Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

 

QUYỂN I PHẦN 3

1. Phàm phu càng mong ngóng, nối gót bậc tịnh thánh.

2. Phước báo thế gian, lòng Thái Tử vốn chẳng mong cầu. Nhân duyên Tịnh Độ mới chính là đại bi thệ nguyện.

3. Cảm khái địa vị phàm phu như đất trên móng tay, thân người dễ mất chẳng biết bao nhiêu? Rùa mù trúng bộng gỗ nổi, chẳng sánh tày Phật pháp khó bề gặp gỡ!

4. Dẫu có thiện căn, được nghe chánh pháp.

5. Nhưng ánh sáng hư phù đoạt ảnh[1], được mấy kẻ chân tu? Dẫu cho kiến tánh minh tâm, vẫn chần chừ lắm nỗi!

6. Chỉ cậy vào Phật lực gia trì, mới hòng khỏi lâm chung đọa lạc.

7. Ví như trẻ thơ khôn lớn, toàn nhờ ân cha mẹ. Lông vũ yếu toan bay cao, khó trông chờ tự lực.

8. Huống hồ Thập Địa chẳng lìa niệm Phật, vốn là pháp tối viên trong Giáo. Bảy ngày liền được vãng sanh, gọn tắt nhất trong các pháp gọn tắt (Từ đây trở đi ca tụng sự tiếp dẫn trong Quán Kinh, tổng cộng bốn đoạn, trước hết ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng)

(2) Xem phần trên, trong lời chú thích cho phần ca tụng kinh Bi Hoa.

(3) Niết Bàn Kinh: “Đắc nhân thân giả, như trảo thượng thổ. Tam ác đạo thân, như đại địa thổ” (Được thân người như đất trên móng tay. Thân trong ác đạo như đất trong đại địa). Kinh còn chép: “Sanh thế vi nhân nan, trị Phật thế diệc nan, do như đại hải trung, manh quy trị phù khổng” (Sanh trong cõi đời làm người là khó, gặp lúc có Phật trong đời cũng khó, giống như con rùa mù trong biển cả gặp được bộng gỗ nổi). Ngài Khuê Phong nói: “Con rùa mù rớt xuống biển, muốn thoát ra nhưng không được. Trong biển có khúc gỗ nổi, trong khúc gỗ có lỗ bộng chứa được thân rùa. Nếu rùa chui vào đó để trôi đến bờ kia sẽ ra khỏi biển. Ta như con rùa mù, Phật pháp như bộng gỗ nổi”.

(5) Bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh có câu: “Hữu Thiền, vô Tịnh Độ, thập nhân, cửu tha lộ” (Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người, chín chần chừ). Tổ Ấn Quang giảng: “Người minh tâm kiến tánh ắt phải đoạn sạch Kiến Tư phiền não không còn sót thì mới khỏi Phần Đoạn sanh tử. Kiến Tư còn chưa đoạn sạch mà đã mạng chung thì luân hồi trong lục đạo vẫn khó thoát y như cũ. Trong mười người đại ngộ, hết chín là như vậy. Tha lộ, nghĩa là đường Bồ Đề xa thẳm, mạng sống trong Diêm Phù ngắn ngủi, chần chừ chẳng thể đạt đến được”.

(6) Duy Ma Kinh: “Bồ Tát ư sanh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực” (Bồ Tát sợ sanh tử thì hãy nên nương tựa sức công đức của Như Lai).

(7) Thập Nghi Luận: “Trẻ thơ chẳng thể lìa mẹ, lìa mẹ chắc sẽ té hang, giếng, khát sữa mà chết. Chim non chưa mọc đủ lông cánh, hãy nương cây chuyền cành, chẳng thể đi xa. Lông cánh đã đầy đủ thì mới có thể bay lên không trung”.

(8) Phẩm Thập Địa kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Địa địa giai vân niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” (Trong địa vị nào cũng đều nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng). Tây Phương Hiệp Luận: “Ngài Chân Hiết Liễu dùng ngàn hạt châu trong cái lưới của Thiên Đế để giảng ý nghĩa Tịnh Độ viên dung. Vì thế, kinh Di Đà thuộc viên cực giáo. Nếu bảo chỉ là viên đôi phần thì sự viên mãn ấy có phần đoạn, ý nghĩa viên mãn ấy chẳng thành!” Kinh Di Đà nói từ một ngày đến bảy ngày chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn thì khi người ấy mạng chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi người ấy mạng chung, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật là đường tắt tu hành, nhưng trong bốn cách niệm Phật, trì danh dễ nhất, là đường tắt nhất trong các đường tắt.

Trong Hiển Giáo, Đại Sĩ là bậc Bổ Xứ; trong Mật Tông, Ngài chính là Như Lai. Hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần, làm bậc hướng dẫn chánh của chốn Liên Bang.

Đại Giáo Vương Kinh của Mật Tông nói bậc chủ Tây Phương được gọi là Quán Tự Tại Vương Như Lai. Pháp Hoa Kinh: “Thập phương chư quốc độ, vô sát bất hiện thân” (Các cõi nước mười phương, không cõi nào chẳng hiện). Lăng Nghiêm Kinh cũng nói: “Thập phương vi trần quốc độ, giai danh ngã vi Thí Vô Úy giả” (Trong các cõi nước nhiều như vi trần trong mười phương, đều gọi ta là bậc Ban Cho Sự Không Sợ Hãi). Theo lời Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật trong kinh Pháp Hoa: “Quán Thế Âm Bồ Tát làm như thế nào để đi khắp thế giới Sa Bà này?” Đức Phật liền nói ba mươi hai ứng thân [mà ngài Quán Âm đã hóa hiện] để vào các cõi nước; nhưng Vô Lượng Thọ Kinh nói Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát hiện đang sống trong thế giới ấy (thế giới Cực Lạc) để tạo sự lợi ích to lớn, nhiếp thủ người niệm Phật sanh về cõi Phật kia. Đại Bi Chú Kinh: “Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ tác Phật cánh, vị an lạc thành thục chư chúng sanh cố, hiện tác Bồ Tát. Nhữ đẳng đại chúng, chuyên xưng danh hiệu, mạng chung vãng sanh A Di Đà Phật quốc” (Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật, nhưng vì an lạc, thành thục các chúng sanh nên hiện làm Bồ Tát. Hàng đại chúng các ông chuyên xưng danh hiệu [Bồ Tát] thì khi mạng chung sẽ sanh về cõi A Di Đà Phật). Đủ biết Đại Sĩ thị hiện mọi thứ, không gì chẳng nhằm tiếp dẫn vãng sanh mà lập ra!

1. Người học dùng lễ kính làm cận môn, nhờ trì danh để thâm nhập.

2. Bất luận xưng tụng Đại Sĩ hay ức niệm Di Đà.

3. Chỉ cần trong tâm chúng sanh, lúc nào cũng đều phát nguyện vãng sanh sẽ là ở trong thân Đại Sĩ, mỗi niệm đều có Phật thành Chánh Giác.

4. Do vậy, hoặc là cầm đài vàng để khuyên lơn, khích lệ, hoặc là theo hóa Phật đến tiếp nghênh.

5. Hoặc phóng quang nói kinh sâu xa, hoặc dùng Phạm âm an ủi.

6. Rộng mở phương tiện cho phàm thánh cùng ngự Đồng Cư, bất thoái Bồ Đề, thỏa đại nguyện Niết Bàn (Đây phần ca tụng chánh yếu sự tiếp dẫn của Đại Sĩ, kinh Lăng Nghiêm có nói “cầu Đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn”, đấy là sự ứng nghiệm to lớn vào lúc lâm chung do lễ kính, trì danh).

(1) Theo Vãng Sanh Luận, có năm môn thành tựu năm thứ công đức. Một là cận môn, hai là đại hội chúng môn, ba là trạch môn, bốn là ốc môn, năm là viên lâm du hý môn[2]. Lấy lễ bái A Di Đà Phật hòng sanh về cõi ấy, được sanh về thế giới Cực Lạc thì gọi là nhập môn thứ nhất (tức Cận Môn, Cận là gần gũi). Lấy tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa, xưng danh hiệu Như Lai, nương theo trí tướng quang minh[3] của Như Lai để tu hành, được dự vào trong số đại chúng thì gọi là nhập môn thứ hai. Dùng nhất tâm chuyên niệm, nguyện sanh về cõi ấy, tu hạnh Xa Ma Tha[4] tịch tĩnh tam-muội, được nhập thế giới Liên Hoa Tạng thì gọi là nhập môn thứ ba.

(3) Phát nguyện vãng sanh chính là phát Bồ Đề tâm. Bởi lẽ, trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, [Phổ Hiền Bồ Tát dạy Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng] phát mười đại nguyện vương, nhưng nói tóm lại chỉ là “nguyện sanh về Tịnh Độ”. Phẩm Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm có câu: “Bồ Tát ưng tri tự tâm, niệm niệm thường hữu Phật thành Chánh Giác” (Bồ Tát hãy nên biết trong tự tâm, trong mỗi niệm luôn có Phật thành Chánh Giác).

(4) Theo Quán Kinh, bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh thì Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, cùng với các Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng với vô số Bồ Tát tán thán hành giả, khuyên lơn, khích lệ tâm người ấy. Người Thượng Phẩm Trung Sanh thì A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng, cầm đài tử kim, đến trước hành giả và một ngàn hóa Phật, cùng một lúc xòe tay [tiếp dẫn]. Người Thượng Phẩm Hạ Sanh thì A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, cùng với các Bồ Tát, tay cầm hoa sen vàng, hóa ra năm trăm vị Phật đến đón người ấy.

(5) Theo Quán Kinh, người Hạ Phẩm Thượng Sanh sẽ sanh trong ao báu, sau bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Đại Bi Quán Thế Âm phóng đại quang minh, đứng trước người ấy, giảng nói mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe xong tin hiểu, phát vô thượng đạo tâm. Người Hạ Phẩm Trung Sanh sẽ sanh trong ao báu, sau sáu kiếp hoa sen mới nở, Quán Thế Âm dùng tiếng Phạm Âm an ủi người ấy, giảng kinh điển Đại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức phát vô thượng đạo tâm.

(6) Sách Di Đà Yếu Giải có đoạn: “Có bốn cõi Phật, một là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, hai là Phương Tiện Hữu Dư Độ, ba là Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, bốn là Thường Tịch Quang Độ. [Nói đến] thế giới Cực Lạc chính là nói Đồng Cư Tịnh Độ, cõi ấy theo chiều ngang cũng trọn đủ cả ba cõi Tịnh Độ bậc trên”. Kinh Di Đà: “Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả. Thị chư nhân đẳng, giai tất bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh” (Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước A Di Đà Phật thì những người ấy đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi ấy, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh). Lăng Nghiêm Kinh: “Cầu đại Niết Bàn, đắc đại Niết Bàn”.

Than ôi! Làm bạn thù thắng của trọn hết chúng sanh thì mới thỏa lòng cha mẹ. Dốc thâm tâm phụng sự khắp trần sát, vẫn cảm thấy khó báo ân Phật (tổng kết sự thuyết pháp lợi sanh của Đại Sĩ).

Quán Kinh: “Nhược niệm Phật giả, đương tri thử nhân, tức thị nhân trung Phân Đà Lợi[5] hoa. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát vi kỳ thắng hữu” (Nếu là người niệm Phật thì nên biết người ấy là hoa sen trắng trong loài người. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của người ấy). Bất Không Quyến Sách Kinh: “Thử thần chú tâm, thị đương lai thế Bồ Tát phụ mẫu” (Thần chú tâm này là cha mẹ của những Bồ Tát trong đời tương lai). Lăng Nghiêm Kinh: “Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân” (Đem thâm tâm này phụng sự trong các cõi nước số nhiều như vi trần, đấy gọi là báo ân Phật).

Đối với những kinh văn đã nêu, có thể lấy nguyên bản để làm chứng. Lại trần thuật những sự cảm ứng, những sự việc này chẳng phải là không có chứng cứ, ngõ hầu [độc giả] tu hành chẳng lui sụt lòng tin. Vì thế, viết ra lời ca tụng, chẳng ngại rườm lời (Đoạn này tổng kết phần trên, dẫn khởi phần dưới).

2.2. Ca tụng sự ứng hóa trong phương này nhằm hiển thị bi sâu nguyện nặng

Trong phần này chia thành năm đoạn lớn:

  1. Thị hiện.
  2. Cứu khổ.
  3. Ban vui.
  4. Hoằng pháp.
  5. Nhiếp thọ chúng sanh.

Trong phần thị hiện lại chia thành sáu đoạn:

1.1. Hiện tướng nơi Phổ Đà.
1.2. Hiện tướng ở nơi khác.
1.3. Hiện tướng trong gỗ đá.
1.4. Hiện tướng trong loài vật.
1.5. Hiện quang minh.
1.6. Hiện thần thông biến hóa.

1. Thân Phật ngập tràn khắp pháp giới, Phạm âm vang vọng tợ hư không.

2. Quả thật đang hiện hữu khắp nơi, mà cũng chẳng khi nào đoạn tuyệt.

3. Vì vậy, hư không ngút mắt, không gì chẳng phải là thánh dung Đại Sĩ, tiếng sóng vỗ đêm ngày, chính là lời tụng Phổ Môn.

4. Há phải đợi thị hiện biến hóa rồi mới bảo thần kỳ; chờ Ngài du hý thần thông rồi mới tăng lòng tin tưởng, ngưỡng mộ hay sao?

5. Chỉ là mặt trời, mặt trăng tuy sáng, kẻ mù vẫn không trông thấy. Mưa ngọt thấm khắp, hạt giống cháy khó thể nẩy mầm.

6. “Chết rồi diệt mất”, tin lời ma của ngoại đạo! “Phật tánh chân thường”, báng Như Lai là vọng ngữ.

7. Đau lòng than thở xưa nay, mấy kẻ biết ân đức? Nếu chẳng thị hiện, làm sao lay tỉnh kẻ mê muội, ngu si?

8. Đặc biệt nêu bày những gì sử sách chép, nhằm phô tỏ vụng về [ý nghĩa] “Pháp Thân thường trụ” (Đoạn này ca tụng chung sự thị hiện, phá mối nghi Đoạn Diệt để vững tín căn).

(1 & 2) Phẩm Như Lai Hiện Tướng của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Phật thân sung mãn ư pháp giới, phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền, tùy duyên phó cảm mị bất châu, nhi hằng xử thử Bồ Đề tọa” (Phật thân tràn ngập khắp pháp giới, hiện trước khắp hết thảy chúng sanh, tùy duyên cảm ứng thảy trọn khắp, nhưng luôn ngồi tòa Bồ Đề này). Phẩm Phổ Hiền Tam Muội lại nói: “Nhập ư pháp giới nhất thiết trần, kỳ thân vô tận, vô sai biệt, thí như hư không tất châu biến, diễn thuyết Như Lai quảng đại pháp” (Nhập trong hết thảy bụi pháp giới, thân ấy vô tận, không sai biệt, ví như hư không bao trọn khắp, diễn nói pháp Như Lai rộng lớn). Vãng Sanh Luận: “Âm thanh vi diệu của Như Lai, tiếng Phạm âm vang vọng mười phương, giống như đất, nước, gió, lửa, hư không chẳng phân biệt”. Phẩm Bất Tư Nghị trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Nhất thiết chư Phật, giai năng dĩ thanh tịnh thanh, khởi tứ biện tài, thuyết pháp bất đoạn” (Hết thảy chư Phật đều có thể dùng tiếng thanh tịnh để khởi bốn thứ biện tài thuyết pháp không ngừng).

(3) Thơ của Hám Sơn có câu: “Mãn mục hàn không Đại Sĩ nhan” (Hư không ngút mắt là dung nhan của Đại Sĩ) và câu: “Nhật dạ triều thanh tụng Phổ Môn” (Ngày đêm tiếng sóng tụng Phổ Môn).

(4) Duy Ma Kinh: “Biện tài vô ngại, du hý thần thông”.

(5) Duy Ma Kinh: “Nhật nguyệt khởi bất tịnh da, nhi manh giả bất kiến” (Mặt trời, mặt trăng há có phải là bất tịnh đâu? Nhưng kẻ mù chẳng thấy).

(6) Lăng Nghiêm Kinh: “Ngã tích vị thừa chư Phật hối sắc, kiến Ca Chiên Diên Tỳ Đa La Chi Tử, hàm ngôn thử thân tử hậu đoạn diệt, danh vi Niết Bàn” (Xưa kia, trước khi ta được đức Phật răn dạy, gặp các ông Ca Chiên Diên và Tỳ Đa La Chi Tử[6], họ đều nói sau khi thân chết đi sẽ đoạn diệt, đó gọi là Niết Bàn).

(7) Thơ của ngài Bàng Đạo Huyền có đoạn: “Dã lão phụ tân quy, thôn phụ liên tiêu chức, khán tha gia sự mang, thả đạo bằng thùy lực, vấn cừ, cừ bất tri, đặc địa sanh nghi hoặc, thương ta cổ kim nhân, kỷ cá tri ân đức” (Ông lão gánh củi về, mụ quê dệt suốt đêm, thấy người ta bận bịu, hỏi nhờ vào sức ai, hỏi họ, họ chẳng biết, bởi vậy, sanh nghi hoặc, thương ôi, người xưa nay, mấy ai biết ân đức).

(8) Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn Luận: “Tự tánh của bản thể quyết định thường trụ”.

2.2.1.1. Hiện tướng ở Phổ Đà

1. Có lúc thị hiện cho Thuấn Phong trên biển, tướng mãn nguyệt quang minh. Chỉ Sử Hạo nơi vách núi, kim dung chói ngời.

2. Anh lạc chen lẫn, Khâm Sứ họ Phạm chiêm ngưỡng nhiều phen. Bảy báu trang nghiêm, ghi dấu Tào công ba lượt lễ bái.

3. Biệt Truyền vượt biển, mây bỗng trổ sen vàng. Bồng Sơn chúc ly, quang minh ngời chén biếc.

4. Kim tướng vòi vọi, già, trẻ theo Quy Niên cùng nhìn. Bạch y tha thướt, Tăng chúng Phổ Đà chung ngắm.

5. Đắp y ca-sa[7], mặc hậu rộng tay, ông Giám chiêm ngưỡng thánh dung rành rành. Áo khoác ráng trời, xiêm sắc cầu vồng, Đoan Bá nhìn ngắm mê man.

6. Hiện một bên vẻ mặt rồi lại hiện chánh dung, thuận theo tâm họ Trương kiền thành cầu khẩn. Hình tướng rõ rệt hay lờ mờ, nhằm an ủi lòng ông Đinh buồn bực.

7. Cao tăng đốt ngón tay, nhiều đời cùng chiêm ngưỡng. Cụ già xả thân, tùy thời ắt thấy thánh dung.

8. San hô, bích ngọc, chói rực Túy Chiêu. Lọng báu, chuỗi châu, rạng ngời Hồ Vĩ.

9. Mũi chân, gót chân, Vô Ẩn do tin nên gặp gỡ. Bé trai, bé gái, ông Lưu thỏa nguyện hâm mộ.

10. Mẹ con Thúc Hình, thấy ni cô xõa tóc. Đồng bọn Hành Nghĩa, nhìn diệu nữ trang nghiêm.

11. Đốc Tào Nhân Bổn bảo không khác tượng vẽ. Lái buôn Triệu Hỷ than chẳng giống tranh, tượng (tổng cộng hai đoạn)

(1) Theo Phổ Đà Chí, năm Nguyên Phong thứ ba (1080) đời Tống Thần Tông, Nội Điện Thừa Chỉ[8] là Vương Thuấn Phong đi sứ Tam Hàn[9], gặp trận bão, có con rùa lớn đội thuyền, hết sức nguy ngập. Thuấn Phong kinh hãi, hướng về Triều Âm Động dốc lòng cầu khẩn, chợt thấy ánh sáng sắc vàng chói rực, Đại Sĩ hiện tướng mãn nguyệt, chuỗi châu ngọc sáng ngời, từ động đá bước ra, rùa lặn xuống, thuyền bơi tiếp. Trở về đem chuyện này tâu lên, vua ban danh hiệu là Bảo Đà Quán Âm Tự.

Năm Mậu Thìn (1158) trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống Cao Tông, Sử Hạo và Trình Hưu Phủ đến động Triều Âm [triều bái] không thấy gì. Một vị Tăng dạy: “Có hang báu trên đỉnh vách núi, có thể thấy được [Đại Sĩ nơi đó]”. Họ nghe theo lời, chợt [Đại Sĩ] hóa hiện tướng tốt lành, sắc vàng chói ngời, mày mắt rành rành.

(2) Năm Bính Dần (1266) trong niên hiệu Hàm Thuần đời Tống Độ Tông, Phạm Thái Úy[10] mắc bệnh mắt, sai con đến động Triều Âm cầu đảo, múc nước suối rửa mắt. Lành bệnh, lại sai con đi lễ tạ. Đại Sĩ hiện thân bên trái, phảng phất trong làn khói nhạt như được ngăn cách bởi một bức màn bằng sa biếc. Tiếp đó, đến hang Thiện Tài, Đại Sĩ và đồng tử cùng hiện. Đại Sĩ mặc áo the, thắt đai nhẹ, chuỗi ngọc xen kẽ, mắt nhìn lấp lánh như sắp nói điều gì.

Năm Chí Hòa nguyên niên (1054) đời Thái Định Đế nhà Nguyên, quan Ngự Sử Trung Thừa[11] là Tào Lập, vâng mạng tới dâng hương ở động Triều Âm, thấy tướng bạch y, khắp thân đeo anh lạc. Do chưa thuận con nước để nhổ neo, ông ta lại lễ bái, Đại Sĩ lại hiện tướng; đến động Thiện Tài, Đại Sĩ cũng hiện thân ở đó, đồng tử khom mình cung kính, mày, mắt, tóc mây, chuỗi anh lạc bảy báu hiện rõ ràng có thể đếm được từng hạt, những người đi theo đều trông thấy.

(3) Năm Vạn Lịch thứ hai (1574) đời Minh Thần Tông, Biệt Truyền vượt biển đến lễ Đại Sĩ, trong mây chợt xuất hiện đóa sen vàng, thị hiện tướng Bạch Y tha thướt. Ông ta và vị Tăng tên Thúy Vi ở Thành Đô cùng trông thấy.

Năm Đại Đức thứ năm (1301) đời Nguyên Thành Tông, Tập Hiền Học Sĩ[12] là Trương Bồng Sơn phụng chỉ đến làm lễ Chúc Ly[13] ở Phổ Đà, tới động Triều Âm, thấy Đại Sĩ đội mão báu, đeo anh lạc, tay cầm cành dương và chén pha lê biếc. Các đại thần hộ pháp đứng bảo vệ đằng trước, ánh sáng tốt lành tràn ngập cả động.

(4) Đời Tống, quan Cấp Sự Trung[14] là Hoàng Quy Niên lễ động Triều Âm, đích thân thấy tướng tự tại tử kim ngồi trên đá, những kẻ già trẻ đi theo ông ta đều cùng thấy.

Hôm Nguyên Đán năm Khang Hy thứ ba (1664) đời Thanh, tăng chúng trong núi Phổ Đà thấy ánh sáng trắng như cầu vồng từ nóc Phật điện tỏa ra cuộn quanh núi Tiểu Lạc Ca, Đại Sĩ mặc áo trắng cưỡi ánh sáng bước đi. Người hiểu biết bèn đoán sắp có tai nạn xảy ra.

(5) Năm Khang Hy 29 (1690) đời Thanh, Tổng Binh huyện Định Hải là Lam Lý triều yết động Phạm Âm, thấy Đại Sĩ hiện thân: Mày to, mặt đỏ, râu ria rậm rạp, mắt lộ ánh xanh lẫn trắng, chót mũi hơi trắng, đội mão Kim Khuyên Đại Hỏa Diệm, mặc áo ca-sa sắc vàng pha đen, tay rộng, một tượng Phật nhỏ đứng trên đảnh.

Đời Minh, Hoàng Đoan Bá đến lễ Đại Sĩ, cảm Đại Sĩ hiện thân giữa trời, khoác xiêm sắc cầu vồng, áo bào màu như ráng trời, ông ta kinh ngạc, ngỡ là huyễn cảnh[15]. Những chuyện trên đây trích từ Phổ Đà Sơn Chí.

(6) Theo Cư Dị Lục, Trương Hán Nho người xứ Thương Châu đến động Triều Âm, thoạt đầu lễ bái không được thấy Đại Sĩ. Một cụ già bảo muốn thấy thì phải kiền thành cầu nguyện. Ông Trương quỳ cầu đảo, hồi lâu sau thấy kim quang, Đại Sĩ từ trong vách đá hiện ra, đứng cho thấy một bên của Ngài. Ông Trương lại xin nguyện thấy được chánh diện của Đại Sĩ để trở về sẽ phỏng theo đó mà tạc tượng hòng đảnh lễ. Đại Sĩ bèn hướng mặt ra phía biển, xoay lưng vào động, cách ông Trương chỉ trong gang tấc, mái tóc xanh ánh sắc đỏ, cuộn từng lọn tóc mai, gò má cao, sống mũi cao, áo màu lục, mọi người hoan hỷ làm lễ. Cụ già nói: “Nhằm cảm Đại Sĩ thị hiện, ta xả thân quét dọn ở nơi đây, cho tới nay được nhiều lần thấy Ngài”.

Sách Miễn Giới Thiết Yếu Lục chép ông Đinh Triệu Hỷ người xứ Lâm Giang đời Thanh, buôn bán nơi đất Thục, do cầu nguyện cho mẹ được lành bệnh nên đến dâng hương ở động Phạm Âm, thấy hình tượng Đại Sĩ không rõ rệt, liền thầm niệm: “Con từ xa vượt sóng gió, trai giới đến đây, há tấm lòng chưa đủ chí thành ư?” Niệm chưa lâu, chợt thấy Đại Sĩ hiện thân nơi cửa động, áo trắng, một đồng tử áo đỏ đứng đằng trước, chẳng giống với tượng đắp hay vẽ trong thế gian.

(7) Theo Phổ Đà Sơn Chí, năm Đại Trung nguyên niên (847) đời Đường Tuyên Tông, có vị Tăng Ấn Độ đến trước động Triều Âm đốt mười ngón tay. Tay cháy hết, đích thân thấy Đại Sĩ thuyết pháp, trao cho viên đá bằng bảy báu.

Vị Tăng hiệu Đạo Nghi, pháp danh Ngộ Kiên, đốt ba ngón tay cúng Phật, đến Phổ Đà chuyên dốc lòng thành bái yết, được thấy Đại Sĩ. Với câu kế tiếp, xin xem lời chú liên quan trong câu thứ sáu.

(8) Theo Đồ Thư Tập Thành, Vương Tảo tự là Túy Chiêu, vâng theo lời hịch truyền trong quận, đến Phổ Đà Sơn cầu mưa. Do khấn thầm nguyện được thấy Đại Sĩ, chợt thấy có lan can toàn bằng bích ngọc, trên ấy có những nét chạm trổ. Tiếp đó, lại hiện ra những vạch như san hô dài cả mấy thước ở trước mặt một lúc lâu. Ở đằng xa có tượng Bồ Tát, dưới sáng, trên tối, mặc áo trắng, đeo anh lạc, [tượng hiện rõ] rành rành có thể đếm từng hạt [anh lạc] được.

Năm Canh Dần (1230) nhằm niên hiệu Thiệu Định đời Nguyên, quan Quốc Giám là Hồ Vĩ lễ Triều Âm Động, chợt có quang minh sáng rực, một vị Tăng ở bên phải, trưởng giả Nguyệt Cái và Thiện Tài đứng bên trái. Đến động Thiện Tài, đồng tử lại hiện. Lọng báu, tràng kết bằng châu, bày la liệt như rừng trước mặt. Cái tháp bên cạnh tỏa ánh sáng ngời, trong vắt.

(9) Thích Vô Ẩn đời Thanh, tham cứu đắc ngộ, nói: “Danh sơn, sông cái, không đâu chẳng phải là đạo tràng để Bồ Tát hiện bóng. Mũi bàn chân, gót bàn chân, đâu đâu cũng gặp gỡ”. Sư lễ Phổ Đà, cảm Đại Sĩ hiện thân diệu trang nghiêm.

Theo Kỷ Cầu Thư, vào đời Minh, ông Lưu X… ở Mạt Lăng, sanh ra liền ăn chay. Năm hai mươi chín tuổi, triều bái Nam Hải, ngồi trên thuyền phát nguyện được thấy Bồ Tát, chợt trên mặt nước hiện ra hai đóa sen, một đóa có bé trai đứng, đóa kia có bé gái đứng, rồi thấy Đại Sĩ ngồi trên đóa sen to. Họ Lưu lễ bái, trong khoảnh khắc chẳng thấy nữa.

(10) Theo sách Phổ Đà Chỉ Nam, Thịnh Thúc Hình đời Thanh theo mẹ triều bái Phổ Đà. Thoạt đầu, ông ta nghe nói Đại Sĩ hiện thân bèn cười nhạo chẳng tin. Về sau, tại động Phạm Âm liếc nhìn, chợt thấy trên vách đá hiện sắc trắng như bôi phấn; kế đó, nghiễm nhiên hiện hình người, ngũ quan rành rẽ, buông tóc xõa, áo trắng, eo thon, giống như hình trạng tỳ-kheo-ni. Thoạt đầu [Đại Sĩ] ở trong động, rồi bước ra cửa động, càng thấy rõ ràng hơn, ông ta bèn than thở: “Đại Sĩ chẳng thể nghĩ bàn!”, chỉ quỳ mọp, khấu đầu mà thôi. Mẹ ông ta thấy giống hệt như vậy; nhưng những người cùng quỳ lễ mỗi người lại thấy mỗi khác.

Theo Cư Dị Lục, thầy Thích Hành Nghĩa đời Thanh cùng bảy vị du tăng, đội mưa thắp hương ở Triều Âm động, kiền thành cầu đảo, chợt thấy trong động hiện ánh sáng ngũ sắc, có hình tượng Đại Sĩ đứng, trang nghiêm diệu hảo, mang hình tướng nữ nhân. Những vị Tăng kia, mỗi người thấy mỗi khác.

(11) Theo Phổ Đà Sơn Chí, năm Ất Mùi (1355) đời Nguyên Thuận Đế, Lưu Nhân Bổn làm Đốc Tào[16], về đến Phổ Đà, thấy Đại Sĩ ở động Triều Âm chẳng khác gì với hình được họa trong bức vẽ. Đối với câu kế tiếp xin xem lời chú thích thứ sáu.

1. Lại còn Thiện Tài, Long Nữ, chắp tay hầu bên cạnh. La Hán, Vi Thiên, đứng trên mây hộ vệ.

2. Tràng châu, cờ ngọc, la liệt trong sóng, trong mây. Anh vũ, Tần Già bay lượn thơm tho sực nức.

3. Pháp thân chẳng khác, nhưng biến hiện bất đồng.

4. Ví như Xuân về, muôn loài thảo mộc xum xuê, vốn không phân biệt thơm, hôi; trăng in ngàn sông, trọn chẳng nề hà trong, đục.

5. Năm lượt hiện trong triều Vĩnh Lạc, chưa thể truyền sự tốt đẹp hơn xưa. Bức tranh vẽ toàn diện nơi điện Tư Đức, chẳng đủ để bao gồm mai hậu.

6. Bởi thế, Nguyên Quân hối tội, thệ nguyện trang nghiêm. Thịnh Tử dứt nghi, thiết tha lễ bái. Đấy chính là điều thứ nhất trong sự thị hiện của Đại Sĩ vậy (Hoa Nghiêm Kinh: “Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện chủng chủng bất tư nghị sắc tịnh quang minh võng nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dĩ âm thanh, hoặc dĩ oai nghi, hoặc vị thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, linh kỳ tâm ngộ, nhi đắc thành thục” (Hoặc hiện sắc thân để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện các lưới quang minh thanh tịnh có đủ mọi màu chẳng thể nghĩ bàn để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc thuyết pháp cho họ, hoặc hiện thần thông biến hóa khiến lòng họ giác ngộ, được thành thục). Vì thế, hai đoạn đầu cùng ca tụng oai nghi thị hiện).

(1) Theo Phổ Đà Chí, đời Nguyên, Tào Lập đến động Thiện Tài, thấy đồng tử búi tóc xoắn ốc, chắp tay như người sống. Lại nữa, vào thời Vĩnh Lạc nhà Minh, tại động Triều Âm, hiện tướng Bạch Y Đại Sĩ, long vương, long nữ v.v… theo hầu. Lại còn có Vi Đà Thiên Tôn đứng dưới bóng mặt trời, La Hán đạp mây trên biển đến chầu.

(2) Trong bộ Phổ Đà Sơn Ký của Lỗ Vương đời Minh có chép: “Hoa sen, lọng ngọc, cờ tiết[17] bằng ngọc, tràng kết bằng châu, luôn luôn hiện trong mây, sóng”.

Sách Hải Nam Nhất Chước có dẫn Phổ Đà Sơn Chí rằng: “Bình báu, hoa sen, bày la liệt trong sóng biển, Tần Già[18], Anh Vũ, bay lượn trong hương thơm sực nức”.

(3 & 4) Phẩm Vấn Minh của Hoa Nghiêm Kinh có chép: “Diệc như địa giới nhất, năng sanh chủng chủng nha, phi địa hữu thù dị, chư Phật pháp như thị. Diệc như không trung nguyệt, thế gian mị bất hiện, phi nguyệt vãng kỳ xứ, chư Phật pháp như thị” (Như cõi đất chỉ một, sanh ra các thứ mầm, chẳng phải đất sai khác, pháp chư Phật như vậy. Cũng như trăng trên không, đời không đâu chẳng hiện, trăng chẳng đến chỗ ấy, pháp chư Phật cũng vậy). Còn chép: “Thí như tịnh minh kính, tùy kỳ sở đối chất, hiện tượng các bất đồng, nghiệp tánh diệc như thị” (Ví như gương sáng sạch, tùy thể chất vật soi, hiện hình tượng sai khác, nghiệp tánh cũng giống vậy).

(5) Theo Phổ Đà Chí, trong hai ngày Mười Chín và Hai Mươi tháng Mười năm Vĩnh Lạc 21 (1423) đời Minh, Đại Sĩ hiện thân năm lần ở động Triều Âm. Tại Tư Đức Đường ở phía sau núi, có treo bức họa gia bảo do Vương Doanh vẽ hình tướng Đại Sĩ thị hiện tại động Phạm Âm núi Phổ Đà, gồm năm mươi ba lần biến hiện. Hình vẽ này được lưu truyền trong cõi đời.

(6) Theo Phổ Đà Chí, đời Nguyên, Cáp Lạt Ngạt do bị hoa sen bằng sắt ngăn trở thuyền[19] [bèn quay lại Phổ Đà] sám hối, tạ lỗi, đến cầu đảo nơi động Triều Âm, thấy Bạch Y Đại Sĩ hiện thân. Do vậy, bèn đắp tượng trang nghiêm và dựng điện thờ trong động. Đối với câu kế tiếp, coi lời chú số 10 trong đoạn trước.

Ghi thêm: Trầm My Phong là Thái Thú Đài Loan đời Thanh, đến động Phạm Âm thấy Đại Sĩ hiện thân, báo cho biết ông ta sẽ sanh con trai, [đứa con ấy về sau] chính là quan Biên Tu Vinh Bưu.

Năm Dân Quốc 11 (1922), Lưu Khế Tịnh ở Bành Trạch, đến lễ Phạm Âm Động, thấy Đại Sĩ nhiều lượt hiện thân dưới bốn hình tượng [khác nhau]. Do vậy, bèn soạn bài ký Đại Sĩ Hiện Thân.

2.2.1.2. Hiện tướng ở nơi khác

1. Chùa Huệ Cự tại Trường An đua nhau lưu truyền đài Linh Ứng, ngọn Cô Sơn thành Ma Kiệt, nhiều lần xuất hiện tướng trang nghiêm.

2. Trên núi Mộc Bình, thân tượng choàng anh lạc; trong chùa Dục Vương, đảnh đầu đội tháp.

3. Thiên Vương vằng vặc, giống Như Lai quang minh rạng ngời; bóng tháp trùng trùng, có Bồ Tát hương hoa dâng cúng.

4. Thưởng Linh Chi trì giới luật, sáu cánh tay chen sáng; khử mối nghi cho Tăng Nhẫn, hai nắm tay cùng ngời.

5. Pháp Thường tu tập, chiêm ngưỡng thân tướng phi phàm; họ Hạ vẽ chân dung, thấy kim quang chói rực.

6. Phong Tường tụng niệm thiết tha, Ngũ Phong Tự hiện thân; chùa Báo Ân đời Vĩnh Lạc, ngàn vị Phật phóng quang.

7. Lâm Khôi xem kịch, chói ngời thế giới tựa lưu ly, Phổ Minh nói kinh, rủ dương liễu giữa đám mây màu.

8. Rạng ngời trong ánh đuốc Thị Ngự xứ An Dương, hiện nghi dung trên rèm thiện nhân nơi Nam Quách.

9. Ấy là tùy lòng thành để cảm có sâu hay cạn, thuận theo tâm mà ứng. Hoặc do pháp duyên vốn dầy hay mỏng, chạm vật liền thông. Tuy cùng lúc hiện thân, quả thật đã khơi lòng tin chẳng ngớt. Đấy là điều thứ hai trong sự thị hiện của Đại Sĩ vậy.

(1) Theo sách Huyễn Dị Chí, tại hang Linh Mẫu ở phía Nam thành Trường An có chùa Huệ Cự. Phía Tây Nam chùa, có một ngọn núi tên là Linh Ứng Đài. Trên đó dựng tháp, trong tháp thờ tượng Quán Thế Âm bằng sắt. Đại Sĩ từng hiện thân tại đây.

Theo sách Đường Tây Vực Ký, tại Cô Sơn Tinh Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà ở Trung Thiên Trúc, có tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tượng nhỏ nhưng có oai thần. Thường có nhiều người nhịn ăn để cầu Bồ Tát hiện thân. Từ bảy ngày đến một tháng, sẽ thấy diệu tướng trang nghiêm của Bồ Tát từ tượng hiện ra, an ủi, răn dạy người ấy.

(2) Theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, một buổi sáng trong năm Nguyên Phù (1099) thứ hai đời Tống, thái thú Viên Châu là Vương Cổ cầu đảo [xin hãy đổ mưa] tại tháp xá-lợi trên núi Mộc Bình. Từ trong vách đá phóng quang, thấy Đại Sĩ thân kim sắc, đeo anh lạc. Lại đến chỗ tháp Ngưỡng Sơn, thấy Tứ Châu Đại Sĩ[20], Duy Ma, La Hán, đứng hai bên, [trời liền] mưa to [nước nhiều đến nỗi ngấm] ướt chân.

Theo Dục Vương Sơn Chí, Quách Thừa Quýnh đời Minh đến lễ xá-lợi tại chùa A Dục Vương, thấy Quán Thế Âm Bồ Tát trên đảnh có cái tháp nhỏ, ngồi xếp bằng trong lòng tháp [thờ xá-lợi].

(3) Phía Đông phủ Tô Châu có hai chùa Đông Thiên Vương và Tây Thiên Vương. Vào năm Đại Lịch thứ ba (769), chợt hiện ra tượng Xí Thạnh Quang Vương Phật[21] và Tỳ La Quán Thế Âm đầy dẫy.

Theo Đàm Hội, năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), Minh Thành Tổ tới Linh Cốc Tự, nhìn ánh mặt trời chiếu lên tháp, từ tầng thứ hai của tháp thấy tượng Quán Âm sắc đỏ, hai bên có bốn tượng Bồ Tát chắp tay đứng hầu, dâng hương hoa cúng dường.

(4) Đời Tống, ngài Linh Chi trùng tu Ngũ Đài Giới Đàn ở Minh Châu vừa xong, có thần nhân dâng ba viên châu, đặt ở giữa đàn. Châu nhiều lượt phóng quang, trong quang minh có Kim Sắc Phật, hoặc Quán Âm sáu tay, hoặc Thiện Tài, hoặc [trưởng giả] Nguyệt Cái, hoặc long thần dâng châu, hoặc trúc tía, liễu biếc.

Theo Cao Tăng Truyện, tập 3, Tăng Nhẫn đời Đường đọc kinh Đại Bi, đọc đến phần kinh văn nói về bốn mươi hai tay của Bồ Tát, tới đoạn nói về cánh tay Vô Úy, khởi lòng nghi, bèn kết đàn cầu thỉnh. Từ trong hư không, hiện ra hai tay kết ấn rõ rành rành.

(5) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, Pháp Thường đời Đường dốc lòng theo đúng thời khóa tu hành. Vào nửa đêm, ở trong Phật đường thấy Quán Âm Bồ Tát từ ngoài bước vào cửa, đứng trên hư không, thân tướng hoàn mỹ, phi thường, đeo chuỗi ngọc, chiếu sáng ngời hy hữu.

Đời Tống, họ Hạ ở Hú Sơn, Hải Châu, đời đời vẽ tượng Quán Âm rất khéo léo và rất có giá trị. Có một người ăn mày ghẻ lở máu mủ, dơ dáy chẳng ai muốn đến gần, đem một giỏ cá chép đến xin đổi lấy tranh vẽ. Họ Hạ nói: “Nhà chúng tôi không ăn mặn đã nhiều đời, làm sao chấp nhận thứ ô uế này?” Người ăn mày đáp: “Ông vẽ chưa thật giống, ta có bản vẽ đẹp hơn”. Do vậy, bèn quét dọn nhà cửa, dẫn vào, mời ngồi ở phía Nam. Hồi lâu sau, họ Hạ ra xem, thấy đã hiện chân tướng Đại Sĩ, kim quang chiếu tỏa chung quanh.

(6) Vị Tăng tên Phong Tường, pháp danh Dữ Khải, lễ bái, tụng niệm tha thiết ở chùa Ngũ Phong, một đêm nọ đích thân chiêm ngưỡng Đại Sĩ.

Theo sách Hoàng Minh Thông Kỷ, vào năm Vĩnh Lạc 15 (1417) đời Minh, vua ban kinh Phật cho chùa Đại Báo Ân, trong ngôi tháp ở chùa hiện hào quang ngũ sắc, trong ấy có ngàn vị Phật, Quán Âm, La Hán, các thứ diệu tướng đều nhóm họp.

(7) Theo Dạ Đàm Tùy Lục, Lý Lâm Khôi thường cùng mười mấy người cùng trang lứa đi xem kịch. Đêm về, trời tối đen như mực, chợt thấy núi, sông, đại địa cùng phóng quang minh. Ở ngay trước mặt cách mười mấy bước chân, Đại Sĩ hiện tướng báu, cao mấy chục trượng, nét hoa văn trên áo, chuỗi anh lạc sáng ngời như ráng mây, mặt tựa trăng tròn sáng ngời, thần thái dị thường, chiếu rạng tột cùng thế giới đều như lưu ly. Họ Lý vừa chiêm ngưỡng vừa lạy, miệng tụng Phật hiệu không ngừng, những người cùng đi chẳng thấy.

Sư Thích Phổ Minh đời Tống, ở xứ Thiên Trúc, tịnh tọa suốt ba tháng, cảm Đại Sĩ hiện thân, nói rõ hành trạng từ đầu đến cuối. Do vậy, Sư bèn soạn Quán Âm Bổn Hạnh Kinh. Soạn xong, lại cảm Đại Sĩ hiện thân tử kim, tay cầm tịnh bình có cành liễu xanh, đứng giữa đám mây nhiều màu, hồi lâu mới biến mất. Xem chuyện này trong lời tựa bộ Quán Âm Bổn Hạnh Kinh.

(8) Theo sách Nam Hải Từ Hàng, quan Thị Ngự[22] Trương Chi Quý là người huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, trì kinh Quán Âm, rộng hành phương tiện. Về sau, con ông ta bệnh nguy ngập, bèn thỉnh Tăng tụng kinh. Đại Sĩ hiện thân trong ánh đuốc, đại chúng kinh ngạc, cảm thán, đứa con liền hết bệnh.

Theo Tỉnh Am Di Thư, đời Thanh, vị thiện nhân họ Cố ở Nam Quách, cả nhà ăn chay, thờ Phật. Vào ngày Mười Chín tháng Sáu năm Bính Thân (1686) đời Khang Hy, Đại Sĩ hiện thân nơi rèm trúc, nghi dung nghiễm nhiên, trông như một bức vẽ vậy. Ngài Tỉnh Am viết lời tán: “Đại Sĩ hiện dấu tích, rủ lòng ứng quần sanh, đầm lạnh in bóng trăng, hang trống tiếng vang vọng, từ dung chẳng rút nhỏ, rèm trúc chẳng phình to, chân thân từng phiến một, hiện pháp giới vi trần. Ứng duyên mà hiện đến, duyên hết liền rời đi. Ứng hiện như thế nào? Chỉ do lòng Thành cảm”.

(9) Trong bài ký của Lỗ Vương đời Minh có đoạn: “Đại Sĩ linh chân huyền giám, tùy theo sức lớn nhỏ, hay duyên dầy mỏng, lòng Thành cạn hay sâu mà ứng hiện”

2.2.1.3. Hiện tướng nơi gỗ đá

 1. Cây bách cổ thụ xứ Như Tuyền, hiện hình như người sống. Trên gỗ Sam thơm am Thủy Nguyệt, người và chim đều trọn.

2. Giang Đô tạo chiến hạm, hiện bóng hai tràng hoa. Lâm An đốn củi, thấy tượng cao một thước.

3. Cột chùa Bạch Vân chợt hiện bảo châu, khe suối Thiên Trúc, gỗ thơm chuyển tới.

4. Trong đá Uẩn Bích tại huyện Tùng Tư, dựa cội trúc nhập Thiền. Giữa viên Không Thanh của nhà hoàng tộc, lửng ngang trời sống động.

5. Thạch nhũ động Bằng Hư, nước nhỏ giọt thành hình Tự Tại. Khám đá dưới đáy biển, hơi giống đảo Phổ Đà.

6. Tướng báu trang nghiêm, Văn Tĩnh trân tàng[23]. Mài rửa hình ảnh lờ mờ, Nguyên Mô đích thân được thấy.

7. Bản Kiều chặt trúc, mây Từ cao ngang lóng trúc. Họ Cố mài gạch, tượng Tống Tử, Tỳ Kheo cùng hiện.

8. Đấy chính là: Nơi đầu lông hiện cõi nước, chốn phàm vĩnh viễn ngự, vi trần chuyển pháp luân, tai dân quê thường nghe. Đấy chính là sự thị hiện thứ ba của Đại Sĩ vậy.

(1) Theo sách Khoáng Viên, trong năm Tân Dậu (1657) niên hiệu Thuận Trị đời Thanh, phủ Kim Lăng chế thuyền đi biển, ra lệnh cho các quận huyện đốn gỗ. Tại hương trấn Như Tuyền, có cây bách cổ thụ to mười mấy người ôm, bèn cưa chặt. Trong gỗ có hình tượng Quán Âm Đại Sĩ hết sức đoan nghiêm, đẹp đẽ, có đồng tử đứng hầu bên cạnh. Những hình ảnh như gộp đá, suối chảy, rừng trúc, chim Anh Vũ, những chi tiết tỉ mỉ đều trọn đủ, cả hai mặt khối gỗ đều có. Họ bèn đem một mặt gỗ khảm vào vách của Tây Tự tại huyện, mặt kia không biết về đâu.

Theo sách Quân Lang Ngẫu Bút, tại Thủy Nguyệt Am ở Dương Châu, trên gỗ Sam có hình tượng Bạch Y Đại Sĩ nghiễm nhiên, Thiện Tài, anh vũ, rừng trúc đều đầy đủ.

(2) Theo sách Hy Triều Tân Ngữ, vào năm Nhâm Dần (1662) đời Khang Hy nhà Thanh, tại hải cảng chốn kinh thành truyền lệnh tạo chiến hạm. Trong vườn nhà họ Lưu ở Giang Đô có một cây Ngân Hạnh[24] đã mọc mấy trăm năm cũng bị đốn. Cưa ra, trong cây có hai tượng Quán Âm Đại Sĩ, đeo tràng hoa thiên nhiên xinh đẹp. Mọi người kinh hãi than thở, đem cúng cho chùa Phước Duyên.

Theo sách Quái Viên, năm Giáp Thìn (1604) đời Vạn Lịch nhà Minh, ở phía Bắc ngọn núi thuộc huyện Lâm An, thôn dân đốn cây làm củi, thấy trong cây có tượng Quán Âm cao đúng một thước, mày, mắt, y phục, trang sức giống hệt như được chạm trổ, liền thờ trong thôn, hương đèn chẳng dứt.

(3) Theo Di Kiên Chí, trong niên hiệu Thuần Hy đời Tống, có vị Tăng chùa Bạch Vân ở huyện Mân Thanh, do thấy lớp sơn son của cột điện tối tăm, xỉn màu, liền bảo thợ sơn tô phết lại. Do dưới lớp sơn cũ có nét hằn lờ mờ, liền cậy sơn ra, thấy có một viên bảo châu trong cột, trong châu có tượng Quán Âm nhập Định, mày mắt rõ ràng, người xem không ai chẳng cúi đầu dốc lòng lễ kính.

Theo Thiên Trúc Chí, trong niên hiệu Thiên Phước nhà Thạch Tấn[25], vị Tăng xứ Thượng Thiên Trúc là Đạo Dực mộng thấy khe nước trước núi phóng quang, liền tìm được khối gỗ thơm kỳ lạ, cao mấy thước. Bửa ra, bên trong có hình tượng Đại Sĩ do thiên nhiên tạo thành; do vậy, bèn khắc thành tượng.

(4) Theo Diệc Phục Như Thị Tập, tại huyện Tùng Tư tỉnh Hồ Bắc, trong sông sanh ra đá ngũ sắc. Từng thấy có một người dân địa phương nhặt được hòn đá màu xanh nhạt. Lúc mới mài thì thấy trong mạch đá ẩn hiện cành trúc, mài thêm nữa thì thấy cành lá phân minh, ngọn trúc hơi rủ xuống, Đại Sĩ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào thân trúc, pháp tướng trang nghiêm, mắt, mày đều rõ rệt. Về sau có thương nhân mua lại, đem đi mất.

Theo Quái Viên, hoàng tộc nhà Minh ở đất Sở[26] có cất giữ một viên đá màu vàng, to bằng bàn tay, ban ngày tỏa sáng, có tượng Bạch Y Quán Âm, lông mày, tóc, anh lạc, tướng hảo thành tựu, dường như khảm vào hư không, lay động như người sống. Uẩn Bích và Không Thanh đều là tên của những viên đá.

(5) Theo Cư Dị Lục, trong các chỗ núi sông nổi tiếng của đất Điền (Vân Nam), đất Kiềm (Quý Châu), hai động Bằng Hư và Thanh Khê đứng đầu. Những mầm đá ở Thanh Khê là lạ lùng nhất. Động Bằng Hư có thạch nhũ như hình cái chuông, nước nhỏ giọt đọng thành hình Đại Sĩ, La Hán [tinh xảo], dẫu là thợ chạm trổ chẳng thể nào sánh bằng.

Theo Tri Bất Túc Trai Tùng Thư, gần đây có một người tìm được tượng Quán Âm bằng đá trắng ở đáy biển, phía trên tượng lại có am, hơi giống như hình dạng của gộp đá Bổ Đà (Phổ Đà), điêu khắc tinh tế. Về sau, tượng này thuộc về tay một lái buôn ở đất Mân (Phước Kiến).

(6) Theo Đệ Nhất Công Đức Lục, ông Tôn Văn Tĩnh cất giữ một trăm lẻ một khối đá; do vậy, bèn đặt tên chỗ mình ở là Bách Nhất Sơn Phòng. Trong ấy, một khối đá được Văn Tĩnh quý nhất, giấu kỹ, cao chưa đầy nửa thước, trong đá có hình Quán Âm Đại Sĩ, tướng báu trang nghiêm, nét hoa văn trên áo, anh lạc, tỉ mỉ trọn đủ. [Nhìn tượng ấy xong] nhìn vào cái bình phong làm bằng đá Đại Lý, thì thấy [tài nghệ điêu khắc những cảnh như] núi cao, trăng nhỏ, nước rơi, đá lộ, và sóng biển, mặt trời buổi sớm, hạc, nai quẩn quanh bên cội đào v.v… [trong tấm bình phong ấy] chẳng đáng để nói tới nữa!

Theo sách Thiết Võng San Hô, ông Thang Nguyên Mô kể đã từng thấy một viên đá màu xanh dương, to bằng trứng ngỗng nhưng dẹp, phía trên có tượng Quán Âm lờ mờ như bức vẽ, đem mài rửa thì càng hiện rõ.

(7) Theo Nhẫn Am Ngữ Lục, người xứ Bản Kiều chặt trúc, trong mười ba lóng trúc đều có tượng Quán Âm Đại Sĩ.

Theo Nhất Hạnh Cư Tập, ông Cố Văn Diệu, vợ là Tống Thị, chuyên thờ Đại Sĩ. Một đêm kia, con họ là Tấn Phương mộng thấy hai vị Đại Sĩ mặc áo chằm vá rách rưới dường như cầu xin điều gì. Sáng ra, có người đem bức họa Quán Âm có hình dạng như một vị Tăng do Ngô Đạo Tử[27] vẽ và bức tượng thêu Tống Tử Quán Âm đến rao bán, bèn vội trả đúng giá, bồi tranh, sửa chữa như mới rồi đem tặng cho Nguyệt Thanh Am. Đến Tết, Tấn Phương lại mộng thấy hai vị Đại Sĩ bảo: “Sắp ra đi” liền vội đến am xem, thấy treo nơi vách chạn đã lâu, bèn thỉnh về, treo trong tịnh thất, Nhụ Nhân[28] lễ kính không bỏ sót buổi nào. Một hôm, nơi vách gạch của tịnh thất, chợt thấy Đại Sĩ hiện tướng tăng nhân. Tám hôm sau, lại thấy Đại Sĩ hiện tướng Tống Tử Quán Âm[29], Thiện Tài, Long Nữ, trước sau cùng xuất hiện, liền cho khắc tượng lên gạch, kim dung sáng ngời.

(8) Lăng Nghiêm Kinh: “Ư nhất mao đoan, hiện Bảo Vương sát, tọa vi trần lý, chuyển đại pháp luân” (Trong đầu sợi lông, hiện cõi Bảo Vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân). Sách Trang Tử có câu: “Đại thanh bất nhập ư lý nhĩ” (Tiếng tăm to lớn chẳng lọt tai dân quê).

2.2.1.4. Hiện tướng trong loài vật

1. Bèn có nghêu, hàu trong bếp, ba lượt hiện kim dung. Ba ba dưới đáy nồi, hai phen bày diệu tướng.

2. Xương cẳng bò của Hoài Sâm, chất tủy xương ngưng đọng thành vàng. Răng hàm lợn của Vô Cữu, viên châu nơi búi tóc to như hạt thóc.

3. Trứng gà họ Tuân đời Đường, diệu tướng trang nghiêm. Kén tằm họ Đàm, nghiễm nhiên tướng hảo.

4. Phàm giết hại loài vật như thế, chính là làm thân Phật chảy máu.

5. Riêng thương xót con một, thay chúng sanh chịu khổ. Đấy là sự thị hiện thứ tư của Đại Sĩ.

(1) Theo Truyền Đăng Lục, vua Đường Văn Tông thích ăn hàu. Một hôm, ngự soạn[30] có một con hàu to, dao bửa không được, vua tự tay bửa lấy thì vỏ hàu tách ra, bên trong là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Vua kinh dị, đựng trong hộp gỗ đàn hương bịt vàng, thờ trong chùa Hưng Thiện.

Theo sách Di Kiên Chí, Du Tập đời Tống làm Thái Úy huyện Hưng Hóa, ngồi thuyền ngược sông Hoài. Nhà thuyền hằng ngày mua nghêu, hàu làm thức ăn. Ông Tập thường mua lại, thả xuống sông. Ngẫu nhiên họ mua được một con nghêu to, ông Tập trả giá gấp bội mà vẫn không chuộc được. Họ liền bỏ vào nồi, chợt vang ra tiếng lớn, ánh sáng hừng hực toả lên. Nhìn vào, con nghêu đã tách vỏ, hiện ra tượng Quán Âm Đại Sĩ, tướng hảo đoan nghiêm, áo, mão, anh lạc, và lá, cành trúc đều do những viên ngọc trai nhỏ kết thành. Ông Tập bảo nhà thuyền niệm Phật sám hối, đem tượng về thờ trong nhà.

Lại nữa, ông Trịnh Bá Dần thấy tượng Quán Âm trong một con nghêu ở Sở Châu, diệu tướng trang nghiêm, cành dương, tịnh bình đều đủ.

Theo Đông Pha Tạp Ký, Ngô Bích là người đất Mân, từng tới nhà viên Trung Thừa họ Kim ăn tiệc. Họ nấu ba ba, gỡ thịt ba ba ra, thấy trong ấy có một tượng Quán Âm, đầu đội lúp vàng, áo trắng, đeo trang sức, mày, mắt, áo, xiêm như vẽ, tay phải rủ xuống, tay trái đặt lên ngực, chân đứng trên hoa sen. Khách dự tiệc không ai chẳng kinh hãi, liền sai đổ canh đi. Dựa theo chuyện này, Quái Viên viết chuyện Hà Bích.

Theo Âm Chất Văn Tân Biên, Dương Hiếu Chiêm ở Tô Châu thích ăn ba ba. Một hôm, đầy tớ vừa mổ ba ba, thấy có tượng Quán Âm Đại Sĩ rành rành, kinh hãi, chùn tay, cả dao lẫn thịt ba ba đều vứt xuống sông. Chạy đi báo với họ Dương, Dương giận dữ, quở là bịa chuyện, hết sức trách phạt. Đầy tớ thưa: “Con đền mạng chứ không dám giết!” Dương nói: “Đem ra chợ, ắt có người giết”; ông ta vừa đi vào trong nhà, thấy con ba ba vừa mua trước đó, lển nghển bò ra. Họ Dương bảo: “Quả nhiên mày nói dối tao, nay nó vẫn còn đây mà!” Ép đầy tớ đem ba ba đi nấu, Dương ăn vào được một lúc liền chết tươi.

(2) Theo sách Hải Nam Nhất Chước, sư Thích Hoài Sâm thấy bầy chó trong thôn giành nhau gặm một cái xương cẳng bò, cắn nhau điên cuồng không ngừng, dùng gậy đuổi không được. Do vậy, bèn đoạt lấy, chẻ ra, chất tủy xương bên trong đông cứng như vàng, thành hình tượng Bồ Tát, hoa văn trên áo, chuỗi ngọc, tướng hảo lạ lùng đẹp đẽ.

Theo Cư Sĩ Truyện, vào đời Tống, có người dân ở huyện Hoạch Gia mổ lợn để cúng tế. Có con chó săn gặm xương đầu lợn, gằm ghè suốt bốn ngày nhưng không nhá được. Chẻ ra xem, thấy trong răng hàm lợn có một tượng Như Lai, trên búi tóc có một hạt châu to bằng hạt thóc, nhắm mắt, ngồi xếp bằng, tròng mắt ẩn kín. Triều Vô Cữu bèn viết lời tán dương.

Theo Quái Viên ghi chép, phía sau chuyện Đại Sĩ hiện thân tướng trong con ba ba ở bếp nhà viên Trung Thừa họ Kim có câu: “Nhưng chuyện tượng Quán Âm hiện trong răng lợn của người đời Đường vẫn chưa đủ gọi là hiếm có”, tức là đã lầm Tống thành Đường vậy.

(3) Theo Dị Văn Lục, vợ người đầu bếp nhà họ Tuân đời Đường cầm mấy quả trứng, làm rớt xuống đất, bên trong có tượng Quán Âm Đại Sĩ ngồi trên hoa sen, Thiện Tài, Long Nữ chầu hầu hai bên, tịnh bình, cành dương. Sách Quái Viên Bút Ký cũng chép chuyện này.

Di Kiên Bính Chí ghi: “Ở nhà Đàm Tăng, tôi thấy trong kén tằm có tượng nhỏ, hình trạng giống như Quán Âm”.

(4) Theo giới luật, làm thân Phật chảy máu là một tội trong Ngũ Nghịch.

(5) Niết Bàn Kinh: “Bồ Tát tu từ bi hỷ, đắc trụ cực ái nhất tử chi địa. Hà danh nhất tử? Như phụ mẫu ái tử yểu vong, nguyện dữ bình mạng, Bồ Tát diệc nhĩ” (Bồ Tát tu từ bi hỷ, đắc địa vị Cực Ái Nhất Tử. Vì sao gọi là Nhất Tử (con độc nhất)? Giống như con yêu của cha mẹ chết mất, nguyện bỏ mạng theo con, Bồ Tát cũng giống như thế). Phẩm Thập Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm có câu: “Ngã đương phổ vị chúng sanh, ư nhất thiết thế giới ác thú trung, tận vị lai kiếp, thọ nhất thiết khổ, bất linh chúng sanh đọa địa ngục. Ngã đương ư bỉ địa ngục, súc sanh, Diêm La Vương đẳng xứ, dĩ thân vi chất, cứu thục nhất thiết ác đạo chúng sanh, linh đắc giải thoát” (Tôi sẽ vì khắp chúng sanh trong đường ác nơi hết thảy thế giới, đến tột cùng kiếp vị lai chịu hết thảy nỗi khổ, chẳng để cho chúng sanh đọa vào địa ngục. Tôi sẽ ở trong những chỗ địa ngục, súc sanh, Diêm La Vương v.v… ấy, đem thân thay thế hòng cứu chuộc hết thảy chúng sanh trong ác đạo khiến họ được giải thoát).

2.2.1.5. Hiện quang minh

1. Bèn có chuỗi anh lạc từ triều đình trả lại, sắc tối tăm bèn sáng bừng. Hiện Bảo Sơn cho Khâm Sứ, giữa đêm [mà thấy rõ ràng] như vẽ.

2. Hình truyền vách Đông, sáng rực hai cung Đường, Tống. Tượng thờ Tây Thiên, ba đạo quang minh xông ngất mây trời.

3. Bước khỏi Lạc Ca, sắc hiện như cầu vồng. Thiên Trúc công thành, quang minh át mặt trời.

4. May gặp dịp thánh đản, có châu quang tại động Triều Âm. Nhằm lễ cầu phước cho hoàng thất, hiện kim sắc thanh lương.

5. Tôn xưng bà Ngô, bình tịnh thủy phát sanh linh cảm. Thờ tại Qua Châu, gương tỏa viên quang chiếu sáng tột cùng.

6. Bài ký ghi chuyện Lôi Phong thọ giới, sáng rực khắp sân. Mừng được Vương Diễm đón về, quang soi ba thước.

7. Ngoài màn bệnh Tăng, thấy rõ gót vàng. Bên bãi dân chài, đầu sắt tỏa ngời ánh lửa.

8. Sùng Thánh ghi chép cảnh tượng lớn lao, tướng bạch hào còn mãi. Từ Lâm vui tu lễ bái, đóa liên hoa thường tỏa quang minh.

9. Tả Khê dốc lòng niệm, sắc màu hệt mây trời. Khai Quýnh trọn chí thành, vách chùa ngời kim sắc.

10. Ấy là vì chúng sanh Phật tánh vốn sẵn Ma Ni, Bồ Tát làm duyên huân tập, dường như gương sáng.

11. Bổn Giác, Thỉ Giác ngầm hợp, liền không ngăn cách ta – người.

12. Thần châu rực rỡ, chẳng do bên ngoài mà có. Lưới thiên đế trùng trùng, vốn sẵn giăng xen. Đấy chính là sự thị hiện thứ năm của Đại Sĩ vậy.

(1) Theo Thiên Trúc Chí, tượng Quán Âm ở chùa Thượng Thiên Trúc thân đeo anh lạc đều làm bằng thất bảo do nhà Tống ban tặng, quý báu, hiếm có trên đời. Sau khi Hàng Châu quy phục, do thấy chuỗi anh lạc có thần quang, [quan lại địa phương] bèn đem dâng lên triều đình. Đến kinh sư, chuỗi anh lạc mờ câm không sáng nữa. Vua bèn bảo: “Nếu muốn trở về chùa Thiên Trúc, mong đến lúc… sẽ lại phóng quang minh”. Tới kỳ hạn, thần quang ngút trời, bèn rước trở về [chùa Thượng Thiên Trúc].

Theo Phổ Đà Chí, Thị Lang[31] Lưu Đạt và Cấp Sự Trung Ngô Sức đời Tống cùng đi sứ Cao Ly trở về. Suốt bốn ngày đêm, trăng tối, mây dầy, chẳng biết phương hướng. Thủy thủ kinh hoảng, bèn hướng về phía Đại Sĩ lễ bái, trong khoảnh khắc, thần quang ngập tràn mặt biển, bốn phía sáng trưng như ban ngày, thấy núi Chiêu Bảo, liền lên được bờ.

(2) Đời Lương, Trương Tăng Do vẽ tượng Quán Âm và Thế Chí ở vách Đông chùa Thiện Tịch tại Đức Dương, hào quang chiếu bốn phía. Đến đời Đường, Võ Tắc Thiên hạ lệnh thỉnh tượng vào cung, ánh sáng càng rực rỡ. Đường Trung Tông càng thêm khen ngợi khôn cùng. Đến đời Tống, Trần Thánh Du có được hai bức tượng này, rất quý trọng. Năm Chánh Hòa thứ sáu (1116), đem dâng lên Tống Huy Tông. Vua sai vẽ lại để giữ trong cung cấm, ánh sáng càng sáng ngời.

Theo Thiên Trúc Chí, năm Chí Chánh 20 (1360) đời Nguyên, đất Hàng mắc nạn đao binh, chùa cháy sạch, thánh tượng chẳng biết lạc về đâu. Thừa Tướng đăng bảng vàng tìm tượng, bèn tìm được tượng trong trảng cỏ, rước về an trí tại chùa Tây Thiên. Khi ấy, tượng phóng quang minh to lớn, chiếu tận trời thẳm, chia thành ba tia sáng. Một tia chiếu về phương Đông như hướng tới Phổ Đà. Một tia chiếu về Thượng Thiên Trúc, một tia chiếu về phía chùa Tây Thiên hiện thời, đại chúng càng thêm kính ngưỡng.

(3) Đối với câu trước, xin xem lời chú thích thứ tư trong phần hiện tướng ở Phổ Đà. Theo Thiên Trúc Chí, vị Tăng tên Đạo Dực khắc tượng xong, bạch quang tỏa sáng ngời, ban đêm ánh sáng ấy chói mờ các ngọn đuốc, ban ngày che lấp ánh sáng mặt trời.

(4) Theo Phổ Đà Chí, vào đêm Mười Chín tháng Hai năm Chánh Thống thứ hai (1437) đời Minh, Đại Sĩ hiện bảo châu nơi động Triều Âm, phóng đại quang minh.

Năm Khang Hy 50 (1711) đời Thanh, Tri Phủ Mã Trụ Thạch đến Phổ Đà chủ trì đạo tràng Chúc Ly, cảm Đại Sĩ phóng đại viên quang kim sắc trên rặng núi Thanh Lương.

(5) Theo Thiện Nữ Nhân Truyện, vợ của Lã Hoằng đời Tống là Ngô Thị thờ Đại Sĩ có linh cảm. Vì thế, được người ta gọi là Quán Âm Huyện Quân[32]. Trong tịnh thất, bà ta để mấy chục cái bình, chứa đầy nước sạch, tay cầm cành dương tụng chú, cảm Đại Sĩ phóng quang chiếu vào bình.

Vợ chồng ông X… ở Qua Châu, thờ ba tượng Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền Đại Sĩ, sáng tối lễ bái. Năm Vạn Lịch 13 (1585), ba tấm gương sau tượng[33] ban đêm phóng đại quang minh chiếu khắp cả nhà, suốt cả ba đêm như thế.

(6) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, trong niên hiệu Nguyên Phong, ngài Lôi Phong Huệ Tài thọ giới nơi các vị như Linh Chi Chiếu v.v… Tượng Quán Âm phóng quang, giảng đường sáng bừng. Ngài Tịnh Từ Thủ Nhất có viết bài Giới Quang Ký.

Đời Lưu Tống[34], Vương Diễm thuở nhỏ sống tại Giao Chỉ, vị Tăng tặng cho tượng Quán Âm để cúng dường. Về sau, trở về kinh, lễ kính không mệt mỏi. Do sửa nhà, phải gởi tượng vào chùa Nam Giản. Mấy tháng sau, chợt mộng thấy tượng đứng trong một xó, bèn đón về. Đêm ấy, tượng Phật trong chùa đều bị trộm sạch. Về sau, tượng phóng quang xa tới ba thước, kim quang lóa mắt.

(7) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, đời Ngụy, sư Đạo Thái mộng thấy có người bảo: “Ông sẽ mất năm bốn mươi hai tuổi”. Đến năm ấy bị bệnh, một người bạn khuyên quy y Đại Sĩ, liền kiền thành tụng niệm suốt bốn ngày đêm không ngừng. Chợt thấy dưới tấm màn ở chỗ đang ngồi có quang minh từ ngoài cửa chiếu vào, thấy gót chân Quán Âm kim sắc chiếu sáng ngời, bảo Đạo Thái: “Ngươi niệm Quán Âm phải không?” Đạo Thái vén màn cúi đầu lễ thì đã không còn thấy nữa, liền được sống thọ.

Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 13 (1674) đời Thanh, có mấy chục chiếc thuyền chài đậu ở bãi Thiên Bộ Sa. Ban đêm chợt thấy ánh lửa sáng tận trời; sáng ra thấy một đầu tượng Phật nằm giữa cát, chẳng biết là từ đâu mà có, mới biết ánh sáng ban đêm chính là Phật quang, liền khênh về thờ tại chùa sau.

(8) Theo Nhĩ Hải Tùng Đàm, chùa Sùng Thánh ở phía Nam thành Đại Lý đất Điền (Vân Nam) tạo tượng Đại Sĩ bằng đồng, cao hai trượng bốn thước, eo thon, chân trần, giống như tranh vẽ của Ngô Đạo Tử. Tượng đúc xong, bạch hào quang phủ lấp suốt ba ngày ba đêm. Đến nay vào khoảng chuyển mùa giữa Xuân và Hạ, cũng thường phóng quang.

Ngài Thích Hoằng Tán đời Thanh muốn báo ân cha mẹ, dùng vải bạch điệp vẽ tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi. Tượng vẽ xong, nhóm đại chúng giảng Đại Bi Sám, tu tập, lễ bái suốt hai mươi mốt ngày, cảm Đại Sĩ phóng kim sắc quang, tay cầm hoa sen xanh và hồng, nhiều lượt phóng bạch quang. Về sau, hễ ai lễ bái, tu tập trước tượng, từ hoa sen thường phóng ra bạch quang. Do vậy, bèn soạn bộ Từ Lâm Tập.

(9) Theo Cao Tăng Truyện tập 3, ngài Tả Khê Huyền Lãng đời Đường vẽ tượng Quán Âm nơi vách điện, đốt hương chú tâm niệm, cảm được ngũ sắc quang. Đạo tục đều chiêm ngưỡng, than là chưa từng có.

Theo Từ Lâm Tập, Thích Khai Quýnh mắc bệnh, thở ra không hít vào được. Khai Quýnh nhất tâm niệm danh hiệu Đại Sĩ, dần dần lành bệnh. Do vậy, nghiêm túc, thành kính vẽ tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn: Người vẽ dùng giấy che mũi, giấy lẫn mực đều được gia trì bằng thần chú. Đêm vẽ xong tượng, quang minh sáng ngời, vách chùa Từ Lâm đều như sắc vàng ròng.

(10) Viên Giác Kinh: “Thí như thanh tịnh Ma Ni bảo châu, ánh ư ngũ sắc, tùy phương các hiện, viên giác tịnh tánh hiện ư thân tâm, tùy loại các ứng, diệc phục như thị” (Ví như bảo châu Ma Ni thanh tịnh tỏa ngời ánh sáng năm màu, phương nào cũng hiện, tánh Viên Giác thanh tịnh hiện trong thâm tâm, ứng theo từng loại cũng giống như thế).

Khởi Tín Luận: “Thể tướng của Giác có bốn nghĩa lớn, ví như gương sạch. Duyên thứ tư huân tập cái gương, nghĩa là nương theo pháp để xuất ly, chiếu khắp tâm chúng sanh khiến họ tu thiện căn, ứng theo tâm niệm mà thị hiện”.

(11) Khởi Tín Luận: “Nghĩa của Bổn Giác là đối ứng với Thỉ Giác để nói, bởi lẽ Thỉ Giác cũng giống như Bổn Giác[35]”.

(12) Lăng Nghiêm Kinh: “Phương ngộ thần châu, phi tùng ngoại đắc” (Mới hiểu rằng viên thần châu chẳng phải do bên ngoài mà được). Trong phần giảng về sự xen lẫn của thân và cõi nước, Thể và Dụng thấu triệt lẫn nhau, kinh Hoa Nghiêm có dùng nghĩa “các viên châu nơi cái lưới của Đế Thích hiện bóng, chiếu rọi lẫn nhau”.

2.2.1.6. Hiện thần thông, biến hóa

 1. Bèn có: Nơi tịnh thất bà Trần, trên tòa hiện thân vàng. Trong bình bà cụ Trịnh, tiền chảy thành tượng báu

2. Ngăn thuyền nhằm cảnh tỉnh, sen sắt nở tầng tầng. Chặn di dân khỏi biển, chiếc bát vàng chợt nổi.

3. Giữa sóng Giang Âm, yểng báo chuông trở về. Ni am nước Sở, bồ câu vẽ thánh tượng.

4. Giúp núi Điểm Thương đúc tượng, ngòi rãnh chảy đồng lỏng. Thành tựu khuôn chùa Thiên Trúc, núi Vân Phòng lở đất.

5. Gương Phong Môn, hiện ảnh Đế Thích, chư thiên. Động Triều Âm, hóa hình Diêm La, ngọc nữ.

6. Trí Cần hiếu dưỡng, thấy cành cành ngồi chật Như Lai. Tâm Đạt lòng thành, mộng lá lá in hình Bồ Tát.

7. Quốc vương soi gương, hiện bóng núi thần. Phổ Minh đúc chuông, ngân vang huyện bạn.

8. Thánh tượng Thọ An, từ biển giạt vào. Túi kinh Đổng Cát, từ nước vọt lên.

9. Tay nắm xương Lợi Tân Bồ Tát, cách đêm vẫn còn. Thân hiện vẻ dung nhan thiên nữ, trong khoảnh khắc ba phen biến hóa.

10. Trong lò bà Tôn, vươn đóa sen xanh. Trai phòng ông Mậu, trúc rủ lọng biếc.

11. U Khê gia bị, thân hóa hiện chuông vàng. Phổ Đà hiển linh, cánh hoa trôi nâng ngón.

12. Chùa Quang Phước tôn sùng kim thân, vốn trồi lên từ giữa bùn lầy. Thánh tượng đến xứ Hồi Long, đất thù thắng chẳng lo nước lụt.

13. Phác Lão chùa Thanh Nguyên, vách hiện hoa sen. Cô gái xứ Bình Tuyền, giường ngăn dương liễu.

14. Thiện Tài thoát nạn, nhặt áo da dê, đào, táo. Trâu Hạo tụng kinh, hiện điềm lành xá-lợi, cành tre. Những chuyện như vậy là do Như Huyễn tam-muội, nào có phải hư huyễn, thần kỳ! Hãy nên biết đấy là Đối Trị Tất Đàn, tâm bi mẫn thật ban rộng khắp. Đấy chính là sự thị hiện thứ sáu của Đại Sĩ vậy.

 (1) Theo Biện Chánh Luận, đời Đường, vợ ông Trần Nguyên Phạm là Trương Thị nhất tâm thờ Phật, luôn nguyện tạo tượng Quán Âm để thờ phụng, nhưng thiếu tiền bạc, chẳng thể thỏa nguyện. [Trải qua một thời gian sau], chợt có một tượng Quán Âm bằng vàng, cao chừng năm thước hiện trên tòa cao, tỏa ánh sáng nhiều màu chiếu bốn phía, mọi người đều than lạ.

Theo sách Nam Hải Từ Hàng, đời Tống có bà lão họ Trịnh ở Ngô Giang xin tiền nơi chợ, cất trong bình, muốn thuê vẽ thánh tượng [Quán Âm]. Chợt hàng xóm hỏa hạn cháy lan. Bà cụ tìm được cái bình cũ trong đám tro tàn, tiền đã bị nung chảy thành tượng báu Đại Sĩ, cao chừng một thước, chuỗi anh lạc, tịnh bình, cành dương đều trọn đủ, khéo léo, tinh xảo tuyệt diệu.

(2) Phổ Đà Chí có nói về nguyên do của cái tên “biển Liên Hoa”. Một là dưới thời hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Lương, vị Tăng Nhật Bản tên là Huệ Ngạc, lấy tượng Quán Âm từ núi Ngũ Đài đem về nước mình. Đi đến nơi đây, khắp biển nẩy sanh hoa sen sắt, thuyền không thể tiến được. Hai là khi Tống Thái Tổ sai Vương Quý đến núi lễ Phật, Quý nghĩ: “Giữa chốn biển khơi sóng vỗ ào ạt, làm sao có Bồ Tát được?” Lúc trở về, liền có hoa sen sắt ngăn thuyền. Ba là tướng nhà Nguyên tên Cáp Lạt Ngạt bái yết động Triều Âm, chẳng thấy gì, bèn giương cung bắn vào động. Quay thuyền trở về, khắp biển chợt trổ đầy hoa sen sắt. Bốn là Minh Thái Tổ sai Thang Hòa đến Phổ Đà, muốn phá chùa. Thuyền đậu cạnh núi Chiêu Bảo, chợt mặt biển hiện ra hoa sen sắt, cánh hoa sáng rực như sắc vàng nung, xông chiếu khắp trên dưới, thuyền đi chẳng được phải quay lại. Hơn nữa, Thang Hòa toan dời dân đảo đi nơi khác, thấy trên mặt biển nổi lên một cái bát vàng, nay hãy còn tên núi là Kim Bát Vu Sơn (núi bát vàng).

(3) Theo Quái Viên, chùa Quán Âm ở Giang Âm được trùng tu vào thời Gia Tĩnh nhà Minh, không có chuông. Một hôm, ngoài sông trôi tấp vào hai cái chuông to, sóng dữ vỗ vào chuông, tiếng vang mấy dặm. Trên mỗi chuông có một con yểng đậu, kêu liên tục: “Chuông trong chùa Quán Âm”. Dân cư bèn đưa một chuông vào chùa, chuông kia để xuôi theo dòng, chẳng biết về đâu.

Đời Tống, chùa Thiên Tiên ở Tương Dương, trên vách điện vẽ hình Thiên Thủ Quán Âm. Tương truyền, đầu niên hiệu Vũ Đức đời Đường, vị ni trong chùa tìm thợ vẽ hình; có một cặp vợ chồng bế đứa con gái đến xin nhận vẽ, hạn định bảy ngày sẽ vẽ xong cả điện. Đến ngày thứ sáu, bà ni nghi ngờ, đẩy cửa vào, thấy vắng lặng, có hai con bồ câu bay vụt đi. Thánh tượng đã vẽ thành, chỉ có tay kết ấn là chưa vẽ xong.

(4) Chùa Sùng Thánh ở phía Tây đất Điền nằm dưới chân núi Điểm Thương, to lớn, đẹp đẽ, tinh xảo, lợp ngói lưu ly[36], sàn và lối đi lót toàn bằng đá Điểm Thương. Trong niên hiệu Thiên Bảo, tăng sĩ nhà chùa quyên mộ tạo tượng Đại Sĩ. Còn chưa đủ số thì ban đêm trời mưa to, ngòi rãnh đều tuôn ra chất đồng lỏng, bèn khởi công đúc tượng đồng. Tượng toàn bằng đồng vàng, chỉ có dưới chân là bằng đồng đỏ, ấy là vì đồng không đủ, cho nên Đại Sĩ ban thêm. Chỗ đồng đắp thêm vào có kẽ hở to bằng cây kim, ghé tai nghe như có tiếng sóng vỗ oàm ạp trên sông. Ghé miệng hút thì cam lộ đầy miệng. Xem chuyện này trong sách Nhĩ Hải Tùng Đàm và Liễu Nhai Ngoại Biên.

Theo Hồ Nhuyên Tạp Ký, trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, Thích Hối Sơn đúc tượng Đại Sĩ bằng đồng ở chùa Thiên Trúc, muốn làm khuôn đúc tượng, nhưng khó tìm được đất. Chợt gặp cơn mưa lũ, núi bị lở, chỗ núi lở phía sau Bạch Vân Phòng lộ ra toàn là đất sét nhiều đến một trăm thạch, đủ dùng [để làm khuôn].

(5) Theo Quái Viên, phía trong cửa Phong Môn thành Tô Châu, có vợ chồng nhà nọ thờ Quán Âm. Nơi tấm gương treo phía sau tượng, chợt hiện bóng hạc bay vờn trong mây. Lại hiện hoa sen nhiều màu và hình tướng Đế Thích, chư thiên, cả vạn người đến xem.

Theo Phổ Đà Chí, năm Tuyên Đức thứ hai (1427) đời Minh, trong động Triều Âm hiện tướng Diêm La Thiên Tử, có hai ngọc nữ đứng hầu.

(6) Theo Cao Tăng Truyện tập 2, sư Trí Cần đời Đường tinh thành, dũng mãnh, việc làm đều được ngầm gia hộ. Mẹ Sư bị bệnh gầy mòn, Sư siêng năng vì mẹ niệm Quán Âm, lá cây trong nhà đều hiện hình hóa Phật, cả nhà cùng thấy, bệnh mẹ liền lành.

Theo Linh Cảm Phú, Thích Tâm Đạt trụ tại Phong Tra Am ở Ninh Hải, chí thành lễ Quán Âm, mộng thấy những chiếc lá trên cây trong sân đều hiện hình Quán Âm, đạo tâm càng thiết tha.

(7) Theo Đường Tây Vực Ký, xưa kia, quốc vương Tăng Già La ở Nam Hải lấy kính soi mặt, chẳng thấy mặt mình mà thấy trong rừng cây Đa La ở nước Ma Kiệt Đà, có ngọn núi nhỏ, trên núi có tượng Quán Âm Bồ Tát. Do vậy, bèn vẽ hình lại cho người đi tìm, chỉ thấy Cô Sơn là gần giống. Vì thế bèn dựng tinh xá, đây chính là nơi Đại Sĩ thị hiện.

Vị Tăng đời Tống là Phổ Minh tu Quán Âm Sám Pháp, được thấy Đại Sĩ. Về sau đúc chuông, tiếng chuông vang xa đến bảy mươi dặm.

(8) Theo Hiện Quả Tùy Lục, Trương Đại Trị trấn thủ Sùng Xuyên, có tượng Đại Sĩ từ ngoài biển giạt vào, thỉnh tượng đến phía Nam thành, tu bổ ngôi chùa cổ Thọ An để thờ phụng.

Theo Minh Tường Ký, đời Tấn, Đổng Cát tụng Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh rất tinh tấn, có ai bị bệnh mời ông đến tụng kinh phần nhiều lành bệnh. Có người cùng chí hướng là Hà Hoảng Giả trúng độc, vội cho mời ông. Đi giữa đường, nước suối tràn dâng, chẳng thể đi được nữa. Ông Cát nói: “Con cứu nạn gấp cho người ta, chẳng tiếc thân mạng, xin đức Phật và Quán Âm hãy thầm soi xét lòng thành” rồi đội túi kinh lên đầu, nhào xuống nước lội qua. Lẽ ra nước phải lút đầu, nhưng chỉ ngập tới gối. Lên được bờ, túi kinh rơi mất, vừa buồn vừa hối hận. Đến nhà ông Hoảng, thấy túi kinh đặt trên tòa cao, buồn vui xen lẫn, nâng lên xem, kinh vẫn khô như cũ. Khi ấy, người trong thôn đều tin theo Phật.

(9) Theo Cảm Thông Lục, ông Lưu Tát Ha đời Tấn, cõi đời gọi là Lợi Tân Bồ Tát, mất đi, xương vụn như hạt quỳ (hạt hoa hướng dương). Hễ ai mắc tai chướng liền đến chỗ ông mất tìm [xương ông] trong cát, sỏi; hễ tìm được thì cát, không tìm được thì hung. Có người tìm không được, bèn tìm ở phía bên trái tượng Quán Âm, đến tối lạc mất. Sáng hôm sau đi tìm, thấy vẫn ở trên tay của tượng. Trong Bắc Tề Thư[37], nơi tiểu truyện của Từ Chi Tài có chép: Vào đầu niên hiệu Vũ Thành, ông Từ thấy trên không trung có vật năm màu, đến gần, vật ấy biến thành một phụ nữ, thân cao mấy trượng, trong khoảng bữa ăn, biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát.

(10) Đời Minh, ông Trần Trang Tĩnh thờ Phật, gả con gái cho họ Tôn. Ngày Mười Chín tháng Sáu năm Vạn Lịch thứ 5 (1577), mở hội Quán Âm Trai. Trai hội xong, đốt giấy trong lò; lúc tro sắp nguội, bèn đặt lò dưới bàn Phật. Từ trong lò chợt vươn lên một cành sen xanh hãy còn ngậm búp, sắc biếc dường như nước đọng. Ba hôm sau, do bị một bà bầu sờ vào, hoa liền bị héo.

Theo Quái Viên, Mậu Nguyên đời Minh là người huyện Thường Thục, trong trai phòng[38] thờ tượng Quán Âm. Trong niên hiệu Vạn Lịch, Mậu Nguyên đi dự lễ Chúc Ly ở chùa Thiên Trúc trở về, chợt thấy dưới tòa Đại Sĩ trổ một búp măng. Trong nửa tháng, măng mọc dài hơn một trượng; từ chót đầu búp măng lại trổ những giò măng, nhánh dài rũ xuống, những nhánh ngắn cong lên kết thành hình cái lọng biếc, che đầu Đại Sĩ.

(11) Đời Minh, đạo tràng U Khê tại núi Thiên Thai đúc chuông to. Thị giả Hữu Pháp trì Phổ Môn Phẩm một ngàn biến để cầu gia bị, mộng thấy Bồ Tát hóa thân làm hồng chung, kim quang chói ngời. Tụng kinh đủ số thì chuông đúc xong.

Theo Phổ Đà Chí, tượng Quán Âm Bất Khẳng Khứ cũ nhiều lượt hiện sự thần dị. Viên quan đứng đầu quận bèn thỉnh tượng vào thành để cầu phước cho dân. Chợt có vị Tăng đi đến, xin gỗ quý để khắc. Tượng khắc xong, chẳng biết biến đâu mất! Đến niên hiệu Gia Định đời Tống, ngẫu nhiên tượng bị sứt mất một ngón tay. Sau này, ở trước động, giữa sóng nổi lên một cánh hoa, nhìn kỹ thì ra là ngón tay bị mất [ở ngay trên cánh hoa đó]. Tượng đang được thờ hiện thời chính là tượng này.

(12) Theo sách Hải Nam Nhất Chước, vào năm thứ mười mấy thời Đạo Quang nhà Thanh, Tuần Phủ tỉnh Giang Tô là Lâm Tắc Từ tâu lên vua: Trong năm Khang Định nguyên niên (1040) đời Tống, bị đại hạn, chợt có tượng Quán Âm bằng đồng từ bùn lầy trồi lên, đem thờ trong chùa Quang Phước ở núi Đặng Úy thuộc Ngô Huyện, trời liền đổ mưa to. Từ thời Nguyên, Minh trở đi, mỗi lần bị hạn hán hay lụt lội, cầu đảo liền ứng nghiệm ngay. Năm trước hạn hán, thỉnh tượng nhập thành, nhiều lượt mưa thấm đẫm. Năm nay, vào lúc giao mùa giữa Xuân và Hạ, vừa mới khấn thầm, liền được linh ứng. Và khi bệnh dịch lưu hành, hễ cầu đảo liền ứng nghiệm, ân trạch thấm khắp đất Tam Ngô[39].

Bài ký Hồi Long Am ở huyện Lâm Xuyên có đoạn: – Miền Bắc châu Bác Khê này rộng chưa đầy một dặm, bốn mặt nước bao quanh. Xưa kia có người từ Nghi Hoàng dùng thuyền chở tượng Đại Sĩ lên quận. Đến đây, thuyền không tiến được. Đối trước tượng, bói xem có phải là Đại Sĩ muốn lưu lại nơi đây để lập chùa hay không? Quả nhiên bói được quẻ tốt, do vậy dựng nhà thờ tượng trong ấy. Đây không phải là vùng đất cao, nhưng khi nước lụt chẳng bao giờ ngập đến nền chùa, ai nấy đều lấy làm lạ.

(13) Theo Hiện Quả Tùy Lục, Nghê Phác Lão bị bộ Công nhốt lầm vào ngục, ngày đêm đảnh lễ Đại Sĩ, lễ sám, tụng kinh, đột nhiên trong ngục hiện ra hoa sen đầy vách, không lâu sau được thả ra. Về sau, cụ xuất gia, trụ trì chùa Thanh Nguyên, hiệu là Khiếu Phong hòa thượng.

Theo Liễu Nhai Ngoại Biên, một cô gái ở Bình Tuyền, thuở nhỏ vừa thông minh vừa xinh đẹp, dốc lòng thành thờ phụng Quán Âm. Về sau, bị gả cho con nhà họ Vưu, [chàng Vưu] dáng vẻ thô lậu. Lúc sắp thành hôn, cô gái tự cảm thương bạc mệnh, cầu khẩn Đại Sĩ, nguyện giữ thân thanh tịnh. Đã thành hôn, tuy nằm cùng giường, chàng Vưu thấy một đống dương liễu chặn ngang thân cô gái, rốt cục chẳng thể gần gũi vợ được!

(14) Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, Từ Thiện Tài đã bị giết rồi sống lại, trải qua mấy bữa, hết sức đói lạnh, bèn đi dọc theo khe nước dưới hàng cây, nhặt được một cái áo cừu bằng da dê, một đôi vừa giày vừa vớ, phía trước lại có một bát đựng hơn một thưng vừa đào vừa táo, xanh tươi, đỏ, trắng như vừa mới hái, nên khỏi đói lạnh. Nếu chẳng phải là thần lực của Đại Sĩ, há đang giữa mùa Đông lại nhặt được đào, táo tươi nguyên?

Theo Cư Sĩ Truyện, vào đời Tống, lúc Trâu Hạo làm quan ở Tương Dương, mộng thấy Đại Sĩ đích thân thuyết pháp cho mình. Do vậy bèn vẽ tượng được thấy trong mộng. Thời Tống Huy Tông, ông Hạo làm quan đến chức Thị Lang. Lúc Thái Kinh[40] nắm quyền, đẩy ông ta đi Thiều Châu; ông Hạo thờ phụng tượng vẽ càng thêm kiền thành, quỳ tụng Hoa Nghiêm, có xá-lợi xuất hiện trong tay áo. Phía sau bức tượng ấy sanh ra ba nhánh trúc, cành che rủ xuống, giống bức vẽ rừng trúc và gộp đá Phổ Đà trong cõi đời chẳng khác gì!

Phàm trong cõi này, hoặc hiện sắc thân, hoặc bày huyễn tướng, lớn thì như thế giới, núi, sông, nhỏ thì như vi trần, ngọn cỏ, hạt cải, không gì chẳng thuận theo lòng người mong muốn, ứng niệm mà sanh. Như vậy thì đáng tin tưởng rằng Pháp Thân Đại Sĩ trải bao kiếp vẫn chẳng mòn, luôn thường viên mãn trọn khắp mười phương (Từ đây trở đi là tổng kết về sự thị hiện, răn nhắc khuyên tu, gồm bốn đoạn. Đoạn này nhằm tổng kết đoạn văn nói về sự thị hiện, ca tụng Pháp Thân thường trụ).

Hoa Nghiêm Kinh: “Thập Địa Bồ Tát tùy tâm sở niệm, năng ư thân trung, hiện hằng hà sa thế giới vi trần số Phật sát, phục quá thử số vô lượng vô biên” (Thập Địa Bồ Tát tùy theo tâm niệm có thể từ trong thân hiện hình trong các cõi Phật nhiều bằng số vi trần trong hằng hà sa thế giới, lại còn hiện hơn số ấy vô lượng vô biên lần).

1. Tín tâm đã định, xin hãy hiểu nghĩa thêm.

2. Pháp Thân của chư Phật chính là tự tánh của chúng sanh.

3. Nước dậy sóng mòi, chỉ là tùy duyên. Vàng và nhẫn vốn chẳng biến đổi.

4. Nổi chìm Ngũ Trược, thân thanh tịnh chẳng nhơ. Đọa lạc tam đồ, đức trang nghiêm vẫn đủ.

5. Uổng công nhận bọt nước, bỏ bê biển cả, luyến mến Tứ Đại giả danh. Lầm tớ là chủ, theo đuôi duyên ảnh lục trần. Chạy theo dục trong khoảnh khắc, chịu đắng cay trải kiếp, chẳng đáng thương lắm thay! (Đoạn này ca tụng Phật tánh của chúng sanh và Phật tánh của Đại Sĩ chẳng hai, chẳng khác, phá trừ tà kiến Đoạn Diệt).

 

(2) Phẩm Minh Pháp của kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhất thiết chúng sanh, dữ chư Như Lai đồng nhất thể tánh” (Hết thảy chúng sanh và các Như Lai có cùng một thể tánh).

(3) Khởi Tín Luận: “Như nước biển và sóng, chẳng một, chẳng khác. Sóng do gió động, chứ tánh nước chẳng động. Nếu như lúc gió lặng thì sóng động liền diệt, chứ tánh nước chẳng diệt. Chúng sanh cũng vậy, tâm thanh tịnh nơi tự tánh do gió vô minh động nên khởi lên sóng thức. Ba chuyện như vậy chẳng một, chẳng khác; nhưng tịnh tâm nơi tánh là cái gốc của thức dao động. Khi vô minh diệt, sự lay động của thức bị diệt theo, nhưng trí tánh chẳng hoại”. Mật Nghiêm Kinh: “Như Lai thanh tịnh tạng, thế gian A Lại Da, như kim dữ chỉ hoàn, triển chuyển vô sai biệt” (Thanh tịnh tạng của Như Lai và A Lại Da Thức của thế gian, giống như vàng và nhẫn, xoay chuyển không sai khác).

(4) Khởi Tín Luận: “Tâm tánh vốn là thanh tịnh, tuy có nhiễm tâm, nhưng thường sáng sạch chẳng biến đổi”. Sách Đại Thừa Chỉ Quán cũng viết: “Từ vô thủy đến nay, tuy bị pháp nhơ bẩn là vô minh che đậy, nhưng tánh tịnh chẳng đổi, vì nhiễm pháp vốn lìa tâm tướng”. Sách còn viết: “Khi tâm này bị nhơ, vẫn trọn đủ hai tánh phước và trí, chẳng khác gì Phật. Chỉ vì bị nhiễm pháp che lấp nên [hai thứ tánh phước và trí] chẳng thể hiện lộ”.

(5) Lăng Nghiêm Kinh: “Thí như trừng thanh bách thiên đại hải khí chi, duy nhận nhất phù âu thể, mục vi toàn triều, cùng tận doanh bột” (Ví như vứt bỏ trăm ngàn biển cả trong lặng, chỉ chấp nhận một bọt nước coi như là toàn bộ biển khơi, tột cùng các đại dương).

Duy Ma Kinh: “Tứ đại hợp cố, giả danh vi thân. Tứ đại vô chủ, thân diệc vô ngã” (Do tứ đại hợp lại nên giả gọi là thân, tứ đại không có chủ, thân cũng không có ngã).

Kinh Lăng Nghiêm có thí dụ nhận giặc làm con, nhà Thiền bảo là “coi tớ là chủ”, đều nhằm tỷ dụ sự lầm tưởng ý thức là chân tâm vậy!

Viên Giác Kinh: “Vọng nhận tứ đại vi tự thân tướng, lục trần duyên ảnh vi tự tâm tướng” (Lầm tưởng tứ đại là tướng của tự thân, coi hình bóng của sáu trần duyên là tướng của tự tâm).

May gặp được bậc Đại Thánh, là bậc đạo sư trong biển trí, hằng thuận chúng sanh, làm từ phụ trong nhà lửa. Muốn cầu giải thoát thì Ngài đáng làm bậc quy y, huống là những điều cứu khổ ban vui vụn vặt. Ngài có thể làm chỗ nương tựa để chấn động kẻ mù, khơi gợi kẻ điếc, noi gương sáng cho thế hệ sau dõi theo lớp trước (Đoạn này nối tiếp ý “tâm tánh bất diệt” trong đoạn văn trên, khuyên người hãy quy y Đại Sĩ. Nêu chung lòng Bi cứu khổ, lòng Từ ban vui của Đại Sĩ để khuyến khích hành giả).

Trong phần kinh văn của kinh Hoa Nghiêm kể về sự tham học Đại Sĩ của Thiện Tài đồng tử có câu: “Thiện tri thức giả, trí hải đạo sư” (Thiện tri thức là bậc dẫn đường trong biển trí). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có câu: “Cửu giả hằng thuận chúng sanh” (Điều thứ chín là hằng thuận chúng sanh).

1. Xét ra thì huyễn thân không có Thể, trọn chẳng có gì dính dáng sanh tử. Cảnh vọng toàn là không, ghét – yêu lấy đâu nương gởi?

2. Chẳng biết thân an thì đạo mới tốt đẹp, duyên đủ rồi mới hòng chứng quả.

3. Trong lời phát nguyện của ngài Vĩnh Gia còn mong gìn giữ thân tâm. Trong bài lễ văn của ngài Đại Huệ, cũng cầu An Lạc. Chưa từng thật chứng, đừng chuộng bàn xuông. Chỉ vững tín tâm, quyết không luống uổng (đây là vì kẻ ham chuộng Khẩu Đầu Thiền mà đâm một mũi kim, khuyên người ta hãy chết lòng noi theo thực tiễn, quy y Đại Sĩ)

(2) Trong Tiểu Chỉ Quán có đoạn: “Kinh dạy: “Thân an tắc đạo long” (Thân an ắt đạo thịnh). Niết Bàn Kinh: “Ca Diếp Bồ Tát ngôn: ‘Nhược lợi căn giả, hà bất hiện tại nhập Niết Bàn da?’ Phật ngôn: – Thị nhân Tứ Đại doanh liệt, bất năng tu đạo. Hoặc Tứ Đại khang kiện, vô hữu phòng xá, ẩm thực, y phục, chúng duyên bất cụ, bất đắc Niết Bàn. Hữu nhất tỳ-kheo tu đạo, bất đắc quả. Ngã cáo A Nan, dữ dĩ phòng xá, cụ chư sở tu, tức đắc Tu Đà Hoàn quả” (Ca Diếp Bồ Tát nói: – Nếu là kẻ lợi căn, sao hiện thời chẳng nhập Niết Bàn? Phật dạy: – Người ấy Tứ Đại suy yếu, chẳng thể tu đạo. Hoặc là Tứ Đại mạnh khỏe, nhưng không có nhà cửa, thức ăn, y phục, chẳng đầy đủ các duyên nên chẳng đắc Niết Bàn. Có một tỳ-kheo tu đạo, chẳng đắc quả. Ta bảo A Nan cấp nhà cửa cho người ấy, lo đủ những thứ cần dùng, người ấy liền đắc quả Tu Đà Hoàn).

(3) Trong bài Phát Nguyện Văn của ngài Vĩnh Gia có đoạn: “Trước khi đắc đạo, thân không bệnh bất ngờ, chẳng bị chết yểu. Đúng khi hết tuổi thọ thì thân không đau khổ, tâm chẳng tán loạn”. Lại còn có đoạn: “Ở nơi an ổn, không có các chướng nạn, trộm cắp, giặc cướp, phép vua, lao ngục, gông cùm xiềng xích, đao, thương, tên, giáo, thú dữ, độc trùng, té núi, chết chìm, lửa vây, gió cuốn, nhà sụp, kèo mục. Phàm hết thảy các tai nạn đều chẳng phải hứng chịu”. Ngài Đại Huệ Cảo nhiều lần được Đại Sĩ gia bị, liền soạn Lễ Quán Âm Văn để những điều mong cầu được tăng thêm, có những câu như: “Con nay thọ trì thánh hiệu, lễ bái thánh tượng, diệt tội, tăng huệ, đắc đại thọ mạng, đắc đại an lạc”.

* Phụ Lục – Phổ Khuyến Giới Sát Ngật Tố Vãn Hồi Kiếp Vận Thuyết (Khuyên khắp mọi người hãy kiêng giết ăn chay để vãn hồi kiếp vận)

(Bồ Tát thường hiện thân loài vật để răn nhắc người đời hãy kiêng giết ăn chay; vì thế, tôi đem bài văn này đính kèm sau phần nói về sự thị hiện hòng làm sáng tỏ ý nghĩa của sự hiện thân trong loài vật ngõ hầu người đọc sanh lòng kinh sợ)

Người đời quen thói tàn nhẫn lắm thay! Chuyện gì cũng lấy sát sanh để thành lễ, chẳng biết như vậy là sai! Ôi! Hết thảy chúng sanh sống cùng ta trong vòng trời đất, cùng có cái thân huyết nhục, đồng bẩm thụ tánh tri giác, cùng biết tìm lành tránh dữ, tham sống sợ chết. Huống chi kinh Phật thường nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật, đều trong vô lượng kiếp đến nay, đây – kia làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc của nhau”. Há có nên vì muốn báo ân, báo đức, cầu phước, cầu thọ, hoặc tế lễ thiên địa, thần thánh, và cúng giỗ tổ tông, họ hàng, hoặc phụng dưỡng cha mẹ, hoặc đãi đằng khách khứa, bè bạn, hoặc vì sướng khoái bụng miệng ta, bồi bổ thân thể ta, mà chuyện gì cũng đều giết các sanh mạng để mong bày tỏ tấc lòng thành của ta, thỏa thích tâm ta, chẳng nghĩ đến chúng nó hứng chịu các nỗi khổ cùng cực, chẳng đoái nghĩ đại ân của những người từng làm thân thuộc đời trước vậy.

Vả nữa, thiên địa lấy hiếu sanh làm đức, Nho gia vâng giữ ý niệm “cùng là ruột thịt, vật giống hệt như ta”, sao chẳng sanh tâm trắc ẩn nhân từ yêu thương muôn vật, mà cứ quen thói bạo hành mạnh ăn thịt yếu? Phải yêu thương loài vật thì mới có thể yêu thương dân được, hễ thương dân ắt phải yêu thương loài vật! Nếu đối với dị loại còn chẳng nỡ giết thì chắc chắn chẳng nỡ giết hại người dân là đồng loại của ta. Nếu coi giết hại loài vật là chuyện bình thường, ắt sẽ giết người ngập thành tràn đồng, chẳng những không thương xót, ngược lại còn coi đó là chuyện sung sướng, khoái trá. Ấy là vì hễ thói giết chóc vừa tăng trưởng thì cái tâm nhân từ sẽ bị mất ngay!

Còn như tế lễ thiên địa, thánh nhân, há chẳng thể dùng nếp, gạo thơm[41], rau, quả để tỏ lòng thành, cần gì cứ phải sát hại mạng loài vật? Chúng ta sống trong vòng trời đất, được trời đất che chở thì phải nên tích đức, làm điều nhân để bổ khuyết quyền dưỡng dục của trời đất. Nếu luận về chuyện báo ân, dù có tan xương nát thân cũng khó thể báo đáp được muôn một, há những loại thịt trâu, dê, lợn… tanh tưởi, hôi dơ, lại có thể [dùng để] báo ân được ư? Huống chi Thiên Đế và người cõi trời thanh tịnh, thơm tho, thanh khiết há lẽ nào còn hâm hưởng[42] những mùi vị ô trược, hôi nhơ ấy chăng? Ấy chính là dùng cái tâm tham lam cốt thỏa thích bụng miệng của chính mình để suy lường tâm trời đất. Lại xem trời đất như những quỷ thần ở trên không, dưới nước thì vu báng, miệt thị, khinh nhờn, ô nhục thiên địa quá đáng! Ngay như hai kỳ tế lễ Xuân – Thu ở thánh miếu văn võ[43], các tỉnh, phủ, châu, huyện đều giết trâu, dê, lợn v.v… để cúng tế, ngỡ đó là báo ân, đáp đức, sùng thánh, trọng đạo.

Quang Tự nguyên niên (1875) đời Thanh, tại Văn Miếu thuộc tỉnh thành Thiểm Tây, một ngày trước bữa tế mùa Thu, tôi đến đó lễ yết. Trong điện Đại Thành[44], những con trâu, dê, lợn v.v… đều bày trên giá, để nguyên con, chỉ mổ bỏ ruột gan mà thôi. Mùi tanh hôi, tình trạng thê thảm gai mắt, nhức mũi, chẳng nỡ thấy nghe! Khi ấy, tôi vừa mới theo đòi học vấn, vẫn còn bắt chước Hàn, Âu báng Phật, mà đã khôn ngăn than thở sườn sượt: “Có nên biến lòng kính trọng thánh nhân rốt cuộc trở thành sự khinh nhờn thánh nhân đến mức cùng cực như thế này chăng?” Cứ thử bảo những người tế lễ ấy ngủ lại qua đêm trong điện để họ nhìn cho quen mắt, ngửi cho quen mùi, ắt họ sẽ cật lực cự tuyệt chẳng chịu ở! Huống hồ bậc đại thánh nhân trăm đời “Tổ Thuật Nghiêu Thuấn, Hiến Chương Văn Vũ, Vạn Thế Sư Biểu”[45] của Nho Gia lại cam lòng hâm hưởng những vật ô uế chẳng thể kham nổi ấy ư?

Lại như ở phía Đông ngoài cửa miếu là chỗ để giết trâu, tôi trông thấy một cái nồi lớn, nước chứa trong ấy ô trược chẳng thể kham nổi vì nó là nước để rửa trâu. Nghĩ đến liền muốn phát ói. Than ôi! Bẩn thỉu đến thế mà dùng làm lễ vật để tôn kính thánh nhân được ư? Nếp, tẻ không thơm tho, do Minh Đức bèn thành thơm tho, sao không dùng nếp, gạo thơm, rau, quả để tỏ lòng chí thành? Hơn hai ngàn huyện trong thiên hạ, mỗi năm hai lần khinh nhờn Văn Võ nhị thánh[46], khiến cho mấy vạn sanh linh đều lâm vào tử địa, thật là “khinh thánh, giết vật” quá lớn! Sao không có bậc đại nhân tôn kính thánh nhân, yêu tiếc sanh mạng loài vật ra mặt thay đổi vĩnh viễn lệ cũ, lập ra cách thức mới, khiến cho oai linh của hai vị thánh chẳng bị những thứ đó xông sực ô uế, mấy vạn sanh mạng chẳng bị làm thịt để làm thức ăn cho những người tế lễ? Thánh nhân ôm lòng “thương dân, yêu vật”, há muốn chính mình bị ô uế, khinh miệt, lại còn làm cho mấy vạn sanh linh cùng lâm vào tử địa ư?

Quan Đế lúc còn sống thì tinh trung lòa nhật nguyệt, hạo khí ngút trời đất, phú quý chẳng dâm, nghèo hèn chẳng thay đổi, oai vũ chẳng thể khuất phục; mất đi, làm thần cai quản núi Ngọc Tuyền. Thời Tùy Văn Đế, Trí Giả đại sư đến Ngọc Tuyền[47], Quan Đế bèn vận dụng thần lực xây dựng chùa miếu, lại cầu được truyền giới để làm cái gốc cho đạo Bồ Đề và phát nguyện ủng hộ Phật pháp (xem Quan Đế Toàn Thư và Ngọc Tuyền Tự Chí). Vì thế, các tùng lâm trong thiên hạ đều gọi Ngài là Già Lam Bồ Tát, cùng với Vi Đà Bồ Tát trấn giữ sơn môn. Hơn một ngàn năm qua, hộ quốc, hộ dân, được tôn lên địa vị đế vương, há cam lòng nhận lãnh những con trâu, dê, lợn v.v… còn sống ô uế chẳng kham nổi, cho chúng nó là những thứ ngon lành để hâm hưởng ư? Dẫu là bọn tham ăn hèn tệ cùng cực trong thế gian cũng chẳng đến nỗi đành lòng ngửi những thứ hôi nhơ ấy, mà lại bảo là Quan Đế ưng chịu ư? Sao lại coi hai vị thánh nhân văn võ hèn tệ cùng cực đến mức như thế ấy? Ô hô, buồn thay! Nếu như có bậc đại nhân hiểu rõ lý lẽ, thực hành lòng kính thật sự dấy lên sửa bỏ thói quen hèn hạ khinh thánh hại vật ấy, tôi sẽ thơm thảo đảnh lễ, chúc tụng khôn ngằn.

Còn như cúng bái tổ tông, cố nhiên nên dùng nếp, gạo thơm, rau, quả để tỏ lòng tôn kính, cần gì phải giết chóc hoặc mua [thịt, cá] từ hàng đồ tể? Cổ nhân cúng tổ tiên còn cầu thóc lúa từ nơi người có lòng nhân, nay vì trọn hết lòng thành tưởng nhớ người trước của ta mà khiến cho những loài vật kia đều chịu nỗi thảm bị giết hại cắt xẻ thì chẳng những đánh mất lòng nhân trắc ẩn của chính ta mà còn đánh mất sâu xa đạo tôn kính tổ tiên! Lấy giết chóc để tỏ lòng kính, ấy là đại nghịch! Huống chi tổ tông chẳng phải là bậc thánh nhân đã đoạn Hoặc chứng Chân, ắt phải luân hồi trong lục đạo tam đồ, chẳng vì họ làm phước để họ được siêu thăng thì là đã đánh mất đạo [hiếu kính] của người đời sau, há có nên mặc tình sát sanh gây nên chuyện “đã té giếng còn bị quăng đá” nữa ư?

Còn như phụng dưỡng cha mẹ, thức ăn rau quả há chẳng đủ vị ngọt bùi mà cần phải ăn thịt, hãm cha mẹ ta vào cảnh đời đời kiếp kiếp bị giết để đền trả mối nợ oan uổng vì được ta hiếu dưỡng hay chăng? Nếu chẳng biết sự lý tam thế nhân quả, luân hồi lục đạo thì còn dung thứ được. Nay đã hiểu rõ chuyện người và súc sanh tuần hoàn, báo ứng, những chuyện ấy được thấy thấu triệt trong hai mươi bốn bộ sử và các sách vở, mà vẫn cố chấp thói quen hèn tệ chẳng chịu sửa đổi, cứ mong cho chính mình và cha mẹ cùng hứng chịu quả báo ấy, kẻ như vậy chẳng đáng gọi là hạng đã mất trí cuồng tâm, đem Tỳ Sương, trầm độc dâng cho cha mẹ mà mong được trường thọ, yên vui ư? Đáng buồn thay! (Những sự tích nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo trong các bộ sử chép rất nhiều. Muốn biết đại khái thì hãy xem sáu câu vấn đáp về vấn đề “thân diệt, tinh thần vẫn còn” trong ba trang từ bốn mươi ba đến bốn mươi lăm của bộ Dục Hải Hồi Cuồng sẽ biết đại lược. Lại nữa, Phật, Bồ Tát muốn làm cho con người kiêng giết, phóng sanh nên dùng lòng đại từ bi, thị hiện thân trong dị loại, giết rồi mới biết là thánh nhân thị hiện, khiến cho con người chẳng dám giết các loài vật để ăn ngõ hầu đây – kia cùng được giải thoát. Chuyện như vậy rất nhiều, chẳng thể ghi trọn, nên xem đoạn văn “Vật loại hiện tướng” (hiện thân trong loài vật) nơi trang ba mươi trong quyển 1 của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng sẽ biết đại khái. Nguyện những ai xem xong đều sanh chánh tín).

Nói đến chuyện đãi đằng khách khứa, bạn bè, vốn nhằm để thỏa lòng, phô bày tình cảm, sao lại dùng chuyện sát sanh thê thảm để giúp cho bữa tiệc thanh khiết ấy? Loài vật cùng với ta và bạn ta chẳng hề có nỗi oán giết cha, sao lại xẻ thịt chúng bày thành tiệc để giúp cho khách khứa vui sướng? Cứ thử nghĩ đến tiền nhân hậu quả thì dù có ăn cũng chẳng thể nuốt trôi được! Người đời cưới vợ sanh con vốn để tiếp nối dòng giống, đó là chuyện tốt lành nhất, nếu như ăn thịt thì không còn gì hung hiểm hơn được nữa! Ta muốn cho vợ chồng giai lão[48], con cháu đầy đàn, mà làm cho những con vật kia chịu nỗi bi thương lìa đàn, hoặc bị nỗi thảm dao xẻ; đêm thanh suy nghĩ, yên lòng được chăng? Lại nữa, người ta cứ mỗi khi gặp dịp vui như chúc thọ, cưới vợ, sanh con v.v… nếu vô ý nói đến những chữ Chết, Tang v.v… chủ nhân không vui, nếu có chuyện như làm hư vỡ đồ đạc chẳng hạn liền cho là bất tường. Cớ sao giết các sanh mạng, cắt, chặt, nấu, nướng, cho đến xé ăn, lại ngược ngạo coi là vui, là lễ, là tốt lành, may mắn? Thật ra, ấy là cái tâm gì vậy? Chính là [làm theo] thói quen không suy nghĩ đó thôi!

Nếu nói đến chuyện để tự cung phụng mình thì lại càng không nên giết. Nên nghĩ rằng: Ta sanh trong thế gian có công đức gì đối với nhân dân và muôn loài, có phước trạch gì đối với tổ tông, cha mẹ, nay được nhờ phước ấm của tổ tông, cha mẹ che chở sâu dầy, chẳng cực lực làm lành để tăng thêm phước cho tổ tông, cha mẹ, lại cứ mặc tình sát sanh ăn thịt, chẳng những bất lợi cho chính mình, mà còn gây liên lụy cho tổ tông, cha mẹ! Huống chi ta bẩm thụ di thể từ cha mẹ, hằng ngày dùng loài vật để bồi bổ, lâu ngày khí chất sẽ biến đổi theo, thật đáng sợ!

Nay tôi nêu chứng cứ đại lược ngõ hầu người biết yêu thương chính mình sẽ tận lực dứt bỏ thói tham ăn ngon ấy. Sách Vạn Thiện Tiên Tư chép: “Đàn bà có thai ăn thịt thỏ thì con bị môi sứt, ăn chim sẻ thì mắt lé, ăn cua thì phần nhiều con bị đẻ ngang, ăn ba ba thì cổ ngắn đầu teo, ăn cá chình, lươn thì phần nhiều khó sanh, ăn thịt ếch thì phần nhiều con bị câm ngọng”. Sách Đại Đới Lễ[49] chép: “Ăn thịt thì dũng cảm nhưng hung hãn, ăn ngũ cốc thì trí huệ, khéo léo; đều là khí chất [của chính mình] bị chuyển biến theo khí chất của từng loài vật vậy”. Khí chất do cha mẹ để lại cho ta vì ăn thịt mà dần dần bị biến đổi ngấm ngầm thành khí chất của loài vật, đấy là đại bất hiếu!

Từng thấy [người ta] chữa trị kẻ cứa cổ nhưng chưa đứt khí quản bằng cách cắt thịt chim hay thịt gà sống đắp vào chỗ bị thương, khi lành rồi chỗ ấy bèn mọc lên lông gà. Tuy đắp ở bên ngoài nhưng chỗ ấy vẫn là thể chất của súc vật. [Như vậy thì] suốt cả đời ăn thịt để bồi đắp bên trong há chẳng đáng kinh sợ hoảng hốt ư? Như vậy là gìn giữ di thể được bẩm thụ từ cha mẹ đó sao? Huống chi chất thịt đều chứa chất độc, do lúc [con vật] bị giết, hận tâm kết lại cho nên người ăn thịt phần nhiều hay sanh ghẻ chốc, khi ôn dịch lưu hành hay mắc bệnh truyền nhiễm. Người ăn chay thường ít mắc phải những chứng ấy. Phàm muốn giải thoát oán nghiệp, giữ gìn thân thể thì không thể không biết [chuyện này].

Nếu nói: “Tam sanh ngũ đỉnh[50], nhờ vào loài vật để tỏ lòng thành; nếu như ông vừa nói thì pháp do cổ thánh hiền đã lập đều sai trái hết hay sao?” Đáp: Thánh hiền thuận theo thói tục mà lập pháp, lúc đầu chẳng phải là thật nghĩa rốt ráo. Nay đã biết sự thật người và súc sanh luân hồi thì cố nhiên phải bỏ Quyền theo Thật, há nên chấp Quyền bỏ Thật, tổn thương đức hiếu sanh của trời đất, chôn vùi lòng nhân bất nhẫn của chính mình? Huống chi, nhờ vào vật để tỏ lòng Thành thì sao không mượn nếp, gạo thơm, rau, quả mà cứ phải dùng những vật máu thịt ô uế? Há chẳng phải là nói trời, đất, đức Khổng, đức Quan thích vật nhơ uế, ghét những món thanh khiết ư? Không có gì khác ngoài việc quen thói chẳng biết là sai đó thôi! Đến như việc cúng tổ, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, tự dùng, hễ nhìn lại sẽ đều biết rõ là sai, đều [hãy nên] thay đổi thói cũ, nên tôi chẳng nói tỉ mỉ.

Nếu như lại nói: “Nếu như ông nói thì hoàn toàn chẳng sát sanh ăn thịt, ắt loài vật sẽ đầy dẫy trọn khắp thế giới, biết làm sao đây?” Đáp: Những thứ bị con người ăn đều là do con người làm cho chúng nó sanh sôi nẩy nở. Những loài lợn, dê, gà, vịt kia nếu như nhốt riêng các loài đực – cái, trống – mái thì chưa quá mười năm, chúng nó sẽ vĩnh viễn không tồn tại nữa! Huống chi những giống cọp, báo, chó sói, rắn, rết, con người đều chẳng ăn, sao từ cổ đến nay chúng nó chẳng đầy khắp thế giới vậy? Phải biết: Nếu con người ăn thịt nhiều thì người ta lập ra cách để những giống lợn, dê, gà, vịt v.v… sanh trưởng cho nhiều! Thật ra, quá nửa đều là vì bụng miệng tham muốn, chẳng tiếc mạng loài vật, phải theo nghiệp thọ báo, thác sanh trong những loài vật ấy để bị người ta giết ăn!

Do vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: “Tham lẫn ái cùng nẩy nở. Do tham chẳng thể ngưng dứt nên các loài noãn, thai, thấp, hóa trong thế gian cậy mạnh hiếp yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, như thế cho đến mười thứ sanh loại, chết chết sống sống ăn nuốt lẫn nhau”. Kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là đệ tử Phật thì do từ tâm bèn hành nghiệp phóng sanh, hết thảy người nam đều là cha ta, hết thảy người nữ đều là mẹ ta. Đời đời ta chẳng bao giờ không sanh ra từ họ”. Vì thế, lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết chúng để ăn thịt chính là giết cha mẹ ta. Kinh Lăng Già dạy: “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng làm cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân yêu, kẻ hầu hạ, sanh sang đời khác mang thân chim, thú v.v… Sao lại bắt lấy chúng để ăn thịt?” Trong các kinh Đại Thừa, những câu nói như vậy nhiều lắm, khó thể trích đủ.

Quán lời Phật dạy, có thể biết rằng cái họa sát sanh ăn thịt rất sâu, con người và súc vật tuần hoàn, giết ăn lẫn nhau. Nếu vẫn chấp mê chẳng ngộ thì sẽ trở thành “kẻ đáng thương xót” như đức Như Lai đã gọi. Phải biết kiếp đao binh đều do sát sanh phát khởi. Một ngày trong thế gian chẳng biết giết mấy vạn vạn triệu! Do ác tâm sát sanh ăn thịt và tâm oán hận của những con vật bị giết kết thành kiếp đao binh. Mười mấy năm qua, trong nước ngoài nước chiến tranh, người bị tử vong số đến vạn vạn. Huống hồ thiên tai liên tiếp giáng xuống, lụt lội, hạn hán, ôn dịch, bão lốc, động đất, biển trào, sông tràn, thổ phỉ, đạo tặc, các thứ tai nạn xảy ra dồn dập, thóc gạo đắt đỏ, dân không lẽ sống. Bọn ta gặp phải thời đại này mà vẫn chẳng phát lòng tự thương xót, sanh tâm tự thương mình xót người để mong vãn hồi kiếp vận thì còn quý báu gì để dự vào trong số mục Tam Tài, là “vạn vật chi linh” nữa ư? Nỡ dùng tâm tánh “có thể làm Nghiêu – Thuấn, có thể thành Phật” để trầm luân bao kiếp dài lâu trong biển nghiệp ăn giết lẫn nhau không thể thoát ra được thì chẳng đáng buồn ư?

Thích Ấn Quang soạn

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 1, phần 3 hết

Hết quyển 1

 

[1] Ý nói: Thời gian hư huyễn trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã hết tuổi thọ.

[2] Ốc môn: An trụ nơi địa vị đã tu hành để đạt đến giống như ở yên trong nhà (Ốc) nên gọi là Ốc môn.

Viên lâm du hý địa môn: Tu hành thành tựu xong, liền đạt đến địa vị giáo hóa. Do sự giáo hóa ấy, nhằm tùy thuận cơ nghi bèn biến hiện thân hình hoặc thị hiện các hạnh nhằm chiết phục chúng sanh nên gọi là Du Hý (vui chơi).

[3] Trí tướng quang minh: Thân do trí huệ kết thành, quang minh sáng ngời.

[4] Xa Ma Tha (Samatha) là Chỉ, tức một trong hai môn tu tập của Chỉ Quán. Chỉ có nghĩa là dứt hết thảy vọng niệm và ngoại duyên, chuyên chú nơi một đối tượng Thiền Định hòng đắc Định, Chỉ thuộc về Định, còn Quán thuộc về Huệ. Chỉ Quán chính là Định Huệ song tu.

[5] Phân Đà Lợi (Pundarīka) là hoa sen trắng.

[6] Ca Chiên Diên ở đây gọi đủ tên là Ca La Câu Ca Chiên Diên (Pakudha Kaccayana, còn phiên âm là Già Câu La Ca Chiên Diên, hoặc Bạt Hưu Ca Chiên, hoặc Bà Phù Đà Già Chiên Na), không phải là ngài Ca Chiên Diên (Katyana) đại đệ tử của đức Phật, mà là một trong lục sư ngoại đạo thường được nhắc tới trong kinh A Hàm và Niết Bàn. Còn Tỳ Đa La Chi Tử (Sanjaya Belatthiputta, còn dịch là San Sa Dạ Tỳ La Chi Tử, hoặc Tiên Xa Na Tỳ La Chi Tử, hoặc Tát Nhã Tỳ Đa La Chi Tử) cũng là một trong sáu vị lục sư ngoại đạo (tức là sáu “đại tông sư” của sáu trường phái triết học ngoại đạo thời ấy). Cả hai ông này đều chủ trương không nhân quả, tin theo thuyết Đoạn Diệt.

[7] Nguyên văn “phương bào” (方袍), tên gọi khác của y ca-sa.

[8] Thừa Chỉ: Theo quy chế thời Đường – Tống, có chức quan Hàn Lâm Học Sĩ Thừa Chỉ, chuyên giữ vai trò cố vấn cho nhà vua cũng như biên soạn các mệnh lệnh quan trọng hay bàn định những chánh sự quan trọng.

[9] Tam Hàn chính là ba vương quốc cổ trên bán đảo Đại Hàn, tức là Cao Câu Ly (Koguryo), Bách Tế (Paekje) và Tân La (Silla).

[10] Thái Úy là một chức quan đã có từ thời Tây Hán, hợp với Thừa Tướng và Ngự Sử Đại Phu gọi là Tam Công. Chức Thái Úy thường chỉ được phong khi quốc gia có chuyện động binh lớn vì Thái Úy nắm vai trò tổng tư lệnh trong quân đội. Thời Hán Vũ Đế, chức Thái Úy gọi là Đại Tư Mã, đến các đời sau bèn đổi trở lại là Thái Úy. Đời Tống, trong dân gian quen gọi những quan võ cao cấp nhất tại địa phương là Thái Úy nên ông Phạm Thái Úy đã nói ở đây có lẽ chỉ là một võ quan cao cấp tại một huyện, một phủ mà thôi!

[11] Ngự Sử Trung Thừa là chức quan đã có từ thời Tần, chức vụ thấp hơn Ngự Sử Đại Phu, quản lãnh các thứ sử và thị ngự sứ, chuyên lo việc giám sát, đàn hặc các quan, kiêm xét duyệt các văn thư hành chánh nhằm đảm bảo các quan làm việc theo đúng thể chế của triều đình. Thông thường, nếu khuyết chức Ngự Sử Đại Phu, Ngự Sử Trung Thừa sẽ kiêm nhiệm chức trưởng quan của Ngự Sử Đài.

[12] Tập Hiền Học Sĩ là một chức quan của Tập Hiền Viện (còn gọi là Tập Hiền Thư Viện, hoặc Tập Hiền Điện Thư Viện). Tập Hiền Viện là nơi lưu trữ các sách vở, tài liệu nhiều đời của một triều đại. Tùy theo triều đại mà có thể có những danh xưng khác như Thiên Lộc Các, Văn Lâm Quán, Lân Chỉ Điện, Quán Văn Điện, Lệ Chánh Điện v.v… Đời Tống, nhằm dễ quản trị tài liệu, đã tách cơ quan quản trị văn thư thành Tam Quán (Sử Quán, Chiêu Văn Quán và Tập Hiền Thư Viện), và gọi chung là Sùng Văn Viện. Đến đời Nguyên, Tập Hiền Điện đặt dưới quyền quản trị của Bí Thư Giám và có thêm trách nhiệm quản trị các trường học quốc lập tại các phủ, huyện, chiêu hiền đãi sĩ. Tập Hiền Học Sĩ là chức quan đứng thứ hai trong Tập Hiền Viện, dưới quyền Đại Học Sĩ.

[13] Ở đây, Chúc Ly là lễ cầu phước do các quan khâm mạng thay mặt vua đến dâng lễ ở các chùa miếu nổi tiếng linh ứng trong nước.

[14] Cấp Sự Trung là một chức quan đã có từ thời Tần, nhưng chỉ là một chức kèm thêm của các chức Đại Phu, Bác Sĩ, Nghị Lang v.v… với nhiệm vụ làm cận thần cố vấn cho vua trong những trường hợp đặc biệt. Đến đời Tấn, chức vụ này mới trở thành một chức quan độc lập. Thời Tùy gọi là Cấp Sự Lang, từ đời Đường trở đi, đổi trở lại thành Cấp Sự Trung như cũ. Nhiệm vụ của chức quan này là đọc các tấu chương và trình lên vua nội dung tóm tắt, giảo duyệt những chiếu văn được soạn thảo theo lệnh vua, xét xử những đơn từ kêu oan từ các cấp dưới v.v…

[15] Nguyên văn “thẩn thị” (蜃市), tức là “hải lâu thẩn thị” (lầu biển, phố sò). Theo truyền thuyết, ở ngoài biển khơi có loài sò to, hơi thở của nó biến ra những cảnh huyễn ảo giống như lâu đài, thành quách.

[16] Đốc Tào là chức quan trông coi việc tu bổ cầu đường, vận chuyển đường thủy, đường biển. Đến đời Minh, Thanh, chức vụ này được gọi là Tào Vận Tổng Đốc.

[17] Tiết (節): Một loại cờ lệnh do các quan ngày xưa cầm đến chỗ trị nhậm, về sau, thường được dùng chỉ chung các loại cờ hiệu. Nguyên thủy, Tiết là một loại tín phù (vật làm tin) bằng ngọc do vua trao cho các đại thần cầm ra các xứ ngoài kinh đô nhằm toàn quyền xử lý mọi việc.

[18] Chim Tần Già, gọi đủ là Ca Lăng Tần Già (Kalavinka), dịch nghĩa là Diệu Âm hoặc Hảo Thanh hay Hòa Nhã, là một loài chim hót rất hay, ngay cả tiếng hát của nhạc thần Khẩn Na La cũng không thể sánh bằng. Loài chim này chỉ sống ở Tuyết Sơn (Himalaya). Anh Vũ là chim két (vẹt).

[19] Theo phần Quán Âm Hiện Thần Thông Biến Hóa ngay trong sách này, tướng Nguyên là Cáp Lạt Ngạt bái yết động Triều Âm, chẳng thấy gì, bèn giương cung bắn vào động. Quay thuyền trở về, khắp biển chợt trổ đầy hoa sen sắt, thuyền không thể đi được. Do vậy, ông ta mới quay lại Phổ Đà sám hối.

[20] Tứ Châu Đại Sĩ, còn gọi là Tứ Châu Đại Thánh, hoặc Tứ Châu Phật, hoặc Tăng Già Đại Sĩ, thường được coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong thời Đường Cao Tông, ngài Tăng Già hóa duyên khắp một giải Trường An và Lạc Dương, về sau sang tận miền Ngô – Sở. Sư cầm cành dương liễu, đến khắp nơi thuyết pháp. Có người hỏi: “Sư họ gì?” Ngài trả lời: “Ngã tánh hà?” (có thể hiểu là “ta họ gì?” Hoặc “ta họ Hà”). Hỏi tiếp: “Quê Sư ở đâu?” “Ngã thị Hà quốc nhân” (Ta là người nước nào? hoặc: Ta là người nước Hà). Có người bảo nước Hà ở phía Bắc nước Toái Diệp bên Tây Vực. Về sau, Sư trụ ở Tứ Châu. Có lần Sư bảo chủ nhà trọ: “Đây chính là một ngôi chùa cũ”. Chủ nhà kinh ngạc, cho người đào lên, quả nhiên thấy nền chùa cũ, tấm bia đề Hương Tích Tự và một tượng Phật vàng. Người ta đoán đó là tượng Nhiên Đăng Cổ Phật; nhưng Sư bảo đó là Phổ Quang Vương Phật. Năm Cảnh Long thứ hai (708), Đường Trung Tông cho người thỉnh Sư lên kinh thành, vua đích thân ra ngoài thành nghênh tiếp, trăm quan hành lễ. Vua đích thân đề biển tên chùa là Phổ Quang Vương Tự. Sư thị tịch ngày 30 tháng Ba năm Cảnh Long thứ tư, đưa về an táng tại Tứ Châu.

[21] Xí Thịnh Quang Vương Như Lai chính là một vị Phật Đảnh, có tên đầy đủ là Đại Oai Đức Minh Vương Pháp Tánh Kim Luân Phật Đảnh Xí Thịnh Quang Như Lai, xuất hiện từ nhục kế của Phật, nói ra đà-la-ni tiêu trừ hết thảy tai nạn, giáng cát tường. Do toàn thân của vị Phật Đảnh này tuôn rực ánh sáng chói ngời nên có tên như vậy. Nhằm thể hiện Phật trí vô thượng tối thắng nên Phật thường lưu xuất các vị Phật Đảnh (tức các vị hóa Phật xuất hiện từ nhục kế), những vị ấy thường được gọi là “giáo lệnh thân luân” của Phật.

[22] Thị Ngự tức là Thị Ngự Sứ, một chức quan đã có từ đời Tần, Hán, dưới quyền cai quản của Ngự Sử Đại Phu, chịu trách nhiệm kiểm soát lễ nghi trong triều đình. Chức vụ này bị nhà Minh bãi bỏ nên câu chuyện này chỉ có thể xảy ra chậm nhất là vào thời nhà Nguyên.

[23] Trân tàng: Cất giữ như của báu.

[24] Ngân Hạnh (Ginkgo biloba), còn gọi là Bạch Quả hay Ngân Quả, là một loại cây to, cây cao trung bình từ 20-30 mét. Hạt của nó thường được dùng làm thuốc hay nấu chè, thường được Đông Y coi là một vị thuốc bổ có tác dụng tăng cường sức khỏe và trí nhớ. Thậm chí có y sĩ còn đề nghị dùng nó để trị bệnh Alzheimer. Người ta còn chiết xuất các dược chất từ lá để làm thuốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy chất MPN (4-methoxypyridoxine) trong hạt Bạch Quả có thể gây nên động kinh cho trẻ nhỏ cũng như có thể gây nên rối loạn tuần hoàn máu ở một số người. Chất nhựa trong lớp vỏ hạt của nó cũng có thể gây dị ứng ngứa ngáy, nổi mụt nhọt.

[25] Thạch Tấn tức là nhà Hậu Tấn (936-947) do Thạch Kính Đường sáng lập vào thời Ngũ Đại, chỉ truyền được hai đời vua (Cao Tổ và Xuất Đế). Gọi là Thạch Tấn để phân biệt với nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm, Đông Tấn của Tư Mã Duệ, và Tấn Vương Lý Khắc Dụng cuối thời Đường. Thiên Phước là niên hiệu của Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sử dụng từ năm (936-942).

[26] Sở là tên gọi chung của tỉnh Hồ Bắc (Kinh Sở) và Hồ Nam (Tương Sở), do hai tỉnh này thuộc địa bàn nước Sở thời Chiến Quốc.

[27] Ngô Đạo Tử (685-758), tên thật là Đạo Nguyên, tự là Đạo Tử, về sau lại đổi tên thành Đạo Huyền, người xứ Dương Địch (nay thuộc huyện Vũ tỉnh Hà Nam, là một họa sĩ trứ danh đời Đường, có mỹ hiệu là “bách đại họa thánh” (bậc thánh vẽ vời trong cả trăm đời). Nét vẽ của ông mạnh mẽ, nhưng tỉ mỉ, bay bướm, thanh nhã, rất sống động. Những nhân vật do ông vẽ thường mặc áo dài tha thướt, dường như tà áo bay tung trước gió, màu sắc rất thanh nhã.

[28] Nhụ Nhân: Theo quy chế từ thời Đường – Tống, vợ quan Đại Phu từ Ngũ Phẩm trở xuống gọi là Nhụ Nhân. Về sau, Nhụ Nhân cũng là tiếng gọi chung mẹ hay vợ của các quan.

[29] Tống Tử Quan Âm (đôi khi còn gọi lầm là Tống Tử Nương Nương) là hình tượng Quán Âm có hình dạng một phụ nữ bế một đứa bé trai. Đây là một hình tướng biểu thị lời nguyện “cầu sanh con trai sanh liền được con trai, cầu sanh con gái được con gái” như trong phẩm Phổ Môn đã nói. Theo truyền thuyết, vào đời Tấn, có một người tên là Tôn Đạo Đức ở Ích Châu tuổi ngoài năm mươi vẫn không có con. Có một vị Tăng quen biết bảo: “Ông hãy thành tâm tụng Quán Thế Âm Kinh sẽ được như ý”. Ông Tôn kiền thành lễ bái, một thời gian sau mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát bế một đứa bé trai trao cho, bảo: “Không lâu sau ngươi sẽ sanh được đứa bé bụ bẫm này”. Về sau, quả nhiên vợ ông ta sanh con trai.

[30] Ngự soạn: Thức ăn của vua.

[31] Thị Lang là một chức quan đã có từ đời Hán, dưới quyền Thượng Thư. Từ thời Tùy Đường, lập ra sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đặt quan Thượng Thư làm trưởng quan, Thị Lang làm phụ tá. Như vậy, Thị Lang tương đương với chức vụ Thứ Trưởng hiện thời.

[32] Huyện Quân vốn là một danh hiệu chuyên để gọi những phụ nữ thuộc các dòng họ lớn hay vợ các quan chức lớn. Danh hiệu này bắt nguồn từ thời Tây Hán, khi Hán Vũ Đế phong cho người chị cùng mẹ khác cha làm Tu Thành Quân (thuở ấy, Quân là người đứng đầu một huyện, Tu Thành là tên huyện). Do vậy, bà ta thường được gọi là Huyện Quân. Kể từ thời Đường, vợ quan Ngũ Phẩm trở lên, Tam Phẩm trở xuống đều được gọi là Huyện Quân; ngay cả mẹ của các quan thuộc ngạch trật ấy cũng gọi là Huyện Quân. Đời Tống, vợ các quan được nhất loạt gọi là Huyện Quân. Còn dưới đời Kim, chỉ có vợ hoặc mẹ các quan Tứ Phẩm bên văn hoặc từ chức Tán Quan Hoài Viễn Đại Tướng Quân bên võ trở lên mới được gọi là Huyện Quân. Thời Nguyên, danh xưng này dành cho mẹ hoặc vợ các quan từ ngạch Tùng Ngũ Phẩm trở lên. Thời Minh, chỉ có chắt gái của Quận Vương mới được gọi là Huyện Quân. Đến đời Thanh, chỉ có con gái của các Bối Tử (Gūsa-i beise, tức tước phong bậc bốn, dưới tước vị vương công) mới được gọi là Huyện Quân.

[33] Tượng Phật thời cổ ở Trung Hoa thường có gắn một tấm gương bằng đồng sau đầu để tượng trưng cho hào quang của Phật.

[34] Triều đại Lưu Tống (420-479) do Lưu Dụ sáng lập vào thời Bắc Triều, khác với Triệu Tống (thường chỉ gọi là Tống hoặc Đại Tống) của Triệu Khuông Dẫn sáng lập về sau này.

[35] Bổn Giác là Phật tánh sẵn có trong tâm tánh của chúng sanh, khi chúng sanh tu thành Phật thì sự giác ngộ ấy được gọi là Thỉ Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác xét về tánh chỉ là một, gọi thành

[36] Ngói lưu ly đã có từ rất lâu, đã rất phổ biến từ thời Đường, thường dùng để lợp chùa, miếu, cung điện, dinh thự. Ngói làm bằng đất sét trắng trộn với bột đồng, bột đá Lạc Hà (một loại đá lấy từ sông Lạc), hoàng đan (oxyde chì), trộn thêm bột thiếc đen, tiêu thạch (salpeter – KN03) đã nung tán nhuyễn. Đem đất ấy nhồi thành ngói, nung thành hai lượt: Lượt thứ nhất là bảy ngày, để nguội rồi đem ra tráng men, nung lại lần thứ hai suốt ba ngày. Gọi là ngói lưu ly vì nó có sắc óng ánh, trông xa như bằng chất ngọc, nhưng có khuyết điểm là dễ bị vỡ, dễ rạn nứt. Tùy theo cách chế biến, hình dạng và công dụng mà còn chia ra thành nhiều loại ngói lưu ly khác nhau. Do cách chế biến rất tốn công nên ngói lưu ly rất đắt.

[37] Bắc Tề Thư là một bộ sử do Lý Bách Dược soạn vào đời Đường gồm 50 quyển, chép từ lúc vương triều Bắc Ngụy phân liệt cho đến khi triều đại Bắc Tề diệt vong. Sách được soạn xong vào năm Trinh Quán thứ 10 (636), là một bộ sử rất có giá trị, được xếp vào trong hai mươi bốn bộ sử căn bản Trung Hoa.

[38] Trai phòng: Căn phòng hoặc gian nhà thanh tĩnh để làm nơi đọc sách, học tập, hay tu dưỡng, còn gọi là Thư Trai.

[39] Có nhiều cách hiểu chữ Tam Ngô:

1) Chỉ chung ba nơi Ngô Hưng, Ngô Quận, Cối Kê.

2) Chỉ Ngô Hưng, Ngô Quận và Đan Dương.

3) Chỉ Tô Châu, Thường Châu và Tô Châu.

4) Chỉ chung cả vùng hạ lưu của Trường Giang.

Do ông Lâm Tắc Từ làm Tuần Phủ tỉnh Giang Tô nên chữ Tam Ngô ở đây có lẽ nên hiểu theo cách thứ tư.

[40] Thái Kinh (1047-1126), tự Nguyên Trường, người xứ Tiên Du, Hưng Hóa, là tể tướng Bắc Tống, nổi tiếng gian hùng, tham lam, tàn nhẫn, bốn lượt làm Tể Tướng. Thái Kinh cùng với Tô Thức (Tô Đông Pha), Hoàng Đình Kiên, Mễ Phất được xưng tụng là tứ đại thư pháp gia đời Tống. Về sau, do chán ghét tính gian hoạt của Thái Kinh, người ta gạt tên ông ta khỏi danh sách này, đem thầy của ông ta là Thái Tương thay vào.

[41] Nguyên văn là Tắc (稷), tức là một thứ lúa thân dài đến hơn một trượng, là một giống lúa chín sớm nhất, ngày xưa cho là thứ lúa quý nhất trong trăm giống lúa. Ở đây tạm dịch là “gạo thơm”.

[42] Hâm hưởng (歆饗): Quỷ thần hưởng đồ cúng tế bằng cách ngửi hơi nên gọi là “hâm hưởng”.

[43] Thánh miếu văn võ: Miếu thờ Khổng Tử (văn miếu) và võ miếu (thờ Quan Công và các vị trung thần nghĩa sĩ)

[44] Đại Thành Điện chính là chánh điện của Khổng Miếu ở Khúc Phụ (quê hương Khổng Tử). Gọi là điện Đại Thành, vì Khổng Tử được sắc phong Đại Thành Chí Tánh Tuyên Vương. Do vậy, chánh điện của những tòa Văn Miếu tại các địa phương đều được gọi là Đại Thành Điện.

[45] Mỹ hiệu tôn xưng Khổng Tử của Nho Gia, ngụ ý: Khổng Tử là bậc vâng giữ, tiếp nối đạo của Nghiêu, Thuấn, phỏng theo, tỏ rõ quy chế, luật pháp của Văn Vương và Vũ Vương, xứng đáng là bậc thầy gương mẫu cho muôn đời.

[46] Tức Khổng Tử và Quan Công.

[7] Núi Ngọc Tuyền nằm ở phía Đông Nam huyện Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc.

[48] Giai lão: Sống hạnh phúc với nhau đến thuở bạc đầu.

[49] Đại Đới Lễ tức là sách Lễ Ký. Nguyên thủy, Lễ Ký là một trong sáu kinh trọng yếu của Nho Gia do Khổng Tử biên tập vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sau khi Tần Thủy Hoàng đốt sách Nho, chôn học trò, Lễ Ký chỉ còn sót lại 130 thiên, được Lưu Hướng thâu thập. Đới Đức đời Hán đã rút gọn 130 thiên ấy thành 85 thiên, nên người đời sau gọi là Đại Đới Lễ Ký. Về sau, cháu của ông là Đới Thánh lại rút gọn bộ Đại Đới Lễ Ký một lần nữa thành 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt Lệnh, Minh Đường Vị và Nhạc Ký, thành bộ Lễ Ký gồm 49 thiên, với danh xưng Tiểu Đới Lễ Ký. Bộ Lễ Ký được lưu hành hiện thời chính là bộ Tiểu Đới này. Các thiên sách Đại Học, Trung Dung được rút ra từ bộ Lễ Ký, hợp với Luận Ngữ, Mạnh Tử tạo thành Tứ Thư. Tuy mang tên gọi là Lễ Ký, nhưng sách này không chỉ nói đến lễ nghi, chế độ, mà còn bao gồm của những quan điểm nhân nghĩa đạo đức, xử thế thời cổ.

[50] Theo Nho lễ, để cúng tế phải dâng ba thứ thịt là bò (hoặc trâu), lợn, dê gọi là “tam sanh” (ba loại động vật dùng để hiến tế). “Ngũ đỉnh” là các thứ cỗ cúng phải được nấu thành năm món (thuở xưa dùng những cái đỉnh đồng không có nắp để đựng vật cúng). Về sau từ ngữ “tam sanh ngũ đỉnh” được dùng để chỉ cỗ bàn cúng tế hậu hĩnh.