoài, đông hạ chẳng mỏi mệt. Có thể gọi Sư là: “Đạo Sanh Tăng Triệu chẳng mất, Tuệ Lâm Tuệ Viễn phục hưng”.

Sau, Sư nghe (vị đệ tử) Thượng Thủ của Thiền sư Đại Tịch ở Hồng Châu đặc biệt đến chiêm lễ. Thân vị nầy cao hơn sáu thước, đứng như ngọn núi, mắt nhìn thẳng ngưng tròng hé mắt, tiếng nói như hồng Chung. Ngài Đại Tịch mới một lần gặp, lấy làm lạ, cười mà nói rằng: “Điện Phật cao ngất trong đó không có Phật”. Khi đó, Sư đảnh lễ, quỳ thưa rằng: “Đến như văn học Tam thừa, ý chỉ từ thô đến tế, thường nghe ở cửa thiền nói “tức tâm là Phật”, thật sự con chưa thể hiểu”. Ngài Đại Tịch bảo: “Chỉ chưa rõ đáy tâm chính là. Vật khác thì không, khi chưa hiểu tức là mê, nếu hiểu được tức là Ngộ. Mê tức là chúng sanh, ngộ tức là Phật. Chẳng lìa chúng sanh có Phật đâu riêng. Cũng như tay nắm lại thành quyền, quyền hoàn toàn là tay: “Ngay lời nói đó, Sư hoát nhiên khai ngộ, tuôn lệ buồn khóc, hướng nhìn ngài Đại Tịch mà thưa rằng: “Vốn là Phật đạo lâu dài, phải trải qua nhiều kiếp mới được thành. Ngày nay con mới biết pháp thân thật tướng vốn tự đầy đủ. Tất cả muôn pháp từ tâm sanh khởi, chỉ có tên gọi mà không thật có”. Ngài Đại Tịch bảo: “Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh, bất sanh bất diệt, tất cả các pháp vốn tự vắng lặng. Trong kinh nói rằng: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng”. Hay là: “Rốt ráo đều là nhà vắng lặng”. Hay là: “Các pháp không làm tòa”. Đó tức là các Đức Phật Như Lai trụ ở chỗ Vô sở trú. Nếu biết được như thế tức là đang ngồi tòa pháp; ở nhà vắng lặng. Giở chân lên, đặt chân xuống chẳng lìa đạo tràng. Ngay lời nói đó liền rõ, không còn thứ lớp. Đó gọi là chẳng động chân mà lên núi Niết-bàn”.

Sư đã được truyền Tâm Ấn, liền đến Tào Khê, đảnh lễ Tháp Tổ, trở về vân du tới Lư Nhạc, Thiên Thai, cho đến các danh sơn, Sư tìm khắp các Thánh tích. Từ Lạc kinh đến Ung Châu, Sư dừng nghỉ tại chùa Tây Minh. Tăng chúng đều muốn đề cử thỉnh Sư sung nhậm “Lưỡng Nhai Đại Đức”. Sự im lặng, than rằng: “Gần gũi các bậc Quốc Vương Đại Thần, chẳng phải chí ý của tôi!”. Từ đó, Sư đến Thượng Đang, Tiết Độ Sứ Tướng Quốc Lý Bảo Chân cùng Mã Toại đã có nhiều chiến công, lại khởi phát Vương Võ Tuấn đồng phá chu thao, công nhiều thế lớn, nhưng thích nghe đến những bậc Hiền thiện. Tuy ngoài ngàn dặm mà thường mang lễ vật đến cúng dường. Rất kính trọng danh hạnh của Sư, nên sớm tối chiêm lễ, cờ phướn tới lui. Sư thường tỏ vẻ mỏi mệt, nói với môn nhân rằng: “Ta vốn lánh Thượng Quốc, đông đúc danh lợi. Nay đây lại phiền tiếp quân hầu, làm vui lòng được ư!” Nói xong, Sư tự tại đi lên chốn cao xa, ôm lấy bụng núi. Sư lại sang núi Thanh Lương, trụ chùa Kim Các, đọc xem Đại Tạng kinh. Tám sao đầy trời, nguyện ấy mới xong. Sư lại chấn tích xuống phương Nam, đến Tây Hà, lúc đầu, Ngài dừng ở chùa Chúng Hương. Đổng thúc ở Châu Mục thỉnh Sư trụ tinh xá Khai Nguyên, Sư nói với đệ tử rằng: “Từ khi ta đến đây, không còn có ý Du phương nữa, há là ta có duyên ở đây ư?”

Từ đó, Sư gióng chuông cáo chúng, làm sư tử hống, tuôn pháp mưa lớn, suốt hai mươi năm, tinh phần dân chúng đều được ảnh hưởng sự giáo hóa của Sư. Vua Hiển Tông lên ngôi đến năm thứ 1 (820), vốn cảm hưởng ân đức của Sư, mới ban chiếu thỉnh mời vào nội cung. Sư lấy cớ bệnh mà khước từ chẳng đi. Năm sau, nhà vua lại ban sắc luân chỉ, Sư cũng nói bệnh như trước. Năm vua Mục Tông mới lên ngôi (821) tâm vua kính trọng, nghĩ muốn được một lần chiêm lễ, mới bảo Lưỡng Nhai Tăng Lục Linh Chuẩn Công, từ xa mang sắc chỉ đến đón rước, Linh Chuẩn đến đảnh lễ, thưa với Sư rằng: “Biết Sư tuyệt trần ngoài vật, việc tục là trấu lép. Pháp Giao Quốc Vương đã lo chín muồi, cầu thỉnh Sư. Ân chỉ này mang trở về, chẳng sánh lúc thường, xin Sư hãy thuận theo lòng trời, không nên lấy cớ bệnh mà khước từ, hợp thời mà động, chẳng hệ lụy người sau!” Sư cười, bảo: “Bần đạo có đức gì mà phiền lụy đến Thánh chúa, đi thì đi vậy, nhưng đường đi có khác”.

Khi đó, Sư cạo tóc, tắm gội. Đến nửa đêm, Sư bảo các đệ tử Tuệ Âm v.v… rằng: “Tánh thấy nghe hay biết của các ông cùng với thái hư đồng thọ mạng bất sanh bất diệt. Tất cả cảnh giới vốn tự vắng lặng, không một pháp nào thật có. Người mê chẳng rõ tức là bị cảnh mê hoặc, một lúc bị cảnh làm mê thì trôi lăn không cùng. Các ông thường biết tâm tánh vốn tự có, chẳng do Nhân duyên tạo tác mà thành, Nó như kim cương không thể phá hoại. Tất cả các pháp như hình bóng như tiếng vang, hoàn toàn không thật có. Nên trong kinh nói: “Chỉ có một sự thật, ngoài ra có hai thì chẳng phải chân. Thường rõ tất cả là không, không có một vật. Ngay nơi hữu tình là chỗ các Đức Phật dụng tâm. Các ông phải siêng năng thực hành!” Nói xong, Sư ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Than ôi! Có thể nói “Đây là sanh tử được tự tại”. Sư thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi hai Hạ lạp.

Kẻ tăng người tục gào khóc kính mến như chịu tang cha mẹ, bèn sắm đủ hương hoa phan phướn, đón rước toàn thân Sư đến Luyện-nhã ở phía Tây thành, chất củi thơm mà cử hành lễ trà-tỳ. Có vầng mây từ trời, năm mầu ngưng tụ giữa hư không, mùi hương lạ từ phía Tây bay đến xông ngát khắp nơi, các hàng sĩ thứ ở miền quê thảy đều nghe thấy. Đến lúc củi tàn lửa tắt, hiển bày xá-lợi như châu ngọc. Các đệ tử Tuệ Âm, Hạnh Cần, Kiền Túng, Nghĩa U, Nguyên Độ, Hằng Thái v.v… khóc than, liệm vào kim quan, bảo thợ đất Dĩnh chạm đá làm tháp. Đến ngày 21 tháng 12 niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (823), an táng tại sân Luyện-nhã.

Năm Sư thị tịch, Châu Mục Dương Tiềm được Tăng Lục Linh Chuẩn kể lại việc đó, bèn làm bia soạn văn khen ngợi. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Đại Đạt Quốc Sư”, tháp hiệu là “Trừng Nguyên”.

3. Truyện ngài Như Hội chùa Đông, ở Trường Sa, thời Tiền Đường:

Thích Như Hội, người xứ Thỉ Hưng, thuộc Thiều Châu. vào niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Sư nương tựa dưới Pháp tịch của Thiền sư Quốc Nhất, sau trở về pháp tòa của Thiền sư Đại Tịch. Bấy giờ, Thiền khách ngưỡng mộ, quyết cầu tâm yếu, nên trong tăng đường giường chõng vì thế mà thiếu gãy. Bấy giờ gọi là “Hội gãy giường”, còn gọi là “giường tạc Phật”.

Sau, Sư theo lời mời đến trụ chùa Đông ở Trường Sa. Từ lúc Thiền sư Đại Tịch thị tịch, là lúc đảnh cao hưng thạnh pháp môn của Sư không ai hơn được. Nên ngạn ngữ có câu: “Chùa Đông là Hang Thiền”, suy đoán có thể biết. Bấy giờ, Tướng Quốc Thôi Công Quần kính mến đạo phong của Sư, nên đến tham yết tận chùa. Ngài đối đáp rành rẽ, từ hợp thấu lý. Từ đó mà kết bạn thầy trò. Ban đầu Thôi Công Quần cùng với Hoàng Phụ Bác bàn nhau tấu trình tôn xưng hiệu Sư lên vua Hiến Tông. Vì bị Hoàng Phụ Bác dắt ra làm quán sát ở Hồ Nam. Nhàn dự quy tâm về Sư.

Đến năm Quý mão (823) thuộc niên hiệu Trường Khánh (82182) thời vua Mục Tông, Sư thị tịch tại chùa, thọ tám mươi tuổi. Khi ấy, suối giếng cạn khô, có mùi hương lạ xông lên thơm ngát, nhập tháp ở phía Nam thành. Liêm Sứ Lý Cao đập phá hết các tháp mộ gần thành, chỉ để lại Bảo tháp Sư mà thôi. Và lấy bút đề rằng: “Chỉ để lại ngôi này để phân biệt hiền ngu”. Lưu Thiện Bộ Kha soạn văn bia. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Truyền Minh Đại Sư”, tháp đề là Vĩnh Tế, cũng gọi chỗ Sư ở là “Giáp Sơn Hòa-thượng”.

4. Truyện ngài Thiên Nhiên trụ ở núi Đan Hà ở Nam Dương, thời Tiền Đường:

Thích Thiên Nhiên, không biết Sư là người xứ nào. Thuở thiếu thời, Sư vào pháp môn mà tính bướng bỉnh. Sư đến tham kiến Thiền sư Thạch Đầu, Thiền sư lặng thinh chấp nhận, nghĩ với tự thể Sư được thật nên đặt tên là Thiên Nhiên. Sư đích thân làm việc bếp núc suốt ba mươi năm mới cạo tóc, mặc pháp phục. Sau, Sư đến luật sư Hy ở chùa Nhạc thọ giới cụ túc, Sư đến pháp hội của ngài Đại Tịch ở Giang Tây, ngài Đại Tịch dùng ngôn từ mà khuyến dụ, Sư ứng đáp nhã chánh. Ngài Đại Tịch rất lấy làm lạ. Kế đó, Sư lại đến trụ Hoa đảnh, thuộc Thiên Thai ba năm. Sư lại tham lễ Đại sư Quốc Nhất.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806-821), Sư lên Hương Sơn, thuộc Long Môn, cùng với Thiền sư Phục Ngưu kết bạn vật ngoại. Sau, Sư ở tại chùa Tuệ Lâm, gặp lúc rét lạnh, Sư bèn đốt tượng Phật bằng gỗ để sưởi ấm. Có người chê trách việc đó, Ngài bảo: “Tôi trà-tỳ tìm xá-lợi!” vị ấy nói: “Ở trong gỗ làm gì có xá-lợi?” Sư lại bảo: “Nếu vậy, sao lại trách tôi ư?”

Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3 (808), vào một buổi sáng, Sư đến nằm ngang trên cầu Thiên Tân. Gặp Lưu Thú Trịnh công đi ra, quở trách Sư chẳng đi. Từ từ, Sư mới ngửa mặt, bảo: “Tôi là Tăng vô sự”. Lưu Thú thấy làm lạ, bèn dâng hai chiếc áo trắng; hằng tháng cung cấp gạo bún, khắp ở Lạc Kinh, mọi người đều quy ngưỡng kính tin. Đến mùa xuân niên hiệu Nguyên Hòa thứ 1 (820), Sư nói: “Ta nhớ tưởng đến suối rừng!” Rồi bèn vào Nam Dương cất am ở núi Đan Hà.

Đến tháng 6 niên hiệu Trường Khánh thư (82), Sư bảo môn nhân rằng: “Hãy chuẩn bị tắm gội, ta sắp đi xa!” Nói xong, Sư đội nón, sách gậy và giày cỏ, thòng một chân xuống chưa tới đất thì thị tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Thiên Bộ Viên Ngoại Lang soan văn bia, ghi lại đức hạnh Sư. Vua Mục Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Trí Thông Thiền Sư”, tháp hiệu là “Diệu Giác”.

5. Truyện ngài Thái Dục ở núi Phù Dung thuộc Thường Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thái Dục, họ Phạm, người ở xứ Kim Lăng. Mới mười tuổi

Sư đã phát chí xuất gia, bèn đến lễ bái Thiền sư Trung ở núi Ngưu Đầu và thờ làm thầy. Từ đó, Sư tinh tấn mạnh mẽ, cầu được huyền chỉ. Pháp khí sáng rỡ bên ngoài, thần dung bền chặt ở trong. Thấu suốt Nhất thừa, đầy đủ muôn hạnh, Sư sang chùa An Quốc ở Ung Kinh cầu thọ giới cụ túc, vẻ vang xuất chúng. Lại thêm oai nghi khoan thai, tướng đẹp lạ thường, như biển cả đâu thể đo đạt, tợ hư không khá chẳng so lường. Sư đến tham lễ khắp các đạo tràng, nhưng nhiếp tâm ở cảnh tịnh. Tuy trí năng thông đạt, nhưng không nương nhờ thầy, mà ấn khả chứng minh hẳn do Tiên giác. Sư bèn đến tham yết Thiền sư Đại Tịch ở Hồng Tỉnh. Vừa thấy tướng Ngài, Sư đã liễu đạt pháp thân, chỉ khoảnh khắc mà chóng thành Đại giác.

Bấy giờ, Phật pháp thạnh hành trong nước, chẳng đâu bằng ở Hồng Phủ. Dưới tòa các bậc Hiền Thánh kề vai nhau đắc đạo, số đó rất nhiều. Ngài cùng Thiền sư Thiên Triệt, Thiền sư Đại Tuyên giáo, Thiền sư Đại Trí đều là những vị quan trọng. Sư vân du khắp Nam Bắc, không hề lo sợ, khiến thêm rộng thấy nghe, tập quen nuôi dưỡng mầm Thánh.

Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 13 (819), Sư tới dừng trụ tại núi Phù Dung, ở Nghĩa Hưng, thuộc Tỳ Lăng, nên được trụ ở núi, Sư gây duyên tạo nhân, có ứng mà không mê đắm, nên chỗ Sư ở thì có cảm hóa và nơi Sư đến thì có người ưa thích tu theo. Tăng tục cùng nhau kính ngưỡng, cảm động đến hàng muôn người. Từ đó, mọi người ở Giang Nam ngộ được lý thiền có đông nhiều. Bấy giờ, Tướng Quốc Thôi Công Quần bị thất thủ ra phân ty. Sau vì Hoa Châu, từ Tam Phong mà ra trấn giữ Tuyên thành. Chỗ đất ấy tuy gần mà người thì xa. Thôi Công rất ưa thích lễ yết, dốc lòng thành thật cầu thỉnh, Sư vì lòng cảm niệm mà hiện tâm đại bi, không đâu chẳng muốn thành quả, nên tùy duyên du phương.

Niên hiệu Bảo Lịch thứ nhất (82), Sư thuận mạng đến trụ chùa Thiền Định tại Uyển Lăng. Tùy thuận mà mở mang giáo pháp. Năm sau, Sư cáo lui về núi Tề Vân. Đến ngày mồng một tháng 9, sắc tướng Sư chẳng đổi thay mà bỗng nhiên thị tịch tại viện ở núi ấy, thọ tám mươi tuổi, năm mươi tám hạ lạp.

Ngày đó, đất trời như thảm sầu, cỏ cây như đổ ngã, chim thú buồn kêu, mây suối sờ sửng, từ tăng chúng cho đến sĩ thứ dường như trẻ thơ mến tiếc khắp cùng. Qua tháng 10 dừng thần tại sân viện, theo chỗ nên làm. Các đệ tử Chí Phu, Khế Chân, Thanh Cán v.v… bùi ngùi khóc than: “Thầy ta thị tịch, mà đàn hậu học đang còn!” Đến niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828) Tướng Quốc Vi Xử Hậu vốn kính chuộng huyền phong, đạo tâm thuần thục, đem sự việc tấu trình, vua kính Tông ban giáng đức âm, dùng thù lễ khen thưởng, truy tặng thụy hiệu và tên tháp. Việt Châu Thứ Sử Lục Tuyên cầm bút soạn luận.

6. Truyện ngài Đàm Tạng ở Lan-nhã Tây Viên thuộc Nam Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Đàm Tạng, không biết Sư là người xứ nào. Sư đắc thiền quyết với Thiền sư Đại Tịch. Sau, lại tham kiến Thiền sư Hy Thiên Thạch Đầu. “Cái gọi là tái nhiễm là mầu đỏ”.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), Sư lánh đến Xung Nhạc, dừng ẩn trên chóp núi. Cuối năm đó, Sư bị đau ở chân nên dời xuống cất am ở Tây Viên. Mọi người đến tham cầu, lễ thỉnh rất đông. Đến niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Sư thị tịch tại núi, thọ bảy mươi tuổi.

Trước đây, Sư có nuôi một con chó rất linh. Một đêm, Sư kinh hành ngồi nghỉ ở tòa thì nó ngậm y Sư về phòng và nằm ở ngạch cửa và sủa mãi không dứt tiếng, thân mình luôn phấn phát với thế dữ dằn. Đến sáng ra trông xem thì tại Đông trù có con trăn rất lớn, thân dài mấy trượng, cuộn quanh nhà nhỏ, vì vậy rất cao lớn. Nó há miệng thẳng tiếng gầm gừ tỏa khí độc mịt mờ. Vị thị giả vào thưa Sư nên gấp lánh đi. Ngài bảo: “Chết mà có thể trốn đi xa được sao? Nó nhả độc ra thì ta dùng lòng từ mà nhận lấy. Độc không tự tánh, kích động thì cương. Lòng từ nếu là vô duyên thì oán thân một đường. Không người không ta, pháp tánh đều không”. Ngài nói xong, con trăn đó nép đầu, từ từ lánh đi, tự nhiên không thấy nữa. Lại, có một đêm, bọn cướp đến, con chó cũng ngậm y của Sư. Ngài nói với bọn cướp rằng: “Các ông, Lão già này ở nhà tranh trong núi. Các ông có ý lấy vật gì cứ lấy đi, để khởi có chút tiếc rẻ”. Bọn cướp cảm kích lời nói đó, bèn phân tán xuống núi.

Kế nữa, có ngài Thích Linh Thoán trụ chùa Vĩnh Thái ở Kinh Châu. Sư họ Tiêu, người ở xứ Lan Lăng. Con cháu đời sau của Sư vào thời Hậu Lương (907-923) bị nhà Chu tận diệt, chi thuộc tinh phần. Cha của Sư lúc ở Trường Sa, làm Biên Độ. Khi sanh ra thì Sư đã có chí xuất trần. Với các Thiền hội, ít nơi nào chẳng đến, sống đơn sơ đạm bạc, ưu du tự tại.

Niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821), Sư trụ tại chùa Bách Gia. Sau đó không lâu, Sư đi bộ đến Giang Lăng, Thái Thú Vương Tiềm thỉnh Sư đến trụ chùa Vĩnh Thái. Đến ngày 23 tháng 6 niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư thị tịch tại chùa, thọ bảy mươi lăm tuổi. Xây tháp tại Bắc Châu, hiện nay vẫn còn.

Lại có ngài Thích Siêu Ngạn, người ở xứ Đan Dương. Trước tiên, Sư gặp Thiền sư Tố ở Hạc Lâm. Sư ở trong chúng, chỉ cung kính im lặng mà thôi. Niên hiệu Thiên Bảo thứ 2 (73) Sư đến Lan-nhã ở Phủ Châu, được Thiền sư Đại Tịch khai phát. Người học khắp bốn phương cùng nhau đến nương tựa.

7. Truyện ngài Vô Đẳng trụ viện Đại Tịch, ở Ngạc Châu, thời Tiền Đường:

Thích Vô Đẳng, họ Lý, nay là họ uất; ở Đông Kinh. Sư mang chí siêu việt, từ khí trinh chánh. Thuở thiếu thời, Sư theo cha làm quan ở Nam Khương. Sư luôn đến thăm viếng các chùa, kính mến chư tăng, chiêm lễ tượng Phật. Hễ Sư sang chùa thì quên về. Sau khi xuất gia, Sư gặp được Thiền sư Đạo Nhất ở núi Cung Công; nơi có học chúng rất đông. Sư cầu pháp ở đó chỉ một thời gian, đã vượt trội hơn cả.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (812), Sư đến Hán Thượng. Sau, đến Võ Xương, thấy núi Hoàng Hộc ở quận Tây đẹp đẽ khác lạ, bèn dựng am đi khất thực. Từ đó, những người kính chuộng huyền lý ở các xứ Ba Thục, Kinh, Tương, không nơi xa nào chẳng tìm đến. Niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Thuộc Tướng Quốc Ngưu Công Tăng Nhụ ra trấn giữ vùng Tam Giang, nghe hương đạo của Sư xông khắp xa gần, bèn mạng xa giá uốn mình tới hỏi. Phong Hổ cùng phải vì pháp mà trọng người. Ngưu Công lo ngại Lan-nhã ấy chẳng thuộc danh tịch nên đặc biệt vì Tần đề là “Đại Tịch”, tấp nập qua lại, đường pháp không có hư vị. Đến tháng 10 niên hiệu Thái Hòa thứ (830), Sư thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi. Đệ tử Thệ Thông đón rước toàn thân Sư nhập tháp.

8. Truyện ngài Minh Giác ở viện Thiên Khoản, núi Thiên Mục, thời Tiền Đường:

Thích Minh Giác, họ Du, người ở xứ Hà Nội. Ông nội của Sư làm quan ở Lãnh Nam, sau dời đến làm người Kiến Dương. Sư là con nhà Nho, phong lưu chứa nhóm, thích thưa hỏi, mong cầu hiểu biết, không hề mệt mỏi, sớm mang tánh đạo.

Nghe Thiền sư Đạo Nhất đang lãnh chúng hành trì thiền pháp tại Phật Tích, Sư bèn tìm đến đó và được nương tựa, xuống tóc xuất gia.

Từ đó, Sư phát nguyện du phương. Các nơi như Hành nhạc, Thiên Thai, Tứ Minh, Sư đều đến thưởng thức pháp vị. Sư lại đến Kính Sơn, lưu tâm thỉnh cầu quyết trạch, qua vài năm vác củi mà mặt nám tay chai. Sư xuống núi, đến chùa Đại Vân ở Hàng Châu, cấm túc trong viện. Rồi tiếp tục dời đến bờ hồ trên đảnh Thanh Sơn, cất am mà ở. Chúc Phạm Dương Lư Trung thừa nghe đạo phong của Sư mà đích thân đến tham yết mời Sư về trụ trì chùa Đại Vân ở Châu Trị.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 1 (821), Ngài lánh hiềm, xa ồn náo, nên đến ẩn cư tại núi Thiên Mục, núi đó Kỳ lạ khác thường, gò nền cao dài vượt qua trên bốn Quận, dưới có đầm rồng sâu chẳng lường được, quái vật thường hay xuất hiện, trong đó có con nai trắng, chất lông lạ thường, người dân ở đó gọi là thần núi. Sư trốn ở trong đó, các Đàn Việt vì Sư mà dựng lập Thiền Vũ.

Từ mùa xuân đến mùa đông niên hiệu Trường Khánh thứ 3 (821) cho mãi sang tháng 2 năm sau, trời nắng hạn, lửa đồng bốc cháy cuồn cuộn như muốn thiêu đốt am viện, tăng chúng sợ hãi, Sư bảo: “Ta có duyên với núi này, lửa sẽ mau tắt thôi”. Chỉ chốc lát, sấm sét nổi đùng, chợt có mưa khiến lửa tắt hết, khắp nơi xa gần đều kinh ngạc khen ngợi.

Đến ngày 19 tháng 7 niên hiệu Thái Hòa thứ (832), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch.

9. Truyện Viên Tu núi Tần Vọng, Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Viên Tu, họ Phan, người ở đất Mân, thuộc Phước Châu, khi mới sanh ra Sư đã có tánh khác thường, đến lúc trưởng thành càng tuấn tú hơn, bỗng nhiên Sư nghĩ muốn dứt tục, tìm thờ danh sư, cắt tóc đổi y. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Hội thiện ở Tung Dương. Thế rồi, oai nghi phô bày, hình dung ngày một đời mới, quyết đức nghiên cùng kinh luận, tự nhiên Sư ước muốn du phương, gặp được Thiền sư Hoài Hải ở núi Bạch Trượng, căn giáo phù hợp, bèn rõ tâm yếu. Sư ôm bát chống tích mà đến Hàng Châu, thấy núi Tần Vọng với thế cao vời, có cây tùng già cánh nhành sầm uất, Sư bèn dừng ở trên ngọn thông. Bấy giờ, cảm kích loài chim thước lại làm ổ ở cành ngang. Người vật đều quên, loài lông cánh quen dần. Từ đó, Sư chẳng xuống núi, gần bốn mươi năm. Mỗi một Thái thú đến trấn nhậm thì bèn đến chiêm ngưỡng, xưng gọi Sư là “Điểu sào Thiền Sư”.

Mãi đến đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806), Bang Bá Bùi Thường Lệ kính trọng đạo phong của Sư, nên đến ba bốn lượt thỉnh Sư xuống cất am. Sư hoặc vì người tới tham thỉnh mà nói pháp. Bùi Hầu sai tám vị thuộc Tể Quan chung sức xây dựng Già-lam, phế bỏ biển ngạch, đề là “Chiêu hiền, dựng ở đó. Đến ngày 22 tháng 9 năm Quý sửu, tức niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (833), Ngài ngồi thẳng an nhiên thị tịch, thọ chín mươi chín tuổi, tám mươi hạ lạp. Nhiều Quan Chính Lương Thú ở Hoàng Châu đều hết lòng kính trọng, thuế giá dựng che, thỉnh đàm luận Huyền Cực, bất chợt đổi chức thay giờ. Nay tháp thờ Sư hiện còn ở dưới núi Thạch Tằng. Sa-môn Duy Trinh ở Nam Nhạc làm bài minh cho tháp. Gần đây có bọn cướp phát hiện tháp đó còn nhiều thứ quái lạ, chỉ thâu nhặt được bài bia ký mà thôi.

10. Truyện ngài Phổ Nguyện ở viện Nam Tuyền thuộc Trì Châu, thời Tiền Đường:

Thích Phổ Nguyện, họ Vương, người ở xứ Tân Trịnh, thuộc Trịnh Châu. Tổ tông của ngài Đại Tịch là ngài Hoài Nhượng ở viện Quán Âm, thuộc Nam Nhạc, ngài Hoài Nhượng lại là đệ tử của ngài Tuệ Năng ở Tào Khê. Đối với Sư (Phổ Nguyện) là Thái Phụ, nên cao tằng của Sư có thể biết được. Và thiền của Nam Tuyền có bắt đầu từ đó.

Lúc mang thai Sư, mẹ của Sư không thích ăn các thứ máu thịt tanh nồng. Đến niên hiệu Chí Đức thứ 2 (77), Sư quỳ cầu xin cha mẹ cho phép được xuất gia, thoát nhiên Sư có vẻ cởi bỏ sự ràng buộc. Sư bèn đến thọ nghiệp với Thiền sư Đại Tuệ ở núi Đại Ổi, Sư gắng sức khổ nhọc tiết chế, đến nỗi tay chân chai phồng nứt nẻ, mà chẳng dám làm chủ thân, thầy Sư thấy vậy lấy làm lạ.

Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), lúc đó, Sư ba mươi tuổi, bèn đến Luật Sư Hạo ở chùa Hội Thiện ở Tung Sơn thọ giới cụ túc. Học tập tướng bộ cựu Chương, nghiên cứu luật tạng; học các thiên tụ. Sau, Sư đến các trường giảng, lên đảnh Lăng-già, vào hội lớn Hoa Nghiêm, cởi mở then chốt của bách môn quán, lãnh hội huyền cơ ngoài sớ luận. Bấy giờ, những bậc tài giỏi đều nêu cao chạy theo vết loạn. Học chúng của ngài Đại Tịch có hơn tám trăm vị, mỗi lúc sau khi tham thính, Sư tìm hiểu điều thầy giảng, phân tích đúng sai. Sư hoặc nói bằng cách im lặng, các sự bàn luận đều thôi, bảo nhau rằng: “Người chẳng nói mới là nói”. Từ đó về sau, Sư che cảnh, ẩn sáng, dường như người không nói được. Có người cho rằng Sư không có pháp để nói, hoặc có người đến gõ cửa, Sư vẫn kiên quyết không tiết lộ. Bấy giờ, có người thầm trách có phong của Sư, hơi bày đầu sừng, mới biết chẳng phải Sư không có pháp mà vì lúc nói chưa đến.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (79), Sư chống tích trượng đến núi Nam tuyền, thuộc Trì dương. Lấp hang chặt cây để xây dựng thiền vũ, tơi nón cơm nước như mục đồng nơi chuồng bò, phá núi khai khẩn ruộng đất làm hoa mầu để sống chẳng dưới ba mươi năm ở tại Nam Tuyền.

Hồng Chương chẳng phải vì dây cỏ khua phát ra tiếng, mà vì tiếng nên có chờ đợi. Đầu niên hiệu Thái Hòa (827), Tuyên Sứ Lục Công Hằng Tiền là Thái Thú Trì Dương, đều biết đó là chối bỏ ngoài trần tục, làm pháp nhãn cho bốn phương, nên cùng Hộ Quân Bành Thành Lưu Công đồng đón rước Sư xuống phía bắc núi để đích thân lễ bái. Không sang đến năm sau, mà người đến học rong ruổi trên đường đạo chẳng dưới mấy trăm người.

Đến ngày 21 tháng 10 năm Giáp Dần (83) thuộc niên hiệu Thái Hòa, Sư thị hiện bị bệnh. Qua ngày 23 tháng 12 năm đó, có cầu vồng xuyên suốt từ thiền thất của Sư đến đỉnh núi phía sau. Những người đoán tướng cho đó là ngài Nam Tuyền tạ thế? Ngày đó, ở đỉnh núi phía Tây, có tảng đá lớn lăn đổ, vang tiếng động đến vài mươi dặm. Cũng ngay ngày đó có con hổ dữ đi nhiễu quanh thiền lâm mà kêu gào. Tăng chúng đều lấy làm lạ. Tới ngày 2, lúc mặt trời mới mọc, Sư bảo tăng chúng rằng: “Sao che đèn huyễn cũng lâu, chớ cho rằng ta có đến đi!” Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi bảy tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Các vị Khế Nguyên, Văn Sướng v.v… gồm chín trăm người đều mặc áo vải chít khăng đen, buồn khóc ở cửa núi. Người đến dự lễ thọ tang nối nhau cúng dường. Tiếng buồn khóc rung chuyển cả sườn núi hang cốc. Qua đến năm Ất Mão (83), môn nhân đón rước toàn thân Sư nhập linh tháp, thể theo sự chỉ giáo của Sư. Thiện Bộ viên ngoại Lang Quán tu soạn. Lưu Kha Khâm Nhã Tiền Liệt, truy niệm khen ngợi đức tốt của Sư.

11. Truyện ngài Đàm Thịnh chùa Linh Nham, ở lễ Dương, thời Tiền Đường:

Thích Đàm Thịnh, họ Vương, người ở xứ Kiến Xương, thuộc Chung Lăng. Lúc mới sanh, tự thân Sư đã có tấm y từ trong bào thai để bày vai cánh phải như y phục người xuất gia. Bèn xin xuất gia ở Thạch Môn. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc rồi đến tham kiến Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng. Suốt hai mươi năm, Sư làm thị giả. Chức đồng như ngài Khánh Hỷ, pháp hẳn tôi nghe, thân như dòng nước trong, tâm ở Tán vị. Sư tiếp tục thọ học Dược Sơn cử phát hoàn toàn rõ suốt không nghi. Sư dạy dỗ đồ chúng rất ân cần, người thọ nhận ích lợi rất nhiều.

Đến ngày 27 tháng 10 năm Kỷ Dậu (829), thuộc niên hiệu Thái Hòa năm thứ 3, Sư thị tịch. Vua kính Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Vô tướng Đại Sư”, tháp hiệu là “Tịnh Thắng”.

Liên quan thử bàn:

“Thương-Na-Hòa-tu”, Hán dịch là “Thai y”. Vì lúc mới sanh, Sư đã mang y che thịt mà ra. Và chẳng phải chỉ bảo bọc thân thuở ấu thơ mà đến lúc trưởng thành cũng xứng thân. Lúc xuất gia, trở thành pháp phục, đến khi thị tịch, trà-tỳ mới cháy tiêu. Ngài Đàm Thịnh cũng có thai y, chỉ không bằng là chỉ mặc lúc còn nhỏ mà thôi. Đây gần giống như Tôn giả Thúc-Ly-Ni-Thương-Na. Tư duy quá nửa. Vì sao ngài Đàm Thịnh cách đời Phật quá xa, ngài Thương-Hòa-tu thì cách Phật diệt độ chừng một trăm năm, mà mang thai y là để nói lên hạng người có hạnh quả? Nay, ngài Đàm Thịnh dùng thai bào lộ bày vai phải quấn quanh mà hoằng hóa giáo lý ấy ở đời, thế đó chẳng khó ư? Nên bảo rằng tư duy quá nửa.

12. Truyện ngài Chân Công trụ chùa Phước Thọ, ở Kinh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Chân Công, họ Lỗ, người ở xứ Giang Lăng. Thuở thiếu thời mà Sư đã cảnh tỉnh phát tuệ, năm bảy tuổi, tụng thông thi nhã, bèn đến ứng châu thi cử, ba lần trúng tuyển, còn chưa mở áo thô, bàn luận huyền lý với các Sa-môn, mới phát nguyện xuất gia, đến chùa Phước Thọ, Thiền sư Biện Sơ cho là khuôn mẫu. Sau, Sư đến chùa Chiêu Thành ở kinh đô Lạc Dương, giảng pháp vài tòa. Nhân đó, Sư lại đến tham lễ Thiền sư Tung Sơn mà thông suốt tâm quyết, rồi Sư mới đến Mao Sơn ở Đan Dương. Bỗng dưng Sư lại chống tích trượng đến núi Lăng-già ở Tô Châu. Những người tham cầu Huyền Đạo ở bốn phương xa xôi chen chân kề vai tìm đến. Bấy giờ, Bạch Lạc Thiên đang trấn giữ tại quận đó, tiếp Sư đàm đạo, bất chợt khoác áo mở đai, tâm vân du ở ngoài vật, được then chốt của Sư, bèn cố thỉnh Sư ra ở chùa Thủy Lưu, nhưng Sư chẳng thích dừng ở, chỉ lấy nước non làm thú vui tình.

Niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, thọ chín mươi tuổi. Đến ngày 17 tháng năm đó, đón rước nhập tháp.

13. Truyện ngài Tùng Thẩm ở Đông Viện thuộc Triệu Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tùng Nẫm, Thẩm người xứ Lâm Truy, thuộc Thanh Châu. Mới ở tuổi nhi đồng mà Sư có tính cách khác biệt mọi người, vượt cả sự ràng buộc của cha mẹ. Siêu nhiên lìa tục. Sư đến chùa Long Hưng thuộc Bổn Châu, theo thầy xuống tóc xuất gia. Sư đến giới đàn lưu ly ở Tung Sơn thọ giới cụ túc. Thầy Sư khuyên gắng tập học kinh luật, Sư chỉ nhiễm được điều chỉ bảo mà thôi.

Nghe Thiền sư Phổ Nguyện ở Trì Dương hóa đạo hợp như, Sư giữ tâm định chí dùi mài quên mệt nhọc. Nên được ngài Nam Tuyền (Phổ Nguyện) thầm truyền thọ cho. Sư dứt bặt dấu vết, thảng nhiên an vui. Sau, Sư đến Triệu Quận, khai hóa vật mê, thực hành thiền đạo. Do Chân Định Soái họ Vương cậy binh phong cương thường ngang bướng. Triều đình lo ngại. Họ Vương kháng cự quá chế mà quy tâm nghiêng về Sư. Sư thường gởi trên cây phất tử cho họ Vương và bảo: “Nếu họ Vương hỏi từ đâu mà có được cây phất tử này, thì xin đáp đạo của Lão Tăng nửa đời dùng chưa hết”.

Phàm những gì Sư nêu lên, thiên hạ đều truyền nhau, gọi là “Triệu Châu Khứ Đạo”. Ngữ lục của Sư lưu hành rộng khắp, được đời rất quý trọng.

14. Truyện ngài Trí Tạng chùa Hoa Nghiêm ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:

Thích Trí Tạng, họ Hoàng, người ở xứ Thượng Cao, thuộc Dự Chương. Cha của Sư làm nhân viên của Hồng Châu. Sư theo cha vào chùa Báo Quốc, thấy cúng phụng ngài Hạo Nguyệt, giảng Kinh Niếtbàn, hơi thể hội được ý kinh, Sư thích vào cửa Phật.

Năm mười ba tuổi, Sư cắt đứt ân ái, giã từ cha mẹ, đến thọ học với Pháp sư Tông ở chùa Khai Nguyên. Sau, Sư tu thiền pháp và chứng ngộ tông yếu của Thiền sư Đại Tịch. Niên hiệu Kiến Trung năm đầu (780), Sư đến Trường An. Lư Nguyên Cảnh vốn rất kính phụng đạo của Sư, nên đề cử tấu trình thỉnh mời Sư vào nội cung để cúng dường. Vua Đức Tông ban sắc Sư trụ chùa Hoa Nghiêm. Trong thời gian Sư dẫn dắt, các vị ưa thích huyền học bừng dậy tìm đến dưới pháp tòa của Sư như nước sông quy tụ về biển, tợ như hang hóc có gãy Đàn cầm.

Đến niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (83), Sư thị tịch tại chùa và nhập tháp vào ngày 12 tháng 3.

15. Truyện ngài Trí ở núi Đạo Ngô, thuộc Đàm Châu, thời Tiền Đường:

Thích Viên Trí, họ Trương, người ở xứ Hải Hôn, thuộc Dự Chương. Năm mới độ tuổi tết tóc, Sư chóng cầu lìa tục, đến lễ bái Hòa-thượng Niết-bàn, tự thân lo giữ việc giữ giày gậy. Tới lúc đã thọ giới cụ túc Sư liền phát nguyện tham yết thiền môn, được ngài Dược Sơn chỉ bày tâm yếu. Sau, Sư đến trụ núi Đạo Ngô ở Trường Sa, đồ chúng theo Sư như ong kiến phụ chúa. Sư thị tịch ngày 11 tháng 9 năm Ất mão, nhằm niên hiệu Thái Hòa năm thứ 9 (83), thọ sáu mươi bảy tuổi.

Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt được vài mảnh xương không cháy. Hộp não đặc biệt khác lạ và trong sáng, mầu sắc như vàng, tiếng vang như đồng, bèn xây dựng tháp ở núi Thạch Sương, vua Kính Tông ban tặng Sư thụy hiệu là “Tu Nhất Đại Sư”, tháp hiệu là “Bảo tướng”. Chứng đắc đạo Sư thì có Phổ Hội. Trước kia, lúc Sư lãnh ngộ tông chỉ ở ngài Dược Sơn, ngài Dương Sơn chỉ dạy Sư rằng: “Ta không có ngọc báu, cung lớn để làm phần khí, nay thưởng cho ông một yêu Độc Tỷ, tuy là nhỏ nhoi vụn vặt mà biểu lộ sự thân tiết”. Sa-môn Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn văn bia khen ngợi.

16. Truyện ngài Pháp Thường trụ núi Đại Mai ở Minh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Thường, họ Trịnh, người ở xứ Tương Dương. Từ thuở bé, Sư đã theo thầy trụ chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu. Cả trăm quyển kinh sách chỉ một lần xem qua thì Sư thuộc lòng không quên sót. Đến lúc đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Long Hưng. Sư có dung mạo thanh cao, tánh tình độ lượng, nhưng thẳng thắn thông minh, thân mặc áo nạp, mang bình bát, giữ chí ngày ăn một bữa vào giờ mão.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (896), Sư từ Thiên Thai đi đến phía Nam Dư Dao, thuộc Tứ Minh, suốt bảy mươi dặm, và ngụ lại nơi ẩn cư xưa kia của Tiên úy Mai Tử Chân. Ngày xưa, Mai Phước lúc ban đầu mới vào núi thấy có nhiều hang rồng, thần rắn thường nhả khí thành lầu các, mây mưa mịt mờ tăm tối. Bên cạnh có cái kho bằng đá, phía trong cất chứa thuốc tiên và kinh sách của thần tiên. Sư dừng nghỉ qua đêm tại phòng (kho) đó, mới mộng thấy vị thần nói với Sư rằng: “Sư không phải là phàm phu”. Nhân đó cùng nói chuyện, đề cập đến sách thánh trong kho huyền ký việc đã qua và việc ở tương lai. Người thọ nhận đó hẳn làm chủ đất này, chẳng vậy mà còn làm thầy truyền dạy cho cả Đế Vương. Sư nói với vị thần rằng: “sách trong kho chẳng phải thứ tôi ưa thích. Xưa kia, ngài Tăng Trù chẳng để ý đến kinh tiên, rồi kinh ấy tự mất. Tôi chỉ lấy Niết-bàn làm vui, quyết thọ nhận sao chỉ cùng các vị trời già thôi ư?” Vị thần nói: “Linh Phủ ở đất này, người tục khí khó mà ở đây lập chí biến quái”. Sư bảo: “Tôi ngụ nhờ ẩn vết tại làng Mai Úy, chẳng y cứ lâu”. Do đó mà gọi là Mai Sơn. Từ đó, Sư bện cỏ chặt cây làm chòi che thân mình. Sư ở đó chỉ bốn mươi năm, nghiệm xét thật là người phi thường.

Những năm đầu niên hiệu Khai Thành, viện hoàn thành, đồ chúng

nhóm họp đông đúc thưa hỏi quyết nghi, chư tăng có đến bảy, tám trăm vị. Tới niên hiệu Khai Thành thứ (839), Sư thị hiện bị bệnh, qua ngày 19 tháng 9, núi rừng rung chuyển, chim thú kêu buồn. Ngài từ biệt tăng chúng mà thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi, sáu mươi chín hạ lạp. Đến ngày 19 tháng 10, cử hành lễ Trà-tỳ tại Nam giản, thâu nhặt xá-lợi năm mầu sáng trong tròn đẹp. Trước kia, Sư ẩn cư ở Mai lãnh có vị tăng đến cầu, thưa cùng Thiền sư An ở Diệm Quan rằng: “Quả mài đã chín. Các ông hãy đi tìm, có thể trị khát”. Tiến sĩ Giang Tích soạn văn bia khen ngợi Sư.

17. Truyện ngài Sùng Diễn chùa Tuệ Chiếu, ở Dương Châu, thời Tiền Đường:

Thích Sùng Diễn, họ Đoàn, người xứ Đông Bình, Ngài xin xuất gia với Pháp sư Tuệ Siêu tại chùa Long Hưng, thuộc bổn quận. Sư du phương học đạo, được Thiền sư Thiện Tịch ở Tung Dương chỉ bày tâm pháp. Sau, Sư về trú tại núi Đô Lương. Bấy giờ tại Hoài Phố, người tham học ở khắp nơi đến nương ở. Tướng Quốc Lý Công Thân trấn phủ Quảng Lăng mà tánh cứng rắn nghiêm khắc, ít có giao tiếp, lại riêng xem thường Thích Tử. Hoặc đáng việc cùng gặp thì hẳn hỏi vặn khó khăn, chỉ đáp lại mà chẳng cung kính, phần nhiều quát rồi bỏ đi. Thân sai Nha Lại Chương, từ lúc nhỏ đã thành truyện ý, mời Sư vào phủ, Sư dạy đáp ý chỉ diệu lý, đàm luận chan chác. Thân mịt mờ chẳng thể đo lường ngăn mé, nên đặc biệt quy kính tin tưởng, thỉnh Sư ở chùa Tuệ Chiếu. Sư hóa đạo, đồng thanh tương ứng, chúng có đến ngàn người.

Đến niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư thị tịch tại Bổn viện, thọ tám mươi bốn tuổi. Ngày 23 tháng 10 năm đó, đón rước toàn thân Sư nhập tháp.

18. Truyện ngài Tề An trụ viện Hải Xương, ở Diêm Quan, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tề An, trụ họ Lý, thật là người tài giỏi của dòng họ vua Đường. Cha của Sư đến đất Việt nên sanh Ngài tại quận Hải Môn. Lánh xa vinh hoa ở đời, giấu kín dòng họ. Lúc Sư còn trong bào thai, mẹ Sư mộng thấy mặt trời điềm lành, đến lúc sanh Sư thì ánh sáng thần chiếu xuống. Khi Sư mới vài tuổi, có vị tăng lạ đến gõ cửa. Sư mời vào và được xoa đầu bảo: “Hang phụng chấn nghi, cung rồng cất của báu. Tiếp nối sự nghiệp đến cùng là ở đây!” Vừa đến tuổi tết tóc, Sư cầu xin xuất gia, cha mẹ Sư quở trách không cho. Sư thưa: “Nuôi dưỡng lợi lộc thì dừng ở gần, lợi về minh báo thì chẳng xa ư? Sư vinh hạnh của Khuê Tổ chỉ ở trong nhà, lợi ích cứu giúp chẳng rộng thay”. Cha mẹ Sư cảm kích lời nói đó mà cho phép. Sư bèn đến nương tựa Thiền sư Vân Tông trong bổn quận.

Sư tuy cần lao khiêm mặc hòa quang đồng trần mà đom đóm và mặt trăng khác nhau, hình thái gà và hạc khác nhau. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc, bèn đến luật sư Trí Nghiêm ở Nam Nhạc. Bên ngoài thúc liễm, trong chiều soi thật tướng. Sau, nghe Thiền sư Đại Tịch ở núi Cung Công, thuộc Nam Khương tùy duyên hóa độ, người có lắm thần cảm, Sư bèn bó chân chống tích, một ngày tìm đến, ngài Đại Tịch mừng vui thấy Sư y cứ nương luật hành trì chẳng tỏ nhọc mệt. Đến lúc ngài Đại Tịch thị, tịch, Sư hết lòng lo việc lễ tang.

Đến cuối niên hiệu Nguyên Hòa (821), Sư đã ngoài bảy mươi tuổi, mà đi đến đất Việt trụ chùa Pháp Lạc ở Tiêu Sơn. Vì chùa nầy xây dựng từ xưa nên tường nhà không hoàn bị, chắp vá tu bổ nơi hư hoại, đâu thể ngồi được. Bấy giờ, tại Hải Xương, có Sa-môn Pháp Hân, là bậc trội vượt trong hàng Thích Tử, bỏ đất bên ao phóng sanh, để triệu tập thiền cư. Pháp Hân nhún nhường mà chẳng tự có. Mời thỉnh Sư làm chủ ở đó. Các vị tham học từ bốn phương xa đến, Sư hóa đạo rất hưng thạnh, tự nhiên mà hàng phục. Sư không hề nói nóng lạnh, chẳng xuống Đường Vũ, không trông nhìn, chẳng lắng nghe. Sở dĩ như thế là vì Sư đã già, thân hình Sư lại cao lớn, tướng tốt trang nghiêm, lông my xanh biếc rũ xuống, cốt đảnh tròn cao. Ai trông thấy Sư như kính ngưỡng Tung Hoa mà vái chào Thương minh. Sư không hề suy lường sự cao sâu ấy.

Đến ngày 22 tháng 12 năm Nhâm Tuất, nhằm niên hiệu Hội Xương thứ 2 (82), Sư thản nhiên an tọa, bỗng chốc thị tịch. Trước lúc đó, tùng bách đều chết hết, tới khi ấy, tinh thần thể sắc Sư càng phấn chấn, nên có âm hưởng trong lành gõ cửa, ánh sáng tốt đẹp khắp phòng, như tiếng va chạm của vòng ngọc bội, như kiếm kích giao bắn. Điềm lành rất nhiều, sự việc ghi riêng.

Thêm nữa, Sư từng dự biết Hoàng Đế Tuyên Tông vi truy hành sắp đến pháp hội. Sư dự răn vị tăng Tri sự rằng: “Sẽ có dị nhân đến đây. Cấm nói tạp, dừng làm mọi việc, sợ hệ lụy đến Phật pháp”. Ngày hôm sau, có vài vị tăng hành cước vào tham lễ. Sư im lặng mà biết đó là nhà vua, bèn bảo vị tăng Duy Na mời vào nơi cao quý, lễ trọng đối với các vị ấy v.v… Sư tiếp mời trò chuyện càng biết rõ là hám của hàng quý phái, bèn bảo: “Bần đạo vì tăng chúng vây quanh đông nhiều, sợ cúng trai chẳng cung kính!” Bèn đến bên cạnh tòa trên xin một sớ cúng.

Vua Tuyên Tông liền vì cầm bút phê vào. Sư xem kinh sợ, biết cúng dường chư tăng mang đi, có được phong nhiêu nồng hậu, cho nên khác với thường độ. Sư bèn tâu với nhà vua rằng: “Thời khắc đã đến, không thể ngưng trệ nằm cuộn với bùn!” Sư bèn phó chúc hậu sự Phật pháp rồi đi.

Vua Tuyên Tông (87-860) vốn là con thứ tư của vua Hiến Tông (806-821), và là em cùng cha khác mẹ với vua Mục Tông (821-82). Vua Võ Tông (81-87) rất lo sợ chống kỵ với Tuyên Tông, nên thầm ở nhà xí trong cung, có quan Cừu Công Võ, ngầm phóng thả cứu giúp Tuyên Tông và khuyên nên cạo tóc làm tăng. Do sự phóng thả đó mà Tuyên Tông ẩn dật, phiêu du khắp thiên hạ, nếm đủ mọi gian nan nguy hiểm. Nhân duyên ra trao Giang Lăng ít người, thật ghét khi ở tại triệu. Đến lúc Võ Tông băng hà (87), Tả Thần Sách Quân, Trung Úy Dương Công nói cùng Tể tướng các quan đón rước Tuyên Tông mà lập ngôi. Vua Tuyên Tông nghe Sư thị tịch, nên buồn thương rất lâu, bèn ban tặng Sư thụy hiệu là “Ngộ Không Đại Sư”, và tự soạn ngự thi mà kính viếng. Sau, Hữu Điêu Lư Giản xin xây tháp thờ Sư.

19. Truyện ngài Hằng Chính chùa Thánh Thọ ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Hằng Chính, họ Chu, người ở xứ Bình Nguyên. Trước khi chưa vào pháp, Sư theo vào trường làng. Nhưng rất khác lạ; chẳng ham thích sách vở, mà hễ thấy được kinh sách Phật thì đam mê pháp vị chẳng bỏ được. Sau đó, Sư bỏ tục theo thầy, đến xin thọ học kinh pháp dưới pháp tòa của Pháp sư Thuyên Trừng ở chùa Diên Hòa. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư đến tham hỏi đạo ở Tung Thiếu, quyết liễu không khuất lấp. Sư ẩn tích với ngài Tam Phong, ung dung tự tại. Sau đó không lâu, Ngài vào núi Thái Nhất, phủ hành phong giáo, người học rất kính mến.

Vào niên hiệu Thái Hòa (827-836), Hoàng Đế Văn Tông rất ưa thích ăn thịt loài nghêu sò, các quan lại ở ven biển thời bấy giờ luôn dâng hiến. Người cũng nhọc công. Một hôm, trong lúc ngự soạn đầy mâm bàn mà dâng, có con chẳng há miệng ra, Vua Văn Tông xem xét lấy làm lạ, bèn đốt hương chúc nguyện. Bỗng chốc biến thành hình tướng Bồ-tát, phạm tướng hoàn toàn, nghi dung đáng kính, vua bèn đặt ở trong hộp đàn hương Kim Túc, che phủ gấm ngọc lên trên. Rồi ban tặng cho chùa Hưng Thiện, bảo tôn thờ mà kính lễ. Ban đầu, Vua hỏi các quan đó là điều gì? Tướng Quốc Lý Công Đức dụ tấu rằng: “Thần chẳng thể biết, chỉ biết Thánh đức chiêu ứng, đó là lý của các Đức Phật.

Nghe nói ở núi Chung Nam có Thiền Sư Hằng Chính thông hiểu Phật pháp, thấy rộng hiểu nhiều…” Nhà vua bèn ban chiếu mời vào cung, Vua hỏi. Sư đáp: “Bần đạo nghe vật không đối ứng, nên đây là khơi mở lòng tin của Bệ hạ vậy. Nên trong khế kinh chép: “Với người đáng dùng thân này để được độ thì liền dùng thân này mà nói pháp cho họ nghe.” Vua Văn Tông nói: “Thân Bồ-tát thì đã thấy nhưng chưa nghe nói pháp”. Sư hỏi: ‘Bệ hạ thấy đó là thường hay phi thường? Tin hay chẳng tin ư? Vua bảo: “Sự việc ít có kỳ lạ, trẫm rất kính tin!” Sư nói: “Bệ hạ đã nghe nói pháp rồi vậy!” Vua Văn Tông tỏ vẻ vui mừng, được điều chưa từng có. Bèn ban sắc các chùa viện trong nước, mỗi nơi đều thiết lập tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm để báo đáp phúc lành đặc biệt. Tôn tượng đó đến pháp nạn Hội Xương, chùa Phật bị phá hủy mới mất. Và cũng nhân đó mà vua Văn Tông lưu giữ Sư ở trong nội đạo tràng. Sư nhiều lần khước từ muốn trở về núi, triều đình bèn tuyên ban Sư trụ tại chùa Thánh Thọ. Đến lúc vua Võ Tông lên ngôi (81), bỗng nhiên Sư bỏ vào Chung Nam. Có người hỏi Sư về nguyên nhân. Sư bảo: “Ta lánh oán cừu quạ đen có thể được ư!” Sau, Sư thị tịch tại núi, thọ tám mươi bảy tuổi. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt được bốn mươi chín viên xá-lợi. Nhập tháp ngày mồng tháng 9 niên hiệu Hội Xương thứ 3 (83). Sau có sắc chiếu phá hủy Phật giáo (dưới thời vua Võ Tông). Sư dự biết trước hợp với lời đoán.

Liên quan thử bàn:

Vì sao trong loài nghêu sò mà có được tôn tượng Bồ-tát? Thông đáp: Hễ lúc nào có sự kính phát thì hiện ra. Gần đây nghe – dòng họ Lý dưới thời Hậu Đường, khắp cả nước đói kém suốt 3 năm, ở ven bờ hồ tự nhiên sanh ra nhiều trai sò, trăm họ đua nhau bắt lấy mà ăn. Năm đó cứ mười người thì có đến bảy, tám người khỏi chết đói. Qua năm sau, lúa thóc được mùa, dân chúng vẫn còn đi lượm bắt loại đó, bỗng nhiên bắt được con trai hơn hai thước, mang về đập ra nhưng không một chút sứt mẻ. Người ấy bèn chú nguyện mà đem thả, chốc lát nó tự hé mở, nhả ra tượng Phật cao chỉ một thước, đầy đủ tướng tốt như mầu ngọc thật, gọi đó là “Châu Phật”. Đem hiến dâng triều đình. Sau đó đưa tặng cho một vị Phạm tăng, Ý này có chỗ không hợp lý. Hiện hình là như trong kinh nói hóa hiện ra núi thịt, cá gạo để cứu giúp đói khát, đến năm trúng mùa, vì sao chẳng nhàm chán, nên hiện tướng dừng đủ.

20. Truyện ngài Linh Hựu ở núi Đại Quy, thời Tiền Đường:

Thích Linh Hựu, họ Triệu, ông nội Sư Ngài đều là người xứ Trường

Khê, thuộc Phước Châu. Ở tuổi tết tóc, Sư đang vui đùa giữa sân, ngước lên nhìn thấy điềm khí mây lành ùn ùn cuộn tụ. Lại như có nhạc trời tấu lên, chân thân ban giáng linh thiêng, quan sát kỹ các vị già lão ở trong hang cùng ngõ hẻm chẳng lường biết được là gì. Bỗng chốc có ông lão ở núi Hoa, dung mạo như người nước Kế-tân, nói với ông lão trong nhà rằng: “Đây là các vị Linh Thánh nêu bày điều lạ, đứa bé (Linh Hậu) là con thật của Phật, hẳn sẽ làm cho Phật pháp ngời sáng, giây lát sau, vị đó búng ngón tay vài lần rồi đi.

Sư lúc còn trẻ để chơn, mặc áo ngắn, tìm đến nương tựa luật sư Pháp Tuyên trong bổn quận, chấp lao phục dịch thường rất nặng nhọc. Đến hai mươi tuổi Sư xuống tóc, ba năm sau đó, Sư thọ giới cụ túc, bấy giờ, thượng sĩ Nghĩa Tân ở Tiền Đường trao truyền cho khoa luật. Đến lúc, Sư vào Thiên Thai, đi giữa đường gặp Hàn Sơn Tử, Hàn Sơn nói với Sư rằng: “Ngàn non muôn nước, gặp sông thì ở, có được vật váu vô giá, cứu giúp mọi người”. Sư khi thuận đường thì nhớ, lúc nguy ách thì nghĩ, vụt chốc đến chùa Quốc Thanh, gặp được dị nhân Thập Đắc và cũng bày tỏ ý trước, như có sự phù hợp. Sư bèn đến Lặc Đàm, tham yết ngài Đại Trí, sớm chứng ngộ ý Tổ.

Vào cuối niên hiện Nguyên Hòa Sư tùy duyên đến Trường Sa. Nhân đi ngang qua núi Đại Quy, bèn muốn dừng ở đó, núi ấy cách quận chừng mười xá, xa tít không có khói nhà người, ví đó như là hang thú, sống xen tạp cùng khỉ vượn, ăn hạt giẻ để sống. Chỉ có mười ngày, có người ở núi trông thấy Sư rồi cùng nhau nhóm họp xây dựng chùa viện. Bấy giờ, Tương Dương Liên suất Lý Cảnh Nhượng thống nhiếp Tương Đàm, nguyện dự Lương duyên, mới tấu xin đặt hiệu sơn môn là chùa Đồng Khánh. Sau, Tướng Quốc Bùi Công tương thân hợp đạo. Sư gặp phải pháp nạn Hội Xương thanh trừng đào thải, thì lại gặp được Tướng Quốc Thôi Công Thuận kính phụng sùng lễ.

Đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Quý Dậu (83), thuộc niên hiệu Đại Trung (87-860), Sư tắm gội xong, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi, năm mươi chín hạ lạp, đón rước nhục thân an táng tại vườn Thạch Chi ở trong núi. Tứ Trấn Bắc Đình hành quân Kinh Nguyên, Tiết Độ Sứ là Kính châu là Hữu Tán Kỵ Thường Thị Lư Giản, xin được làm bia, Lý Thương Ẩn đề chữ trên biển ngạch.

21. Truyện ngài Huyền Sách ở Cửu Tỉnh, thuộc Hoàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Sách, họ Lỗ, người ở xứ Cối Kê. Thuở nhỏ Sư theo cha buôn bán. Đến hội Quang Minh ở núi Thiên Thai là chỗ Thiền sư Trí Khải lập giáo vào đời Tùy. Cách 9 tháng sau, Tăng tục ở các châu ấp xa gần nhóm họp, Sư thấy đặc thù khác lạ, bèn đến cầu xin xuất gia với ngài Quảng Trí tại chùa Thiền Lâm. Đến lúc du phương, được gặp ngài Đại Tịch tại Giang Tây nên Sư sớm bỏ được sự ngăn chướng. Sư Tham vấn khắp nơi, thấy núi Cửu Tỉnh thuộc vùng ven Hoàng Châu đẹp lạ, bèn kết cỏ làm nhà, học chúng đến đông như ve. Có người an ủi hỏi Sư rằng: “Sao Ngài nhẫn nại ở chỗ tối tăm như thế này?” Sư bảo: “Chí đạo là quên tâm. Tôi rất thích như thế”. Đến niên hiệu Đại Trung thứ 8 (8), Sư thị hiện bị bệnh mà thị tịch, tục ban sắc cho Sư thụy hiệu là “Viên tịch Đại Sư”, tháp tên là “Trí Giác”.

TRUYỆN CÁC VỊ CAO TĂNG ĐỜI NHÀ TỐNG

(Quyển 11 hết).