THÀNH THẬT LUẬN
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 10
Phẩm 128: KIÊU MẠN
Hỏi: Đã nói 3 phiền não là cội rễ sinh tử. Lại còn có gì nữa không?
Đáp: Có. Là khinh mạn.
Hỏi: Khinh mạn là thế nào?
Đáp: Do tà tâm tự cao gọi là mạn. Mạn nầy có nhiều thứ: Như mình ở bậc thấp mà tự cao thì gọi là mạn. Ở bậc như nhau mà chấp như nhau cũng gọi là mạn, vì trong ấy chấp tướng tà tâm là ta hơn. Ở bậc ngang hàng mà tự cho cao hơn gọi là đại mạn. Ở bậc hơn mà tự cao gọi là mạn mạn. Trong 5 ấm chấp lấy tướng ngã, gọi là ngã mạng. Ngã mạn có 2 thứ: hiện tướng và không hiện tướng. Hiện tướng là ngã mạn của phàm phu. Nghĩa là chấp sắc là ngã, hay chấp hữu sắc là ngã, chấp sắc trong ngã; chấp ngã trong sắc, cho đến thức cũng như vậy. Vì hiện ra 20 phần nầy nên gọi là hiện tướng. Không hiện tướng là học nhân ngã mạn, như Trưởng lão Sai-ma-già nói: Không nói sắc là ngã, không nói thụ, tưởng, hành, thức là ngã, chỉ trong 5 ấm có ngã mạn, ngã dục, ngã sử. Chưa dứt, chưa hết gọi là ngã mạn. Nếu chưa được các quả công đức Tu-đà-hoàn v.v…, mà tự cho là đã được, gọi là tăng thượng mạn.
Hỏi: Nếu chưa được vì sao sinh tâm đã được?
Đáp: Vì trong khi tập thiền được chút ít khí vị có thể ngăn chận kết sử không cho hiện hành trong tâm nên sinh mạn này. Lại sức văn tuệ, tư tuệ thường gần thầy giỏi, thích hạnh viễn ly, biết chút ít tướng 5 ấm, cho nên sinh tưởng được quả Tu-đà-hoàn v.v… gọi là tăng thựong mạn.
Hỏi: Tăng thượng mạn có những lỗi gì?
Đáp: Về sau sẽ lo buồn. Như trong kinh nói: Nếu Tì-kheo nói ta dứt nghi được đạo, tức phải hiện tiền nói nhân duyên rất sâu pháp xuất thế gian. Nếu Tì-kheo này thật không được đạo, khi nghe pháp ấy thì sinh sầu não hối hận. Cho nên phải siêng dứt tăng thượng mạn.
Lại người tăng thượng mạn, chư Phật Thế Tôn có tâm đại từ bi hãy còn bỏ xa không vì nói pháp. Cho nên phải dứt.
Lại người tăng thượng mạn, vì trụ ở trong pháp tà kiến, nên không có thật công đức, giống như người đi buôn vào sâu trong biển cả, mà tham thứ ngọc giả. Người nầy cũng vậy, vào trong biển cả Phật pháp, được chút niềm vui thiền vị, bảo là chân đạo mà sinh tham đắm.
Lại người tăng thượng mạn, khi tuổi già sắp chết không kham nổi thụ đạo pháp, nên phải siêng cầu chân thật trí tuệ.
Lại người tăng thượng mạn tự mất lợi ích mà tăng thêm ngu si, vì thật chưa được mà tưởng đã được. Vì vậy không nên tự dối mình, phải mau xa lánh lìa bỏ.
Nếu người đại thắng mà cho là không bằng chút nào, gọi là bất như mạn. Người này tự cao và cũng tự hạ mình xuống.
Nếu người không có đức mà tự cao gọi là tà mạn. Lại lấy ác pháp tự cao cũng gọi tà mạn.
Nếu đối với người thiện và bậc đáng trọng, mà không chịu lễ kính gọi là ngạo mạn.
Tất cả những tên gọi như vậy là tướng kiêu mạn.
Hỏi: Mạn phát sinh như thế nào?
Đáp: Không biết thật tướng các ấm thì sinh kiêu mạn. Như trong kinh nói: Nếu người lấy sắc vô thường, tự nghĩ là thượng, là trung, là hạ, người này chính là vì không biết tướng như thật. Cho đến thức cũng như vậy. Nếu biết tướng của ấm thì không kiêu mạn.
Lại khéo suy nghĩ tu thân thì không kiêu mạn. Như con bò cậy cặp sừng nên sinh bạo mạn. Nếu bỏ cặp sừng thì không còn năng lực nữa. Thân là bất tịnh, 9 lỗ chảy ra đồ bất tịnh, làm gì có người trí ỷ vào đó mà tự cao. Nhờ những nhân duyên nghĩ về thân như vậy, tức không kiêu mạn.
Lại người trí biết tất cả chúng sinh hoặc nghèo hoặc giàu, hoặc sang hoặc hèn, cũng đều lấy xương thịt gân mạch, 5 tạng, phân nhơ họp lại mà thành thân, đều có sinh lão bệnh tử buồn rầu khổ não, cũng có tham sân v.v… các phiền não, các nghiệp tội phúc, và địa ngục v.v… các phần ác đạo, làm sao mà khởi kiêu mạn?
Lại thấy nội ngoại tâm do nhân nguyên sinh, đều biết niệm niệm diệt, thì không kiêu mạn.
Lại khéo tu tập không tâm thì không kiêu mạn. Bởi vì sao? Vì chạy theo tướng nên sinh kiêu mạn, nếu không có tướng khởi mạn chỗ nào?
Lại người trí tuệ, như thật có giới v.v… các công đức, thì không sinh mạn. Bởi vì sao? Vì giới v.v… các công đức đều vì để làm hết các phiền não nầy. Nếu không công đức, làm gì có người trí, đối với việc không có, mà khởi kiêu mạn?
Lại quán tướng vô thường v.v… thì diệt kiêu mạn. Làm gì có người trí, đem vật vô thường khổ, bất tịnh ra mà sinh kiêu mạn?
Hỏi: Kiêu mạn có các lỗi gì?
Đáp: Từ kiêu mạn có thân, từ thân sinh tất cả khổ. Như trong kinh Phật nói: Nếu đệ tử ta ai không thể như thật biết tướng kiêu mạn, thì ta thụ ký cho sẽ sinh về nơi nào đó, vì còn thừa kiêu mạn chưa dứt.
Lại tất cả phiền não đều tùy theo chấp lấy tướng, mà ngã là tướng lớn nhất trong các tướng. Cho nên biết là từ mạn có thân.
Lại kiêu mạn tức là phần của si. Bởi vì sao? Vì mắt thấy sắc bảo là ta có thể thấy.
Lại kiêu mạn nầy sinh không cần đạo lý. Bởi vì sao? Vì tất cả thế gian đều vô thường, khổ, vô ngã làm sao bởi đó mà sinh kiêu mạn. Cho nên đối với tham sân si rất không có đạo lý.
Lại từ mạn khởi nghiệp vừa nhạy bén vừa nặng nề, vì tham đắm sâu sắc, cho nên từ tham khởi nghiệp không được như vậy.
Lại vì sức mạnh kiêu mạn nên tham v.v… bùng phát, tức tham nầy được chủng tính v.v… thì kiêu mạn thêm lớn bùng phát.
Lại nhân duyên ngã mạn bị sinh vào nhà thấp hèn, cũng sinh trong loài sư tử cọp sói. Do nhân duyên nầy mà đọa địa ngục. Kiêu mạn có những tội lỗi như vậy nhiều vô lượng..
Hỏi: Thế nào là nhiều kiêu mạn?
Đáp: Người này cố chấp khó cùng nói chuyện. Người này không có lòng cung kính, ít biết sợ, thích tự do tự tại, tự đại khó dạy, có được chút ít tự cho là nhiều, hay khinh người. Những lỗi nầy rất khó trừ. Cho nên người có trí rất không nên phạm kiêu mạn, vì nó phá tất cả công đức nên sinh.
Phẩm 129: NGHI
Luận giả nói nghi là đối với trong thật pháp tâm không quyết định. Như có giải thoát hay không giải thoát ư? Có thiện bất thiện hay không ư? Có Tam Bảo hay không ư? Đó gọi là nghi.
Hỏi: Như thấy cây trơ trụi sinh nghi là cây hay người? Thấy cục đất sinh nghi là cục đất hay con bồ câu? Thấy con ong sinh nghi là con ong hay quả Diêm-phù? Thấy con rắn sinh nghi là con rắn hay sợi dây? Thấy sóng nắng sinh nghi là ánh sáng hay nước? Những nghi như vậy do nhãn thức sinh. Nghe tiếng sinh nghi là tiếng chim công hay người giả tiếng? Ngửi nghe mùi sinh nghi là mùi thơm hoa Ưu-bát hay mùi thơm hòa hợp? Nếm vị sinh nghi là vị của thịt hay vị giống như thịt? Chạm xúc sinh nghi là tơ lụa sống hay tơ lụa ươm? Ý thức thì nhiều thứ sinh nghi: Như nghi pháp này có đà-la-phiêu hay chỉ cầu-na? Có thần hay không có thần. Những điều như vậy có phải là nghi chăng?
Đáp: Nếu cây trơ trụi, người v.v… mà sinh nghi thì không phải phiền não, vi đó không thể làm nhân duyên cho thân sau, lại vì người lậu tận cũng khởi như vậy.
Hỏi: Nghi ấy sinh như thế nào?
Đáp: Như thấy nghe biết 2 thứ pháp, nên sinh nghi. Bởi vì sao? Vì trước thấy 2 vật đứng một là cây hai là người, sau mới xa thấy người với vật như nhau thì sinh nghi là cây hay là người? Đất v.v… cũng như vậy. Hai thứ nghe là như nghe nói có tội phúc đời sau, cũng nghe nói không có, cho nên sinh nghi. Hai thứ biết là như trời mưa lớn nên kênh mương tràn nước hoặc khi đắp đập, nước kênh mương cũng tràn. Như trời sắp mưa thấy kiến tha trứng di cư, hoặc người đào đất cũng thấy mang trứng tránh đi. Như chim công kêu, người có thể bắt chước tiếng kêu được. Thật sự có thể thấy như cái bình. Không phải thật sự nhưng cũng có thể thấy như vòng lửa quay tròn. Thật sự không thể thấy như rễ cây dưới đất, trong nước. Không phải thật sự cũng không thể thấy như cái đầu thứ 2, cái tay thứ 3. Như vậy v.v… 2 thứ pháp thấy, nghe, biết nên mới sinh nghi.
Lại không xét kỹ khi thấy nên sinh nghi, như thấy ở xa v.v… hay 8 nhân duyên.
Lại vì 2 tin nên sinh nghi. Như có người nói có đời sau, lại có người nói không có. Tin cả 2 người nên mới sinh nghi.
Lại trong việc khả nghi đó, cho đến không thấy tướng gì khác, cho nên sinh nghi. Nếu thấy tướng khác thì không nghi này.
Hỏi: Thấy tướng khác là thế nào?
Đáp: Thấy nghe biết quyết định thì không có nghi. Trong Phật pháp, tùy khi đích thân chứng pháp thật tướng mới rốt ráo không nghi. Như Bồ-tát khi ngồi ở đạo tràng nói pháp tinh tiến, Bà-la-môn chứng được pháp sâu xa hiện tiền các duyên thấy biết tiêu tan hết, tức thì xé rách lưới nghi.
Lại nếu được trí tuệ có đạo lý thì nghi nầy dứt, như người trí nghe nói hành làm nhân duyên cho thức, liền quyết định biết rõ vô thủy sinh tử là như vậy v.v…
Hỏi: Nghi có lỗi gì?
Đáp: Nếu người đa nghi, thì tất cả sự nghiệp thế gian xuất thế gian đều không thành tựu. Bởi vì sao? Vì người nghi không thể khởi phát sự nghiệp gì cả, nếu phát khởi cũng yếu ớt, nên không thể thành tựu.
Lại trong kinh nói: Nghi là những nảy mầm nơi tâm, giống như ruộng hoang nảy sinh mầm cây dại cho nên cỏ lạ còn không mọc được, huống là lúa má. Tâm cũng như vậy, vì gốc nghi phá hoại, nên đối với việc tà còn không quyết định được, huống chi có thể quyết định việc chính.
Lại Phật gọi nghi là nhóm tối. Nhóm tối có 3 thứ là nhóm tối quá khứ, nhóm tối vị lai, nhóm tối hiện tại. Nhóm tối nầy là nơi sinh các ngã kiến.
Lại người nầy dù được định tâm cũng là tà định. Nếu lìa Phật pháp thì không thể nói là người chính định được.
Lại nhiều chúng sinh hoài nghi cho đến chết, như nói A-tra-già
v.v… người tiên được 5 thần thông mà cũng ôm nghi ngờ đến chết.
Lại người nghi nầy, nếu tu phúc đức bố thí v.v…, thì hoặc không quả báo, hoặc ít được báo. Bởi vì sao? Vì các phúc nghiệp nầy đều từ tâm khởi. Mà tâm người nầy thường bị nghi làm đục vẩn, nên không có phúc thiện.
Lại trong kinh nói: Tâm nghi mà bố thí thì chịu quả báo sinh ở chốn biên địa. Bởi vì sao? Vì người đa nghi nầy không thể nhất tâm, theo thời mà tay đưa cho, nhưng không thể sinh tâm cung kính, nên được thụ chút quả báo sinh ở chốn biên địa, như tiểu vương Ba-datuy chẳng hạn.
Hỏi: Không có nghi nầy đâu. Bởi vì sao? Vì nghi là tâm số pháp, mà các tâm số pháp thì niệm niệm sinh diệt. Nếu đúng thì chẳng phải là nghi. Nếu sai cũng chẳng phải là nghi. Vì trong một tâm không được vừa có đúng vừa có sai. Cho nên biết là không có?
Đáp: Tôi không nói trong niệm niệm có nghi. Tâm không quyết định luôn nối nhau gọi là nghi. Bấy giờ tâm không quyết định rõ ràng là cái cây trơ trụi hay là con người. Cái tâm này nối nhau luôn này vì không tin nên vẩn đục. Cũng bởi tà kiến nên không tin, khi nghi hoặc có hoặc không. Không tin này có 2 thứ: Một từ nghi sinh, hai từ tà kiến sinh. Từ nghi sinh thì nhẹ. Từ tà kiến sinh thì nặng. Tin cũng có 2 thứ: Một từ chính kiến sinh, hai từ nghe sinh. Từ chính kiến sinh thì tin bền chắc. Từ nghe mà sinh thì sinh không được như vậy.
Phẩm 130: THÂN KIẾN
Trong 5 ấm, ngã tâm gọi là thân kiến. Vì thật không có ngã nên nói duyên lấy 5 ấm. Năm ấm gọi là thân, trong đó sinh kiến chấp gọi là thân kiến. Trong không có ngã mà chấp lấy tướng ngã, nên gọi là kiến.
Hỏi: Trong 5 ấm tạo tên gọi là ngã thì có lỗi gì? Như cái bình chẳng hạn, các vật đều có tự tướng, trong đó không lỗi, thì ngã cũng vậy. Lại nếu nói lìa ấm riêng có ngã, đó mới là có lỗi?
Đáp: Tuy không lìa ấm nói ngã, đó cũng có lỗi. Bởi vì sao? Vì ngoại đạo nói ngã là thường, vì đời nay khởi nghiệp, đời sau chịu quả báo. Nếu nói như vậy 5 ấm phải là thường.
Lại nói là ngã vì ngã là một. Vậy thì 5 ấm tức phải là một? Đó là có lỗi.
Lại ngã tức là lỗi. Bởi vì sao? Vì ngã tâm nên mới có ngã sở. Bởi có ngã sở nên khởi ra tham giận v.v… tất cả phiền não. Cho nên biết ngã tâm là nơi sinh phiền não.
Lại người nầy tuy không lìa ấm nói ngã, vì chấp lấy tướng ấm nên không tu lý không. Vì không tu lý không nên sinh phiền não. Từ phiền não sinh nghiệp, từ nghiệp sinh khổ. Như vậy sinh tử nối nhau luôn không dứt.
Lại người nầy vì chấp ngã nên không thể phân biệt được tướng thô như thân đầu mắt tay chân, huống chi có thể phân biệt được các ấm, vì đã thụ ngã làm một, ngã là thường cho nên nếu không phân biệt được thì làm sao có ngộ nhập lý không?
Lại nếu chấp ngã thì sợ Nê-hoàn, vì cho ngã là không có. Như trong kinh nói: Phàm phu nghe đạo lý không vô ngã sinh khiếp sợ rất lớn, vì ngã là không có nên đều không được gì hết. Phàm phu mà như vậy thì cho đến tham cầu thân con dã can bị bệnh hủi, cũng không dùng Nê-hoàn. Nếu được không trí thì không còn sợ nữa. Như Kinh Ưu-ba-tư-na nói: Người thanh tịnh trì giới, khéo tu 8 Thánh đạo, đến khi mạng chung tâm vui mừng như đập vỡ đồ đựng chất độc.
Lại nếu nói có ngã tức sa vào tà kiến. Nếu ngã là thường thì khổ vui không biến đổi. Nếu không biến đổi thì không tội phúc. Nếu ngã là vô thường, thì không có đời sau, tự nhiên giải thoát cũng không tội phúc. Cho nên biết thân kiến là tội nặng.
Lại người thân kiến gọi là rất si. Tất cả phàm phu đều bởi thân kiến loạn tâm chấp sâu hữu ngã, nên bị qua lại sinh tử. Nếu thấy vô ngã thì dứt qua lại.
Hỏi: Nếu 5 ấm là vô ngã, Vì sao chúng sinh trong đó sinh ngã tâm?
Đáp: Hoặc nghe các danh tướng như người trời trai gái, vì tưởng phân biệt nên sinh ngã tâm. Và cũng bởi chẳng phải nhân, tương tự nhân nên sinh ngã tâm. Nghĩa là nếu không có ngã thì ai chịu khổ vui, cử chỉ ngôn ngữ, khởi nghiệp tội phúc và chịu quả báo v.v… ư?
Lại từ vô thủy sinh tử tụ tập tướng ngã đã lâu thành thói quen rồi bị nó sai khiến, như tướng cái bình v.v… nên sinh ngã tâm.
Lại trong các thụ ấm sinh ngã tâm, chứ không phải trong không thụ. Cho nên nói là chỗ sinh ngã tâm, vì trong đó có ngã. Bởi vì sao? Vì không phải tất cả chỗ đều sinh được ngã tâm.
Lại vì ngu si nên sinh ngã tâm, giống như người mù nhặt được gạch đá v.v… sinh tưởng là vàng ngọc.
Lại người nầy chưa được không trí phân biệt, vì si nên thấy có ngã, như trong ảo hóa, chiêm bao, thành Càn-thát-bà, vòng lửa quay tròn v.v…thấy mà sinh tưởng có thật.
Hỏi: Hiện thấy sắc thân tóc lông móng v.v… các phần đều khác. Làm sao người trí cho đó là ngã?
Đáp: Có người thấy thần như hạt bắp, hạt cải v.v… trụ ở trong tâm. Thần Bà-la-môn trắng. Thần Sát-lợi vàng. Thần Tì-xá đỏ. Thần của Thủ-đà-la đen.
Lại trong sách Vĩ-đà nói: Thuở minh sơ, thần của các Đại trượng phu sắc như ánh sáng mặt trời. Nếu ai biết thần nầy thì có thể vượt qua sinh tử, mà không đường nào khác. Tiểu nhân thì thần nhỏ, đại nhân thì thần lớn, trụ ở trong hang thân.
Lại người ngồi thiền được tướng quang minh, thấy thần ở trong thân như sợi chỉ trong lòng hạt tịnh châu. Những người như vậy chấp sắc v.v… làm ngã. Người suy nghĩ nông cạn nói thụ là ngã, vì trong cây đá v.v… không có thụ, cho nên biết thụ tức là ngã. Người suy nghĩ bậc trung nói tưởng là ngã, vì khổ vui tuy có lỗi, nhưng còn có tưởng ngã tâm. Người suy nghĩ kỹ nói hành là ngã, vì tưởng cái bình v.v… tuy có lỗi, nhưng còn có nghĩ ngã tâm.
Người suy nghĩ sâu sắc nói thức là ngã, vì cái biết và suy nghĩ còn thô, suy nghĩ nầy tuy có lỗi, nhưng còn có liễu biệt được ngã tâm.
Lại với trong 5 ấm sinh ngã tâm, người nầy không thể phân biệt được thụ v.v… các ấm. Trong sắc, tâm hòa hợp sinh ngã tưởng, như trong sắc v.v… 4 pháp tổng hợp sinh tưởng cái bình, vì sắc v.v… sai biệt nên có 20 phần thấy sắc là ngã. Bởi vì sao? Vì sắc là pháp bị ngã rõ biết và là chỗ nưong của thụ v.v…. Các thụ v.v… nầy buộc ở nơi sắc, cho nên gọi là sắc là ngã.
Có người thấy sắc trụ ở trong thụ v.v…, vì thụ v.v… là pháp không liễu biệt, cho nên bị sắc nương dựa, như hư không không liễu biệt nên bị đất v.v… nương dựa. Như vậy 20 phần đều do si sinh.
Hỏi: Vì sao trong mắt v.v… không nói ngã phần?
Đáp: Cũng có. Như trong kinh nói: Nếu ai nói mắt là ngã, thì không đúng. Bởi vì sao? Vì mắt là sinh diệt mắt là ngã, thì ngã cũng sinh diệt.
Lại mắt v.v… đều có tướng riêng; nếu nói mắt là ngã, tai v.v… không phải ngã, thế là không được. Nếu tai v.v… là ngã thì một người có nhiều ngã. Vì trong sắc v.v… có sai biệt nên có thể nói sắc là ngã mà không phải thụ v.v….
Hỏi: Nếu nói vô ngã cũng là tà kiến. Việc ấy thế nào?
Đáp: Có 2 đế lý. Nếu nói đệ nhất nghĩa đế mà có ngã, đó là thân kiến. Nếu nói thế đế vô ngã, đó là tà kiến. Nếu nói thế đế nên có ngã, đệ nhất nghĩa đế nên vô ngã, đó là chính kiến.
Lại đệ nhất nghĩa đế nên nói không; thế đế nên nói có, thì không sa vào kiến trung. Như vậy có, không 2 cách nói đều thông. Như cọp tha con, nếu ngoạm chặt con bị thương, ngoạm lỏng con rơi mất. Như vậy nếu nói cả quyết là có ngã, thì sa vào thân kiến, cả quyết nói không có ngã, thì sa vào tà kiến.
Lại thái quá và bất cập cả 2 đều có lỗi. Nếu cả quyết nói không có ngã là thái quá. Nếu cả quyết nói có ngã là bất cập. Cho nên trong kinh nói: Phải bỏ 2 bên. Nếu đệ nhất nghĩa đế nên nói không, thế đế nên nói có, đó là bỏ 2 bên đi con đường chính giữa.
Lại Phật pháp là không thể tranh hơn. Nếu nói đệ nhất nghĩa đế nên không, thì người trí không hơn; nếu nói thế đế nên có, thì phàm phu không tranh.
Lại Phật pháp là thanh tịnh trung đạo phi thường phi đoạn. Đệ nhất nghĩa đế là không, nên phi thường, Thế đế là có nên phi đoạn.
Hỏi: Nếu pháp đệ nhất nghĩa đế cho nên không, thi lẽ ra phải là không hẳn, sao lại nói thế đế cho nên có?
Đáp: Tất cả thế gian có bao nhiêu ngôn thuyết nói nghiệp và nghiệp báo, hoặc trói buộc hoặc cởi mở v.v… đều do si sinh ra. Bởi vì sao? Vì 5 ấm là trống không, như trò ảo hóa, như ánh lửa nối nhau sinh. Vì muốn độ người phàm phu, nên mới tùy thuận nói có, nếu không nói thì phàm phu mê muội hoặc sa vào đoạn diệt. Nếu không nói các ấm thì không giáo hóa được, vì tội phúc v.v… các nghiệp hoặc trói hoặc mở, đều không thành lập được. Nếu phá được những lời si nầy thì tự có thể vào được lý không. Bấy giờ không còn các tà kiến.
Cho nên sau nói đến đệ nhất nghĩa đế. Như ban đầu dạy quán thân để phá tướng nam nữ, kế đó lấy tóc lông móng v.v… phân chia thân tướng chỉ có 5 ấm. Sau mới lấy tướng không để diệt tướng 5 ấm. Diệt tướng 5 ấm gọi là đệ nhất nghĩa đế.
Lại nếu nói thế đế cho nên có, thì không cần phải nói đệ nhất nghĩa là không.
Lại trong kinh nói nếu biết các pháp không có tự thể tính, thì có thể vào lý không, cho nên biết 5 ấm cũng không có.
Lại đệ nhất nghĩa không, trong kinh nói mắt v.v…, bởi đệ nhất nghĩa đế nên không, thế đế nên có. Trong Kinh Đại Không nói: Nếu nói đây là già chết, hoặc nói người nầy già chết, hoặc ngoại đạo nói thân tức là thần, hoặc nói thân khác thần khác. Việc này nghĩa là một, mà tên gọi khác. Nếu nói thân tức là thần, thân khác thần khác, là không phải người Phạm hạnh. Nếu ngăn người nầy già chết tức nói vô ngã. Nếu ngăn đây là già chết tức phá lão tử, cho đến vô minh. Cho nên biết trong đệ nhất nghĩa không có lão tử v.v…. Nói sinh làm duyên cho lão tử, đều vì thế đế mà nói, đó là trung đạo.
Lại trong Kinh La-đà nói: Phật bảo La-đà rằng: Sắc tán hoại phá vỡ khiến diệt không còn hiện, cho đến thức cũng như vậy. Như vách đá v.v…, vì không thật nên có thể phá hủy khiến không còn hiện. Các ấm không hiện cũng vì đệ nhất nghĩa nên không có. Tùy các ấm tướng tồn tại thì ngã tâm rốt ráo không đoạn, vì nhân duyên không diệt. Như cây tuy đã bị đốn chặt, đốt cháy, cho đến thành tro than, nhưng cái tưởng về cây hãy còn theo ám ảnh. Nếu tro than nầy bị gió thổi, nước trôi, cái tưởng về cây mới diệt. Như vậy, nếu phá vỡ tán hoại, diệt tướng 5 ấm, bấy giờ mới gọi là đầy đủ tướng không.
Lại trong kinh nói: La-đà ông phá vỡ tán hoại, chia tách chúng sinh, khiến không hiện tại. Đó là trong kinh nầy nói 5 ấm vô thường, là chúng sinh không. Trong kinh trước nói 5 ấm tán diệt, đó là pháp không.
Phẩm 131: KIẾN CHẤP MỘT BÊN
Nếu các pháp hoặc đoạn hoặc thường, gọi là biên kiến, nghĩa là chấp thiên lệch một bên.
Có luận sư nói: Nếu ai nói ngã hoặc đoạn hoặc thường, gọi là biên kiến chứ không phải tất cả pháp. Bởi vì sao? Vì hiện thấy các vật bên ngoài có đoạn diệt. Nên trong kinh nói: Thấy có, là thường, thấy không, là đoạn.
Lại thân tức là thần gọi là đoạn kiến, thân khác thần khác gọi là thường kiến.
Lại sau khi chết rồi không làm gọi là đoạn kiến, chết rồi lại làm gọi là thường kiến, chết rồi cũng làm cũng không làm, trong đó chỗ có tác giả gọi là thường, chỗ không có tác giả gọi là đoạn, chẳng phải làm chẳng phải không làm cũng như vậy.
Hỏi: Điều thứ tư nầy không nên gọi là kiến chấp?
Đáp: Vì người nầy trong thế đế cũng không có người không có pháp nên gọi là kiến chấp. Thường, vô thường, hữu biên, vô biên, 4 câu cũng như vậy.
Lại trong kinh nói: Sáu xúc nhập diệt hết, mà còn có cái khác tức là thường, không còn cái khác tức là đoạn.
Lại nếu chấp ngã trước làm, sau sẽ làm nữa gọi là thường kiến. Chấp ngã trước không làm, sau cũng không làm, gọi là đoạn kiến.
Lại Kinh Tà Kiến nói: Thân người có bảy phần là đất, nước, lửa, gió, khổ, vui, và thọ mạng. Nếu khi thân chết, 4 đại quy về gốc, căn quy về hư không.
Lại nói: Lấy dao búa giết chúng sinh chứa thịt thành đống, không tội sát sinh, đó gọi là đoạn kiến. Và Kinh Phạm Võng nói đó là tướng đoạn kiến. Nếu nói có người là tác giả đời sau, tức người ấy là thụ giả, gọi là thường kiến.
Hỏi: Đoạn kiến và thường kiến sinh như thế nào?
Đáp: Tùy theo bởi nhân duyên nào đó mà nói chết rồi trở lại làm nhân duyên đó nữa, nên sinh bên thường kiến. Tùy bởi nhân duyên nào đó mà nói chết rồi không làm nhân duyên ấy nữa, nên sinh đoạn diệt kiến.
Hỏi: Làm sao dứt được kiến chấp nầy?
Đáp: Chính nhờ tu tập không quán thì không có ngã kiến. Vì không ngã kiến nên không có chấp 2 bên. Như trong Kinh Diệm-magià nói: Nếu mỗi mỗi ấm không phải là người, thì hòa hợp lại cũng không phải người, mà lìa ấm ra cũng không phải người. Hiện tại như vậy không thể được, làm sao nói A-la-hán chết rồi không làm? Cho nên biết người là không thể được. Vì người không thể được nên ngã kiến và đoạn thường kiến cũng không.
Lại thấy các pháp do từ nhiều duyên sinh, thì không chấp 2 bên.
Lại như nói thấy thế gian có tụ tập, thì dứt chấp không, thấy thế gian diệt, thì dứt chấp có.
Lại vì thực hành trung đạo, nên diệt cả 2 bên. Bởi vì sao? Vì thấy các pháp liên tục sinh thì dứt đoạn kiến, thấy niệm niệm diệt thì dứt thường kiến.
Lại nói 5 ấm, không phải ngay ấm đó là người, cũng không phải lìa ấm là người. Cho nên biết không phải thường không phải đoạn. Vì có thể được thân khác nên không được nói là một. Vì đều là chúng sinh nên không được nói là khác.
Lại 5 ấm nối nhau mới có chúng sinh chết sống. Trong đó không được nói ngay ở đó, vì nối nhau luôn đổi khác. Cũng không được nói khác, vì trong nối nhau kia có thể nói là một.
Lại từ ấm nầy đến ấm kia khác nhau, nên không được nói thường; do sức nhân duyên nối nhau sinh nên không được nói đoạn.
Phẩm 132: TÀ KIẾN
Nếu thật có pháp mà sinh tâm cho là không, đó là tà kiến. Như nói không có Tứ đế, Tam Bảo v.v…. Trong kinh nói: Tà kiến là: không bố thí, không thờ kính, không thiêu đốt, không thiện, không ác, không có nghiệp báo thiện ác, không đời nay, không đời sau, không cha mẹ, không chúng sinh thụ sinh thế gian, không A-la-hán chính hành chính chí, và tự cho rằng mình rõ thấu chứng đời nầy đời sau, biết ta sinh tử đã hết, Phạm hạnh đã thành, chỗ làm đã xong. Từ thân nầy trở đi không còn thân khác.
Bố thí là vì lợi tha nên thí cho. Thờ kính là những lời lẽ trong sách Vĩ-đà do trời mà có nên phải thờ kính. Thiêu đốt là ở trong miếu thờ trời đốt các hương tô hợp v.v… Thiện là có thể được 3 thứ quả được ưa thích của nghiệp thiện. Ác là bị 3 thứ quả không được ưa thích của nghiệp ác. Nghiệp báo thiện ác là tên thiện ác đời nay, quả báo thân trời đời sau v.v…. Đời nay là hiện tại. Đời sau là vị lai. Cha mẹ là người sinh ra. Chúng sinh thụ sinh là từ đời nay đến đời sau. A-la-hán là người hết phiền não. Nghĩa là không có những việc trên gọi là tà kiến.
Lại chúng sinh bẩn sạch, có thấy biết, không thấy biết đều không nhân duyên. Lại không sức, không mạnh và quả báo nầy v.v…, gọi là tà kiến.
Nói tóm lại có tâm điên đảo đều là tà kiến. Như vô thường tưởng thường; khổ tưởng vui, bất tịnh tưởng tịnh, vô ngã tưởng ngã, không hơn tưởng hơn, đạo thanh tịnh tưởng chẳng phải đạo thanh tịnh, đạo chẳng phải thanh tịnh tưởng đạo thanh tịnh, trong không tưởng có, trong có tưởng không. Những tâm điên đảo như vậy v.v…, như 5 kiến chấp trong Luận A-tì-đàm, 62 kiến chấp trong Kinh Phạm Võng đều gọi tà kiến.
Hỏi: Tà kiến nầy sinh như thế nào?
Đáp: Bởi si nên sinh. Nhiễm đắm cái chẳng phải nhân và cái tương tự nhân, nên sinh tà kiến.
Lại vì nhiễm đắm nhân vui nên nói không Khổ.
Lại mất đạo lý không, nên nói không khổ, vì cho rằng không có người chịu khổ.
Như nói muôn vật trong thế gian không nhân không duyên. Hoặc nói nhân nơi trời Tự Tại v.v… chứ không phải nhân nơi ái. Đó gọi là không Tập.
Tùy theo nhân duyên nào đó nói không có Nê-hoàn; hoặc nói Nê-hoàn bằng một cách khác. Đó gọi là không Diệt.
Nếu không đạo Nê-hoàn thì đến chỗ nào? Hoặc nói lại có đạo giải thoát khác là nhịn ăn v.v…. Đó gọi là không Đạo.
Không Phật, là người nầy nói: Các pháp nhiều vô lượng làm sao một người có thể biết hết được? Hoặc sinh ý nghĩ như vầy: Phật là bậc cao quý trong loài người, vì không người nào bằng, nên biết không có Phật.
Không có phiền não hết, nên gọi là không có Pháp.
Không có người chính hành được Pháp nầy, nên gọi không có Tăng.
Bởi bố thí không được hiện quả nên gọi không bố thí.
Lại có kinh sách nói không bố thí. So sánh mà biết cũng không nhất định. Như thế gian có người ưa bố thí mà lại nghèo cùng; người tham lam lại được giàu sang. Do các nguyên nhân nầy nên nói không bố thí.
Không thờ cúng, không đốt hương cũng như vậy.
Nếu lửa đốt vật thành tro, thì trong đó có quả gì?
Không có thiện ác, không có nghiệp báo thiện ác, là nếu thần là thường thì không thiện ác, nếu thần vô thường thì không có đời sau. Vì không đời sau nên không thiện ác, không nghiệp báo thiện ác.
Không đời nay là phân tích các pháp, chung qui đều không có gì cả.
Không đời sau là bởi sau khi chết rồi không làm nhân duyên nên nói là không có đời sau.
Không cha mẹ nghĩa là cũng đem từng phần phân tích cho đến hết.
Lại nói như do phân sinh trùng, phân không phải cha mẹ của trùng.
Lại thân phần đầu v.v…, không phải tức thân phần của cha mẹ. Lại các pháp diệt trong tích tắc, thì lấy gì làm cha mẹ?
Không chúng sinh thụ sinh là vì pháp chúng sinh không có, nên đời nay còn không, huống là có thể thụ thân đời sau.
Lại suy nghĩ mà nói thì chúng sinh này là thân này hay không phải thân này? Nếu là thân nầy, thì mắt thấy thân nầy chôn thì thành đất; đốt thành tro; trùng ăn thành phân nên không thụ sinh. Nếu là không phải thân nầy thì có 2 thứ: hoặc tâm, hoặc lìa tâm. Nếu là tâm, thì tâm pháp sinh diệt trong tích tắc không dừng trụ, huống chi đến thân đời sau. Nếu lìa tâm, thì không chấp ngã. Với tâm người khác còn không chấp ngã, huống là chỗ vô tâm. Cho nên không có người thụ sinh.
Không A-la-hán nghĩa là người nầy thấy mọi người đói cầu ăn, lạnh cầu ấm, nóng cầu mát, phá hại thì giận, cung kính nuôi dưỡng thì mừng, cho nên không ai hết phiền não được.
Lại kinh sách hoặc nói không A-la-hán, do đó vin lấy kinh nầy nên sinh tà kiến.
Bẩn sạch v.v… không nhân duyên là người nầy thấy pháp bẩn tự nhiên mà sinh. Và có thứ bẩn tự thể nó bẩn, nên mới nói không có nhân. Thấy biết, không thấy biết cũng như vậy.
Không sức không mạnh là thấy tất cả chúng sinh đều nhờ nhân duyên hoặc có người nói do trời Tự Tại tạo ra mới có.
Lại thấy chúng sinh thuộc nghiệp nhân duyên không phải do trời Tự Tại, nên nói không sức mạnh và quả báo này.
Vô thường tưởng thường, là tùy đem nhân duyên nào đó để phá niệm niệm diệt, nhờ nhân duyên đó nên sinh thường kiến.
Lại nói các pháp khi diệt lại thành vi trần, hoặc nói trở về bản tính.
Lại các pháp tuy diệt, vì nhớ tưởng, nên có thể chịu khổ vui, rồi sinh tưởng là thường.
Lại nói thần là thường, âm thanh cũng thường. Vì các duyên cớ này nên sinh tưởng thường.
Khổ nghĩa là người ưa vui tùy đem nhân duyên nào đó, bảo là có vui như trong Phẩm 3 thụ ở trước đã nói. Do nhân duyên nầy, nên sinh tưởng vui.
Bất tịnh tưởng tịnh, là vì nhiễm đắm thân, nên mắt thấy bất tịnh mà sinh tưởng tịnh. Hoặc nghĩ như vầy: Ta được tướng người, thấy thân người này bất tịnh, mà có chúng sinh cho đó là tịnh. Do các nhân duyên như vậy nên sinh tưởng tịnh.
Vô ngã tưởng ngã, là thấy ấm nối nhau sinh, mà nhận lấy một tướng cho đó là ngã.
Lại như trước đã nói nhân duyên sinh thân kiến. Vì những nhân duyên nầy, nên sinh tưởng ngã.
Không hơn tưởng hơn, là người nầy đối với các sư ngoại đạo Phú-lan-na v.v… sinh tưởng thắng hơn.
Lại Phạm Vương tự nói: Ta là Đại Phạm Thiên Vương người tạo ra muôn vật. Như vậy v.v….
Có người nói: Nếu người hưởng vui 5 thứ dục đầy đủ, đó là pháp hơn hết.
Lại nói, nếu người lìa dục vào Sơ thiền cho đến Tứ thiền, đó là pháp vượt trội hơn hết.
Lại nói hiện thấy chúng sinh trong thế gian Bà-la-môn là cao cả, chứ không phải hiện thấy trời trong chúng sinh là cao tột. Đó là không hơn tưởng hơn.
Hơn tưởng không hơn, là trong tất cả chúng sinh Phật là vượt trội hơn cả, mà có người đối với Phật không sinh tưởng hơn lại nói như vầy: Phật là dòng Sát-đế-lợi, lại mới học đạo không mấy ngày. Lại còn bảo những lời trong Phật pháp không xảo diệu, văn từ phiền phức trùng điệp không bằng sách Vi-đà, đó không gọi là hơn. Trong chúng Tăng có 4 hạng người, cho nên không hơn. Như vậy v.v… là trong hơn sinh tưởng không hơn.
Trong chẳng phải đạo thanh tịnh tưởng là đạo thanh tịnh, nghĩa là như người nói lấy nước tro v.v… rửa người làm cho thanh tịnh.
Lại nói xong hết sinh tử gọi là đạo thanh tịnh.
Lại chỉ tham đắm trì giới, Phạm hạnh, cúng dường trời v.v…. Cũng nói do trời Tự Tại nên được thanh tịnh.
Hoặc nói tiêu hết bản nghiệp khổ hạnh, gọi là đạo thanh tịnh.
Lại nói dứt bỏ không dùng các thứ gia vị cay nồng và bơ sữa v.v… nên được thanh tịnh.
Lại mỗi khi tắm rửa sạch sẽ phải đọc câu chú trong sách Vi-đà, rồi sau mới ăn uống, gọi là đạo thanh tịnh.
Dùng các thứ tà đạo như vậy v.v… mà được giải thoát, chứ không dùng 8 chính đạo cho là đạo thanh tịnh.
Trong có sinh tưởng không, là như trong pháp thế đế có mà nói là không.
Trong không sinh tưởng có, là như nói có đà-la-phiêu, có hữu phần, cũng nói có cầu-na, số lượng v.v… cũng nói tướng chung, tướng riêng và tập hợp, cũng nói thế tính v.v… không vật là có. Những nhân duyên như vậy v.v… sinh tâm điên đảo, đều gọi là tà kiến.
Trong tà kiến nầy đặc biệt có 4 thứ kiến, còn bao nhiêu các thứ nặng đều gọi tà kiến.
Hỏi: Làm sao dứt tà kiến nầy?
Đáp: Trong kinh Phật nói chính kiến có thể làm tiêu tà kiến.
Hỏi: Làm sao sinh chính kiến?
Đáp:Nếu thấy, nghe, so sánh biết, quyết định đúng đắn là sinh chính kiến.
Lại khéo tu chính định, thì sinh chính kiến. Như kinh nói nhiếp tâm có thể biết như thật, chứ không phải tán tâm.
Hỏi: Tà kiến như vậy có những lỗi gì?
Đáp: Tất cả tội lỗi và các tổn não đều bởi tà kiến. Vì người tà kiến bảo không tội phúc và nghiệp báo thiện ác. Cho nên hiện tại họ không có các việc tốt huống chi là đời vị lai. Người phá thiện ác như vậy gọi là đoạn thiện căn, chắc chắn sẽ đọa địa ngục A-tì, như trong Luận A-tì-đàm, Lục Túc nói giết người nầy tội nhẹ hơn giết loại trùng kiến.
Lại người tà kiến nầy làm ô nhiễm thế gian, vì làm nhiều điều tổn giảm chúng sinh, cho nên họ sống như một loài cây có độc vì có hại.
Lại người này khởi ra nghiệp thân khẩu ý đều là ác báo. Như trong kinh nói: Người tà kiến khởi ra nghiệp thân khẩu ý, muốn nghĩ nhớ dục, sân đều là ác báo, như trồng giống bầu đắng, giống Câu-xa độc, ắt hại giống cây Mạn-đà. Trong ấy có bao nhiêu địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng đều có vị đắng, là vì trồng giống đắng. Như vậy người tà kiến các tâm, tâm số pháp, vì tà kiến nên đều bị ác báo. Cho nên người nầy dù có làm bố thí v.v… quyết không có quả báo tốt, vì trước đã bị tâm tà kiến làm hủy hoại. Những bất thiện người này tạo ra đều tăng thượng, vì từ lâu chứa nhóm ác tâm.
Lại nhờ giới pháp nên có thể ngăn phi pháp, mà người nầy không có thiện ác nên không thể cấm kỵ họ được, do đó rất phóng tùng làm những điều bất thiện, chắc chắn phá hủy 2 pháp trong trắng là hỗ với thẹn, nên chẳng khác loài súc sinh.
Lại nếu ai nói không thiện ác, tức trong tâm người ấy thường ôm điều bất thiện.
Lại người nầy không có nhân duyên có thể thụ thiện pháp. Bởi vì sao? Vì người ấy không hay gần gũi người thiện, không nghe thiện pháp, ác tâm dễ khởi, thiện tâm khó sinh. Vì dễ khởi ác nên không có nhân duyên thiện. Như vậy dồn chứa thì dứt mất thiện căn.
Lại người tà kiến nầy gọi là ở chỗ bị nạn, như chúng sinh trong địa ngục không thể đắc đạo. Nếu người nầy, dù sinh ở trung tâm trong nước, đầy đủ 6 căn, có thể phân biệt tốt xấu, nhưng cũng không thể đắc đạo.
Lại người tà kiến nầy không ác nào không tạo, không kể nhẹ nặng.
Lại họ gây chút bất thiện cũng đọa địa ngục, vì tâm nặng tội mà khởi nghiệp nầy. Như trong Phẩm nghiệp giải thích về nghiệp địa ngục. Vì những nhân duyên này mà người ấy gây ra nghiệp gì đều là địa ngục.
Lại người này không thể hết nghiệp tội ác, vì pháp bất thiện thường ở trong tâm.
Lại người nầy xoay vần trong địa ngục khó được giải thoát. Bởi vì sao? Vì người đoạn thiện căn, trong khi thiện căn chưa nối nhau quyết không ra khỏi địa ngục.
Lại vì người nầy tà kiến ở luôn trong tâm, thì thiện căn làm sao tương tục lại được?
Lại người tà kiến gọi là không thể chữa được, giống như người bệnh nhân đã hiện tướng chết thì dù lương y cũng không chữa được. Người nầy cũng vậy, vì không còn một chút thiện. Cho đến chư Phật cũng không cứu được. Cho nên quyết phải đọa địa ngục A-tì.
Phẩm 133: HAI THỦ
Đối với không phải thật sự, sinh tâm quyết định chỉ là sự thật, ngoài ra đều là vọng ngữ. Đó gọi là kiến thủ. Và như trước đã nói trong pháp không hơn, mà quyết định sinh tưởng cho là hơn, cũng gọi kiến thủ.
Hỏi: Kiến thủ có những lỗi gì?
Đáp: Người nầy được ít công đức , tự cho là đủ.
Lại người nầy uổng nhọc công lao. Bởi vì sao? Vì người ấy với việc chẳng phải thiện mà sinh tưởng là diệu thiện, rồi siêng năng tinh tiến, do nhân duyên này về sau tâm sinh ăn năn.
Lại người nầy bị người trí chê cười, vì với không hơn mà sinh tưởng là hơn.
Lại nếu người không hơn mà cho là hơn, là tướng ngu si, giống như người mù đối với gạch ngói mà sinh tưởng là vàng bạc, bị người sáng mắt cười cho xấu hổ. Kiến thủ có những lỗi như vậy.
Nếu ai bỏ trí tuệ mà dùng giới v.v… tắm rửa mong được thanh tịnh, gọi là giới thủ.
Hỏi: Vậy không cần giới mà được thanh tịnh sao?
Đáp: Nhờ trí tuệ giới mới thanh tịnh vì trí tuệ là căn bản.
Hỏi: Giới thủ có những lỗi gì?
Đáp: Nói lỗi kiến thủ, là lấy việc thấp kém cho là đầy đủ v.v…, đều là lỗi này.
Lại nhân duyên giới thủ uổng chịu các khổ, nghĩa là như chịu lạnh chịu nóng, nằm trên tro đất, nằm trên chông gai, gieo mình xuống vực thẳm, nhảy vào lửa, gieo mình từ trên cao v.v…, thì đời sau cũng chịu quả báo khổ kịch liệt, như trong kinh nói: Trì giới trâu bò, nếu thành tựu thì lại làm trâu bò, mà nếu không thành thì đọa địa ngục.
Lại người nầy là hạng người từ tối vào trong tối, vì thụ pháp nầy hiện đời bị khổ, đời sau cũng khổ.
Lại người nầy bị tội rất nặng. Bởi vì sao? Vì lấy phi pháp cho là pháp, rồi hủy hoại chân pháp, và cũng bài báng những người tu chính pháp, khiến nhiều chúng sinh phản lại chân tịnh pháp, mà sa vào vòng tội lỗi. Vì chất chứa nhiều đại tội, nên bị quả báo địa ngục A-tì. Thà chấm dứt còn hơn, chứ không nên tu hành tà đạo. Bởi vì sao? Vì nếu từ trước chưa tu dễ khiến tu đạo, chứ tu tà hư tâm, nên khó vào chính đạo.
Lại tuy là oán tặc không thể khiến người suy não như sinh tà kiến. Bởi vì sao? Vì oán tặc không thể làm ô uế người, như chạy theo tà kiến, chịu tu các tà giới ngoại đạo như lõa hình không xấu hổ, bôi tro đất lên người, nhổ tóc v.v…
Lại người tà kiến đều mất tất cả lợi lạc thế gian. Hiện tại mất vui ngũ dục, vị lai mất vui sinh về cõi thiện và vui Nê-hoàn. Nếu ai cầu vui mà bị khổ, cầu giải thoát mà bị trói buộc, thì không gọi là cuồng ư! Bởi vì sao? Vì nhân duyên thí một bữa ăn còn có thể được sinh lên trời. Mà người nầy tu tà hạnh dù cho thí cả thân mạng cũng không lợi ích gì!
Phẩm 134: TÙY PHIỀN NÃO
Tâm nặng nề muốn nhắm mắt gọi là buồn ngủ. Tâm không còn thức tỉnh gọi là ngủ. Tâm tản động duyên các trần gọi là trạo động. Tâm ôm buồn lo gọi là ăn năn. Như điều không nên làm mà làm, nên làm mà không làm. Tâm uốn khúc giả thiện gọi là siểm. Tâm siểm được thành sự gọi là lừa gạt. Tự tác ác không biết xấu gọi là không thẹn. Làm bậy giữa công chúng không biết ngượng ngại gọi là không xấu hổ. Tâm chạy theo bất thiện gọi là phóng dật. Thật không công đức mà hiện tướng khiến người ta cho là có, gọi là dối trá. Hiện tướng kỳ lạ vì cầu lợi dưỡng, dùng lợi khẩu làm cho đẹp lòng người gọi là La-ba-na. Vì muốn được vật của người, nên biểu lộ muốn được, như nói vật này tốt v.v…, gọi là hiện tướng. Nếu vì muốn chê bai người nầy, nên ngợi khen người kia, như nói: Thân phụ của ông tịnh tiến, ông không bằng, gọi là nói cạnh khóe. Nếu đem của thí đã được để cầu của thí nữa, như nói đây là vật thí do người nào đó mới cúng, những lối như vậy gọi là dùng lợi để cầu lợi. Nếu người có bệnh ưa ngủ, gọi bệnh Đơn-trí-lợi. Nếu được chỗ tốt đầy đủ nhân duyên hành đạo, mà thường buồn rầu, gọi là bất hỷ. Nếu người hay uốn mình, thân không điều thích, vì nhân duyên ngủ nghỉ, gọi là uể oải. Nều người không biết ít nhiều điều hòa sự ăn uống , gọi là ăn không điều độ. Nếu không tinh tiến nổi, gọi là thoái tâm. Nếu các tôn trưởng có lời dạy bảo, mà không kính sợ, gọi là không tôn kính. Ưa thích người ác, gọi là ưa bạn ác. Những điều như vậy gọi là tùy phiền não. Vì theo phiền não phát sinh.
Phẩm 135: BẤT THIỆN CĂN
Ba bất thiện căn là tham, sân và si.
Hỏi: Những kiêu mạn v.v… lẽ cũng là bất thiện căn, Vì sao chỉ nói 3 thứ ấy ư?
Đáp: Tất cả phiền não đều do 3 phần phiền não nầy, còn mạn v.v… là si phần nên không nói rộng.
Lại 3 thứ phiền não nầy phần nhiều ở trong tâm chúng sinh, mạn v.v… không phải vậy.
Lại tất cả những ai chưa lìa dục, cho đến con trùng con kiến, 3 phiền não này đều có ở tại tâm, kiêu mạn v.v… không như vậy.
Lại tham là bất thiện căn của sân, vì trái hoặc mất cái mình tham thì liền sinh sân. Còn si làm gốc cho cả 2. Bởi vì sao? Vì nếu ai không si thì không tham sân.
Lại trong kinh nói 10 nghiệp bất thiện có 3 thứ do tham sân si sinh chứ không nói do mạn v.v… sinh.
Lại chỉ có 3 thứ thụ, chứ không có thụ thứ tư. Trong 3 thụ nầy bị 3 phần phiền não kia sai khiến, nếu riêng có mạn v.v… thì sai khiến ở trong thụ nào? Điều này thật không nói được. Phải biết 3 thứ nầy là gốc của các phiền não.
Hỏi: Vì sao trong lạc thụ do tham sai khiến?
Đáp: Vì hiện thấy sinh ở trong đó. Như trong kinh nói: Người được lạc xúc sinh mừng, bị khổ xúc không mừng. Người nầy đối với các thụ như tập, diệt, vị, quá và xuất, vì không biết như thật nên trong thụ không khổ không vui, bị vô minh sử sai khiến. Bởi vì sao? Vì người nầy bị buộc trong cõi Vô sắc, các ấm nối nhau, không biết như thật nên trong đó sinh tưởng tịch diệt, hoặc tưởng giải thoát, hoặc tưởng không khổ không vui, hoặc tưởng ngã. Cho nên nói si sinh trong thụ không khổ không vui.
Hỏi: Các thứ sử nầy là ở trong pháp mà sai khiến, hay là ở trong chúng sinh mà sai khiến?
Đáp: Do pháp mà sinh tâm chúng sinh, tùy tâm chúng sinh mà nhận các thứ thụ, tùy các thứ thụ tham v.v… các phiền não sai khiến.
Cho nên biết do pháp sinh sử rồi sai khiến chúng sinh.
Làm sao biết được? Nếu chúng sinh chưa dứt sử nầy thì bị nó sai khiến, trái lại là không còn khiến nữa. Nếu như trong pháp mà sai khiến, thì pháp là thường có, lẽ ra phải thường sai khiến, vì thường không nên dứt.
Lại phi chúng sinh số lẽ ra cũng có sai khiến. Nếu như vậy thì như vì người sai khiến thì cái vách tường v.v… cũng có sai khiến; vì người biết nên cái vách tường v.v… lẽ ra cũng có biết. Điều này thật không có. Như vậy thì không có A-la-hán, vì người khác có sử, nên mình cũng có sử.
Hỏi: Sử nầy chưa dứt thì sai khiến, mà dứt rồi không sai khiến?
Đáp: Có 2 thứ sử sai khiến là duyên sử, và tương ưng sử. Sử nầy hoặc dứt, hoặc không dứt, tức là duyên và tương ưng. Vì sao nói dứt thì không sai khiến? Nếu như vậy, phải nói tướng sử thứ 3? Vì không thể nói được, nên phải biết là không có.
Lại sử có thể duyên cõi khác mà không sai khiến, cho nên biết chỉ sai khiến trong chúng sinh, chứ không phải trong pháp.
Hỏi: Hai thứ sử 1 duyên 2 tương ưng là các sử của chúng sinh, không phải duyên, không phải tương ưng, làm sao sai khiến?
Đáp: Điều này trước đã đáp: Các sử do pháp sinh mà sai khiến chúng sinh. Như trong A-tì-đàm thân trung nói: Chúng sinh cõi Dục có bao nhiêu thứ sử sai khiến v.v…?. Nếu không sai khiến chúng sinh làm sao có những câu hỏi như vậy?
Hỏi: Nếu sử sai khiến chúng sinh, mà trong kinh lại nói tham sử trong lạc thụ, thì mâu thuẫn nhau sao?
Đáp: Đó là lời nói chưa hết ý. Nên phải nói là trong lạc thụ sinh tham rồi sai khiến chúng sinh.
Hỏi: Tham nầy cũng do sắc v.v… sinh ra, vì sao trong đó chỉ nói do lạc thụ sinh?
Đáp: Bởi nghĩ nhớ phân biệt vui mừng v.v…, nên tham mới sinh, chứ không phải chỉ do sắc v.v… sinh.
Hỏi: Do khổ thụ cũng sinh tham, như nói người vui không cầu, người khổ cầu nhiều. Vì sao chỉ nói do lạc thụ sinh?
Đáp: Là không sinh tham khổ thụ. Người này bị khổ làm bức bách ngặt nghèo, nên sinh tham lạc thụ.
Hỏi: Trong bất khổ bất lạc thụ, cũng bị tham sử sai khiến, vì sao chỉ nói trong lạc thụ?
Đáp: Người nầy cho bất khổ bất lạc thụ là vui nên sinh tham, cho nên nói trong lạc thụ tham sai khiến. Vì trong 3 thứ thụ nầy, 3 phiền não sai khiến, nên chỉ nói ba.
Phẩm 136: TẠP PHIỀN NÃO
Hỏi: Trong kinh nói 3 lậu: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Thế là thế nào?
Đáp: Trong cõi Dục, trừ vô minh, còn tất cả phiền não là dục lậu. Hữu lậu trong cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Vô minh trong 3 cõi gọi là vô minh lậu.
Hỏi: Các lậu tăng trưởng như thế nào?
Đáp: Vì pháp từ hạ, trung, thượng lần lượt tăng trưởng. Lại được sắc v.v… các thắng duyên, nên các lậu tăng trưởng.
Hỏi: Ba lậu nầy vì sao nói 7 lậu?
Đáp: Thật lậu có 2 thứ: Thấy đạo lý dứt được là các lậu căn bản. Suy nghĩ mà dứt được là quả của các lậu. Năm nhân duyên giúp cho lậu họp lại thành bảy, tức là phiền não này. Phật tùy theo nghĩa nên nói 3 lậu, 4 lưu, 4 phược, 4 thủ, 4 kết v.v….
Hỏi: Bốn lưu là dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu. Thứ nào ra làm sao?
Đáp: Trừ kiến và vô minh, còn tất cả phiền não cõi Dục, gọi là dục lưu. Hữu lưu cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Các thứ kiến gọi là kiến lưu, vô minh gọi là vô minh lưu.
Hỏi: Trong lưu, vì sao riêng nói kiến lưu, mà trong lậu không nói?
Đáp: Ngoại đạo phần nhiều bị kiến chấp làm trôi nổi, cho nên riêng nói trong lưu. Vì hay nổi chìm nên gọi là lưu, vì hay trói buộc 3 cõi nên gọi là phược.
Hỏi: Bốn thủ gồm dục thủ, kiến thủ, giới thủ, và ngã ngữ thủ. Thứ nào ra làm sao?
Đáp: Vì vô ngã nên chỉ lấy lời nói gọi là ngã ngữ thủ. Nếu người có ngã kiến, tức sinh chấp 2 bên, là ngã hoặc thường hoặc vô thường. Nếu quyết định nói vô thường thì thủ lấy ngũ dục, vì cho rằng không có đời sau nên đắm nhiễm vui hiện tại. Nếu quyết định nói thường, nếu người độn căn thì lấy trì giới mong được vui đời sau, người có chút lợi căn thì nghĩ như vầy: Nếu thần là thường thì khổ vui không biến đổi, tức không tội phúc nên khởi tà kiến. Như vậy chỉ do ngã ngữ mà sinh 4 thứ thủ.
Hỏi: Bốn kết là thân kết tham lam ganh ghét, thân kết giận dữ, thân kết giới thủ, và thân kết tham trước thật thủ. Thứ nào là thế nào?
Đáp: Tham lam vật của người khác mà người không cho thì sinh tâm giận dữ, dùng đến roi gậy v.v… mà lấy, đó là cội rễ đấu tranh của người tại gia, cũng gọi là theo bên vui. Nếu người trì giới muốn nhờ giới nầy mà được thanh tịnh, liền bảo đây là thật, ngoài ra là vọng ngữ, kiến chấp nầy liền theo. Đó là cội rễ tranh cãi của người xuất gia, cũng gọi là theo bên khổ. Năm ấm gọi là thân, là 4 thứ kết nầy cần phải có thân khẩu mới thành, nên gọi là thân kết.
Lại có người nói 4 pháp nầy có thể trói buộc sinh tử nên gọi là kết.
Hỏi: Năm thứ ngăn che là tham dục, giận dữ, ngủ nghỉ, trạo hối và nghi, việc ấy thế nào?
Đáp: Người tham đắm các thứ dục, nên giận dữ bám theo. Như trong kinh nói: Do ái sinh giận dữ và ganh ghét v.v… các phiền não; roi gậy v.v… các nghiệp ác đều bởi tham dục sinh. Người nầy thân và tâm bị sự tham giận làm hư hoại. Nhiều việc mệt nhọc thì muốn ngủ nghỉ. Người nầy mới ngủ nghỉ một chút thì tham giận lại đến nữa làm tâm tán loạn. Tâm không được thiền định, nên chạy rông theo cảnh ngoài, nên mới sinh trạo hí. Người có nghiệp bất tịnh thì tâm thường lo lắng ăn năn. Vì tán tâm và hối tâm nên tâm thường sinh nghi ngờ có giải thoát hay chăng? Như Vương Tử bảo A-di-la là Sa-di.
Hỏi: Sao gọi là ngăn che?
Đáp: Tham dục, giận dữ có thể che khuất giới phẩm. Trạo hối có thể che định phẩm. Ngủ nghỉ có thể che tuệ phẩm. Có người vì muốn trừ cái che nầy nên nói đây là thiện, đây là bất thiện. Người đó trong đó sinh nghi là có hay là không? Nghi nầy thành, có thể che 3 phẩm trên. Vì sức của 5 thứ che, 3 pháp nầy mạnh, nên được gọi độc nhất là che. Sức của 2 thứ che yếu, nên phải hợp 2 pháp mới thành. Lại 2 thứ che nầy nhân duyên cùng sinh, cho nên hợp lại mà nói.
Năm pháp nhân duyên của ngủ nghỉ là Đơn-trí-lợi, không vui, uể oải, ăn không điều độ, tâm lui chìm.
Bốn pháp nhân duyên của trạo hối là biết bà con xóm làng, biết đất nước, biết không chết, và nghĩ nhớ việc vui chơi nói cười trước đây, là sinh nhân. Vì thuốc trị bệnh cũng đồng, nên ngủ nghỉ lấy tuệ làm thuốc, trạo hối lấy định làm thuốc. Vì che khuất cũng đồng nên hợp 2 thứ lại làm che. Năm pháp nầy hoặc là che hoặc không phải che. Bất thiện trói buộc cõi Dục gọi là che, ngoài ra không gọi là che. Năm thứ kết hạ phần là tham dục, giận dữ, giới thủ. Vì đọa xuống nên gọi là hạ phần. Như giữ giới trâu bò thành tựu thì làm trâu bò, bất thành thì vào địa ngục. Nghi, ngăn ngại, lìa dục, thân kiến, là 4 thứ căn bản, đó gọi là 5.
Lại vì tham giận nên không ra khỏi cõi Dục. Thân kiến không ra khỏi tâm chấp ngã. Giới thủ không ra khỏi hạ pháp. Nghi không ra khỏi phàm phu.
Lại vì tham dục và giận dữ nên không vượt khỏi cõi Dục. Nếu vượt quá thì bị kéo lại. Còn 3 thứ kia không vượt khỏi phàm phu, nên gọi là hạ phần, 5 thứ thượng phần thì trạo hí phá hoại thiền định, nên tâm không tịch diệt. Trạo hí nầy tùy lấy tướng kiêu mạn nên sinh. Tâm lấy tướng nầy từ vô minh sinh, nên mới có nhiễm cõi Sắc, nhiễm cõi Vô sắc, 5 thứ kết nầy bậc học nhân gọi nó là đi lên, nên gọi thượng phần, 5 thứ kết nầy là đối với tâm người học nhân mà nói, chứ không là phàm phu.
Hỏi: Vì sao trạo hí trong cõi Sắc, Vô sắc gọi là kết, mà cõi Dục không nói?
Đáp: Trong đó không có thô phiền não, nên trạo hí rõ rệt.
Lại trạo hí nầy có sức phá định, nên gọi là kết. Dứt được thượng phần nầy thì được giải thoát. Có người trong cõi Sắc và Vô sắc sinh tưởng giải thoát. Vì muốn ngăn lầm nầy, nên mới nói có thượng phần kết.
Năm thứ xan là trụ xứ xan, gia xan, thí xan, xưng tán xan, và pháp xan. Trụ xứ xan là chỉ mình ta ở đây, không có cho người khác. Gia xan là chỉ mình ta ra vào nhà nầy, không cho ai cả, dẫu có ai ở đây ta là hơn họ. Thí xan là ở trong đây độc một mình ta được bố thí, không cho người khác, dẫu có ai nữa, chớ cho hơn ta. Xưng tán xan là chỉ khen ngợi mình ta, đừng khen người khác, dẫu có khen ai cũng đừng hơn ta. Pháp xan là chỉ độc nhất mình ta biết nghĩa 12 bộ kinh, và biết sâu sắc nghĩa bí mật mà không nói cho ai hết.
Hỏi: Năm thứ xan tham nầy có những lỗi gì?
Đáp: Trụ-xứ ấy v.v… là cọng hữu của nhiều người. Người nầy đã từng bỏ nhà mình, đến ở chỗ cọng hữu lại sinh tâm keo kiệt bủn xỉn là tệ phiền não.
Lại người ấy đối với pháp giải thoát hoàn toàn không có phần. Bởi vì sao? Vì người ấy đối với pháp cọng hữu hãy còn không xả được, huống chi có thể xả được tự thân 5 ấm ư?
Lại người nầy sinh đọa ngạ quỷ v.v… các chỗ ác.
Lại người nầy vì lợi dưỡng che tâm, thì kiêu mạn, khinh dễ các người thiện, nên đọa địa ngục.
Lại vì phá hoại người khác bố thí, nên dẫu được trở lại thân người thì bị nghèo cùng.
Lại vì tâm keo kiệt làm dứt mất công đức người thí, vật thí, người thụ, nên bị tội nặng. Nếu xan lẫn pháp thì bị tội báo đui mù v.v…, như mù bẩm sinh và sinh vào chỗ nhiều người ác, không được tự tại, thoái mất Thánh thai, là oán tặc 3 đời 10 phương chư Phật. Thường qua lại sinh tử làm người ngu si, người thiện xa lánh. Vì xa lìa người thiện nên không điều ác nào cũng gây.
Ác có 3 thứ: ác ác, đại ác, và ác trong ác. Ác ác là giết, trộm v.v…. Đại ác là tự mình giết, cũng dạy bảo người giết. Tự keo kiệt cũng dạy người keo kiệt. Ác trong ác là tự lẫn tiếc pháp cũng dạy người lẫn tiếc pháp.
Người nầy lẫn tiếc Pháp khiến nhiều người đọa vào ác. Cũng là diệt Phật pháp. Như trong kinh nói trụ xứ xan có 5 lỗi. Vị thiện Tì-kheo chưa đến không muốn cho đến, đã đến thì nhăn nhó không vui, nghĩ muốn khiến đi, cất giấu thí vật của Tăng, các thí vật của chư Tăng sinh tâm của mình.
Gia xan có 5 lỗi. Vì tham đắm nhà cửa nên cùng chung buồn vui với người thế gian, dứt việc làm phúc của người thế gian, dứt người thụ giả được của thí. Vì dứt 2 điều này nên sinh làm con quỉ ở trong chuồng tiêu của nhà ấy.
Thí xan có 5 lỗi là thường thiếu thốn vật nuôi sống, phá hoại lợi hai người, mắng nhiếc người thiện, tâm thường ôm lo buồn.
Khen ngợi xan tham có 5 lỗi là nghe khen người khác tâm thường vẩn đục, trong trăm trăm ngàn đời thường không tịnh tâm, chê trách người thiện, tự cao bản thân hạ thấp người khác, khiến thường mang tiếng xấu.
Lại tất cả xan tham chung có những lỗi này: chứa nhóm nhiều vật, khiếp sợ đại chúng, bị nhiều người ghét, tâm thường vẩn đục, thân thường cô độc, sinh vào nhà nghèo hèn. Như vậy nhiều vô lượng là tội lỗi của 5 thứ xan tham.
Năm thứ tâm trồng là nghi Phật, nghi Pháp, nghi giới nghi giáo hóa, nếu có Tì-kheo được Phật và các bậc Đại nhân khen ngợi, người nầy liền đem ác khẩu sàm báng. Đó gọi là 5 thứ. Nghi Phật là khởi ý nghĩ như vầy: Phật là lớn hay Phú-lan-na v.v… là lớn? Nghi pháp là Phật Pháp là hơn hay Vi-đà v.v… của ngoại đạo là hơn? Nghi giới là giới Phật nói là hơn hay giới gà chó v.v… là hơn? Nghi giáo hóa là nghi pháp A-na-ba-na v.v… là có thể đến Nê-hoàn hay chăng? Sàm báng là đem tâm giận dữ không chút kính nể mà xâm hại người thiện. Người này bị 5 pháp ấy làm bại hoại tâm, không kham trồng các thiện căn, nên gọi là tâm trồng.
Hỏi: Người ấy vì sao đối với Phật v.v… sinh nghi?
Đáp: Người nầy không thể đa văn, cho nên sinh nghi. Nếu những người đa văn thì ít nghi ngờ. Và người nầy ngu si vô tri không biết phân biệt Phật pháp và các pháp khác, cho nên sinh nghi.
Lại người nầy đối với Phật pháp, không thể có được ý vị, cho nên sinh nghi.
Lại không học không đọc các kinh Vi-đà mà chỉ nghe người khen ngợi rồi sinh tâm quý trọng.
Lại người này đời đời tà nghi nặng nhiều, vì tâm thường vẩn đục nên đối với Phật v.v… sinh nghi, như người thị giả của Phật tên Tô-na-sát-đa-la.
Lại người nầy cùng với nhiều người tà kiến cọng đồng sự nghiệp, nên khiến sinh nghi.
Lại người này vì đọc tụng Vi-già-đà-hòa-la-na v.v… các kinh tà kiến, nên chính trí tuệ bị hỏng mà sinh nghi.
Lại người nầy với các pháp nghĩa ưa sinh tà niệm, không thể lãnh hội được ý của tác giả kinh điển, cho nên sinh nghi.
Lại người nầy thủy chung không thể được công đức tự lợi. Vì những duyên cớ này nên đối với Phật v.v… sinh nghi.
Năm thứ tâm trói là nếu ai vì không lìa thân dục nên sinh tham đắm. Thân không lìa 5 thứ dục nên tham đắm dục.
Lại cùng với những người tại gia xuất gia hòa hợp, đối với Thánh ngữ nghĩa tâm không ưa thích được chút lợi ích tự cho là đủ. Trong đó, 4 thứ trói là do tham dục mà khởi. Nếu người không lìa nội thân dục nên đối với ngoại cảnh, trong Sắc v.v… sinh đắm nhiễm, cho nên ưa cùng đông người ồn náo hòa hợp. Vì ưa ồn ào náo nhiệt nên với Thánh ngữ nghĩa hiển thị pháp tịch diệt thì tâm không ưa thích. Cho nên đối với trì giới đa văn và thiền định v.v… được chút ít lợi ích tự cho là đủ. Vì tham đắm chút lợi ích nầy nên bỏ mất lợi lớn. Người trí không nên tham đắm lợi nhỏ mà tổn hại lớn. Người nầy nếu lìa 8 nạn, được thân người khó, cho nên cần phải nhất tâm siêng năng tinh tiến.
Lại pháp phàm phu không thể tin. Nếu lìa nhân duyên đầy đủ nầy, hoặc có duyên nào khác thì hoàn toàn không còn có thể vào Thánh đạo.
Lại không tham tiểu lợi thì có thể được quả báo xuất gia, đến khi lâm chung cũng không ăn năn, cũng được lợi mình lợi người.
Lại người nầy trong công đức còn không tham đắm huống là ác pháp, nên mới gọi là chính hành.
Lại lầm lỗi phàm phu không thể thấm nhiễm được.
Hỏi: Lỗi phàm phu là thế nào?
Đáp: Trong kinh nói: Người phàm phu cần lấy 20 pháp chiết phục tâm mình. Nên nghĩ vầy: 1. Ta chỉ có hình thức ăn mặc khác với người tục. 2. Hoàn toàn không được gì. 3. Ta sẽ vì bất thiện mà chết mất. 4. Sẽ rơi vào biển rất khiếp sợ. 5. Sẽ phải đến chỗ sợ sệt. 6. Không biết chỗ không sợ. 7. Cũng không biết Đạo pháp. 8. Không được thiền định. 9. Thường chịu khổ thân. 10. Khó lìa tám nạn. 11. Oán tặc thường đuổi theo. 12. Các đường đều mở chưa thoát đường ác. 13. Thường bị vô lượng kiến chấp trói buộc. 14. Với tội ngũ nghịch chưa thể đề phòng. 15. Vô thủy sinh tử chưa có biên giới. 16. Không gây tạo thì không được tội phúc. 17. Thiện ác không thể thay thế nhau. 18. Không tu pháp thiện quyết không an ổn. 19. Đã tạo thiện ác quyết không tiêu mất. 20. Ta sẽ vì không điều phục mà đến chết. Đó là 20 pháp không thể ô nhiễm được.
Lại việc đáng làm người nầy đã làm xong, nên tâm không ăn năn. Nếu ai tham đắm thì không có thể thành pháp tại gia và xuất gia. Cho nên không nên tham đắm tiểu lợi 7 thứ sử.
Hỏi: Các phiền não sao gọi là sử?
Đáp: Trong sinh tử nối nhau thường đeo bám theo chúng sinh, nên gọi là sử. Giống như người vú nuôi thường theo đứa bé, như bệnh sốt rét chưa khỏi, như mắc nợ ngày càng sinh lãi, như chuột hại chưa trừ, như tướng đen tấm sắt nóng, như mầm lúa, như tự ký giấy ở đợ, như người đoán việc mà làm chứng, như trí tuệ dần chứa, như nghề nghiệp thường tập, như lửa đèn thường nối nhau. Cứ như vậy thứ lớp nối nhau liên tục tăng trưởng nên gọi là sử.
Hỏi: Sử nầy tương ưng với tâm hay không tương ưng?
Đáp: Tương ưng với tâm. Bởi vì sao? Vì đã nói tham v.v… là tướng của sử. Các tướng nầy của sử cùng với vui mừng tương ưng. Nếu không tương ưng với lòng vui mừng là không đúng. Sự vui mừng nầy hoặc ở trong cảm thụ vui gọi là tham sử.
Lại tham là đắm nhiễm, mà trong tâm không tương ưng thì không có nghĩa đắm nhiễm. Cho nên biết các sử cùng tương ưng với tâm.
Hỏi: Không phải vậy. Các sử không phải tương ưng với tâm. Bởi vì sao? Vì trong kinh nói: Đứa trẻ con dâm tâm còn không có huống chi có thể hành động dâm dục mà cũng bị dục sử sai khiến?
Lại nói không nghĩ, không phân biệt, cũng có duyên thức trụ.
Lại trong kinh nói: Khi dứt thân kiến các sử đều dứt hết.
Lại Thánh đạo và phiền não không được đồng thời. Cho nên Thánh đạo sinh, thì tâm bất tương ưng sử dứt. Nếu không phải vậy, thì Thánh đạo dứt những gì?
Lại nếu không có tâm không tương ưng, thì phàm phu, học nhân hoặc khi ở tâm thiện, tâm vô ký lẽ ra phải là A-la-hán?
Lại sử là nhân trói buộc, từ sử sinh trói buộc, bị trói thì sử bùng thịnh lên. Cho nên biết các sử không tương ưng với tâm.
Lại nếu người ở trong tâm thiện, vô ký cũng gọi có sử, nếu không có tâm không tương ưng với sử, thì sao gọi là có sử được? Cho nên biết các sử không tương ưng với tâm?
Đáp: Không phải vậy. Người nói đứa trẻ con không dục cũng có tham sử. Điều này không đúng. Đứa trẻ con chưa được thuốc trừ tham, tham dục chưa hết, nên bị tham sử sai khiến, như người bệnh vì quỷ ám, tuy khi chưa phát hiện, cũng gọi người bệnh quỷ ám. Bởi vì sao? Vì bệnh nhân chưa được chú thuật, thuốc men để trừ bệnh. Cũng như bệnh sốt cách 4 ngày, tuy 2 ngày không phát, cũng gọi là người bị bệnh sốt. Cũng như chuột hại chưa trừ, nên khi nghe tiếng sấm thì phát hiện. Như vậy không luận trong tâm nào, chưa được thuốc trừ sử đều gọi là không dứt. Các câu hỏi khác cũng như đã đáp chung rồi.
Ông nói không nghĩ, không phân biệt cũng có duyên thức trụ. Đó là cũng vì chưa dứt sử.
Ông nói thân kiến cùng sử đều dứt, ông cho rằng trói buộc là tương ưng với tâm khi chưa sinh cũng dứt, sử cũng như vậy, tuy khi Thánh đạo không có, cũng gọi là dứt, vì bị pháp trái nhau.
Ông nói đạo với phiền não không đồng thời, đó cũng bởi chưa dứt nên nói có thể có.
Ông nói phàm phu, học nhân nếu ở trong tâm thiện, vô ký lẽ ra phải là A-la-hán, A-la-hán đã dứt, người nầy chưa dứt nên như người không thụ pháp đoạn nhục, tuy không ăn thịt, nhưng không gọi là người đoạn nhục.
Lại có vô minh tà niệm, tà tư duy v.v… nên phiền não nào chưa dứt thì sinh. A-la-hán không nhân nầy, nên không đồng với những người khác.
Lại ông nói bị trói buộc thì sử bùng phát mạnh. Điều này không đúng. Các phiền não vì từ pháp hạ, trung, thượng nên bùng phát mạnh, chứ không phải bị trói buộc.
Ông nói người ở tâm thiện, vô ký gọi là có sử. Đó là cũng vì chưa dứt nên gọi có sử. Vì những duyên do nầy nên biết tham v.v… các sử chẳng phải không tương ưng. Tám tà đạo, tà kiến cho đến tà định, vì không biết như thật, hiểu biết điên đảo nên gọi là tà kiến cho đến tà định.
Hỏi: Chính mạng với tà mạng không lìa nghiệp thân khẩu. Vì sao nói riêng?
Đáp: Người xuất gia khó dứt tà mạng, cho nên phải nói riêng. Tà mạng là dùng dối gạt v.v… 5 pháp có thể được lợi dưỡng, nên gọi tà mạng. Nói tóm lại các người xuất gia đều không nên làm các nghề nuôi sống như làm sứ giả cho vua, buôn bán, thầy thuốc v.v…, và không nên lấy tiền gạo v.v… của chúng sinh. Nếu lấy đều gọi là tà mạng.
Lại trong Luật cấm lấy đó làm kế nuôi sống, đó đều gọi là tà mạng. Như trong kinh nói Ưu-bà-tắc không nên buôn bán 5 thứ.
Hỏi: Lấy gì nuôi sống?
Đáp: Đúng như pháp cầu xin, lấy đó sinh sống không nên tà mạng. Bởi vì sao? Vì tâm bất tịnh thì hủy hoại thiện pháp, không thể tu đạo.
Lại người hành đạo nên nghĩ như vầy: Vào trong Phật pháp là vì mục đích tu đạo, không vì sinh sống. Cho nên người ưa thiện pháp nên tu tịnh mạng.
Lại Tì-kheo nên an trụ trong pháp Tì-kheo, nếu làm tà mạng là không phải pháp Tì-kheo.
Phẩm 137: CHÍN THỨ KẾT
Ái v.v… 9 thứ kết.
Hỏi: Vì sao trong các thứ kiến, riêng nói 2 thứ thủ?
Đáp: Giới thủ khó lìa khỏi, như khúc gỗ nổi trôi vào dòng nước xoáy, khó thoát ra được. Người nầy cũng vậy, họ nghĩ như vầy: Ta nhờ trì giới nầy sẽ sinh lên trời. Vì lẽ đó nên họ cam chịu lao xuống vực sâu, gieo mình vào lửa, tự nhào xuống từ trên cao v.v… nhiều thứ khổ hạnh.
Lại người thế gian, trong giới thủ không thấy lầm lỗi, nên Phật nói là kết.
Lại y theo giới thủ nầy có thể bỏ 8 Thánh đạo.
Lại đó không phải chính đạo, không phải thanh tịnh đạo, nên gọi là tùy khổ biên.
Lại giới thủ là trói buộc người xuất gia. Các dục trói buộc người tại gia.
Lại người giới thủ tuy có tu các pháp xuất gia, mà luống không được gì cả.
Lại người giới thủ đời nay không được vui, đời sau chịu khổ lớn. Như giữ giới trâu bò, thành thì làm trâu bò, bại thì đọa địa ngục.
Lại bởi giới thủ nầy có thể hủy báng chính đạo và người tu chính đạo.
Lại giới thủ là chỗ các ngoại đạo sinh khởi kiêu mạn. Họ khởi nghĩ như vầy: Ta nhờ pháp nầy có thể thắng những người khác.
Lại vì giới thủ nên 96 phái đều có pháp sai khác nhau.
Lại giới thủ thô dễ thấy, nên nhiều chúng sinh tu hành theo. Đạo trí tuệ mầu nhiệm khó thấy, nên người đời không biết tu được lợi ích.
Lại kiến chấp nầy có thể lôi kéo lòng người, nên những người ngu si phần nhiều tu pháp nầy.
Lại đó gọi là ác kiến nặng, vì nghịch với chính đạo mà làm theo phi đạo. Người kiến thủ tham đắm tà pháp không lìa bỏ được là vì sức mạnh của kiến thủ. Lại vì sức kiến thủ nên kết càng kiên cố.
Hỏi: Trong Kinh Đế Thích Vấn hỏi vì sao chỉ nói người trời có 2 kết xan và tật?
Đáp: Hai thứ phiền não nầy là bỉ ổi tệ lậu nhất. Bởi vì sao? Vì thấy các chúng sinh đói khát khổ não, mà lòng bủn xỉn nên không thương xót cứu giúp, thấy người nào được điều gì cũng sinh tâm ganh ghét, lòng ôm nóng nảy. Vì những lý do nầy nên đọa vào chỗ nghèo hèn, xấu xí không chút oai đức.
Lại Thích Đề Hoàn Nhân, 2 kết nầy nhiều thường xuyên đến làm não tâm, nên Phật vì đó mà nói.
Lại 2 kết nầy là nhân duyên tội nặng. Bởi vì sao? Vì bởi 2 kết nầy mà khởi ác nghiệp nặng.
Lại trong 3 thứ độc, tham giận có thể khởi tội nặng. Tham giận thịnh nên khởi 2 kết nầy.
Lại 2 kết nầy có thể não hại nam nữ.
Lại khó lìa bỏ. Bởi vì sao? Vì nếu tu sâu thiện tâm mới có thể dứt hẳn tính ganh ghét, tu sâu bố thí sau mới dứt hết lòng bủn xỉn. Vì không thấy nghiệp báo mà có thể xả trọng vật đó là việc rất khó. Như người thấy con đắc thắng việc hơn mình, lòng còn khó mừng vui, huống là kẻ địch. Vì 2 kết nầy dựa vào 2 tính ghét ưa, nên rất khó trừ dứt. Vì những lý do nầy mà Phật nói riêng.