Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

 

QUYỂN IV PHẦN 1

Trình bày ý nghĩa của việc trích lục đại lược kinh văn làm chứng

Trong một vi trần trọn đủ các kinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Trong một quyển kinh chép các sự việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Một vi trần là như thế, mà vi trần nào cũng giống như thế. Huống chi trong vô lượng kiếp trước, đức Quán Âm Đại Sĩ ta thành Chánh Giác đã lâu, an trụ Tịch Quang, thường hưởng pháp lạc! Chỉ vì thệ nguyện rộng sâu, tâm độ sanh tha thiết, nên lại chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, trọn khắp pháp giới, hiện khắp các sắc thân. Sự – lý Bổn Tích ấy nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể nào biết được, một kẻ phàm phu nhỏ nhoi làm sao có thể gom góp, biên soạn hòng tán tụng được ư? Nhưng kẻ uống nước biển cả chỉ cầu no bụng, người đến tiệm bán thuốc chỉ mong lành bệnh, há cứ phải một miệng hút cạn [nước biển], uống sạch hết các loại thuốc thì mới được hay sao? Vì thế, tôi trích lục đại lược những chuyện nhằm tỏ rõ bổn tích của Đại Sĩ từ các kinh Đại Thừa ghép vào sau phần tụng văn để chứng tỏ rõ ràng, ngõ hầu người đọc đều biết ơn Đại Sĩ sâu xa nhất mà cùng sanh lòng cảm kích tu trì. Nhưng Đại Sĩ ứng hiện trọn khắp căn cơ, chẳng sót một vật nào thì cố nhiên trọn đủ các pháp, nhiếp khắp chín giới; bọn ta tu tập hãy nên theo pháp môn nào? Cần biết rằng: Thấy đạo quý ở chỗ vạn pháp viên dung, tu đạo cốt yếu cậy nơi một môn thâm nhập! Huống chi tôi là kẻ độn căn nghe pháp trễ tràng, chí khăng khăng Tịnh Độ, chẳng màng đến chuyện gì khác, chỉ niệm đâu nghĩ tại đó, ngày ngày huân tập, tiêm nhiễm, nào ngờ mỗi phen đọc một kinh, thấy một pháp, chạm vào mắt đều là cảnh Tịnh Độ, lọt vào tai đều là âm thanh nơi Tịnh Độ, những điều chứa trong lòng đều là nghĩa Tịnh Độ. Vì thế, đối với việc biên tập phần kinh chứng (dẫn kinh văn làm chứng cho tụng văn), vẫn dùng pháp môn Tịnh Độ để tiến nhập.

Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, chẳng sót một vật[1] nào. Cương tông để tu Tịnh Độ chỉ tại “đại Bồ Đề tâm bất thoái”. Trong hội Hoa Nghiêm, Đại Sĩ dạy bảo Thiện Tài, cố nhiên ý càng chân thật, thiết tha. [Đạt đến] Bồ Đề bất thoái lại do “xa lìa ác tri thức, thân cận thượng thiện nhân”. Hai kinh Bi Hoa và Thọ Ký nói chẳng cùng tận. Bí quyết tu Tịnh Độ là “sanh lòng tin, phát nguyện, chấp trì danh hiệu”. Nếu có thể tịnh niệm liên tục thì sẽ tự nhiên cảm ứng đạo giao, cậy vào Phật lực, vãng sanh Tây Phương, chứng Vô Sanh Nhẫn, đạt lên địa vị Bất Thoái, đấy là sự lý quyết định chẳng thay đổi. Vì thế biết: Một pháp Trì Danh đơn giản nhất, dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất, viên mãn nhất. Do vậy, phẩm Phổ Môn mới nói [những ai] xưng danh đức Quán Âm đều được giải thoát. Vì thế, hai kinh Thủ Lăng Nghiêm và Thỉnh Quán Âm mới nói “cầu đại Niết Bàn, đắc đại Niết Bàn”.

Cái nhân để sanh Tịnh Độ là tín nguyện; tín nguyện được phát khởi do tâm vui thích. Vì thế, Quán Kinh giảng rộng y báo và chánh báo, kinh Thọ Ký trình bày tột bậc sự trang nghiêm. [Vãng sanh] Tịnh Độ bị chướng ngại bởi Ái Căn, mà nguồn cội của Ái Căn là Ngã Chấp. Vì thế, Tâm Kinh dùng Bát Nhã để quán chiếu cái Không, kinh Thỉnh Quán Âm dùng Thiền Quán để phá chấp. Lại còn cậy vào sức mật chú gia trì để đích thân tiếp nhận ân tiếp dẫn của Phật Di Đà thì Đẳng Giác, Sơ Tâm, Thập Ác, Ngũ Nghịch, cùng theo về một đường, đều lên chín phẩm.

Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn tinh vi, không pháp nào chẳng trọn, không căn cơ nào chẳng nhiếp, há chẳng phải là cầm [bảo châu] Ma Ni để mưa ra các thứ báu, dùng phàm tâm để thành Quả Giác đó ư? Kính dâng sở đắc ngu muội nhằm làm tròng mắt [cho độc giả] đọc kinh. Tên của những bộ kinh đã dùng để sao lục được kể ra như sau:

1. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm), chương thứ hai mươi bảy, tức phần Thiện Tài tham học với Quán Tự Tại Bồ Tát trong phẩm Nhập Pháp Giới (trong quyển 68).

2. Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (gọi tắt là kinh Lăng Nghiêm), chương Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông (trong quyển thứ sáu).

3. Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương (ở cuối quyển thứ năm. Chép thêm chương này nhằm giảng rõ Tịnh Độ).

4. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (gọi tắt là kinh Pháp Hoa), phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn (trong quyển thứ bảy).

5. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (gọi tắt là Tâm Kinh, ghi thêm chú thích sơ lược và [trích lục tác phẩm Tâm Kinh] Thích Yếu của tổ Ngẫu Ích).

6. Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Ký Kinh (gọi tắt là kinh Thọ Ký. Tần Già Tạng Kinh[2] lại dựa theo bản cổ của Cao Ly Tạng Kinh mà gọi kinh này là Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký Kinh).

7. Bi Hoa Kinh: Hai phẩm Đại Thí và Thọ Ký (tức quyển thứ hai và quyển thứ ba).

8. Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Kinh (gọi tắt là Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh).

9. Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (gọi tắt là Quán Kinh).

10. Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (gọi tắt là Đại Bi Chú Kinh).

11. Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh (gọi tắt là Thập Nhất Diện Chú Kinh).

12. Bất Không Quyến Sách Chú Tâm Kinh (gọi tắt là Bất Không Quyến Sách Kinh).

13. Mười sáu loại kinh trong Mật bộ (trình bày đại lược).

Các kinh Đại Thừa dù Hiển hay Mật, ghi chép những sự thực nơi Bổn và Tích của đức Quán Âm và những pháp yếu do Ngài đã nói nhiều đến nỗi khó thể sao chép trọn hết. Tôi sao lục vài kinh để trình bày đại khái, người đọc hãy nên xét rõ.

1. Phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, chương thứ 27: Thiện Tài tham học Quán Tự Tại Bồ Tát

Cư sĩ Bệ Sắt Chi La (Hán dịch là Triền Khỏa) bảo Thiện Tài[3] rằng:

– Thiện nam tử! Phía Nam nơi đây có quả núi tên là Bổ Đát Lạc Ca (Hán dịch là Hải Đảo, còn dịch là Tiểu Bạch Hoa). Nơi ấy có Bồ Tát hiệu là Quán Tự tại. Ngươi đến chỗ Ngài hỏi “Bồ Tát học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo” như thế nào?

Liền nói bài tụng:

Trên biển có núi, lắm thánh hiền,
Các báu tạo thành cực thanh tịnh.
Hoa quả rừng cây đều trọn khắp,
Suối chảy, ao chuôm đều đầy đủ,
Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại,
Vì lợi chúng sanh trụ núi ấy,
Ngươi nên đến hỏi các công đức,
Ngài sẽ dạy ngươi đại phương tiện.

Khi ấy, Thiện Tài đồng tử theo thứ tự du hành từ từ, đến núi ấy, tìm kiếm vị Bồ Tát ấy khắp nơi. Thấy trong hang núi nơi phía Tây, suối chảy vòng quanh, tỏa sáng, cây cối rậm rạp, cỏ thơm mềm mịn xoay theo chiều bên phải phủ kín đất. Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi xếp bằng trên đá báu kim cang. Vô lượng Bồ Tát đều ngồi trên đá báu, cung kính vây quanh, Ngài vì họ tuyên nói pháp đại từ bi, dạy họ nhiếp thọ[4] hết thảy chúng sanh.

Thiện Tài thấy rồi, hoan hỷ, hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt chẳng tạm nháy, nghĩ như thế này:

– Thiện tri thức chính là Như Lai, thiện tri thức là mây hết thảy pháp, thiện tri thức là kho chứa các công đức, thiện tri thức khó thể gặp gỡ, thiện tri thức là nhân báu của Thập Lực, thiện tri thức là đuốc trí vô tận, thiện tri thức là rễ mầm phước đức, thiện tri thức là hết thảy trí môn, thiện tri thức là bậc dẫn đường trong biển trí, thiện tri thức là vật trợ đạo cho Nhất Thiết Trí.

Rồi liền đến chỗ Đại Bồ Tát. Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ Tát dõi nhìn Thiện Tài, bảo rằng:

– Ngươi đến đây hay lắm! Ngươi đã phát ý Đại Thừa, nhiếp khắp chúng sanh, khởi tâm chánh trực, chuyên cầu Phật pháp, đại bi sâu nặng, cứu giúp, che chở hết thảy, diệu hạnh Phổ Hiền liên tiếp hiện tiền, đại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh, siêng cầu Phật pháp, [pháp nào cũng] đều có thể lãnh thọ, tích tập thiện căn thường chẳng chán đủ, vâng thuận thiện tri thức chẳng trái nghịch lời dạy. Ngươi sanh từ biển cả công đức trí huệ của Văn Thù Sư Lợi, tâm thành thục, đắc thế lực của Phật, đã đạt được quang minh tam-muội rộng lớn, dốc lòng mong cầu diệu pháp rất sâu, thường thấy chư Phật, sanh đại hoan hỷ, trí huệ thanh tịnh giống như hư không; đã tự hiểu rõ, lại vì người khác nói, an trụ trong quang minh trí huệ của Như Lai.

Khi ấy, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ dưới chân Quán Tự Tại Bồ Tát, nhiễu vô số vòng rồi đứng chắp tay, bạch rằng:

– Thưa thánh giả, con trước đây đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng chưa biết Bồ Tát học Bồ Tát hạnh như thế nào, tu Bồ Tát đạo như thế nào? Con nghe nói thánh giả có thể khéo dạy bảo, xin hãy giảng cho con.

Bồ Tát bảo rằng:

– Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát Đại Bi Hạnh.

Thiện nam tử! Ta dùng hạnh môn Bồ Tát Đại Bi này để bình đẳng giáo hóa hết thảy chúng sanh liên tục không ngừng.

Thiện nam tử! Ta trụ trong hạnh môn Đại Bi này, thường ở chỗ hết thảy Như Lai hiện khắp trước hết thảy chúng sanh, hoặc dùng Bố Thí để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dùng Ái Ngữ, hoặc dùng Lợi Hành, hoặc dùng Đồng Sự để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện sắc thân để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện các thứ lưới quang minh thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn màu sắc để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, khiến cho tâm họ ngộ, được thành thục, hoặc hiện thân hình giống như họ, cùng ở chung với họ để thành thục họ.

Thiện nam tử! Ta tu hành hạnh môn Đại Bi này, nguyện thường cứu vớt, che chở hết thảy chúng sanh, nguyện hết thảy chúng sanh lìa nỗi sợ nơi đường hiểm, lìa nỗi sợ nhiệt não, lìa nỗi sợ mê hoặc, lìa nỗi sợ trói buộc, lìa nỗi sợ sát hại, lìa nỗi sợ bần cùng, lìa nỗi sợ chẳng sống sót, lìa nỗi sợ tiếng xấu, lìa nỗi sợ chết, lìa nỗi sợ đại chúng, lìa nỗi sợ nẻo ác, lìa nỗi sợ tối tăm, lìa nỗi sợ dời chuyển, lìa nỗi sợ yêu thương mà phải chia ly, lìa nỗi sợ oán ghét phải gặp gỡ, lìa nỗi sợ bức bách thân, lìa nỗi sợ bức bách tâm, lìa nỗi sợ lo buồn. Lại nguyện như thế này: Nguyện các chúng sanh nếu nghĩ đến ta, hoặc xưng danh ta, hoặc thấy thân ta, đều được tránh khỏi hết thảy sợ hãi.

Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện này để làm cho các chúng sanh lìa sợ hãi rồi lại dạy họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển (Thiện Tài nghe xong, liền chứng Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng).

Nhận định: Giáo hóa hết thảy chúng sanh, nhưng trước hết dạy “phải bình đẳng” là vì lẽ gì? Lời sớ giải viết: “Bình đẳng là Đồng Thể đại bi”. Đại Sĩ đã coi chúng sanh bình đẳng với chính mình, đồng thể với chính mình thì Ngài mong mỏi bọn chúng sanh ta ắt phải từ bi oai lực, công đức trang nghiêm, mỗi mỗi đều bằng với Ngài mới thôi, chứ không phải chỉ lìa nỗi sợ hãi là đủ. Vì thế, nói: “Ta dùng phương tiện này để làm cho các chúng sanh lìa sợ hãi rồi lại dạy họ phát Bồ Đề tâm”, lìa sợ hãi chỉ là phương tiện nhằm phát tâm!

Ngài thị hiện các thứ nhằm nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho tâm họ lãnh ngộ, được thành thục, tức là thành thục Bồ Đề; nhưng do chúng sanh nhất định chẳng thể thành thục ngay trong một đời, cho nên phải mong họ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Đọc đến đây, có thể thấy Đại Sĩ triệt để vì con người, lòng Từ sâu xa, ân tột bực. Chúng ta trên thấu hiểu lòng Đại Sĩ, ắt phải vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, suy sâu, xét kỹ, khéo tự suy xét. Dẫu cho tự xét mình đời này chẳng thoái chuyển, nhưng đời sau mờ mịt, biết làm sao đây? Nếu không niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, còn có đường nào khác để cầu may nữa đây? Do vậy, có thể hiểu [vì sao] Đại Sĩ vừa mới phát tâm Bồ Đề bèn mang lòng giữ lấy Tịnh Độ sâu xa, người học không thay đổi đường lối của bậc từ phụ thì sẽ an ủi tấm lòng Đồng Thể của Ngài vậy.

2. Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông Chương

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng:

– Bạch đức Thế Tôn, con nghĩ nhớ trong vô số hằng hà sa kiếp xưa, lúc ấy có đức Phật xuất hiện trong thế gian, tên là Quán Thế Âm. Con phát Bồ Đề tâm nơi đức Phật ấy. Đức Phật ấy dạy con từ Văn – Tư – Tu nhập Tam Ma Địa. Thoạt đầu từ nơi cái Nghe, nhập lưu[5], quên đi cái được nghe. Khi cái được nhập (Sở Nhập) đã vắng lặng rồi thì hai tướng động và tịnh hết sạch, chẳng còn sanh nữa. Dần dần tiến lên như thế, cái Nghe và cái được Nghe[6] đều hết sạch, chẳng trụ nơi hết sạch cái Nghe, sự nhận biết (Giác) và đối tượng nhận biết (Sở Giác) đều không, sự không giác ấy cực viên, không và sở không[7] đều diệt. Sanh và diệt đã bị diệt thì tịch diệt hiện tiền, đột nhiên vượt thoát thế gian và xuất thế gian, mười phương viên minh, đạt được hai thứ thù thắng:

Một là trên hợp với tâm diệu giác sẵn có của mười phương chư Phật, có cùng một từ lực với Phật Như Lai.

Hai là dưới hợp với mười phương hết thảy lục đạo chúng sanh, có cùng một lòng bi ngưỡng với các chúng sanh.

Bạch đức Thế Tôn! Do con cúng dường Quán Âm Như Lai nên được đức Như Lai ấy truyền cho con Như Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội, do có cùng một từ lực với Phật Như Lai nên khiến cho thân con thành tựu ba mươi hai ứng thân vào các cõi nước.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát nhập tam-ma-địa, tấn tu vô lậu, thắng giải hiện tiền viên mãn, con sẽ hiện thân Phật vì họ thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị hữu học, diệu minh tịch tĩnh, thắng diệu viên mãn hiện tiền[8], con sẽ ở trước họ hiện thân Độc Giác, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị hữu học, đoạn mười hai duyên, duyên đoạn thắng tánh, thắng diệu hiện tiền viên mãn[9], con sẽ ở trước họ hiện thân Duyên Giác vì họ thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị hữu học đắc Tứ Đế Không, tu đạo nhập diệt, thắng tánh hiện tiền viên mãn[10], con sẽ ở trước họ hiện thân Thanh Văn, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát.

Nếu các chúng sanh ngộ giải rõ ràng dục tâm, chẳng phạm dục trần, cái thân tham dục ấy đã được thanh tịnh, con sẽ ở trước họ, hiện thân Phạm Vương vì họ thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các chúng sanh, muốn làm chúa tể cõi trời, thống lãnh chư thiên, con sẽ ở trước họ, hiện thân Đế Thích, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh muốn thân tự tại, du hành mười phương, con sẽ ở trước họ hiện thân Tự Tại Thiên[11], vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu chúng sanh muốn thân tự tại, bay đi trên hư không, con sẽ ở trước họ hiện thân Đại Tự Tại Thiên[12], vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích thống lãnh quỷ thần, cứu giúp, bảo vệ cõi nước, con sẽ ở trước họ, hiện thân Thiên Đại Tướng Quân[13], vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích thống lãnh thế giới, bảo vệ chúng sanh, con sẽ ở trước họ, hiện thân Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích sanh vào cung trời, xua đuổi, sai khiến quỷ thần, con sẽ ở trước họ, hiện thân Tứ Thiên Vương Quốc Thái Tử[14], vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu.

Nếu các chúng sanh thích làm vua trong loài người, con sẽ ở trước họ, hiện thân vua trong loài người, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích làm người cầm đầu những dòng họ lớn, được thế gian tôn sùng, đề cao, con sẽ ở trước họ, hiện thân trưởng giả[15], vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích nói danh ngôn, tự sống thanh tịnh[16], con sẽ ở trước họ, hiện thân cư sĩ, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích cai trị cõi nước, phân tích, quyết đoán mọi chuyện trong bờ cõi, xóm làng, con sẽ ở trước họ, hiện thân tể quan, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích các môn số thuật, vâng giữ các môn Nhiếp Vệ[17], con sẽ ở trước họ, hiện thân Bà-la-môn, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có nam tử, thích học xuất gia, trì các giới luật, con sẽ ở trước họ, hiện thân tỳ-kheo, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có người nữ thích học xuất gia, trì các cấm giới, con sẽ ở trước họ, hiện thân tỳ-kheo-ni, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có người nam ưa trì Ngũ Giới, con sẽ ở trước họ hiện thân Ưu-bà-tắc, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có người nữ, sống theo Ngũ Giới, con sẽ ở trước họ, hiện thân Ưu-bà-di, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có nữ nhân, dùng nội chánh[18] lập thân để sửa sang nước nhà, con sẽ ở trước họ, hiện thân nữ chủ và quốc phu nhân, mạng phụ, đại gia[19], vì họ thuyết pháp khiến cho họ thành tựu. Nếu có chúng sanh chẳng hư hoại nam căn, con sẽ ở trước họ hiện thân đồng nam (trẻ trai) vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có gái trinh, thích tự giữ mình, chẳng mong bị xâm phạm, bạo hành, con sẽ ở trước họ, hiện thân đồng nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu.

Nếu có chư thiên thích thoát khỏi kiếp trời, con sẽ hiện thân trời, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có các loài rồng[20] thích thoát thân rồng, con sẽ hiện thân rồng, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có Dược Xoa[21] thích vượt khỏi loài mình, con sẽ ở trước họ, hiện thân Dược Xoa, vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu Càn Thát Bà[22] thích thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ, hiện thân Càn Thát Bà vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu A Tu La[23] thích thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ, hiện thân A Tu La vì họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu Khẩn Na La[24] muốn thoát loài ấy, con sẽ ở trước họ, hiện thân Khẩn Na La, vì họ thuyết pháp, khiến họ thành tựu. Nếu Ma Hô La Già[25] thích thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ, hiện thân Ma Hô La Già vì họ thuyết pháp, khiến họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích làm người, muốn tu thành người, thì con sẽ hiện thân người, vì họ thuyết pháp, khiến họ thành tựu. Nếu các phi nhân, hữu hình hay vô hình, hữu tưởng, vô tưởng, thích thoát khỏi loài ấy, con sẽ ở trước họ đều hiện những thân ấy, vì họ thuyết pháp, khiến họ thành tựu. Đấy gọi là ba mươi hai ứng thân mầu nhiệm, trong sạch. Những thân để vào trong các cõi nước đều là do diệu lực tam-muội Văn Huân Văn Tu vô tác tự tại thành tựu[26].

Bạch Thế Tôn! Con lại do vô tác diệu lực của môn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội này mà được hết thảy chúng sanh trong mười phương tam thế lục đạo có cùng một lòng bi ngưỡng, khiến cho các chúng sanh đối với thân tâm của con liền đạt được mười bốn thứ công đức vô úy:

Một là do con chẳng tự quán sát âm thanh, mà quán cái trí năng quán[27] nên khiến cho những chúng sanh khổ não trong mười phương quán âm thanh ấy liền được giải thoát.

Hai là xoay chuyển sự nhận biết hư vọng nơi sáu căn, khôi phục chân tánh[28], khiến các chúng sanh gieo mình vào trong lửa, lửa chẳng thể đốt được.

Ba là quán ngược lại tánh nghe, khôi phục cái Nghe chân thật[29], khiến cho các chúng sanh dù bị nước lớn cuốn trôi, nước chẳng thể làm chết đuối được!

Bốn là đoạn diệt vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho các chúng sanh vào trong những nước quỷ, quỷ chẳng thể hại được[30].

Năm là huân tu Nhĩ Căn, thành tựu tánh Nghe, sáu căn tiêu tan vọng, khôi phục sự chân thật giống như [sự tiêu tan vọng, khôi phục chân thật] nơi sự nghe tiếng[31], có thể khiến cho chúng sanh sắp sửa bị hại, đao gãy từng đoạn, khiến cho binh khí như cắt vào nước, cũng như thổi ánh sáng, tánh của nó không dao động.

Sáu là dùng sự Phản Văn để huân tập sự sáng suốt sẵn có, sự sáng suốt trong trẻo, sẵn có ấy chiếu sáng trọn khắp pháp giới[32], thì tánh của những sự u ám chẳng thể tồn tại được, có thể khiến cho chúng sanh, Dược Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà quỷ[33] và Tỳ Xá Giá[34], Phú Đan Na[35] v.v… tuy ở gần sát bên cạnh nhưng mắt chúng chẳng thể thấy được.

Bảy là tánh động tịnh của âm thanh tiêu diệt trọn vẹn, xoay trở lại cái Nghe để ngược dòng chứng nhập tánh, lìa các trần vọng[36], có thể khiến cho chẳng bị vướng mắc bởi giam cầm, trói buộc, gông cùm.

Tám là âm thanh tiêu diệt, sự Nghe viên mãn, sanh ra từ lực trọn khắp[37], có thể khiến cho chúng sanh đi qua đường hiểm, giặc chẳng thể cướp được.

Chín là huân tu tánh Nghe, rời khỏi các Trần, Sắc chẳng thể cướp đoạt [bản tâm thanh tịnh][38], có thể khiến cho hết thảy những chúng sanh nhiều dâm dục sẽ xa lìa tham dục.

Mười là tánh Nghe thuần nhất, không còn các Trần, Căn và Cảnh (Trần) viên dung, không còn sự nhận biết và đối tượng được nhận biết[39], có thể khiến cho hết thảy những chúng sanh phẫn hận lìa các sự nóng giận.

Mười một là tiêu trừ vọng trần, khôi phục sự sáng suốt sẵn có, pháp giới thân tâm giống như lưu ly, sáng ngời thấu suốt vô ngại[40], có thể khiến cho hết thảy các A-điên-ca[41] vốn bị tánh tối tăm, chậm lụt ngăn che sẽ được vĩnh viễn xa lìa si ám.

Mười hai là dung hợp huyễn hình trở về với tánh Nghe chân thật, đạo tràng bất động, dấn mình vào thế gian, chẳng hoại thế giới[42], có thể trọn khắp mười phương cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như vi trần, đối với mỗi vị Phật đều làm pháp vương tử, có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới, kẻ nào muốn cầu con trai thì sanh con trai phước đức, trí huệ.

Mười ba là sáu căn viên thông, bản tánh vốn sẵn sáng suốt (Minh) và tác dụng chiếu soi của tánh sáng ấy (Chiếu) không hai, chứa đựng mười phương pháp giới, lập nên Đại Viên Kính Không Như Lai Tạng, vâng thuận pháp môn bí mật của mười phương vi trần Như Lai[43], có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới, kẻ nào muốn cầu con gái sẽ sanh đứa con gái đoan chánh, phước đức, mềm mỏng, thuận thảo, được mọi người kính yêu, có tướng tốt.

Mười bốn là trong tam thiên đại thiên thế giới này, có trăm ức mặt trời, mặt trăng, có sáu mươi hai ức hằng hà sa các vị Pháp Vương Tử hiện đang trụ trong thế gian để tu hành chánh pháp, nêu gương, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, mỗi vị có trí huệ và phương tiện khác biệt. Do con đạt được sự viên thông nơi bổn căn, phát khởi diệu nhĩ môn, sau đấy thân tâm vi diệu, chứa đựng, trọn khắp pháp giới[44], có thể khiến cho chúng sanh nào trì danh hiệu của con và người trì tất cả danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa các vị pháp vương tử kia thì phước đức của hai người ấy sẽ giống hệt như nhau chẳng khác.

Bạch Thế Tôn! [Phước đức do trì] danh hiệu của con chẳng khác gì [phước đức do trì] danh hiệu của các vị kia số nhiều đến như thế là do con tu tập, đắc môn viên thông chân thật vậy. Đấy gọi là mười bốn môn thí vô úy lực, phước trọn khắp chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Con lại do đạt được đạo viên thông tu chứng vô thượng này mà lại có thể khéo đạt được bốn thứ vô tác diệu đức chẳng thể nghĩ bàn:

Một là do con khi vừa đạt được chân tâm của tánh nghe, trọn đủ diệu lý và diệu trí, sự tinh minh nơi tâm không còn lệ thuộc vào cái Nghe nữa, sự thấy nghe hay biết chẳng bị phân cách, chướng ngại, hợp thành bảo giác viên dung thanh tịnh. Vì thế, con có thể hiện ra rất nhiều hình dáng kỳ diệu, có thể nói vô biên thần chú bí mật[45]. Trong ấy, hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu. Như thế cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu, tám vạn bốn ngàn thước-ca-la[46] đầu, hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, cho đến hai mươi bốn, như thế cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay, vạn tay, tám vạn bốn ngàn tay mẫu-đà-la[47], hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn mắt, tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh, hoặc từ, hoặc oai, hoặc Định, hoặc Huệ, cứu vớt, bảo vệ chúng sanh, đắc đại tự tại.

Hai là con do Văn Tư thoát khỏi sáu trần, như âm thanh vượt khỏi tường vách vây quanh, chẳng thể bị ngăn ngại. Vì thế, con có thể khéo léo biến hiện mỗi một hình tướng, tụng mỗi một chú, thì hình tướng và chú ấy có thể ban sự không sợ hãi cho các chúng sanh. Vì thế, vi trần cõi nước trong mười phương đều gọi con là bậc Thí Vô Úy.

Ba là con do tu tập Nhĩ Căn thanh tịnh vốn mầu nhiệm viên thông nên đối với những thế giới đã đi qua đều có thể khiến cho chúng sanh bỏ thân mạng, của cải quý báu, xin con xót thương.

Bốn là con đắc Phật tâm, chứng đến rốt ráo, có thể dùng các món trân bảo cúng dường mười phương Như Lai, cũng như thí cho chúng sanh trong lục đạo của mười pháp giới, cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam-muội đắc tam-muội, cầu trường thọ đắc trường thọ. Như thế cho đến cầu đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn.

Phật hỏi pháp viên thông, con từ Nhĩ Môn Viên Chiếu Tam Muội, duyên theo tâm tự tại để nhập vào tướng lưu chuyển, đắc Tam-ma-đề (Chánh Định), thành tựu Bồ Đề, ấy là bậc nhất.

Bạch Thế Tôn, đức Phật Như Lai ấy khen con khéo đắc pháp môn viên thông, ngay trong đại hội, thọ ký cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán, nghe mười phương viên minh, nên danh hiệu Quán Âm trọn khắp mười pháp giới.

Khi ấy, đức Thế Tôn ở trên tòa sư tử, từ năm phần trên thân[48] cùng phóng ra ánh sáng báu, chiếu rót vào đỉnh đầu của mười phương vi trần Như Lai và các vị Bồ Tát pháp vương tử. Các đức Như Lai ấy cũng từ nơi năm phần trong thân thể cùng phóng ra ánh sáng báu, từ vi trần phương rót vào đỉnh Phật và rót vào đỉnh các vị đại Bồ Tát và A La Hán trong hội [Lăng Nghiêm này]. Rừng cây, ao chuôm đều vang ra tiếng pháp, ánh sáng đan xen vào nhau, giống như lưới đan bằng sợi báu. Các đại chúng ấy đạt được điều chưa từng có, hết thảy đều đạt được Kim Cang Tam Muội. Ngay lập tức, trời mưa xuống các hoa sen bằng trăm chất báu, xanh, vàng, đỏ, trắng, xen kẽ, phơi phới [rơi xuống]. Mười phương hư không hóa thành màu như bảy báu. Trong cõi Sa Bà này, đại địa, núi, sông đều cùng lúc chẳng hiện, chỉ thấy mười phương vi trần cõi nước hợp thành một cõi, tiếng phạm bái[49], ca vịnh tự nhiên trỗi lên. Khi ấy, đức Như Lai bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử:

– Nay ông xem hai mươi lăm vị đại Bồ Tát và A La Hán vô học[50] này, mỗi vị nói ra phương tiện thành đạo lúc đầu của mình, đều nói cách tu tập viên thông chân thật. Bọn họ tu hành quả thật không có sai biệt hơn, kém, trước, sau. Nay ta muốn làm cho A Nan khai ngộ thì trong hai mươi lăm hạnh ấy, hạnh của vị nào thích đáng với căn cơ của ông ta, cũng như sau khi ta diệt độ, chúng sanh trong cõi này nhập Bồ Tát thừa, cầu vô thượng đạo thì sẽ do phương tiện nào mà dễ được thành tựu nhất?

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử vâng lãnh ý chỉ từ bi của đức Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nương vào oai thần của Phật, nói kệ đáp lời Phật:

 Tánh biển giác trong lặng, viên mãn,
Tánh giác tròn lặng vốn mầu nhiệm,
Tánh nguyên minh chiếu, sanh ra Sở,
Sở đã lập, tánh chiếu liền mất[51].
Do mê vọng mà có hư không,
Nương hư không, thế giới thành lập.
Tưởng ngưng lặng biến hiện cõi nước,
Do tri giác mà có chúng sanh.
Hư không được sanh trong đại giác,
Giống như bọt nước trong biển cả,
Các cõi hữu lậu như vi trần,
Đều nương hư không mà sanh thành,
Bọt đã diệt, hư không vốn không,
Lẽ nào còn hình tướng ba cõi?
Trở về nguồn, tánh nào có hai?
Nhưng phương tiện lại có nhiều cửa,
Không gì chẳng thấu suốt thánh tánh,
Thuận hay nghịch đều là phương tiện,
Do hàng sơ tâm nhập tam-muội,
Mau chóng, chậm chạp chẳng giống nhau,
Sắc tưởng ngưng kết thành các trần
Tâm chưa tỏ, chẳng thể thấu triệt,
Làm sao ngay nơi chẳng thông suốt,
Lại có thể đắc tánh viên thông?[52]
Âm thanh xen lẫn với lời nói,
Ý nghĩa hạn cuộc trong Danh, Cú,
Nếu một chẳng chứa đựng hết thảy,
Thì làm sao đắc tánh viên thông?[53]
Hương chỉ lúc ngửi mới rõ biết,
Hễ tách lìa, liền vốn chẳng có,
Chẳng thể thường hằng nhận biết được.
Làm sao đạt được tánh viên thông?[54]
Vị: Chẳng phải tánh sẵn có[55],
Cần phải nếm mới biết có vị,
Sự cảm nhận chẳng thường duy nhất,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Xúc do đụng chạm mới rõ biết
Không chạm vật, chẳng hiểu rõ Xúc,
Tánh có hợp, rời[56] không nhất định,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Còn Pháp thì được gọi là Nội Trần,
Do nương ngoại trần, phải có Sở,
Năng – Sở chẳng thể duyên trọn khắp,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[57]
Tánh Thấy tuy vốn sẵn rỗng rang
Chỉ thấy đằng trước, chẳng thấy sau,
Bốn phương bàng vẫn thiếu mất nửa,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[58]
Mũi thở ra vào tuy thông suốt,
Giữa thở và hít, có tạm ngừng,
Luận cặn kẽ, chúng chẳng dung hợp,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[59],
Lưỡi hễ không nếm cũng vô dụng[60],
Do Vị mà sanh ra sự nhận biết,
Vị mất thì Lưỡi cũng như không,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Thân giống như đối tượng đụng chạm[61],
Đều chẳng thể nào nhận biết trọn,
Hạn cuộc, chẳng thể ngầm biết được![62]
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Ý căn xen tạp các loạn tưởng[63],
Tâm lặng trong, chúng chẳng hiện nữa,
Nếu không thể thoát các tưởng niệm,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Nhãn thức xen tạp với Căn, Trần,
Gạn tới cùng, vốn chẳng có tướng,
Tự thể vốn đã không nhất định,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[64]
Tâm nghe thông suốt khắp mười phương[65],
Phát sanh nhờ bởi sức đại nhân,
Nhưng hàng sơ tâm chẳng thể nhập,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Tưởng nơi chót mũi vốn quyền biến,
Chỉ nhằm nhiếp tâm cho an trụ,
Tâm trụ biến thành cảnh sở trụ[66]
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Thuyết pháp vận dụng tiếng, văn từ[67],
Cần phải là đã khai ngộ trước,
Danh, cú chẳng phải là vô lậu,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Trì, phạm chỉ nhằm trói buộc thân[68],
Ngoài cái thân, lấy gì trói buộc?
Vốn chẳng trọn khắp hết thảy được!
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Thần thông do túc nhân mà có[69],
Đâu dính dáng tới pháp phân biệt,
Niệm duyên chẳng hề lìa sự vật,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Nếu như quán sát tánh Địa Đại[70],
Cứng chắc, ngăn ngại, chẳng thông suốt,
Hữu vi há phải là thánh tánh?
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Nếu như quán sát tánh Thủy Đại[71],
Tưởng niệm há phải là chân thật?
Nếu không giác quán đạt như như,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Nếu như quán sát tánh Hỏa Đại,
Chán tam giới, chẳng phải thật lìa,
Sơ tâm chẳng thể dùng cách này,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[72]
Nếu như quán sát tánh Phong Đại, [73]
Động, tịnh, không gì chẳng đối đãi,
Đối đãi chẳng là vô thượng giác!
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Nếu như quán sát tánh Không Đại,
Hư không tối, lụt, chẳng phải giác,
Không giác nào phải là Bồ Đề,
Làm sao đạt được tánh viên thông? [74]
Nếu như quán sát tánh Thức Đại[75],
Quán thấy Thức ấy chẳng thường trụ,
Hễ để tâm liền thành hư vọng,
Làm sao đạt được tánh viên thông?
Tất cả các hành đều vô thường,
Tánh của tưởng niệm vốn sanh diệt,
Nhân và quả cảm lấy khác biệt,
Làm sao đạt được tánh viên thông?[76]
Con nay bạch với đức Thế Tôn,
Phật xuất hiện trong cõi Sa Bà,
Giáo thể chân thật của cõi này,
Thanh tịnh vốn ở nơi nghe tiếng,
Nếu muốn tu chứng Tam Ma Đề,
Quả thật phải do từ nghe tiếng,
Lìa khỏi nỗi khổ, đắc giải thoát,
Hay thay ngài Quán Thế Âm!
Ở trong hằng hà sa kiếp số,
Vào cõi nước nhiều như vi trần,
Đạt sức tự tại rất to lớn,
Ban cho chúng sanh sự vô úy,
Quán Thế Âm, âm thanh nhiệm mầu,
Tiếng trong sạch và tiếng sóng gầm,
Cứu đời khiến cho được yên ổn,
Xuất thế gian, đắc quả thường trụ,
Con nay kính bạch đức Như Lai,
Như lời ngài Quán Âm đã nói,
Ví như có người ở yên lặng,
Khắp mười phương đều cùng đánh trống,
Cùng lúc nghe tiếng khắp mười chỗ,
Đấy chính là viên thông chân thật,
Mắt bị ngăn che sẽ chẳng thấy,
Miệng và mũi cũng giống như vậy,
Thân phải tiếp xúc mới nhận biết,
Tâm niệm lăng xăng không đầu mối,
Cách vách vẫn nghe được tiếng vang,
Xa gần đều có thể nghe rõ,
Năm căn đều chẳng sánh bằng Tai,
Do vậy, nó thật sự viên thông,
Do tánh âm thanh có động, tịnh
Mà nghe thành có tiếng hay không,
Không tiếng bèn bảo là chẳng nghe,
Chẳng phải thật sự không tánh nghe,
Không tiếng, tánh Nghe vẫn chẳng diệt,
Có tiếng, tánh Nghe cũng chẳng sanh,
Xa lìa trọn vẹn sanh và diệt,
Đấy quả thật là thường chân thật,
Dẫu cho đang ở trong mộng tưởng
Chẳng vì không nghĩ mà chẳng nghe,
Tánh Nghe vượt thoát sự suy nghĩ,
Thân và tâm chẳng thể sánh bằng,
Nay ở trong cõi Sa Bà này,
Các thứ thanh luận[77] được tuyên nói,
Chúng sanh mê tánh Nghe sẵn có
Đuổi theo thanh trần nên lưu chuyển,
Dẫu cho A Nan giỏi ghi nhớ,
Chẳng tránh khỏi lạc vào tà tưởng,
Sao lại chẳng từ chỗ chìm đắm,
Xoay ngược dòng để chẳng còn vọng?
A Nan! Ông hãy nên nghe kỹ,
Tôi nay nương theo oai lực Phật,
Tuyên nói phép tam-muội chân thật,
Chắc như Kim Cang vương, như huyễn
Chẳng nghĩ bàn, sanh ra chư Phật,
Ông nghe hết thảy môn bí mật,
Số lượng nhiều như số vi trần,
Mà chẳng trừ khử dục lậu trước,
Nghe nhiều chất chứa thành lầm lỗi,
Ông dùng cái Nghe trì Phật pháp,
Sao chẳng tự nghe nơi cái Nghe?
Cái Nghe há phải tự nhiên sanh?
Do âm thanh mà có danh tự,
Xoay cái Nghe thoát khỏi thanh trần,
Sự thoát ấy, ai gọi tên được?
Khi một căn đã trở về nguồn,
Tất cả sáu căn đều giải thoát,
Thấy nghe như quáng lòa hư huyễn,
Tam giới hệt hoa đốm trên không,
Xoay tánh Nghe, trừ khử gốc lòa,
Trần tướng tiêu, tánh giác viên tịnh,
Cực thanh tịnh, trí quang thông suốt,
Tịch chiếu trọn khắp cả hư không,
Trở lại quán sát việc thế gian,
Giống như chuyện ở trong giấc mộng,
Nàng Ma Đăng Già là chiêm bao,
Ai nắm giữ được thân ông nữa?
Như nhà huyễn thuật giỏi trong đời,
Huyễn hoặc hiện ra các nam nữ,
Tuy thấy các căn của họ động,
Chủ yếu chỉ do máy điều khiển,
Tắt máy, tất cả đều yên lặng,
Các huyễn trở thành chẳng có tánh,
Sáu căn cũng giống y như thế,
Vốn cùng nương một tánh tinh minh,
Chia ra thành sáu thứ hòa hợp,
Một thứ đã rời bỏ, quay về,
Thì sáu công dụng đều chẳng thành,
Trong một niệm, trần cấu tiêu trừ,
Ắt liền thành viên minh tịnh diệu,
Hễ còn Trần thì còn phải học,
Sáng suốt tột bực, thành Như Lai,
Hỡi này đại chúng và A Nan,
Hãy xoay lại cái Nghe điên đảo,
Để nghe ngược lại nơi tự tánh,
Hiểu tự tánh, thành đạo vô thượng,
Viên thông thật sự là như thế,
Đấy chính là đường nẻo Niết Bàn,
Duy nhất của vi trần chư Phật,
Các đức Như Lai trong quá khứ,
Đều đã thành tựu nơi môn này,
Các vị Bồ Tát trong hiện tại,
Mỗi vị đều nhập tánh viên minh,
Những người tu học trong vị lai,
Cũng sẽ nương theo pháp thế này,
Tôi cũng do pháp này mà chứng,
Chứ chẳng riêng ngài Quán Thế Âm
Thật đúng như lời Thế Tôn nói,
Phật hỏi con các pháp phương tiện,
Nhằm cứu giúp trong thời mạt kiếp,
Trong những người cầu thoát thế gian,
Thành tựu được cái tâm Niết Bàn,
Ngài Quán Thế Âm là bậc nhất,
Còn tất cả những phương tiện khác,
Đều nhờ vào oai thần của Phật,
Từ ngay nơi sự, bỏ trần lao,
Không phải phép tu học lâu dài,
Căn tánh nông sâu đều giảng được,
Cúi xin đảnh lễ Như Lai Tạng,
Vô lậu, không còn sự nghĩ suy,
Nguyện gia bị cho đời vị lai,
Với pháp môn này, không lầm lẫn,
Phương tiện này thành tựu dễ dàng,
Đáng nên đem dạy cho A Nan,
Và kẻ trầm luân đời vị lai,
Chỉ dùng Nhĩ Căn để tu tập,
Viên thông vượt trỗi các pháp khác,
Bởi tâm chân thật như thế đấy!

Khi ấy A Nan và các đại chúng thân tâm tỏ rõ, nhận được sự khai thị to lớn, quán sát Bồ Đề và đại Niết Bàn của Phật giống hệt như người có việc đi xa, chưa quay về được, nhưng hiểu rõ đường lối để trở về nhà của mình. Đại chúng trong cả hội, thiên long bát bộ, hàng Nhị Thừa hữu học, và hết thảy các vị Bồ Tát mới phát tâm số đến mười hằng hà sa, đều thấu hiểu bổn tâm, xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn trong sạch. Bà Tánh tỳ-kheo-ni[78] nghe nói kệ xong, thành A La Hán, vô lượng chúng sanh đều phát Vô Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nhận định: Nếu có người hỏi: Ông biên tập các bài kinh về Đại Sĩ để làm chứng, muốn khiến cho người khác tin tưởng, hướng dẫn người ta tu học, sao chẳng hoằng dương Nhĩ Căn Viên Thông, lại chỉ đề cao niệm Phật, há chẳng phải là trái nghịch pháp môn của Đại Sĩ, chống đối sự chọn lựa của ngài Văn Thù ư?

Đáp: Tôi nào có dám! Nhưng ông còn chưa suy xét sâu xa chương kinh này, chẳng hiểu tướng mạo của kinh nên nghi ngờ đó thôi! Pháp Nhĩ Căn Viên Thông như ông nghĩ đó làm sao phù hợp với pháp môn trong đời này?

[Người ấy] nói: Xoay cái Nghe lại để nghe nơi tự tánh, hễ vượt thoát liền chứng nhập ngay, đấy chính là một nghĩa trọng yếu của nhà Thiền.

Đáp: Các bậc cổ đức của Thiền môn phần nhiều sẵn đủ túc căn, chẳng cần phải tốn công tu tập mà tự sanh trí huệ, giống như ngài Tu Bồ Đề trong hội kinh này. Từ đấy về sau, căn cơ dần dần chậm lụt hơn, Tổ Sư nặng lòng đau đáu, bèn dùng một câu nói chẳng có ý nghĩa gì để chặn lấp cái tâm [suy lường, phân biệt] của kẻ học, khiến cho họ phát khởi nghi tình, tham cứu sâu xa, chắc thật, bỗng nhiên dung hợp, phá rỗng toang [kiến chấp], khế hợp bổn tâm thì sẽ lại giống như Tất Lăng do suy xét nỗi đau[79], thân tâm bỗng nhiên rỗng không, có bao giờ là từ xoay trở lại tánh Nghe để thâm nhập ư?

[Người ấy] nói: Những vị giải thích Lăng Nghiêm phần nhiều dùng Tam Chỉ Tam Quán, pháp Phản Văn (xoay lại cái Nghe) chẳng lìa Chỉ Quán. Như vậy thì điều được tông Thiên Thai đề xướng há chẳng phải là đã vượt ra ngoài pháp Niệm Phật do ngài Văn Thù đã chọn ư?

Đáp: Đúng như lời ông nói, pháp Niệm Phật được ngài Văn Thù chọn lựa, còn pháp môn Chỉ Quán thuộc chương mở đầu của kinh này chính là pháp được Phật Thích Ca chọn lựa, đến phần Viên Thông thì lại chọn pháp Viên Thông của ngài Quán Âm. Vì sao vậy? Tam Chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai chỉ lấy ý thức làm chủ, đấy chính là điều bị đức Như Lai quở trách, bị Đại Sĩ gạt bỏ.

Hỏi: Vậy thì pháp Niệm Phật làm sao phù hợp được?

Đáp: Chỉ nhìn bề ngoài thì không có gì phù hợp khít khao cả, nhưng nếu suy xét sâu đến tận cốt tủy thì vạn pháp viên dung, càng thâm nhập sâu phép Phản Văn thì:

– Một pháp chẳng lập, chính là Thiền Tông.

– Quán chiếu không gián đoạn, chuyển Thức thành Trí chính là tông Thiên Thai.

– Y Tha[80] chẳng khởi, đốn nhập Viên Thành[81], chính là Tướng Tông (Duy Thức Tông).

– Lìa hết thảy tánh, một đạo thanh tịnh, chính là Luật Tông.

Pháp môn của Đại Sĩ không gì chẳng bao gồm nên gọi là “đắc chân viên thông” (đạt được sự viên thông chân thật), nói “thiển thâm đồng thuyết pháp” (dù căn cơ cạn hay sâu đều có thể cùng thuyết pháp được) nên người chọn lựa (ngài Văn Thù) đành phải hạ thấp ngài Thế Chí, đặc biệt tán dương Quán Âm, nhưng xét rốt ráo pháp phù hợp với Đại Sĩ từ đầu đến cuối thì phải đề cao Trì Danh. Vì vậy, [ngài Văn Thù] đã đề cao rõ ràng một môn và ngầm chọn một môn. Vì sao nói vậy? Pháp Trì Danh dạy trước hết thanh phải hợp với tâm, tâm phải hợp với thanh, thanh và tâm dung hợp lẫn nhau, chẳng phải là từ sự Nghe mà vào trong dòng Nghe, cho đến mức Căn và Trần đều mất đó ư? Lâu ngày thuần thục sẽ không còn có tâm Năng Niệm, không còn đức Phật được niệm, chẳng phải là Giác và Sở Giác đều không ư? Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, chẳng phải là Không lẫn Sở Không đều diệt ư? Tam-muội hiện tiền, tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt, chẳng phải là “tịch diệt hiện tiền, thượng đồng, hạ hợp” ư? Chỉ có pháp môn này khế hợp sự tu chứng của Đại Sĩ nhất!

Do vậy, pháp Nhĩ Căn của ngài Quán Âm lẽ ra phải xếp trước [pháp Tỵ Căn Viên Thông] của ngài Châu Lợi [Bàn Đặc], nhưng lại xếp riêng vào cuối cùng, [phép Viên Thông] nơi căn thứ sáu của ngài Thế Chí lẽ ra phải xếp trước phép Viên Thông của ngài Di Lặc, mà cũng được xếp ra sau. Hai vị Đại Sĩ chính là bậc lãnh đạo trong Tịnh Độ, mà cũng là hai vị đứng đầu trong hội Lăng Nghiêm. Ý chỉ nhỏ nhiệm nằm ngoài ngôn ngữ ấy, há có nên chẳng xét tới ư?

Lại càng phải nên thấu hiểu sâu xa: Chuyện trong thiên hạ, người sáng lập cơ nghiệp, lưu truyền giềng mối thì khó, chứ kẻ tập tước[82], thọ phong thì dễ. Pháp thế gian đã như thế thì pháp xuất thế gian cũng giống như vậy. Đại Sĩ phát tâm Bồ Đề đầu tiên ở chỗ Kim Quang Sư Tử Phật, đến khi chứng đắc môn Viên Thông này, chẳng biết đã trải qua bao nhiêu thời kiếp. Huống chi trước khi Bồ Tát phát tâm, đức Phật nói: “Hằng hà sa số còn biết được số, chứ Đại Sĩ gieo các thiện căn chẳng thể nói kể được”. Vì thế, pháp môn Nhĩ Căn tuy nói là “thành thánh trong sát-na”, nhưng Ngài đã trải qua bao kiếp mà tu thành, quả thật chẳng thể nào nói nổi, chẳng thể diễn tả được! Hiện nay, chúng sanh đang nhằm thời Mạt có thể làm được hay chăng? Vì thế, chương này trước hết nêu bày pháp Nhĩ Căn Viên Thông, ngõ hầu người có túc căn biết pháp để chọn lựa, để rồi từ trong vô tác diệu đức, nói “có thể làm cho chúng sanh cầu đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn”, ba căn cùng nhiếp, dẫn khắp tất cả trở về nguồn. Nếu chúng sanh quả thật có thể cậy vào tự lực để chứng Niết Bàn thì cần gì phải cầu từ Đại Sĩ? Nói “cầu” chính là nhằm dạy người ta hãy trì danh, lễ bái! Đại Sĩ từ Nan Hành Đạo (đạo khó hành) mà sáng lập cơ nghiệp, lưu truyền giềng mối khiến cho lũ chúng sanh ta đạt được Dị Hành Đạo (đạo dễ hành), tập tước, thọ phong, đấy gọi là “diệu đức chẳng thể nghĩ bàn, căn cơ sâu hay cạn đều có thể cùng thuyết pháp”. Kẻ đọc kinh mà không chú ý điều này thì lòng từ bi vô lượng của Đại Sĩ sẽ bị vùi lấp mãi mãi.

Lại nữa, nếu quả thật Đại Sĩ chẳng chọn pháp Niệm Phật thì cớ sao trong kinh Vô Lượng Thọ chẳng nhiếp độ người [tu tập theo cách] Phản Văn về Tịnh Độ, mà lại nhiếp thọ người niệm Phật. Cớ sao trong kinh Pháp Hoa chẳng dạy chúng sanh xoay trở lại nghe nơi tự tánh mà lại dạy lễ kính, xưng danh? Nếu ngài Văn Thù thật sự chẳng chọn pháp Niệm Phật thì cớ sao trong [Văn Thù Sở Thuyết] Bát Nhã Kinh, Ngài lại dạy người ta hãy chú tâm nơi một đức Phật, chuyên xưng danh hiệu? Cớ sao trong kinh Quán Phật, Ngài nguyện khi mạng chung được thấy A Di Đà Phật? Ấy là vì kinh này gồm trọn giáo pháp trong suốt cả một đời [đức Phật], bao gồm trọn khắp hết thảy pháp môn, trình bày ý nghĩa tột bực tinh vi, hoằng pháp rộng khắp tột bậc, kẻ chưa có đủ đạo nhãn thật khó thể tìm được bờ bến.

Nhưng đọc phần kinh văn nói về sự chọn lựa, trừ khử vọng thức thì thấy “nhất tâm bất loạn” của Niệm Phật đáng quý, đọc phần kinh văn phô bày trọn vẹn về tạng tánh thì y báo và chánh báo của Cực Lạc chẳng ở ngoài tâm chúng sanh, đọc phần kinh văn nói về sự thọ sanh trong bảy đường thì thấy sự đọa lạc đáng sợ, đọc phần kinh văn giảng về Ngũ Ấm Ma thì thấy Thiền Na khó tu. Chương này là do pháp môn của Đại Sĩ rộng lớn, chưa thể tôn xưng riêng mình ngài Thế Chí, nhưng cả bộ kinh từ đầu đến cuối quả thật chẳng khác gì khuyên người ta hãy chết lòng niệm Phật.[83] Bọn chúng ta suy đi xét lại ý nghĩa tường tận thì sẽ chẳng đến nỗi biện luận dông dài!

3. Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương (phụ lục)

Ðại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng hạnh với Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, bạch Phật rằng:

– Con nhớ trong hằng hà sa kiếp xưa kia, có đức Phật xuất thế tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai liên tiếp [xuất hiện] trong cùng một kiếp. Vị Phật cuối cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Ðức Phật ấy dạy con pháp Niệm Phật tam-muội. Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế dù có gặp nhau mà như chẳng gặp, hoặc có thấy nhau cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, hai cái nhớ ấy càng sâu. Như thế cho đến từ đời này sang đời khác như hình và bóng chẳng hề trái nghịch, sai khác nhau. Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn, dẫu nhớ ích gì? Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con thì mẹ con trải qua nhiều đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng cần đến phương tiện, tâm tự được mở mang. Như người nhiễm hương, thân thường có mùi hương. Ðấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Lúc con tu nhân vốn là dùng tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn. Nay con ở trong thế giới này, nhiếp người niệm Phật quay về Tịnh Ðộ. Phật hỏi pháp nào Viên Thông, con chẳng chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Ðịa, đấy là bậc nhất.

Nhận định: Quán Âm và Thế Chí cùng là pháp vương tử của A Di Đà Phật, cùng dùng oai đức thần lực ở trong mười phương pháp giới nhiếp thọ người niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Pháp Viên Thông của ngài Quán Âm nhằm để nói với hạng lợi căn trong thuở ấy và trong đời Mạt, còn pháp Viên Thông của ngài Thế Chí thích hợp trọn khắp ba căn thượng – trung – hạ, khiến cho dù thánh hay phàm đều cùng ngay trong đời hiện tại thoát khỏi cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, cho đến đắc đại Niết Bàn, viên thành Phật đạo. Ngài Quán Âm do đại từ bi bèn thuận theo từng loại mà hiện thân, tầm thanh cứu khổ, không gì chẳng ngoài muốn dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, muốn ban vui cho hết thảy chúng sanh, nhưng vãng sanh Tây Phương quả thật là dẹp khổ rốt ráo, ban vui rốt ráo. Trong tâm Bồ Tát, chỉ muốn khiến cho các chúng sanh đắc đại Niết Bàn, nhưng do chúng sanh sở nguyện bất nhất; vì thế, Ngài rủ lòng thuận theo cơ nghi khiến cho họ đạt được lợi ích. Cho nên nói: “Cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam-muội đắc tam-muội, cầu trường thọ được trường thọ, như thế cho đến cầu đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn”. Đại Niết Bàn chính là thật sự chứng Trí Đoạn rốt ráo, viên thành Phật đạo. Nếu sanh về Tây Phương, trong một đời liền đạt địa vị Bổ Xứ, chính là có thể phần chứng quả Đại Niết Bàn. So với những kẻ trải bao kiếp tu hành trong thế giới này để chứng đắc thì cố nhiên sự khó – dễ dẫu có nói hết năm cũng chẳng thể trọn! Vì thế, sau phần Viên Thông của ngài Quán Âm, chép thêm chương Viên Thông của ngài Thế Chí để mong hết thảy Phật tử cùng tu Niệm Phật tam-muội, cùng sanh về Tịnh Độ, cùng với Quán Âm và Thế Chí thân cận Di Đà, độ thoát chúng sanh, ngõ hầu đắc đại Niết Bàn, viên thành Phật đạo (Cầu vợ, cầu con, cầu thọ, mỗi chuyện đều có Sự và Lý. Cầu vợ về mặt Sự chính là cầu được vợ hiền đức, có thể giúp chồng dạy con như ba bà Thái đời Châu. Nếu không, cần gì phải hướng về Bồ Tát cầu vợ? Chúng sanh mong cầu đủ mọi thứ khác nhau, chỉ nêu lên bốn điều như vợ, con v.v… rồi dùng bốn chữ “như thế cho đến” để bao gồm những điều còn lại, lấy “đắc Niết Bàn” để kết thúc, đủ thấy Bồ Tát hễ có cảm liền ứng, không nguyện gì chẳng thỏa. Nhưng muốn được Bồ Tát thỏa điều ta mong cầu, ắt phải đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, chí thành khẩn thiết, niệm danh hiệu Bồ Tát thì sẽ tự được như nguyện. Thích Ấn Quang kính đề).

4. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm

Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo bày vai phải, chắp tay hướng về Phật, thưa như thế này:

– Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên nào mà tên là Quán Thế Âm?

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát:

– Này thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não, nghe nói tới vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, nhất tâm xưng danh thì ngay lập tức Quán Thế Âm Bồ Tát quán sát âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát. Nếu có ai trì danh hiệu của vị Quán Thế Âm Bồ Tát này thì giả sử đi vào lửa lớn, lửa chẳng thể đốt được, do vì sức oai thần của vị Bồ Tát này vậy. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài, liền đến được chỗ cạn.

Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì cầu các thứ báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu v.v… mà vào biển cả, giả sử hắc phong thổi thuyền bè của họ giạt vào nước quỷ La Sát, trong ấy nếu có dù chỉ một người xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát thì những người ấy đều được thoát khỏi nạn La Sát. Do nhân duyên ấy, Ngài có tên là Quán Thế Âm.

Nếu lại có người sắp bị hại mà xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát thì những đao trượng của kẻ [toan làm hại] ấy đang cầm liền gãy từng đoạn nên [người sắp bị hại ấy] được giải thoát. Nếu các cõi nước trong tam thiên đại thiên đầy dẫy Dạ Xoa, La Sát toan muốn não hại con người, nhưng nghe xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát thì các ác quỷ ấy còn chẳng thể dùng mắt dữ để nhìn, huống là làm hại!

Nếu lại có người, dù có tội hay vô tội, gông, cùm, xiềng, xích trói buộc thân hình mà xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát [thì những gông cùm ấy] thảy đều hư nát, liền được giải thoát.

Nếu các cõi nước trong tam thiên đại thiên đầy dẫy oán tặc, có một vị thương chủ[84] dẫn các thương nhân đem theo đồ quý báu nặng nề đi qua đường hiểm, trong số ấy có một người xướng lên lời này: “Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hãi, các ông hãy nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy có thể ban cho chúng sanh sự không sợ hãi. Nếu các ông xưng danh Ngài thì sẽ được giải thoát khỏi bọn oán tặc này”. Các thương nhân nghe xong, đều cùng thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Do xưng danh nên liền được giải thoát.

Vô Tận Ý! Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát vòi vọi như thế. Nếu có chúng sanh lắm dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa dục. Nếu lắm nóng giận, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa giận. Nếu nhiều ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa si.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần to lớn như thế, tạo nhiều lợi ích. Vì thế, chúng sanh thường nên tâm niệm. Nếu có nữ nhân  muốn cầu con trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, liền sanh con gái đoan chánh, tướng tốt, đã trồng cội đức từ trước, mọi người yêu kính.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức như thế. Nếu có chúng sanh cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát phước chẳng luống uổng. Vì thế, chúng sanh đều nên thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại còn suốt đời cúng dường thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc thang, ý ông nghĩ sao, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy công đức nhiều chăng?

Vô Tận Ý thưa:

– Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

Phật dạy:

– Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thậm chí lễ bái, công đức một lúc thì phước của hai người ấy giống hệt như nhau không khác. Trong trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể cùng tận.

Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được lợi ích vô lượng vô biên phước đức như thế.

Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo trong thế giới Sa Bà này như thế nào, vì chúng sanh thuyết pháp như thế nào, sức phương tiện ấy là như thế nào?

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát:

– Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong cõi nước nên dùng Phật thân để họ đắc độ thì Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Bích Chi Phật để họ đắc độ, liền hiện thân Bích Chi Phật để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Thanh Văn để họ đắc độ, liền hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Phạm Vương để họ đắc độ, liền hiện thân Phạm Vương để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Đế Thích để họ đắc độ, liền hiện thân Đế Thích để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Tự Tại Thiên để họ đắc độ, liền hiện thân Tự Tại Thiên để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Đại Tự Tại Thiên để họ đắc độ, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Thiên Đại Tướng Quân để họ đắc độ, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Tỳ Sa Môn[85] để họ đắc độ, liền hiện thân Tỳ Sa Môn để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân tiểu vương để họ đắc độ, liền hiện thân tiểu vương để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân trưởng giả để họ đắc độ, liền hiện thân trưởng giả để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân cư sĩ[86] để họ đắc độ, liền hiện thân cư sĩ để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân tể quan để họ đắc độ, liền hiện thân tể quan để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Bà La Môn để họ đắc độ, liền hiện thân Bà La Môn để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di để họ đắc độ, liền hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân phụ nữ của hàng trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà La Môn để họ đắc độ bèn hiện thân phụ nữ để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân đồng nam, đồng nữ để họ đắc độ, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… để họ đắc độ, liền đều hiện [những thân ấy] thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Chấp Kim Cang thần[87] để họ đắc độ, liền hiện thân Chấp Kim Cang thần để thuyết pháp cho họ.

Vô Tận Ý! Vị Quán Thế Âm Bồ Tát này thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình dạo trong các cõi nước, độ thoát chúng sanh. Vì thế các ông hãy nên một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này có thể ban cho sự không sợ hãi trong khi [chúng sanh] sợ hãi, gặp nạn cấp bách. Vì vậy, thế giới Sa Bà này đều gọi Ngài là Thí Vô Úy Giả (đấng ban cho sự không sợ hãi).

Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật ngôn:

– Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.

Liền cởi chuỗi anh lạc kết bằng các thứ bảo châu đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, để tặng cho [Quán Thế Âm Bồ Tát], nói như sau:

– Thưa nhân giả! Hãy nhận lấy chuỗi anh lạc pháp thí quý báu này.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát không chịu nhận. Vô Tận Ý lại bạch Quán Thế Âm Bồ Tát rằng:

– Nhân giả hãy vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi anh lạc này.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát:

– Ông hãy nên thương xót Vô Tận Ý Bồ Tát và tứ chúng, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… mà nhận chuỗi anh lạc ấy.

Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhân, phi nhân v.v… nhận chuỗi anh lạc ấy, chia làm hai phần: Một phần dâng lên Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng lên tháp của Đa Bảo Phật.

– Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có thần lực tự tại như vậy, dạo trong thế giới Sa Bà.

Khi ấy, Vô Tận Ý Bồ Tát dùng kệ hỏi rằng:

– Thế Tôn diệu tướng trọn,
Con nay lại hỏi Ngài,
Nhân duyên nào Phật tử,
Tên là Quán Thế Âm?
Đấng diệu tướng trọn vẹn,
Nói kệ đáp Vô Tận:
– Ông nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng các nơi chốn,
Thệ rộng sâu như biển,
Trải kiếp chẳng nghĩ bàn,
Hầu nhiều ngàn ức Phật,
Phát nguyện lớn thanh tịnh,
Ta vì ông nói lược,
Nghe tên và thấy thân,
Tâm niệm chẳng luống uổng,
Diệt sạch khổ các cõi,
Giả sử dấy lòng hại,
Xô lọt hầm lửa lớn,
Do sức niệm Quán Âm,
Hầm lửa biến thành ao,
Hoặc trôi giạt biển lớn,
Rồng, cá, các nạn quỷ,
Do sức niệm Quán Âm,
Sóng mòi chẳng chìm được,
Hoặc tại đỉnh Tu Di,
Bị người xô ngã xuống,
Do sức niệm Quán Âm,
Như mặt trời treo không,
Hoặc bị kẻ ác đuổi,
Rớt xuống núi Kim Cang,
Do sức niệm Quán Âm,
Chẳng tổn hại mảy lông,
Hoặc gặp oán tặc vây,
Cầm đao toan làm hại,
Do sức niệm Quán Âm,
Chúng đều dấy tâm từ,
Hoặc gặp nạn vua khổ,
Sắp hành hình mất mạng,
Do sức niệm Quán Âm,
Đao liền gãy từng khúc,
Hoặc tù rạc gông cùm,
Tay chân bị xiềng xích,
Do sức niệm Quán Âm,
Cởi gỡ, được giải thoát,
Nguyền rủa, các thuốc độc,
Toan làm hại đến thân,
Do sức niệm Quán Âm,
Trở ngược kẻ làm hại,
Hoặc gặp ác La Sát,
Rồng độc, các bọn quỷ,
Do sức niệm Quán Âm,
Chúng đều chẳng dám hại,
Nếu ác thú vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng sợ,
Do sức niệm Quán Âm,
Ùa chạy mất tăm tích,
Rắn độc cùng bò cạp,
Phun hơi độc mù mịt,
Do sức niệm Quán Âm,
Nghe tiếng tự rút chạy,
Mây sấm nháng chớp xẹt,
Mưa đá, tuôn mưa lớn,
Do sức niệm Quán Âm,
Tiêu tan ngay lập tức,
Chúng sanh bị khổn ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm diệu trí lực,
Thường cứu khổ thế gian,
Trọn đủ sức oai thần,
Rộng tu trí phương tiện,
Các cõi nước mười phương,
Không cõi nào chẳng hiện,
Đủ mọi các nẻo ác,
Địa ngục, quỷ, súc sanh,
Sanh, lão, bệnh, tử khổ,
Dần dần khiến tiêu diệt,
Chân quán, thanh tịnh quán,
Trí huệ quán rộng lớn,
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,
Thanh tịnh vô cấu quang,
Huệ nhật phá các tối,
Dẹp tai kiếp gió lửa,
Chiếu sáng khắp thế gian,
Bi thể răn như sấm
Ý từ diệu dường mây,
Tuôn mưa pháp cam lộ,
Diệt trừ lửa phiền não,
Kiện tụng, ra cửa quan,
Trong quân trận sợ hãi,
Do sức niệm Quán Âm,
Các oán đều lui tan,
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải Triều Âm,
Tiếng trỗi thế gian kia,
Cho nên phải thường niệm,
Niệm niệm chớ sanh nghi.
Quán Thế Âm tịnh thánh
Trong khổ não, chết, nạn,
Thường làm nơi nương tựa,
Trọn hết thảy công đức,
Mắt từ nhìn chúng sanh,
Biển phước chứa vô lượng,
Vì thế nên đảnh lễ.

Khi ấy, Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch trước đức Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nghe nghiệp tự tại, sự phổ môn thị hiện, và sức thần thông trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát này thì nên biết là người ấy công đức chẳng ít.

Khi đức Phật nói phẩm Phổ Môn này, tám vạn bốn ngàn chúng sanh trong đại chúng đều phát Vô Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm.

Nhận định: Phẩm này hoàn toàn tương đồng với đoạn văn nói về ba mươi hai ứng thân và mười bốn món Vô Úy trong chương [Nhĩ Căn] Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, nhưng chương kinh kia nói về sự tu chứng, phô bày cả nhân lẫn quả, còn phẩm kinh này chỉ trình bày những công năng thuộc mặt quả nhằm khuyên người ta hãy trì danh, lễ kính. Vì thế, xưa nay những ai tụng kinh xưng danh, đều được Bồ Tát ứng hiện như dùi gõ xuống mặt trống [liền phát ra tiếng]. Trưởng giả Lý Thông Huyền nói: “Bồ Tát từ bi, quang minh chiếu thế gian, nghe khổ liền cứu, nhưng ắt phải đợi [chúng sanh] niệm rồi mới ứng là có ý làm cho [kẻ niệm] hồi tâm, chuyên duyên theo thiện pháp, khiến cho công đức, thiện căn [của người ấy] sâu chắc vậy. Điều ấy cố nhiên là tấm lòng Đại Bi, vô tác diệu đức vô tận”. Trong hội Hoa Nghiêm, Đại Sĩ bảo Thiện Tài: “Ta trụ trong hạnh môn Đại Bi này, hiện khắp trước hết thảy chúng sanh”. Vậy thì mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều chẳng ở ngoài thân từ bi của Đại Sĩ. Chỉ vì trải bao kiếp hôn mê, như kẻ mù lòa từ thuở lọt lòng, hằng ngày đối trước ánh mặt trời mà chẳng tự biết, chợt gặp ách nạn, hết thảy trần lao vọng tưởng đều bị khuất phục chẳng khởi, chỉ còn một ý niệm cầu cứu như lửa mạnh cháy bùng, như dòng lũ chảy xiết, chẳng ngờ lập tức tương ứng với Đại Sĩ, thần lực vòi vọi bèn hiện ra trọn đủ, thọ dụng vô tận. Chứ Đại Sĩ có bao giờ là nghe hay chẳng nghe, cứu hay chẳng cứu đâu?

Người học biết sâu xa lý này, tin chư Phật, Bồ Tát thường ở trước mặt, hướng lành, đổi lỗi, chẳng dám tự dối. Đến lúc tụng kinh càng phải tuân theo lời dạy của pháp sư Ấn Quang, chí thành khẩn thiết, như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, chẳng manh nha một niệm giải đãi, chẳng khởi một niệm phân biệt. Từ đầu đến cuối kính cẩn tụng niệm thì nghiệp chướng tự tiêu, phước huệ tự tăng vậy!

5. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (đính kèm lời chú giải sơ lược. Bát Nhã được cõi này dịch là trí huệ, Ba La Mật Đa cõi này dịch là Đáo Bỉ Ngạn (đến bờ kia), nghĩa là dùng trí huệ quán chiếu, vượt qua biển khổ sanh tử, đến bờ kia Niết Bàn)

Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

(Quán Tự Tại Bồ Tát khi hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt hết thảy khổ ách).

Quán Tự Tại chính là Quán Thế Âm. Ngài Hiền Thủ bảo vị Bồ Tát này có đại trí, đối với cảnh “lý sự vô ngại” đã quán thông đạt, tự tại. Lại nữa, Ngài có lòng đại bi, quán sát căn cơ để đến cứu tự tại vô ngại, nên có tên như vậy. “Hành thâm” có nghĩa là tu luyện thành công đã lâu, chẳng phải là điều kẻ thô tâm hời hợt, vừa mới hiểu biết nông cạn đã ngừng [tu tập] mà dám mong mỏi. “Ngũ Uẩn” chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chữ Sắc này so với chữ Sắc trong Lục Trần thì phạm vi bao gồm rất rộng, toàn bộ Ngũ Căn và Lục Trần, tổng cộng mười một pháp, đều là Sắc cả. Thọ là lãnh nạp. Tưởng là tư tưởng. Hành là tạo tác. Thức là phân biệt. Thức gọi là Tâm Vương, Thọ, Tưởng, Hành đều là Tâm Sở. Ngài Tông Lặc nói Bồ Tát do soi thấy Ngũ Uẩn không tịch, lìa khổ sanh tử, lại thương chúng sanh đang mê, điên đảo làm càn, trái đạo lý, nghịch luân thường, tạo Thập Ác, Ngũ Nghịch, đến nỗi hứng chịu các nỗi khổ, bèn dạy họ dùng trí huệ quán sát hòng được giải thoát.

Ngài Hám Sơn nói: “Nếu chúng ta biết Ngũ Uẩn vốn là không, Tứ Đại chẳng có thì đâu còn có nghiệp lụy nào trói buộc, đâu còn nhân ngã, thị phi để tranh cãi, đâu còn cùng quẫn, thông suốt, được – mất để so đo, đâu còn giàu sang, nghèo hèn để bận lòng nữa ư?” Đoạn kinh văn nói về mười bốn món Vô Úy trong chương [Nhĩ Căn] Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có thể dùng để chú thích đoạn này.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

(Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy).

Xá Lợi Tử chính là Xá Lợi Phất. Chúng sanh chấp sắc thân là Ngã, khó dẹp trừ nhất, nên nêu Sắc đầu tiên. Ngài Tông Lặc nói: “Sắc chính là Tứ Đại huyễn sắc, Không chính là Bát Nhã Chân Không. Chúng sanh mê lầm chân không thành huyễn sắc, như nước đông thành băng. Bồ Tát biết huyễn sắc chính là chân không, như băng tan thành nước. Thể của chúng chẳng khác nên nói ‘bất dị’. Ấy là ‘sắc bất dị không’ nhằm phá Thường Kiến[88]. Phàm phu chấp sắc thân là thật, lầm lạc mong mỏi nó tồn tại thường hằng, mưu tính sao cho nó tồn tại trăm năm ngàn đời, chẳng biết thân này niệm niệm đổi dời, như lửa thành tro, dần dần tiêu mất, rốt cuộc thành không. Ngoại đạo đề xướng Kim Đan Giáo[89] muốn dùng cách nuốt nước miếng, vận chuyển hơi thở, lầm lạc cầu kết thành tiên đan[90], xuất hồn, chẳng biết các chất dịch và hơi thở thuộc về Sắc, hít ra thở vào thuộc về Thọ, chú tâm giữ cho hơi thở đi theo đúng kinh mạch thuộc về Tưởng, nung luyện [hỏa hầu] thuộc về Hành, nguyên thần thuộc về Thức, toàn thể hư vọng làm sao đạt được chân thường? Vì thế, dùng câu “bất dị Không” để cảnh tỉnh.

“Không bất dị Sắc” nhằm phá Đoạn Kiến. Ngoại đạo chẳng biết thân do nghiệp mà khởi, nghiệp từ tâm sanh, luân chuyển tuần hoàn, nhân quả chẳng mất, bảo xằng “con người chết đi thần hồn cũng phiêu tán, chặt, đốt, xay, giã lấy đâu để thực hiện!” Chẳng biết thân chết nhưng tánh chẳng diệt (như quả hạt của cỏ cây, tuy nung, nướng, nấu, luộc, hễ tánh của nó là hòa hoãn thì [quả hạt dẫu đã nấu nướng v.v…] vẫn là hòa hoãn, có tánh độc thì vẫn độc, tánh thăng thì vẫn thăng, tánh giáng thì vẫn giáng[91]. Loài vô tình còn như thế, huống hồ con người ư?) Nhân quả rành rành chẳng sai. Nếu lại có người bảo “con người chết rồi sẽ làm người, loài vật chết đi lại làm loài vật, trời sanh muôn vật nhằm nuôi dưỡng con người, cho nên sát sanh ăn thịt, những loài vật ngu ngốc như thế làm sao có thể đòi nợ mạng được?” thì họ chẳng biết nghiệp có thăng trầm, tánh không sai khác, vốn bình đẳng, sự lý luân hồi quả thật đáng làm căn cứ! Đến nỗi hạng Nhị Thừa tuy y theo đạo để tu tập, nhưng chẳng thấu đạt “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, ngỡ chúng là có thật nên coi tam giới như lao ngục, tránh né chúng như lánh đồ dơ, chẳng dấy lòng độ sanh, nên nói: “Không bất dị Sắc”. Ấy là vì Bát Nhã Chân Không như tấm gương tròn lớn, hết thảy huyễn sắc như ảnh hiện trong gương. Nếu biết “gương chẳng khác ảnh”, sẽ hiểu ý nghĩa “Không bất dị Sắc”.

Lại sợ chúng sanh căn độn, vẫn giữ hai kiến chấp Sắc và Không, nên lại nói trùng điệp dung hội rằng: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, giống như băng chính là nước, nước chính là băng. Biết Sắc chẳng khác Không thì chẳng có thanh, sắc, của cải, lợi lộc để tham, không có ngũ dục lục trần để luyến mến, nhanh chóng vượt khỏi cảnh giới phàm phu (Đây chính là ý nghĩa của câu “Phú quý phù vân” (phú quý như mây nổi) trong sách Luận Ngữ và câu “vạn chung hà gia”[92] (muôn chung có ích gì) trong sách Mạnh Tử). Biết Không chẳng khác Sắc thì chẳng khởi Diệt Định, mà hiện các oai nghi, chẳng động bổn tế, thực hiện sự nghiệp độ sanh, nhanh chóng vượt trỗi ngoại đạo, Nhị Thừa (Đây chính là ý nghĩa của câu “bất kiến nhi chương, bất động nhi biến, vô vi nhi thành, cập vi vật bất nhị, sanh vật bất trắc” (không thấy mà biểu lộ, không động mà biến đổi, không tạo tác mà thành, chẳng khác gì với vật mà sanh thành muôn vật chẳng thể lường) trong sách Trung Dung). Biết Sắc và Không bình đẳng, giống hệt như nhau thì niệm niệm độ sanh, chẳng thấy có chúng sanh để độ, tâm tâm cầu Phật, chẳng thấy Phật quả để cầu, mà nhanh chóng chứng cùng một cảnh với Phật.

Sắc Uẩn đã như vậy thì quán sát bốn Uẩn kia tương tự. Vì thế nói “Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”. Thử dùng chuyện hiện thời để làm chứng thì kẻ đắc Thiên Lý Nhãn, núi, rừng, tường vách chẳng thể ngăn che được, chẳng phải là “Sắc tức thị Không” đó ư? Kẻ giỏi thuật Thôi Miên thì tâm niệm của người khác, người ấy đều có thể biết rõ, chẳng phải là Không tức Sắc đó ư? Cái thân được chưng diện, nhưng dùng tia X quang để chiếu thì y phục lẫn cái thân xác thịt đều như mây tiêu, khói tan, chẳng phải là Sắc tức Không đó ư? Mắt huệ quán chúng sanh, cố nhiên là như vậy! Dùng kính hiển vi để nhìn vào một giọt nước hay quan sát một kẽ hở trên không trung thì những loài động vật bé tí lăng xăng tụ họp chen chúc trong ấy, đấy chẳng phải là “Không tức là Sắc” hay sao? Chư thiên nhìn chúng ta cũng giống như vậy đó! (Thân chư thiên cao trăm ngàn trượng cho đến cả trăm ngàn do-tuần). Cớ sao người đời cứ phải ở trong huyễn cảnh mà tranh giành man dại như thế?

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

(Này Xá Lợi Tử! Tướng Không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm).

“Chư pháp” chính là Ngũ Uẩn. “Không” là nói về tướng, muốn cho con người hiểu rõ nên cưỡng chỉ tướng trạng, nghĩa là Chân Không tuy chính là Sắc, Thọ v.v…, nhưng Sắc tùy duyên khởi, Chân Không chẳng sanh; Sắc tùy duyên diệt, Chân Không chẳng diệt. Lại nữa, thuận theo dòng mà chẳng nhiễm, ra khỏi chướng chẳng tịnh, chướng hết chẳng giảm, đức viên mãn chẳng tăng. Đấy gọi là “một pháp chẳng lập” vậy.

Thị cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô Nhãn Giới, nãi chí Vô Ý Thức Giới.

(Vì thế, trong Không chẳng có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chẳng có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, chẳng có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, chẳng có Nhãn Giới, cho đến chẳng có Ý Thức Giới).

Đoạn này lần lượt đem cái Không ứng với những điều còn lại giống như cái Không [đã nói] trong phần Ngũ Uẩn ở trên, tức là Lục Căn không, Lục Trần không cho đến Thập Bát Giới không. Thập Bát Giới là sáu căn hợp với sáu trần, thêm vào sáu Thức để nói.

Kinh Lăng Nghiêm có nói như người chẳng nháy mắt, mắt nhìn trừng trừng, phát mệt, sẽ thấy hoa đốm bay tán loạn trên hư không, và lại có hết thảy những tướng cuồng loạn chẳng thật. Hãy nên biết Sắc Ấm cũng giống như thế! Như người chà hai bàn tay vào nhau, liền hư vọng sanh ra những tướng rít, trơn, lạnh, nóng. Hãy nên biết Thọ Ấm cũng giống như thế. Như người nói đến quả mơ chua, trong miệng ứa nước, nghĩ đến trèo lên vách đá cheo leo, lòng bàn chân nhơm nhớp [mồ hôi], hãy nên biết Tưởng Ấm cũng giống như vậy. Ví như dòng nước chảy xiết, từng con sóng nối tiếp nhau, lớp trước lớp sau chẳng trái vượt, hãy nên biết Hành Ấm cũng giống như thế (ví như niệm niệm lưu chuyển chẳng ngơi). Như người lấy cái bình Tần Già[93], nút hai lỗ lại, không gian bị chứa đầy trong đó, đem đi xa ngàn dặm, bù đắp cho nước khác, hãy nên biết Thức Ấm cũng giống như vậy (Ví như thức thần theo nghiệp thọ sanh trong tam giới). Tiếp đó, Lục Nhập, Nhị Thập Xứ, Thập Bát Giới, mỗi mỗi đều nói rõ nó là hư vọng, lời văn rườm rà chẳng thể chép trọn.

Lại nói: Lìa tối, lìa sáng, chẳng có bản thể của cái Thấy. Lìa động, lìa tĩnh, vốn không có tánh chất Nghe. Không thông, không tắc, tánh Ngửi chẳng sanh. Chẳng biến đổi, chẳng điềm nhiên, sự nếm không cách nào xuất hiện được. Chẳng lìa, chẳng hợp, giác xúc (sự nhận biết do đụng chạm) vốn không. Chẳng diệt, chẳng sanh thì sự hiểu rõ sẽ dựa vào đâu [mà có]? (Điều này có nghĩa là đã lìa khỏi Trần thì Căn và Thức sẽ chẳng có). Lại nói: Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chạy theo các thứ sắc, thanh, theo ý niệm lưu chuyển, chưa từng khai ngộ tánh “tịnh, diệu, thường”. Nếu bỏ sanh diệt, giữ lấy chân thường thì thường quang hiện tiền, căn, trần, thức tâm sẽ ngay lập tức tiêu mất (“Chân thường” chính là Chân Không bất sanh bất diệt được nói trong kinh này. “Thường quang hiện tiền” chính là trí huệ quán chiếu).

Đoạn này chỉ nói tiếp ý “Sắc tức thị Không”, nên biết rằng: Nếu hiểu “Không tức là Sắc” thì chữ Vô có thể thay bằng chữ Tức, nghĩa là “Không trung tức Sắc, tức Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý” v.v… Theo kinh Bi Hoa, ngài Quán Âm trong suốt bảy năm không có dục tưởng, không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc tưởng, liền lấy sự trang nghiêm của vi trần số cõi Phật trong mười phương tạo thành sự trang nghiêm cho cõi Phật của chính mình. Người học có thể rỗng không sự hôi nhơ nơi sáu căn này thì sẽ liền có thể đắc Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông v.v… ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp phụ. Có thể rỗng không sự xen tạp nhơ bẩn nơi sáu Trần thì sẽ đắc Sắc “đất vàng, cát vàng, bảy báu trang nghiêm” và Thanh “tiếng linh báu, lưới báu xinh đẹp vượt trỗi nhạc trời”, Hương, Vị, Xúc, Pháp mỗi mỗi đều tuyệt diệu chẳng thể diễn tả được, chỉ là từ trong một chữ Tín mà chuyển dời vậy.

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.

(Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết).

Đây chính là rỗng không mười hai nhân duyên. Vô Minh là một niệm vọng động của chúng ta từ vô thỉ đến nay khiến cho sự sáng suốt nơi tánh bị mê tối nên gọi là Vô Minh. Vô Minh duyên Hành (nên hiểu Duyên là Khởi (dấy lên)), ý nói tạo tác các nghiệp (Hai chi này (tức Vô Minh và Hành) chính là cái nhân đã tạo trong đời quá khứ). Hành duyên Thức, nghĩa là nghiệp lực lôi kéo tám thức đầu thai. Thức duyên Danh Sắc, nghĩa là hễ vào trong thai thì Ngũ Ấm đều đủ, một thức thuộc về Sắc, bốn thức kia thuộc về Danh. Danh Sắc duyên Lục Nhập, nghĩa là sáu căn đã thành, đầy đủ thể chất để vào đời. Lục Nhập duyên Xúc, nghĩa là sau khi ra khỏi thai, sáu căn tiếp xúc sáu trần. Xúc duyên Thọ nghĩa là tiếp nhận những sự tốt xấu trong thế gian (Năm chi này chính là Quả phải hứng chịu trong đời hiện tại). Thọ duyên Ái, nghĩa là tham nhiễm những chuyện như Ngũ Dục v.v… Ái duyên Thủ, nghĩa là từ nơi cảnh dấy tâm mong giữ lấy. Thủ duyên Hữu nghĩa đã tạo nhân, ắt sẽ lại chuốc lấy quả (Ba chi này chính là nhân trong đời hiện tại). Hữu duyên Sanh, nghĩa là gánh chịu cái thân trong đời vị lai. Sanh duyên Lão Tử, nghĩa là trong vị lai lại quay về nơi biến đổi, tiêu diệt (Hai chi này là cái quả phải chịu trong đời vị lai).

Mười hai nhân duyên này bao trùm nhân quả ba đời, luân chuyển không ngớt, gọi là Lưu Chuyển Môn. Tu Giới – Định – Huệ Học, cầu cho Vô Minh hết, Hành hết, Thức hết, cho đến lão tử chấm dứt thì gọi là Hoàn Diệt Môn. Nếu pháp thật sự là có thì chẳng thể diệt được, [do pháp] có sanh có diệt nên nó chính là hư vọng, hễ mê thì đi theo nó nên có nỗi khổ đọa lạc tam đồ, hễ ngộ thì sẽ chuyển nó, nên có niềm vui vượt lên cõi Phật. Nghiệp lực to lớn nhưng tâm lực càng to lớn hơn nữa!

Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

(Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo)

Đấy là rỗng không Tứ Đế. Khổ chính là quả khổ trong thế gian. Tập chính là cái nhân của sự khổ trong thế gian. Diệt chính là quả vui của sự xuất thế. Đạo chính là cái nhân của sự vui xuất thế. [Tứ Đế được nói ở đây] có cùng một ý nghĩa một đằng Lưu Chuyển, một đằng Hoàn Diệt như trong phần [nói về Thập Nhị Nhân Duyên] trên đây. Hễ hiểu phần trước thì sẽ ngộ được phần này.

Vô trí diệc vô đắc.

(Không trí mà cũng không đắc).

Hết thảy đã là không thì không có trí huệ để chiếu, mà cũng không có Bồ Đề để đắc. Đấy chính là cảnh giới của Pháp Thân.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa Cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.

(Do không có gì để được nên Bồ Tát nương theo Bát Nhã Ba La Mật tâm không vướng mắc. Do không vướng mắc nên không có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết Bàn).

Phần này tiếp nối ý của phần trên nhằm nói “không đắc mà đắc, đấy mới là chân đắc”. Bồ Đề Tát Đỏa dịch là Giác Hữu Tình, tức là Bồ Tát. Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, trong tâm thuần là trí huệ, cho nên không vướng mắc, sợ hãi, chẳng khởi mộng tưởng điên đảo nơi cảnh, có nghĩa là tâm diệt thì mọi pháp diệt. Niết Bàn dịch là Viên Tịch, không đức nào chẳng trọn là Viên, không chướng nào chẳng tận là Tịch, tức là Tịch Quang Tịnh Độ, là cảnh giới tự thọ dụng của Phật. “Cứu cánh Niết Bàn” nghĩa là nhập Vô Dư Niết Bàn.

Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

(Ba đời chư Phật do nương theo Bát Nhã Ba La Mật nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

“Tam thế” là quá khứ, hiện tại, vị lai. A là Vô, Nậu Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh Đẳng, Tam Bồ Đề là Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là tên của Phật Quả. Tam thế chư Phật đều từ đây mà tu chứng, vì thế Bát Nhã là mẹ của chư Phật.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú.

(Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật là đại thần chú, là đại minh chú, là chú không gì hơn, là chú không gì có thể sánh bằng, có thể trừ hết thảy khổ, chân thật không dối. Vì thế, nói chú Bát Nhã Ba La Mật).

Đoạn này ca tụng công đức của Bát Nhã. Do có đại thần lực nên gọi là “đại thần chú”. Do có đại quang minh nên gọi là “đại minh chú”. Các pháp chẳng thể nào vượt trội Bát Nhã nên gọi là “vô thượng chú”. Các pháp không thể nào sánh bằng nên gọi là “vô đẳng đẳng chú”. Trên đây là phần Hiển Thuyết nhằm làm cho hành giả sanh huệ, diệt phiền não chướng. Tiếp theo là phần Mật Thuyết, khiến cho người tụng được phước, diệc ác nghiệp chướng.

Tức thuyết chú viết: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.

(Liền nói chú rằng: “Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi svāhā ”).

“Chú” là lời bí mật của Phật, Bồ Tát, chỉ nên thành kính tụng trì, chắc chắn sẽ tiêu tai, được phước, không cần phải giải thích. Nếu cứ cưỡng giải thích, sẽ đâm ra chẳng đạt hiệu nghiệm.

(Tâm Kinh văn từ tuy giản lược, lý cực rộng sâu, giải thích nông cạn chỉ nhằm lợi ích kẻ sơ cơ. Tác phẩm Thích Yếu thích hợp ba căn, không còn gì khéo hơn. Vì thế, tôi sao chép vào đây để lưu truyền rộng rãi. Thích Ấn Quang ghi).

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (phụ lục tác phẩm Thích Yếu của tổ Ngẫu Ích)

Kinh này chỉ thẳng một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta chính là Tam Bát Nhã[94]. Ba thứ “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, nhưng chúng sanh pháp quá rộng, Phật pháp quá cao, đối với kẻ sơ tâm chỉ có quán tâm là dễ. Vì thế, đại bộ (kinh Đại Bát Nhã) gồm hơn sáu trăm quyển đã dựa theo Phật pháp và chúng sanh pháp để trình bày Bát Nhã cặn kẽ; còn nay kinh này chỉ dựa trực tiếp trên tâm pháp để hiển thị Bát Nhã. Tuy kinh Đại Bát Nhã giảng rộng về Phật pháp và chúng sanh pháp nhưng những điều ấy chưa bao giờ chẳng phải là tâm pháp. Tuy kinh này giảng thẳng vào tâm pháp, vẫn chưa hề chẳng trọn đủ Phật pháp và chúng sanh pháp; vì thế được gọi là “cả ba không sai biệt”, do một niệm tâm hiện tiền nhỏ nhoi của chúng ta rỗng sáng, thấu suốt, thường hiểu biết rành rành, chẳng ở các nơi “trong, ngoài, trung gian”, mà cũng chẳng vướng nơi hình tích “quá khứ, hiện tại, vị lai”. Đấy chính là Quán Chiếu Bát Nhã.

Dùng một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta để hiện rành rành từ Căn, Thân, Khí Giới[95] cho đến các cõi nước giả hay thật trong mười pháp giới, bình đẳng ấn trì, không trước, không sau, đồng thời lập tức đầy đủ, đấy chính là Văn Tự Bát Nhã. Ấy là vì núi, sông, đại địa, sáng, tối, Sắc, Không v.v… tánh của hết thảy các cảnh giới, không gì chẳng phải là văn tự, chứ không phải chỉ có giấy, mực, lời nói mới là văn tự!

Do một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta, tánh của tất cả tri giác và tánh của cảnh giới không chia, không tách, không Năng, không Sở, không đúng, không sai, đều chỉ là một pháp giới thể. Đấy chính là Thật Tướng Bát Nhã.

Thật Tướng Bát Nhã chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia. Do đạt được Thật Tướng của niệm hiện tiền nên sanh tử chính là Niết Bàn, đó gọi là Ba La Mật.

Quán Chiếu Bát Nhã cũng chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia; do soi rõ một niệm hiện tiền này chính là Thật Tướng nên Hoặc biến thành trí, đó gọi là Ba La Mật.

Văn Tự Bát Nhã cũng chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia; do hiển hiện một niệm hiện tiền chính là Thật Tướng nên kết nghiệp chính là giải thoát, đó gọi là Ba La Mật.

Vì thế, tâm này chính là Tam Bát Nhã, Tam Bát Nhã chỉ là một tâm. Lý này thường hằng, chẳng thể thay đổi, nên gọi là Kinh. Nương theo đấy để thành hạnh, ba đời chư Phật, Bồ Tát cùng tuân hành, nên gọi là Kinh. Nói pháp môn này, thiên ma, ngoại đạo chẳng thể hoại loạn nên gọi là Kinh.

Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Muốn biết đường trong núi, phải hỏi người từng trải; vì thế nêu ra người quán tâm thành hạnh để làm gương mẫu. “Quán” chính là trí năng quán, tức là nhất tâm tam quán, gọi chung là Quán Chiếu Bát Nhã. Tự Tại là do chứng lý đế Thật Tướng, được đại giải thoát đối với các cảnh giới. Bồ Tát, dịch là Giác Hữu Tình chính là danh hiệu tự lợi, lợi tha; trí khế hợp Thật Tướng nên tự lợi trọn đủ, trí tuyên nói văn tự nên lợi tha trọn khắp. Vì thế gọi là Bồ Tát. Điều này nhằm chỉ rõ người có thể hành [phép quán chiếu này].

“Thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa”: Đắc tam trí nhất tâm, chẳng giống với Tam Thừa trong Quyền Giáo, vì thế gọi là “thâm”. Câu này nói chung về pháp được hành. “Thời” là nói ngược lại từ bao kiếp về trước, từ lúc đã được sự tương ứng ấy mãi cho đến hết đời vị lai, từ đầu đến cuối chẳng lìa Bát Nhã sâu xa. “Chiếu kiến” là nói riêng về cái trí dùng để quán sát (Năng Quán Trí), tức là Quán Chiếu Bát Nhã. “Ngũ Uẩn” là nói riêng về cảnh được quán, tức Văn Tự Bát Nhã. “Giai không” là nói riêng về đế lý được hiển lộ [bởi Quán Chiếu Bát Nhã], đấy chính là Thật Tướng Bát Nhã. Ngũ Ấm không ấm nào chẳng phải là Không, Giả, Trung, lìa trọn bốn câu, bách phi tánh tuyệt, nên cưỡng gọi là Không. “Độ nhất thiết khổ ách”: Tự thoát khỏi khổ nhân và khổ quả của hai thứ tử (Phần Đoạn và Biến Dịch), mà cũng làm cho chúng sanh trong tam giới cùng thoát khỏi nhân quả của hai thứ Tử, đấy chính là hiệu quả của việc hành pháp ấy, đó cũng chính là Ba La Mật Đa.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô Vô Minh, diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão, Tử, diệc vô Lão, Tử tận, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô Trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố.

Đoạn này giải thích rộng về sự thật nơi cảnh “Ngũ Uẩn đều là Không” quán chiếu tự tại trong những thứ ấy (tức những cảnh được quán như Ngũ Uẩn v.v…), bởi lẽ, nếu chẳng quán chiếu thì sẽ chẳng thể hiểu thấu suốt sự thật nơi cảnh này được. Hễ tâm chẳng khởi lên thì thôi, chứ tâm vừa móng lên chút xíu, ắt Căn, Thân, Khí Giới sẽ liền hiện ngay, đó gọi là Sắc Uẩn; ắt sẽ có nhận lãnh các cảnh khổ hay vui, đó gọi là Thọ Uẩn; ắt sẽ có chấp vào tướng, đặt bày danh từ, lời lẽ, đó gọi là Tưởng Uẩn; ắt sẽ sanh diệt, dời đổi chẳng ngừng, đó gọi là Hành Uẩn; ắt sẽ phân biệt các pháp rành rành, đó gọi là Thức Uẩn.

Do vậy biết: Hễ khởi lên một tâm nhỏ xíu thì theo lẽ tự nhiên sẽ trọn đủ cả năm tầng vẩn đục. Nay dùng Bát Nhã rất sâu để chiếu thì sẽ biết rõ Sắc chỉ là Tâm, chứ chẳng có Sắc thật sự nào khác; hết thảy căn, thân, khí giới đều như hoa đốm trên không, như vật trong mộng, cho nên Sắc chẳng khác Không! Không cũng chỉ là tâm, chứ không có cái Không nào khác. Nếu có một pháp nào vượt khỏi Niết Bàn thì ta cũng nói là như huyễn, như mộng, cho nên Không chẳng khác Sắc. Đã nói “chẳng khác” (bất dị) thì đã thành ra “tương tức” (chính là lẫn nhau).

Vẫn sợ kẻ bị mê tình phủ lấp, hiểu bàn tay ngửa khác với bàn tay úp nên lại nói trùng lặp: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Nghĩa là hễ nhón lấy một Sắc chừng bằng vi trần thì Thể của nó chính là cả pháp giới, theo chiều ngang trọn khắp, theo chiều dọc tột cùng. Vì vậy, “tức thị Không” hàm ý: Toàn Sự chính là Lý, chẳng có chút xíu Lý tánh nào chẳng nằm trong Sự ấy, tức là vi trần trọn đủ toàn bộ Lý chân không, lại còn cùng lúc trọn đủ toàn bộ mọi sự trong pháp giới, nên chính là Sắc, nên được gọi là “toàn Sự chính là Lý”. Chẳng có chút xíu sự tướng nào chẳng nằm trong Lý ấy. Như vậy thì ở ngay nơi Thể, dứt bặt sự đối đãi, chẳng có hai vật. Đã hiểu thấu suốt Thật Tướng nơi Sắc Uẩn thì đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều cứ suy theo đó sẽ biết.

Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng Thật Tướng của Ngũ Uẩn do từ chiếu kiến sanh ra, nên lại chỉ rõ rằng: Bản thể của các pháp Ngũ Uẩn ấy chính là Thật Tướng của Chân Không, nó vốn tự như vậy, chứ không phải là Thật Tướng sanh, Ngũ Uẩn diệt. Bởi lẽ, Ngũ Uẩn vốn tự chẳng sanh, chẳng diệt, nên gọi là “Không tướng”.

Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng sanh diệt, nhưng có nhơ, sạch, nghĩa là [tưởng rằng] phàm phu thuận theo nhiễm duyên mà nhơ, thánh nhân thuận theo tịnh duyên mà sạch, nên lại chỉ dạy rõ ràng rằng: Ngũ Uẩn của phàm phu cũng chính là tướng Không, Ngũ Uẩn của thánh nhân cũng chính là tướng Không, nào có nhơ, sạch ư?

Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng nhơ hay sạch, nhưng có tăng – giảm, ngỡ rằng phàm phu mê nên sanh tử khốc liệt, ấy là tăng, đức tướng ẩn lấp, ấy là giảm; do thánh nhân ngộ nên Chiếu có công dụng vô tận, đó là tăng, Hoặc nghiệp tiêu vong, đó là giảm. Vì thế, lại chỉ dạy rõ ràng rằng: Lúc mê thì cũng chỉ có tướng Không của các pháp này, mà lúc ngộ thì cũng chỉ là tướng Không của các pháp này, nào có tăng giảm ư?

Đã nêu rõ sự thật mầu nhiệm nơi Ngũ Uẩn này rồi, liền tiếp tục áp dụng rộng rãi vào hết thảy pháp tướng sai biệt để dung hội, dứt tuyệt tình kiến [phân biệt] thánh phàm [sai khác], bèn nói: “Thị cố Không trung vô Sắc” cho đến “diệc vô đắc”. Thế nhưng, nói “vô sắc” cho đến “vô sở đắc”, há có phải là đợi sau khi dung hội, dứt tuyệt [những kiến chấp phân biệt] rồi thì chúng mới không có hay sao? Ấy là vì chúng vốn có gì để đạt được! Do vốn là không có gì để đạt được nên gọi là Đế. Hiểu thấu sự vô đắc này thì gọi là Quán, nhưng nói chung “chẳng lìa Ngũ Uẩn” là cảnh được quán. Lại nữa, dù là Cảnh, hay Đế, hay Quán, nói chung đều chẳng rời khỏi một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền. Một tâm rành rành trọn đủ ba nghĩa, Đế chính là Thật Tướng, Quán chính là Quán Chiếu, Cảnh chính là Văn Tự, chẳng phân biệt là ngang hay dọc, mà cũng chẳng phải là một hay khác, vì thế gọi là “thâm Bát Nhã”.

Bồ Đề Tát Đỏa, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.

Đoạn này nêu lên trọn khắp chư Phật, Bồ Tát để làm chứng, nhằm giảng rõ Bát Nhã sâu xa, thật sự có thể độ thoát hết thảy khổ ách. Nghĩa là chư Như Lai trong quá khứ đã thành tựu môn này, chư Bồ Tát trong hiện tại nay mỗi vị đều nhập viên minh, những người tu học trong tương lai cũng sẽ y theo pháp như vậy, chứ chẳng phải chỉ mình ngài Quán Thế Âm.

“Vô quái ngại”: Kết nghiệp chính là giải thoát, rốt ráo phương tiện tịnh Niết Bàn.

“Vô khủng bố”: Khổ quả chính là Pháp Thân, rốt ráo tánh tịnh Niết Bàn.

 “Viễn ly điên đảo mộng tưởng”: Phiền Hoặc chính là trí sáng, rốt ráo viên tịnh Niết Bàn. Nương vào Thật Tướng Bát Nhã đắc Chân Tánh Bồ Đề. Nương theo Quán Chiếu Bát Nhã đắc Thật Trí Bồ Đề. Nương theo Văn Tự Bát Nhã đắc Phương Tiện Bồ Đề. Bồ Đề là Như Như Trí, Trí ắt phải ngầm hợp Lý, Niết Bàn chính là Như Như Lý, Lý ắt phải khế hợp Trí. Vì thế, mới nói đại lược nhằm soi rọi lẫn nhau.

Bát Nhã sâu xa này chính là đại thần chú vì có đủ diệu dụng. Nó là đại minh chú vì trí soi rọi tướng. Nó là vô thượng chú vì bản thể là Thật Tướng. Nó chính là vô đẳng đẳng chú (chú không có gì sánh bằng) vì không có một pháp nào có thể bằng được tâm này. Tâm này có thể bình đẳng với hết thảy pháp vì có thể khiến cho chúng đều quy về Thật Tướng ấn. Tâm chú này đích thực có thể trừ các khổ nhân, khổ quả của sự phân biệt tự tha, Phần Đoạn, Biến Dịch, chân thật chẳng dối, phải nên tin tưởng chắc thật vậy.

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.

Nơi phần Hiển Thuyết trong đoạn trước đã chỉ ra Bát Nhã chính là chú, ở đây là Mật Thuyết. Cần biết rằng: Chú chính là Bát Nhã, đã hiển thuyết lại còn mật thuyết, Hiển và Mật đều trọn đủ bốn lợi ích Tất Đàn[96]. Chẳng phiên dịch [ý nghĩa của chú] là hay nhất, chớ nên dò dẫm suy lường!

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 4, phần 1 hết

 

[1] Chữ “vật” ở đây chỉ cho tất cả chúng sanh trong mười pháp giới, chứ không phải là đồ vật hay con vật.

[2] Tần Già Tạng Kinh (hay chỉ gọi tắt là Tần Già Tạng) là bản in riêng của tinh xá Tần Già, sử dụng chữ đúc bằng chì để in, ấn hành vào đầu thời Dân Quốc, vốn có tên đầy đủ là Tần Già Tinh Xá Giảo Khan Đại Tạng Kinh, được xuất bản trong khoảng từ năm 1909 đến năm 1913. Bản này gồm có 1.916 bộ, 8.416 quyển, chia thành 414 tập, mỗi tập được đánh số theo bài Thiên Tự Văn (“thiên địa huyền hoàng…”), nghĩa là mỗi tập được gọi theo từng chữ trong bài văn ấy, như tập thứ 1 là Thiên, tập thứ hai là Địa, cho đến tập cuối cùng là chữ Sương. Mỗi trang kinh gồm 40 cột, mỗi cột 45 chữ, được in vạch mực ở giữa chia mỗi trang thành hai trang nhỏ. Nội dung chủ yếu dựa theo bản in Hoằng Ấn Tạng của Nhật Bản, nhưng lược bỏ toàn bộ những trước tác của Nhật Bản. Điều này rất hợp lý, vì trong tạng kinh Nhật Bản có những bài viết của sư Nhật Liên (sáng tổ Nhật Liên Tông hay còn gọi là Tân Pháp Hoa Tông) thiên chấp nặng nề, giải thích giáo nghĩa hẹp hòi, độc đoán, hung hăng, hoàn toàn đánh mất những giáo nghĩa tinh vi, cao siêu, đặc sắc của tông Thiên Thai.

[3] Theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài đồng tử (Sudhana Kumāra) một trong năm trăm đứa con của một vị trưởng giả tại thành Phước Lâm. Khi cậu bé được sanh ra, trong nhà tự nhiên trồi lên rất nhiều kho báu. Do vậy, đặt tên là Thiện Tài. Nhưng Thiện Tài chỉ một lòng cầu đạo, đến tham học với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được ngài giảng dạy chứng Căn Bản Trí, rồi tuân theo lời dạy, tham học với khắp năm mươi ba vị thiện tri thức (vị đầu tiên là tỳ-kheo Đức Vân, vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát) để chứng Hậu Đắc Trí. Năm mươi ba vị thiện tri thức này lần lượt dạy Thiện Tài các pháp môn để lần lượt chứng nhập năm mươi hai địa vị Bồ Tát trên con đường chứng thành Đẳng Giác.

[4] Nhiếp thọ, còn gọi là “nhiếp thủ” (Parigraha): Còn dịch là Nhiếp Hộ, nguyên nghĩa là tiếp nhận, chăm sóc, quan tâm, thâu tóm, không bỏ sót. Từ ngữ này thường được dùng để chỉ sự quan tâm chăm sóc của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng sanh, nhằm hướng dẫn họ đến con đường giải thoát.

[5] Chữ “nhập lưu” được pháp sư Viên Anh giảng như sau: “Nhập lưu là tương phản với “xuất lưu”. Xuất lưu là tánh nghe thay vì quán chiếu Thanh Trần hư huyễn, lại rong ruổi theo Thanh Trần, đánh mất bản thể thanh tịnh của tánh nghe. Nay ‘nhập lưu’ là dùng Quán Trí để nhập, lấy tai làm Sở Nhập (đối tượng để nhập), xoay chuyển căn tai để quán chiếu chân tánh”.

[6] Cái Nghe (Văn) là Nhĩ Thức, cái được Nghe (Sở Văn) chính là đối tượng nhận biết của Nhĩ Thức.

[7] Chữ Không thứ nhất chỉ cho chủ thể, tức là hành nhân đã không còn thấy có đối tượng để quán chiếu, thấu hiểu bản chất của các Trần (nói rộng là tất cả các pháp) là không, tâm quán chiếu ấy cũng là không. Chữ Sở Không chỉ cho những đối tượng được quán chiếu là Không bởi sự quán chiếu ấy.

[8] Trong Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là hiện thân Độc Giác, trong cả ba khoa (tức ba đoạn liên tiếp), đều nói ‘hữu học’ tức là những người này chưa đạt đến địa vị Vô Học. ‘Tịnh tĩnh diệu minh’: Trong địa vị tu đạo, thích ở một mình nơi tốt lành, thanh vắng nên gọi là Tịch Tĩnh; cầu trí huệ tự nhiên nên gọi là Diệu Minh. ‘Thắng diệu hiện viên’ là diệu huệ thù thắng; nghĩa là khi trí huệ tự nhiên sắp hiện tướng viên mãn, như lúc dùi gỗ tìm lửa, đã được tướng trạng nóng rực, lửa sắp sanh ra”.

[9] Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa: “Đây là hiện thân Duyên Giác. ‘Duyên đoạn thắng tánh’: Thắng tánh chính là vô sanh lý tánh, do vượt trỗi mọi pháp thế gian nên nó xứng tánh, tánh ấy ắt phải do đoạn các duyên (do quán mười hai nhân duyên mà thấu triệt bản thể các duyên là Không) mà được hiển lộ nên gọi là Duyên Đoạn Thắng Tánh. ‘Thắng diệu’: Do ngộ tánh của nhân duyên là Không nên gọi là Thắng Diệu. Khi sự thắng diệu ấy sắp hiện tiền viên mãn thì trong lúc chưa mãn ấy, ta (Quán Thế Âm Bồ Tát) đối trước hàng hữu học đó, hiện thân Duyên Giác nhằm thỏa lòng mong cầu của họ để thuyết pháp duyên sanh vô tánh khiến họ giải thoát Phần Đoạn Sanh Tử, chứng quả Duyên Giác”.

[10] Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa: “Đây là hiện thân Thanh Văn. Nếu có các hàng hữu học thuộc địa vị Kiến Đạo, dùng tám nhẫn và tám trí (tổng cộng là mười sáu tâm) đoạn được những phiền hoặc thuộc phẩm Hạ trong Tứ Đế, đoạn được Kiến Hoặc thì gọi là Tứ Đế Không. Nếu dự vào địa vị Tu Đạo, đoạn các Tư Hoặc trong tam giới, trong tám mươi mốt phẩm, mỗi một đều là chứng một phần Trạch Diệt Vô Vi, nên gọi là ‘tu đạo nhập diệt’. Thắng tánh ở đây chính là tánh của Diệt Đế Vô Sanh. Khi tướng viên mãn sắp hiện, như trời chưa mưa nhưng đã kéo mây thì ta liền ở trước hàng hữu học ấy, hiện thân Thanh Văn, thuận theo lòng họ ưa thích, nói pháp Diệt Đế Vô Sanh khiến cho họ giải thoát các lậu trong thế gian, vượt thoát tam giới, chứng Phương Tiện Hữu Dư Độ Niết Bàn”.

[11] Tự Tại Thiên, gọi đủ là Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranirmitava Śavartin), là tầng trời thứ sáu, tức tầng cao nhất trong Dục Giới. Còn gọi là Hóa Lạc Thiên hoặc Hóa Tha Tự Chuyển Thiên. Chư thiên sống trong cõi này không tự biến hiện sự lạc dục để hưởng thụ mà lợi dụng sự biến hóa của người khác nên có tên như vậy. Thiên vương cõi này cũng như Ma Hê Thủ La Thiên Vương đều là những ma vương lợi hại đối với Phật giáo.

[12] Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), dịch âm là Ma Hê Thủ La Thiên Vương tức vua của tầng trời cao nhất trong Sắc Giới, là chúa tể của tam thiên đại thiên thế giới. Đây là một danh xưng khác của thần Thấp Bà (Shiva), tức thần hủy diệt trong Ấn Độ Giáo. Trong kinh điển, vị này vừa là thần hộ pháp, vừa là Ma Vương lợi hại nhất. Vị thiên vương này còn được biết dưới các danh xưng như Thương Yết La Thiên, Y Xá Na Thiên v.v… Bồ Tát hiện thân trời này nhằm hóa độ những ngoại đạo sùng bái Đại Tự Tại Thiên, tức những kẻ thường được gọi là Đồ Thán Ngoại Đạo (ngoại đạo bôi than hay tro lên thân) hay Tự Tại Ngoại Đạo, hay Shaivist.

[13] Thiên Đại Tướng Quân là từ ngữ chỉ chung các vị tướng soái của các vị thiên vương. Trong Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, Pháp sư Giao Quang đã giảng từ ngữ này như sau: “Tứ Thiên Vương là chủ soái, mỗi vị có tám đại tướng, Vi Đà làm Thượng Thủ. Theo Kim Quang Minh Kinh, Tán Chi làm đại tướng thống lãnh hai mươi tám bộ [quỷ thần] tuần du thế gian”.

[14] Theo Đại Cát Nghĩa Kinh: “Hộ Thế Tứ Vương mỗi vị có chín mươi mốt người con, hình mạo, dáng vẻ đoan chánh, có thế lực lớn, giống như Na Tra vậy”. Sách Quán Đảnh Sớ cho biết: “Trong niên hiệu Thiên Bảo đời Đường, năm nước thuộc Tây Phiên đến cướp phá Tây An, quân nhà Đường không chống cự được. Đường Huyền Tông bèn hạ chiếu vời Bất Không Tam Tạng vào cung, trì tụng Hộ Quốc Nhân Vương Đà La Ni. Sư vừa tụng mười bốn biến, chợt thấy năm trăm vị thần tướng cầm giáo đứng trước điện, thưa: ‘Con thứ hai của Bắc Phương Thiên Vương là Độc Kiện đến cứu Tây An’. Bọn giặc tấn công Tây An thấy trên hư không có vô số thiên binh, thiên tướng, kinh sợ bỏ chạy, lui binh’. Quan tâu lên, vua vui mừng, truyền mỗi chùa trong các châu phủ lập Thiên Vương Điện để thờ phụng”.

[15] Theo pháp sư Viên Anh, tại Ấn Độ, để được gọi là “trưởng giả” phải hội đủ mười đức:

  1. Dòng dõi sang quý, tức là những người thuộc những dòng họ cao quý, giàu mạnh trong giai cấp Sát-đế-lợi (Ksatriya).
  2. Có địa vị cao quý, chẳng hạn như thừa tướng, lão thần trong triều.
  3. Rất giàu có.
  4. Có oai thế, tướng mạo trang nghiêm, oai hùng, khiến người khác thoạt nhìn đã kính sợ.
  5. Trí sâu: Tâm sáng như mặt trời, mặt trăng, thông minh, thuần hậu.
  6. Tuổi cao.
  7. Giới hạnh thanh tịnh, đáng làm gương mẫu cho người khác.
  8. Lễ nghi đầy đủ, tức là dáng diệu an hòa, xử sự đúng phép tắc, khiến cho người khác cảm thấy vinh dự, hoan hỷ khi được thân cận.
  9. Được bề trên khen ngợi, tức là được các bậc vương giả ca ngợi.
  10. Được kẻ dưới quy ngưỡng: Được nhân dân, bầy tôi kính phục.

[16] Pháp sư Viên Anh giảng: “Thanh tịnh tự cư: Thân sống trong trần lao nhưng chẳng nhiễm dục lạc thế gian, tâm luôn thanh tịnh, sống đúng theo lẽ đạo”.

[17] Pháp sư Viên Anh giảng: “Thiên văn, địa lý, âm dương độ số, gọi chung là Số, chữa bệnh, bói toán, tướng số, họa bùa vào nước v.v… thì gọi là Thuật. Chế ngự, thâu liễm thân tâm, bớt nhọc nhằn để tâm thần thanh tịnh thì gọi là Nhiếp. Bảo vệ sanh mạng, giữ tinh, dưỡng khí gọi là Vệ”.

[18] Pháp sư Viên Anh giảng: “Địa vị chánh đáng của nữ giới là ở trong gia đình nên gọi là Nội Chánh. Mọi chuyện trong gia đình do nữ nhân chủ trì, hiếu kính bố mẹ chồng, giáo dục con cái, đấy là Nội Chánh. Tuy sang cả vẫn siêng năng, tuy giàu có vẫn tiết kiệm, trinh, tĩnh, kín đáo, nhàn nhã, dùng những điều ấy để trau giồi đức hạnh của người nữ nên gọi là Lập Thân…. Do dùng Nội Chánh để Lập Thân, nên thân được trau giồi, cảm hóa người trong gia đình, ảnh hưởng đến toàn bộ quốc gia. Chữ Gia chỉ chung từ bậc đại phu trở lên, chữ Quốc chỉ từ bậc chư hầu trở lên. Nữ nhân có thể dùng Nội Chánh để lập thân, tu thân thì đấy chính là cái gốc để tề gia trị quốc”.

[19] Pháp sư Viên Anh giảng: “Nữ Chủ: Vợ của thiên tử (tức hoàng hậu). Quốc phu nhân: Vợ của các vị đứng đầu các bang, các quận. Mạng phụ: Những người vợ được nhận bằng sắc phong tước của triều đình, tức là những người do chồng làm quan mà vợ được phong tước. Đại gia: Những bậc tài lẫn đức cùng trọn đủ, có thể làm thầy cho các bậc nữ chủ, như vợ của ông Tào Thế Thục đời Hán, do thường theo con gái của Ban Siêu vào cung, giảng dạy hoàng hậu và các quý nhân nên cõi đời gọi bà là Tào Đại Gia”.

[20] Theo ngài Quán Đảnh, có bốn loại rồng (Naga): Một là rồng bảo vệ cung trời, hai là rồng chuyên giăng mây xối mưa, ba là rồng khai ngòi, khoét sông, bốn là rồng bảo vệ các kho báu. Do trong quá khứ họ từng tu phước nên có thần thông biến hóa, phần nhiều hóa hiện hình người, nhưng trong năm lúc họ sẽ không thể nào chẳng mang thân giống như rắn: khi sanh nở, khi ngủ, khi hành dâm, khi sân hận, khi chết. Kinh Trường A Hàm nói rồng có ba thứ hoạn nạn: Một là bị cát nóng nung thân, hai là gió phá tan cung điện, ba là bị Kim Xí Điểu ăn nuốt. Cái nhân biến thành rồng là do trong kiếp trước tu rất nhiều phước, nhưng quá sân hận, tâm không ngay thẳng, lại phạm giới, thích tranh chấp, hơn thua quyết liệt.

[21] Dược Xoa (Yaksha), còn phiên âm là Dạ Xoa, dịch nghĩa là Năng Đạm Quỷ (quỷ ăn nuốt), Tiệp Tật Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Dũng Kiện (mạnh mẽ), Khinh Tiệp (nhẹ nhàng, lanh lẹ) v.v… Đây là một loại quỷ thần (gồm ba loại Địa Hành, Không Hành và Phi Hành) thuộc Thiên Long Bát Bộ, được thống lãnh bởi Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên vương. Họ có hình mạo giống người, nhưng dữ tợn, tuy vậy, vẫn có những vị phát tâm hộ pháp.

[22] Càn Thát Bà (Gandharva), còn phiên âm là Kiện Đạt Bà, Kiện Đạt Phược, Kiện Thát Bà, Càn Đạp Bà, Ngạn Đạn Phược, Ngạn Đạt Phạ, hoặc Kiện Đà La, dịch nghĩa là Khứu Hương (ngửi mùi thơm) hoặc Hương Thần, là một trong tám bộ quỷ thần, là thuộc hạ của Đông Phương Đề Đầu Lại Tra (Dhrtarāstra) thiên vương. Họ là nhạc thần của Đế Thích, chuyên tấu nhạc phụng sự chư thiên. Khi Đế Thích muốn nghe nhạc liền đốt Trầm Hương, họ ngửi thấy mùi sẽ liền đến ngay.

[23] A Tu La (Asura), còn phiên âm là A Tố Lạc, A Tô La, hay A Tu Luân, là loài được coi là nửa thần nửa người trong Phật giáo. Họ là những người tu tập nhiều thiện căn, nhưng hay nóng giận, chấp trước, nên thân hình họ thiếu đoan chánh, tuy có thần thông, nhưng phước báo kém hẳn chư thiên, thường ganh tỵ, hay kéo quân đánh nhau với chư thiên. Họ sống ở chân núi Tu Di. Trong kinh Phật, những vị Tu La Vương nổi tiếng nhất là Bà Trĩ (Dũng Kiện), Khư La Kiển Giam (tiếng rống như sấm), Tỳ Ma Chất Đa La (Hoa Hoàn), La Hầu (vị này hay che lấp mặt trời, mặt trăng).

[24] Khẩn Na La (Kinnara), còn phiên âm là Khẩn Nại Lạc, là một trong tám bộ quỷ thần, giống người, đầu có một sừng (do vậy, đôi khi dịch nghĩa là Nghi Nhân – ngỡ là người nhưng không phải là người), tiếng ca thánh thót, là nhạc thần cõi trời, chuyên phụ trách ca hát. Càn Thát Bà tấu nhạc, còn Khẩn Na La chuyên ca vũ.

[25] Ma Hô La Già (Mahoraga) còn phiên âm là Ma Hầu La Già, hoặc Mạc Hô Lạc Già, là một loài rắn lớn.

[26] Pháp sư Viên Anh giảng: “Các thân ấy cùng một lúc biến hiện, ứng theo mỗi loại nên gọi là Diệu, chẳng chấp vào tướng nên gọi là Tịnh. Hơn nữa, Diệu là chẳng thể nghĩ bàn, Tịnh là không bị nhiễm đắm. Tam luân (thân, ngữ, ý) của Đại Sĩ đều chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu, mỗi mỗi đều chẳng đắm nhiễm nên gọi là Tịnh. Văn Huân Văn Tu: Do tánh Nghe từ trong bổn giác huân tập bên trong, nên diệu trí nơi Thỉ Giác được hun đúc để phát khởi. Dùng công phu tu tập Phản Văn (xoay trở lại để nghe nơi tánh Nghe) nên luôn luôn nghe nơi tự tánh, nung đốt tập khí chấp trước, cởi gỡ được sáu Kết, phá Ngũ Ấm, vọng hết, chân lộ, tịch diệt hiện tiền. ‘Vô tác diệu lực’: Chẳng cần phải suy nghĩ mà có lực dụng chẳng thể nghĩ bàn, không cần phân thân mà hiện khắp, cảm ứng khắp mọi căn cơ, giống như vầng trăng trên trời, có cần phải suy nghĩ để soi bóng trong mọi chỗ có nước ư ?”

[27] Nguyên văn “do ngã bất tự quán âm, dĩ quán quán giả”, pháp sư Viên Anh giảng: “Chữ Quán [thứ hai] chỉ trí năng quán (tức trí dùng để quán sát mọi cảnh), trí quang chẳng chiếu ra ngoài, cho nên chẳng tự quán âm thanh của thế gian, bởi lẽ cái người để quán cái trí năng quán ấy là ai vậy? Câu thứ nhất (‘bất tự quán âm’) là tách rời khỏi Trần, câu sau (‘dĩ quán quán giả’) là nói đến chiếu tánh, cũng tức là trái trần hợp giác”.

[28] Nguyên văn là “tri quán toàn phục”, pháp sư Viên Anh giảng: “Hai chữ Tri Quán bao gồm tác dụng thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, biết của sáu căn. Toàn Phục là xoay chuyển (Toàn: 旋) cái vọng, khôi phục (Phục: 复) lẽ Chân, xoay chuyển vọng tri, vọng kiến nơi duyên trần nhằm khôi phục chân tri, chân kiến nơi tự tánh. Đại Sĩ dùng công phu Phản Văn nơi Nhĩ Căn để tìm lại nguồn cội của tánh Nghe, xoay chuyển sự Nghe hư vọng để thoát lìa Thanh Trần, chẳng vướng mắc trong Lục Trần. Một căn đã trở về với nguồn cội thì sáu căn đều thành giải thoát. Tri Quán Toàn Phục tức là lửa lớn nơi sự tri giác bên trong đã tắt thì lửa nơi thế gian bên ngoài chẳng thể làm hại được”.

[29] Nguyên văn “quán thính toàn phục”, pháp sư Viên Anh giảng: “Câu này nói về diệu lực, câu tiếp theo nói đến đại dụng. Câu này có nghĩa là quán ngược lại tánh Nghe, xoay chuyển cái Nghe hư vọng để khôi phục cái Nghe chân thật/ Cái Nghe thuộc về thủy, nên khi những nghiệp được cái Nghe giao xen thì sẽ thấy nước lớn. Nay đã xoay chuyển cái Nghe, khôi phục được bản tánh chân thật thì không còn nghiệp tạo bởi cái Nghe nên nước chẳng thể chìm được”.

[30] Pháp sư Viên Anh giảng: “Vọng tưởng chính là thức thứ sáu. Trong phần trước, đức Phật đã cho biết thức chẳng phải là tâm như sau: ‘Đấy không phải là tâm ông mà là tiền trần, tưởng tượng hư vọng, ví như kẻ giặc có thể sát hại pháp thân huệ mạng của chúng sanh, giống như La Sát ăn thịt người rất đáng sợ hãi’. Ở đây, Đại Sĩ do xoay lại cái Nghe, nhập vào chân tánh, ngoài chẳng duyên theo các trần, trong chẳng vướng theo Căn, Căn lẫn Trần đều không còn dính mắc nữa, thức tâm cũng diệt, nên gọi là ‘đoạn diệt vọng tưởng’. Vọng tưởng đã diệt thì tâm không còn ý niệm sát hại, hoàn toàn vượt thoát khỏi tâm hạnh của quỷ thần. Dùng sức trừ diệt ấy để gia bị chúng sanh nên khiến cho các chúng sanh ở trong các nước quỷ La Sát chỉ nhất tâm xưng danh Ngài thì quỷ chẳng thể hại được!”

[31] Nguyên văn“huân văn thành văn, lục căn tiêu phục, đồng ư thanh thính”, pháp sư Viên Anh giảng: “Huân văn thành văn: Đại Sĩ xoay lại cái Nghe để chiếu soi tánh, dùng đó để un đúc cái Nghe hư vọng khiến cho nó trở thành chân văn (nghe chân thật). Nhĩ Căn đã tiêu tan vọng, khôi phục Chân như thế, thì sáu căn cũng đều tiêu tan vọng, khôi phục Chân giống như thế. Giống như đối với Thanh Trần và tánh Nghe, mỗi một cặp tương ứng đều tiêu vọng, khôi phục sự chân thật giống như vậy. Trần mất, Căn tận, Căn và Trần đã tiêu thì lẽ nào sự giác minh (sự nhận biết sáng suốt) chẳng được viên mãn, mầu nhiệm ư?”

[32] Nguyên văn “văn huân tinh minh, minh biến pháp giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Dùng sự xoay lại cái Nghe để huân tu, khôi phục, tái lập tánh bổn nguyên trong trẻo sáng suốt, khiến cho sự sáng suốt sẵn có được tỏa rạng. Tánh sáng suốt chiếu ngời trọn khắp pháp giới. Quỷ thần chính là sự tối tăm u ám xen nhiễm nơi tánh, há còn tồn tại được chăng ? Đấy chính là ý nghĩa phá tối vậy”.

[33] Cưu Bàn Trà (Kumbhanda), còn phiên âm là Câu Bàn Đồ, Cứu Bàn Đồ, Cung Bàn Đồ hoặc Cưu Mãn Noa, hay Bàn Tra, dịch nghĩa là Ủng Hình Quỷ (quỷ có hình giống cái vò), Đông Qua Quỷ (quỷ có thân hình trông giống như quả bí), Yểm Mỵ Quỷ. Loài quỷ này thích ăn tinh khí của con người, biến hóa khôn cùng, ở trong chốn núi hoang đồng vắng, là bộ thuộc của Tỳ Lâu Lặc Xoa thiên vương (Virūdhaka: Tăng Trưởng thiên vương).

[34] Tỳ Xá Giá (Piśāca) còn phiên âm là Tỳ Xá Xà, dịch nghĩa là Thực Tinh Khí Quỷ, địa vị thấp hơn loài La Sát, là ác quỷ thích hại người, là bộ thuộc của Trì Quốc thiên vương (Dhrtarāstra). Loài quỷ này thích ăn tinh khí và máu thịt của con người. Tuy thế, cũng có quỷ Tỳ Xá Giá phát tâm hộ pháp.

[35] Loại quỷ này gọi đủ là Ca Tra Phú Đan Na (Katabhutana), còn phiên là Yết Tra Bố Đát Na, Yết Tra Phú Đan Na, dịch âm là Ký Xú Quỷ, Cực Xú Quỷ. Theo Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh, loài quỷ này có hình dáng giống như lợn, hết sức hôi thối, thường gây hại cho người và loài vật, nhất là thường làm hại trẻ con, khiến chúng hay khóc đêm, ốm yếu.

[36] Nguyên văn “âm tánh viên tiêu, quán thính phản nhập, ly chư trần vọng”, pháp sư Viên Anh giảng: “Âm tánh viên tiêu: Hai tánh động và tịnh của âm thanh đều tiêu diệt, tức là hai tướng động và tịnh trọn chẳng còn sanh nên gọi là Viên Tiêu. Quán thính phản nhập: Quán chiếu tánh Nghe, đi ngược dòng (tức là xoay trở lại quán tánh Nghe, không chấp vào đối tượng được nghe (thanh trần), không chấp vào Căn, không chấp vào tánh Nghe) nên gọi là Phản Nhập. Như thế, hễ nhập được một tánh vô vọng (chứng ngộ một tánh là chân thật, không còn bị vọng kiến, tình thức nhiễm trước, che lấp công năng chân thật của tánh ấy) thì chẳng những Thanh Trần tiêu diệt, mà các Trần khác như Sắc, Hương v.v… đều tiêu diệt, nên gọi là Ly Chư Trần Vọng. Khi Căn và Trần đã diệt thì các sự thấy, nghe v.v… nơi các căn cũng đều chuyển vọng thành chân, Căn lẫn Trần chẳng còn, dùng diệu lực ấy gia bị chúng sanh, khiến cho những kẻ bị nạn hễ xưng danh liền được cảm ứng”.

[37] Nguyên văn “diệt âm viên văn, biến sanh từ lực”, pháp sư Viên Anh giảng: “Diệt âm viên văn: Khi Đại Sĩ xoay trở lại cái Nghe, chứng nhập tánh, thì âm thanh không còn (nên gọi là Diệt Âm), giải thoát thanh trần, tánh Nghe được tỏ lộ trọn vẹn, chứng nhập thể tánh của Căn đến mức tột cùng. Do Trần đã diệt, nên ngoài không còn chống đối, đối kháng; do Căn đã viên nên mọi thứ đều trở về nhất tâm, có thể sanh ra từ lực trọn khắp (biến sanh từ lực)”.

[38] Nguyên văn “huân văn ly trần, sắc sở bất kiếp”, pháp sư Viên Anh giảng: “Tham, sân, si gọi là Tam Độc, do chúng gây hại cho pháp thân huệ mạng nên gọi là Tam Độc. Hơn nữa, Tam Độc là nhân tạo ra Tam Đồ, chúng sanh lắm sân đọa địa ngục, chúng sanh lắm tham đọa ngạ quỷ, chúng sanh lắm si đọa súc sanh. Nay nói không sợ hãi Tam Độc chẳng phải là không sợ hãi sự ác mà là do trì danh nên lìa Tam Độc, do đại oai lực [của Đại Sĩ] nên không sợ hãi. Trong các thứ Tham thì tham dục nặng nhất. Chỉ có dâm dục là con người dễ bị vi phạm nhất. Thấy sắc động lòng, ắt đọa trong hầm sâu ái dục. Dục lại khó đoạn nhất, là điều gây hại lớn nhất. Thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được ly dục, cậy vào sức oai thần của Bồ Tát và sức trì niệm danh hiệu của chính mình (đấy là “huân văn ly trần”), đoạn trừ tam độc (do trong Tam Độc, sắc dục (thuộc Tham) là nặng nề nhất, nên nói “Sắc bất sở kiếp” (Sắc chẳng cướp đoạt được), nghĩa là nêu rõ : Cái mạnh mẽ, tàn hại nhất đã không thể gây hại người trì niệm thì Tam Độc đều không thể làm gì người ấy !”

[39] Nguyên văn “thuần âm vô trần, căn cảnh viên dung, vô đối, sở đối”, pháp sư Viên Anh giảng: “Thuần âm vô trần: Diệu tánh của sự Nghe âm thanh thuần nhất, không còn thấy có Thanh Trần nào để đối ứng với sự Nghe ấy nữa, tức là hai tướng động – tịnh (tức là sự chấp trước thấy có âm thanh vang lên và âm thanh mất đi) trọn chẳng còn sanh nữa. Đã không còn có cảnh đối ứng (Trần) thì cũng chẳng còn cái Căn để nhận biết cái cảnh ấy nữa nên Căn lẫn Trần cùng mất, chỉ là sự giác ngộ quý báu, viên dung, thanh tịnh, trong ngoài giống hệt như nhau, viên dung nhất thể, không phân biệt, không chướng ngại”.

[40] Nguyên văn “tiêu trần toàn minh, pháp giới, thân tâm, do như lưu ly, minh lãng vô ngại”, pháp sư Viên Anh giảng: “Si là do tánh bị vọng trần che lấp, do vô minh gây chướng ngại. ‘Tiêu trần toàn minh’: Tiêu trừ cảnh sở duyên của các căn là vọng trần, xoay chuyển, khôi phục lại sự sáng suốt sẵn có nơi tự tánh, cởi gỡ dính mắc, trở về với sự nguyên chân, tỏ lộ sự sáng suốt sẵn có. Do vậy, pháp giới bên ngoài, thân tâm bên trong giống hệt như báu lưu ly, rỗng rang, chiếu sáng ngời, trong ngoài thông suốt, không bị chướng ngại”.

[41] A-điên-ca (Atyantika), còn phiên âm là A Điên Để Ca, dịch nghĩa là Tất Cánh hoặc Vô Tánh Xiển Đề, tức là một loại hữu tình rốt ráo không thể thành Phật được. Nói cách khác, A-điên-ca là danh xưng khác của Nhất Xiển Đề (Icchantika). Sách Thành Duy Thức Luận Chưởng Trung Khu Yếu, quyển thượng giảng: “A Điên Để Ca, dịch là Tất Cánh, tức là rốt ráo không đạt được Niết Bàn”.

[42] Nguyên văn “dung hình phục văn, bất động đạo tràng, thiệp nhập thế gian, bất hoại thế giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Hai câu ‘dung hình phục văn, bất động đạo tràng’ nói về lý chứng tu hành. Thân hình Tứ Đại huyễn vọng trọn chẳng còn (tức là không còn chấp vào Tứ Đại nên Tứ Đại không thể khởi tác dụng gây mê hoặc, do không còn tác dụng gây mê hoặc nên gọi là ‘tiêu dung’ (tiêu trừ, dung hợp). Cái Nghe (Văn) và đối tượng của cái Nghe (sở văn) đều mất, xoay chuyển lại, khôi phục tánh Nghe Nhất Chân nên sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền, chứng nhập Lý Thể chẳng lay động, nên gọi là ‘bất động đạo tràng’. ‘Thiệp nhập thế gian, bất hoại thế giới’: Khởi đại tác dụng xứng hợp thể tánh, Bồ Tát có thể hiện thân vào trong vi trần cõi Phật, dùng một thân hiện ra vô lượng thân, vào trong tất cả các cõi thế gian (hữu tình thế gian lẫn chánh giác thế gian) trong ba đời, tùy loại hiện thân, chẳng hoại tướng thế gian, nương vào Lý để thành tựu Sự”.

[43] Nguyên văn “lục căn viên thông, minh chiếu vô nhị, hàm thập phương giới, lập đại viên kính, không Như Lai tạng”, pháp sư Viên Anh giảng: “Viên là viên dung, sáu căn có thể sử dụng lẫn cho nhau. Tức là dùng bất cứ một căn nào đều có khởi tác dụng thấy, nghe, ngửi, nếm, hay, biết”. Thông là thông đạt, tức sáu căn chẳng hề bị ngăn cách. Hai chữ Viên Thông bao trùm hết các câu kế tiếp. Do thông đạt nên Minh và Chiếu không hai, sáu căn thông lợi, phát khởi tác dụng của sự Chiếu (nhận biết) từ bản tánh sáng suốt (Minh), Minh và Chiếu không hai, không khác. Cho nên chân tâm ví như một tấm gương tròn lớn, hay còn gọi là Đại Viên Kính Trí vì nó có thể tiếp nhận hết thảy pháp môn bí mật của vi trần Như Lai. Do nó viên dung nên chứa đựng trọn khắp các cõi trong mười phương, có thể tiếp nhận các pháp môn của chư Phật, đại, tiểu, quyền, thật hoàn toàn chẳng bỏ sót chút nào, nên gọi là Không Tạng (tức là giống như cái kho to lớn như hư không có thể dung chứa vô tận)”.

[44] Nguyên văn “do ngã sở đắc viên thông bổn căn, phát diệu nhĩ môn, nhiên hậu thân tâm vi diệu dung hợp, châu biến pháp giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Do tôi đạt được sự viên thông nơi Nhĩ Căn, tức là đã đạt được sự viên thông nơi cái Căn chánh yếu (bổn căn). Chữ Bổn Căn gồm hai nghĩa:

  1. Nhĩ Căn là căn vốn sẵn lanh lợi nhất trong Sa Bà, nên muốn đạt Tam Ma Đề thì phải từ sự Nghe mà chứng nhập.
  2. Nhĩ Căn Viên Thông là môn chánh yếu trong các môn Viên Thông, là con đường để vi trần Phật chứng nhập Niết Bàn.

Nhĩ môn được gọi là Diệu vì đức Cổ Phật Quán Thế Âm trong quá khứ đã do Văn, Tư, Tu, nương theo diệu lý bất sanh bất diệt của tánh Nghe mà phát khởi diệu trí “phản văn chiếu tánh” (xoay trở lại quán sát sự nghe để thấu hiểu tánh), soi thấu triệt Ngũ Ấm, giải trừ sáu Kết, chứng bản thể viên thông, phát sanh tác dụng tự tại. ‘Nhiên hậu thân tâm vi diệu hàm dung, châu biến pháp giới’: Sau đấy xứng theo Thể, khởi tác dụng ứng hóa không ngằn mé, đấy là sự vi diệu nơi thân. Soi xét căn cơ không sai lầm là sự vi diệu nơi tâm. Chữ ‘hàm dung’ chỉ diệu tâm vì tâm dung chứa mười phương và chúng sanh trong vô lượng thế giới. Chữ “châu biến’ chỉ diệu thân, ý nói thân trọn khắp thánh, phàm, tịnh, nhiễm”.

[45] Nguyên văn “do ngã sơ hoạch diệu diệu văn tâm, tâm tinh di văn, kiến, văn, giác, tri, bất năng phân cách, thành nhất viên dung, thanh tịnh bảo giác, cố ngã năng hiện chúng đa diệu dung, năng thuyết vô biên bí mật thần chú”. Pháp sư Viên Anh giảng: “Xét đến nguyên do thì do ta được đức Quán Âm Như Lai dạy dùng Văn Tư Tu để nhập Tam Ma Địa, nên thoạt đầu từ nơi cái Nghe trở về nguồn, quán chiếu cái tánh, từ bổn giác diệu lý khởi lên Thỉ Giác diệu trí. Dùng diệu trí để chiếu diệu lý, lý và trí cùng diệu nên gọi là Diệu Diệu Văn Tâm. Hơn nữa, trong tánh của sáu căn thì diệu tánh của Nhĩ Căn vượt trỗi thù thắng hơn các Căn khác, tức là diệu nhất trong các môn. Lúc mới đạt được tâm này, dùng nó để tu nhân nên gọi là ‘sơ hoạch diệu diệu văn tâm’. ‘Tâm tinh di văn’: Di (遺) có nghĩa là vượt thoát, tức là cái Nghe và đối tượng bị Nghe đều diệt, chỉ còn một cái tâm tinh minh, vượt thoát Căn lẫn Trần. Nói ‘thấy, nghe, hay, biết’ là dùng bốn món để bao gồm cả sáu món tinh minh nơi sáu Căn. Những điều thấy, nghe v.v… này chẳng bị phân cách bởi sáu căn do Trần đã mất, Căn chẳng còn, trở về nguồn là một, chẳng khởi tác dụng phân biệt chấp trước, nên trước hết đạt được Nhân Không. Chẳng trụ nơi hóa thành, tăng tấn dần dần, chứng được Pháp Không. Thẳng mãi đến cuối cùng thì Sanh lẫn Diệt đều diệt, tịch diệt hiện tiền, trở về với chân thể cội gốc, trở thành viên dung vô ngại, vốn sẵn thanh tịnh. Do sáu căn có thể dùng lẫn cho nhau nên gọi là viên dung, do các trần chẳng nhiễm nên gọi là thanh tịnh. Chứng nhập ba Như Lai tạng tâm và bổn giác lý thể ví như bảo châu Ma ni nên gọi là bảo giác. Bảo giác chân tâm vốn sẵn thanh tịnh, vốn chẳng có một pháp nào để đắc, đấy chính là Không Như Lai Tạng. Như bản thể của châu Ma Ni là thanh tịnh vô nhiễm, chân tâm tùy duyên, tuy hiện các Sắc, nhưng bản thể của Châu chẳng thay đổi. Cho nên ta có thể từ một thân hiện ra nhiều hình dáng, chẳng hạn hiện đầu, hiện tay, hiện mắt. ‘Chú’ có nghĩa là bí mật, đấy chính là lời lẽ bí mật của chư thánh, do những địa vị thấp hơn không thấu hiểu được nên gọi là ‘mật chú’. Kẻ ở địa vị thấp hơn hễ trì mật chú ấy sẽ đạt được lợi ích, có trọn đủ lực dụng thần diệu nên gọi là Thần Chú”.

[46] Thước-ca-la (Cakra): có nghĩa là Luân, Kim Cang, Kiên Cố Bất Thoái.

[47] Mẫu-đà-la (Mudrā): Ấn khế. Tay mẫu-đà-la chính là tay kết ấn.

[48] Nguyên văn Ngũ Thể, chỉ đầu, hai tay và hai chân.

[49] Phạm bái (Brahmābhasa): Dùng nhạc điệu để tụng kinh, tán dương, tán thán công đức của đức Phật. Phạm là thanh tịnh, Bái (Bhasa) là tán dương. Do những nhạc điệu tán dương này làm cho người nghe hoan hỷ, tăng trưởng pháp hỷ, di dưỡng tinh thần, không gây tham đắm hay khởi lên phiền não, nên gọi là Phạm (thanh tịnh).

[50] Vô học (Asaiksa): Bậc đã đến chỗ cùng cực của chân lý. Do người nếu chưa đạt đến chỗ chân lý tột cùng của Phật giáo thì còn phải tu học để tiến lên, nên những người ấy gọi là Hữu Học. Trái lại, Vô Học là bậc đã đạt đến chân lý tột cùng, không còn bị điều gì làm cho mê lầm, không còn gì phải tu học nữa. Từ ngữ này thường dùng để chỉ bậc A La Hán.

[51] Nguyên văn “nguyên minh chiếu sanh sở, sở lập chiếu tánh vong”, pháp sư Viên Anh giảng: “Nguyên minh là chẳng sanh tác dụng soi chiếu sai lầm, đấy gọi là bổn minh (vốn sẵn sáng suốt), trọn chẳng có một vật mảy may nào. Nay từ tánh nguyên minh ấy sanh tác dụng chiếu soi (nhận biết sự vật) một cách lầm lạc, nên Chiếu ấy là vọng chiếu! ‘Sanh Sở’: Do vọng chiếu nên mới có Vọng (mê lầm) được sanh ra. Do vọng cảnh là đối tượng của Chiếu đã được tạo lập nên tánh chân chiếu liền mất (tức là có đối đãi, thấy có Năng Chiếu và Sở Chiếu), nên mới nói: “Sở lập, chiếu tánh vong”.

[52] Nguyên văn “sắc tưởng kết thành trần, tinh liễu bất năng triệt, như hà bất minh triệt, ư thị hoạch viên thông”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là luận định về môn viên thông Sắc Trần của ngài Ưu Bà Ni Sa Đà. Ngài do thấy tánh của Sắc là Không mà nhập viên thông. Ý lời kệ nói: Sắc chỉ dựa vào vọng tưởng ngưng kết mà thành hình, nó là loại Trần gây chướng lấp tự tâm, nên nếu tâm đã sáng tỏ thì lẽ nào chẳng thấu hiểu rốt ráo Sắc Trần, Sắc Trần đâu còn có tác dụng ngăn lấp nữa ! Nhưng đối với bậc sơ tâm thì do họ còn chưa thấu suốt sáng tỏ, thấu triệt Sắc Trần là huyễn vọng thì làm sao họ có thể nương vào Sắc Trần để mau chóng đạt được Viên Thông?

[53] Nguyên văn “âm thanh tạp ngữ ngôn, đản y danh cú vị, nhất phi hàm nhất thiết, vân hà hoạch viên thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Thanh Trần Viên Thông của ngài Kiều Trần Như. Chữ Âm Thanh chỉ cho lời nói thẳng thắn, chân thật, chữ Ngữ Ngôn chỉ lời nói tà vạy. Nghĩa là trong một pháp Thanh Trần này, chưa khỏi xen tạp ngữ ngôn văn tự tà vạy. Trong câu ‘đản y danh cú vị’, chữ Y (伊) phải hiểu là Bỉ (彼: cái đó). Danh nhằm phô bày tự tánh. Dùng một chữ để đặt tên thì gọi là Danh, chẳng hạn như Bình (cái bình), chứ không nói cụ thể cái bình nào. Cú dùng để chỉ sự sai biệt như nói hai chữ Hoa Bình, tức là có mang ý nghĩa biểu thị cụ thể nên gọi là Cú. Dùng nhiều chữ để kết hợp thì là Văn. Nay nói đến Vị tức là nói đến ý nghĩa của cái lý được phô diễn bởi Văn. Do vậy, câu ‘đản y danh cú vị’ có nghĩa là mỗi một câu [trong ngôn ngữ thế gian] chỉ có ý nghĩa được bao hàm trong Danh và Cú ấy mà thôi ! Hơn nữa, một Danh chẳng thể dung chứa trọn khắp hết thảy Danh, một Cú trọn chẳng thể chứa đựng hết thảy Cú, một Nghĩa trọn chẳng thể bao gồm hết thảy Nghĩa, thế thì kẻ sơ tâm làm sao có thể nương theo vật chẳng dung thông trọn khắp ấy để mau chóng đạt Viên Thông cho được?”

[54] Đây là môn Hương Trần Viên Thông của Hương Nghiêm đồng tử.

[55] Nói là ‘chẳng sẵn có’, vì phải dùng lưỡi để nếm mới biết có Vị. Đây là môn Vị Trần Viên Thông của Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát.

[56] Hợp, rời : Khi thân căn tiếp xúc với vật thì gọi là Hợp, khi thân căn không tiếp xúc với vật là Ly (rời). Đây là môn Xúc Trần Viên Thông của ngài Bạt Đà Bà La.

[57] Nguyên văn: “Pháp xưng vi nội trần, bằng trần tất hữu sở, năng sở phi biến thiệp, vân hà hoạch viên thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Pháp Trần Viên Thông của ngài Ma Ha Ca Diếp. Pháp Trần chẳng có thực chất giống như năm Trần trước mà chỉ là hình bóng phản chiếu của năm Trần, nó phải dựa vào Ý để làm duyên, phối hợp với năm Trần bên ngoài để hình thành. Như vậy thì Ngũ Trần bên ngoài là chủ thể phản chiếu vào Ý, Pháp Trần là cái được phản chiếu, lưu giữ trong Ý, do thuộc bên trong nên gọi là Nội Trần. Đó chính là Sở. Nhưng do ngoại trần có năm món, phản chiếu bóng dáng ắt có trước sau, nên Nội Trần cũng thành ra năm thứ, bóng dáng không gì chẳng sai khác. Khi khởi ý nghĩ tưởng thì Ý chỉ có thể chuyên nơi một cảnh, Ý bỏ cảnh này, duyên theo cảnh kia liên tục, tức là Năng (chủ thể phản chiếu, tức Ngũ Trần bên ngoài) và Sở (Nội Trần bên trong) không luôn luôn khắng khít với nhau nên làm sao bậc sơ tâm lại có thể đối với thứ không thường hằng trọn khắp này mà mau đạt viên thông cho được?”

[58] Nguyên văn “Kiến tánh tuy đỗng nhiên, minh tiền bất minh hậu, tứ duy khuy nhất bán, vân hà hoạch viên thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Nhãn Căn Viên Thông của ngài A Na Luật. Kiến tánh là nói đến tánh của Kiến Căn, Kiến Căn chính là Nhãn Căn. Tánh ấy tuy có thể thấy thấu suốt rõ ràng, nhưng nếu luận trên phương diện trước sau thì mắt chỉ có thể thấy được đằng trước, không thể thấy sau gáy, nếu luận trên bốn phương bàng (Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc) thì chỉ thấy được hai phương bàng phía trước, nên mới nói ‘tứ duy khuy nhất bán’ (bốn góc, thiếu một nửa)”.

[59] Nguyên văn “Tỵ tức xuất nhập thông, hiện tiền vô giao khí, chi ly phi thiệp nhập, vân hà hoạch viên thông?”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Tỵ Căn Viên Thông của ngài Châu Lợi Bàn Đặc. ‘Tỵ tức’ là hơi thở ở nơi mũi. Thở ra thông thấu bên ngoài, hít vào thông thấu bên trong nên nói ‘xuất nhập thông’. Khi hơi thở ra đã hết, không thể hít vào ngay được, khi hít vào hết, không thở ra ngay được, nên lúc hơi thở tạm ngừng một chút ấy được gọi là ‘hiện tiền’. Nếu luận một cách chi ly thì có những lúc thở ra không hít vào, hít vào không thở ra (tuy rất ngắn ngủi). Nếu bàn luận cặn kẽ như vậy thì hơi thở ra và hít vào chẳng thể dung hợp trọn khắp lẫn nhau nên làm sao bậc sơ tâm có thể dựa vào đó để mau chóng đạt được Viên Thông?”

[60] Đây là môn Thiệt Căn Viên Thông của ngài Kiều Phạm Bát Đề.

[61] Đây là môn Thân Căn Viên Thông của ngài Tất Lăng Già Bà Ta. Đối tượng của Xúc (Sở Xúc) chính là Xúc Trần.

[62] Nguyên văn “nhai lượng bất minh hội”, pháp sư Viên Anh giảng: “Thân Căn và Xúc Trần một đằng là Hữu Tri, một đằng là Vô Tri, mỗi thứ có giới hạn riêng, khi chúng tách rời nhau thì Thân chẳng thể nào ngầm cảm nhận Xúc Trần được”.

[63] Đây là môn Ý Căn Viên Thông của ngài Tu Bồ Đề.

[64] Nguyên văn “thức kiến tạp tam hòa, cật bổn xưng phi tướng, tự thể tiên vô định, vân hà hoạch viên thông?”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Nhãn Thức Viên Thông của ngài Xá Lợi Phất. Chữ ‘thức kiến’ phải hiểu là ‘kiến thức’ tức Nhãn Thức, ‘Tạp tam hòa’: Căn và Trần đối ứng thì Thức phát sanh trong ấy, tức là nói Năng và Sở phối hợp với nhau. ‘Cật bổn xưng phi tướng’: Cái Thức được sanh ra ấy truy gạn tới tận cội nguồn thì nó chẳng do đâu mà có. Một là Thức chẳng do Căn sanh, nhưng nếu chỉ có Căn không có Trần thì Thức chẳng thể tự sanh. Hai là Thức chẳng do Trần sanh, Sắc Trần không hay biết, chẳng thể làm nhân sanh ra Thức được. Ba là chẳng phải do Căn và Trần hòa hợp mà sanh ra Thức. Căn là hữu tri, Trần là vô tri, nếu Thức được sanh ra bởi Căn và Trần thì nó phải có một phần hữu tri và vô tri, nhưng Thức chẳng phải vậy. Cho nên toàn bộ thể tánh của nó là hư vọng, chẳng thật, nên gọi là ‘phi tướng’. Bản thể của nó đã không nhất định thì làm sao kẻ sơ tâm có thể dựa theo đây để mau chóng đạt được viên thông?”

[65] Đây là môn Nhĩ Thức Viên Thông của Phổ Hiền Bồ Tát.

[66] Đây là môn Tỵ Thức Viên Thông của ngài Tôn Đà La Nan Đà. Câu thứ ba trong bài kệ này là “trụ thành tâm sở trụ”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đã có tâm để trụ vào cái tướng trắng trên chót mũi, đấy là phương tiện quyền biến nhằm dứt trừ tâm tán loạn. Kẻ sơ tâm sẽ chấp vào đó nên cái tâm sẽ vướng vào cái cảnh tạm dùng để làm cho tâm được trụ”.

[67] Đây là môn Thiệt Thức Viên Thông của ngài Phú Lâu Na. Pháp sư Viên Anh giảng: “Ngài Phú Lâu Na được thành tựu là nhờ sức biện tài từ bao kiếp, chứ không phải do công năng của Thiệt Thức chỉ trong một thời. Bởi lẽ, nếu Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân chẳng tương ứng thì Thiệt Thức sẽ thuộc về pháp hữu vi, chẳng phải là pháp vô lậu. Vậy thì bậc sơ tâm làm sao mau chóng đạt được viên thông?”

[68] Đây là môn Thân Thức Viên Thông của ngài Ưu Ba Ly. Trì là giữ giới, Phạm là phạm giới.

[69] Đây là môn Ý Thức Viên Thông của ngài Đại Mục Kiền Liên.

[70] Đây là môn Địa Đại Viên Thông của Trì Địa Bồ Tát.

[71] Đây là môn Thủy Đại Viên Thông của Nguyệt Quang Bồ Tát.

[72] Đây là môn Hỏa Đại Viên Thông của ngài Ô Sô Sắt Ma (Ucchusma: Uế Tích Kim Cang, Biến Uế Kim Cang). Pháp sư Viên Anh giảng: “Ngài Ô Sô Sắt Ma chán nhàm tam giới có lửa dục, cầu ly dục. Nhưng nếu chưa đạt đến mức ‘thân lẫn tâm đều đoạn, tánh đoạn cũng chẳng còn’ thì chưa phải là ly dục thật sự. Nhưng kẻ sơ tâm chưa đoạn hết được cơ duyên dấy động sự da dâm, chỉ nhờ vào thiểu dục hay vô dục thì làm sao có thể dùng được làm phương tiện?”

[73] Đây là môn Phong Đại Viên Thông của Lưu Ly Quang Bồ Tát.

[74] Đây là môn Không Đại Viên Thông của Hư Không Tạng Bồ Tát. Pháp sư Viên Anh giảng: “Nếu lấy hư không làm cảnh để quán, quán sát kỹ càng Tứ Đại không nơi nương tựa, vọng tưởng sanh diệt, hư không chẳng hai, Phật quốc vốn giống nhau. Hư không có tướng tối tăm, trơ trơ bất động, bản thể của nó chẳng có tác dụng linh minh giác tri. Nếu không có tác dụng ấy thì chẳng phải là Bồ Đề, nay dùng cái nhân tối tăm, trơ trơ để cầu cái quả linh minh thì có khác nào mài băng cầu lửa, làm sao hàng Sơ Tâm có thể nương vào vật bất giác này để mau chóng thành tựu viên thông cho được?”

[75] Đây là môn Thức Đại Viên Thông của Di Lặc Bồ Tát.

[76] Đây là môn Căn Đại Viên Thông của Đại Thế Chí Bồ Tát. Theo Ấn Quang đại sư, nếu không chú ý đến sự kiện Văn Thù Bồ Tát chọn lựa pháp Viên Thông nhằm thích hợp căn cơ của đại chúng thượng thủ trong pháp hội này là ngài A Nan thượng căn lợi trí và những vị Đại Thừa Bồ Tát đã tiến nhập Bồ Tát thừa, chứ không phải ngài Văn Thù chọn pháp Viên Thông cho khắp cả ba căn. Do vậy, Văn Thù Bồ Tát chỉ đề cao pháp Phản Văn Tự Tánh của đức Quán Âm. Những người không tự lượng căn tánh của chính mình, không thấu hiểu điều vi tế này sẽ dễ dàng chê bai, bác bỏ pháp Căn Đại Viên Thông của Đại Thế Chí Bồ Tát là thấp hèn. Chúng tôi xin trích nguyên lời giảng của pháp sư Viên Anh như sau: “Chiếu theo thứ tự của Căn Đại thì pháp này lẽ ra phải xếp vào hàng thứ sáu, nay lại đưa môn Thức Đại của ngài Di Lặc ra đằng trước, đưa môn Căn Đại của ngài Thế Chí vào nơi đây, đủ thấy Bồ Tát (tức ngài Văn Thù) biết rõ: Muốn tu Lăng Nghiêm Đại Định thì khi phán định môn Viên Thông, phải lấy pháp của đức Quán Âm đứng đầu, nhưng nếu cầu lấy pháp thích hợp khắp ba căn, thâu tóm độn căn lẫn lợi căn thì chỉ có một môn Niệm Phật! Phàm những gì thuộc về hành động, dời chuyển đều thuộc về các hành, đều là vô thường, nhưng ngài Thế Chí nói: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’. Đã là nhiếp trọn thì thuộc về Căn Đại. Đủ thấy niệm Phật chẳng phải là miệng niệm, chẳng phải là niệm bằng thức thứ sáu trong tâm, mà là Ý Căn (thức thứ bảy) nhiếp trọn sáu Căn để niệm. Tuy nói là ‘tịnh niệm’, nhưng rốt cuộc trở thành hữu niệm. Đã nói là ‘tiếp nối’ thì khó tránh khỏi sanh diệt, nên nói là ‘niệm tánh vốn sanh diệt’. Dùng cách niệm Phật này để làm nhân nhằm đạt cái quả vãng sanh Tịnh Độ thì nhân quả phù hợp, vạn người tu, vạn người về. Nếu dùng cái nhân sanh diệt này để cầu chứng quả ‘viên thông chẳng sanh diệt’ trong hiện đời thì nhân trái nghịch quả, cảm ứng đều khác nhau, nên nói ‘nhân quả nay khác biệt”.

[77] Thanh luận: Các thứ đàm luận bằng ngôn ngữ. Trong cõi này, Nhĩ Căn lanh lợi nhất nên Phật phải dùng âm thanh để giảng giải Phật pháp, vì thế gọi là thanh luận.

[78] Theo pháp sư Từ Hàng trong tác phẩm Lăng Nghiêm Kinh Đề Chỉ, bà Tánh tỳ-kheo-ni chính là nàng Ma Đăng Già. Pháp sư giảng: “Tánh có hai thứ là bổn tánh và thạch tánh. Bổn tánh chính là Phật tánh, ví như Ma Đăng Già tuy là gái ca xướng kém hèn, bổn tánh vẫn chẳng mất. Còn thạch tánh chính là ái tánh (do tư dục ngoan cố, trơ lì khó xoay chuyển giống như đá nên gọi là thạch tánh), Ma Đăng Già yêu mê mệt A Nan chính là thạch tánh chứ không phải bổn tánh. A Nan và Ma Đăng Già là vợ chồng nhiều kiếp nên mê đắm như đá cứng chắc. Nếu đức Phật không sai Văn Thù Sư Lợi dùng chú ngữ cứu ra, A Nan sẽ bị đọa lạc. Trong kinh này vì sao lấy A Nan và Ma Đăng Già làm vai diễn chánh? Là vì A Nan là em họ bên nội của đức Phật, từng cùng với Phật đối trước Không Vương Phật phát tâm. A Nan thích đa văn, chẳng chuyên tâm tu hành, cho nên chưa thành Phật. Người tu hành phải tự tu tự chứng, người khác tuyệt đối chẳng thể làm thay được…. Ma Đăng Già là nữ nhân hạ tiện nhất, nhưng gặp Phật tu hành, liền chứng Tam Quả. Cô ta không có tâm học Phật mà vẫn chứng Tam Quả. Nếu chúng ta chịu dụng tâm tu hành một chút, chắc chắn sẽ thành tựu hơn hẳn cô ta. Do vậy, kinh Lăng Nghiêm dùng hai vị này làm diễn viên chánh!”

[79] Tất Lăng chính là tên gọi tắt của tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta (Pilinda-vatsa), dịch nghĩa là Dư Tập. Do Ngài đã năm trăm đời làm Bà La Môn nên còn tập khí kiêu mạn rất lớn. Ngài thấy có người đi khất thực phải vượt sông Hằng khổ sở, bèn quát nữ thần sông Hằng : “Tiểu tỳ ! Ngưng chảy đi!”. Nước sông liền tách làm hai cho người ấy đi qua. Nữ thần tức tối đến mách với Phật. Phật bảo ngài Tất Lăng Già Ba Ta hãy sám hối với nữ thần, ngài nói: “Tiểu tỳ! Ta sám hối tạ lỗi với ngươi”. Mọi người hiện diện đều cười: “Đã sám hối tạ lỗi mà còn chửi người ta!” Nhân đó, Phật mới cho biết do ngài Tất Lăng năm trăm đời làm Bà La Môn nên tập khí kiêu mạn rất nhiều, thường gọi phụ nữ là “tiểu tỳ” (con hầu nhỏ nhoi) là do thói quen, chứ tâm Ngài không có ý nhục mạ. Trong phần 25 pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Ngài đã thuật phép quán thân (Thân Căn Viên Thông). Do vừa đi khất thực vừa tư duy những lời giảng của đức Phật về sự thống khổ trong thế gian, bất ngờ đạp phải gai độc, bị thương, đau đớn. Ngài quán sát tánh nhận biết sự đau đớn ấy chính làm giác tâm thanh tịnh, cái biết bị đau chẳng phải là cái bị đau. Như vậy lẽ nào một thân lại có hai tánh biết? Do quán như vậy, thân tâm không tịch, tiêu hết lậu tập, thành A La Hán.

[80] Y Tha Khởi Tánh (Paratantra-svabhāva) là một trong Tam Tánh trong Tướng Tông. Y Tha có nghĩa là hết thảy sự vật đều do các duyên hòa hợp, do tâm thức biến hiện mà có, hư huyễn không thật. Như vậy, sự vật do nương vào các duyên khác mà sanh khởi nên gọi là Y Tha (nương vào các duyên khác). Một ví dụ cho Y Tha Khởi Tánh là dây thừng. Dây thừng do các sợi dây nhỏ bện lại, mỗi sợi dây là do nhiều tế bào gai (đay) hợp thành v.v….

[81] Viên Thành Thật Tánh (Parinispanna-svabhāva) là một thuật ngữ khác nhằm chỉ Chân Như trong Tướng Tông. Viên Thành Thật Tánh gồm ba tánh chất:

  1. Viên mãn: tướng của các pháp chỉ hạn cuộc nơi pháp thể của pháp ấy, còn diệu lý Chân Như thì trùm khắp mọi nơi.
  2. Thành tựu: Các pháp là không, vô thường, vô ngã… còn thật thể thường trụ của Chân Như thì không sanh diệt.
  3. Chân thật: Thể của các pháp là hư vọng, còn tánh của Chân Như thì thường trụ và trọn khắp.

[82] Tập tước: Con thừa hưởng tước hiệu của cha, còn gọi là Tập Ấm. Những người tập ấm ấy thường được gọi là Ấm Sinh.

[83] Nguyên văn “tử tâm niệm Phật”, nghĩa là dứt sạch mọi so đo, tính toán, vọng tưởng, giả dối, tà vạy để chân thật niệm Phật.

[84] Thương chủ: người dẫn đầu đoàn lái buôn.

[85] Tỳ Sa Môn Thiên vương (Vaiśravana), còn gọi là tài thần Kubera (còn viết là Kuvera hoặc Kuber, trong Mật Điển thường phiên âm là Câu Tỳ La Thần), dịch nghĩa là Đa Văn, là một trong bốn vị trời hộ thế (Hộ Thế Tứ Thiên Vương). Do ngài thống lãnh các Dạ Xoa nên đôi khi kinh gọi ngài là Dạ Xoa Vương tuy Ngài không phải là Dạ Xoa. Ngài quản thủ phương Bắc nên kinh thường gọi là Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương. Trong Ấn Độ Giáo, do có truyền thuyết vị trời này từng thống lãnh quân Dạ Xoa đánh bại Ma Vương La Phạ Nã nên Tỳ Sa Môn thiên vương còn được gọi là Vũ Thần.

[86] Cư sĩ (Grha-pati): Nguyên gốc là những người còn tại gia, có tài sản, thường thuộc giới thương nhân, đức cao, trọng vọng. Kinh Phật thường dùng chữ “cư sĩ” để chỉ những vị tại gia hành Bồ Tát hạnh, tin tưởng Đại Thừa, về sau từ ngữ này thường được dùng để gọi chung tất cả hàng tại gia Phật tử.

[87] Chấp Kim Cang Thần: Có ba cách hiểu danh xưng này:

1. Chấp Kim Cang Thần (Vajrapani) là một trong những danh xưng khác của Kim Cang Thủ, Kim Cang Dạ Xoa, Kim Cang Lực Sĩ v.v… Đây là vị thần cầm Kim Cang trượng, thủ hộ cung điện của Đế Thích. Khi Phật xuất thế, vị này liền giáng hạ Diêm Phù, thường theo Phật ủng hộ đạo tràng.

2. Chấp Kim Cang Thần là danh xưng của mười sáu vị cầm kim cang xử trong Mật Điển, mười sáu vị này là do tâm Bồ Đề của chư Phật biến hiện, tức là Hư Không Vô Cấu Kim Cang, Kim Cang Luân, Kim Cang Nha, Tô Lạt Đa Kim Cang, Danh Xưng Kim Cang, Đại Phần Kim Cang, Kim Cang Lợi, Tịch Nhiên Kim Cang, Đại Kim Cang, Thanh Kim Cang, Liên Hoa Kim Cang, Quảng Nhãn Kim Cang, Chấp Diệu Kim Cang, Kim Cang Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Kim Cang, Hư Không Vô Biên Du Hý Kim Cang. Theo Xuất Sanh Nghĩa: “Lại nữa, từ phương dưới có mười sáu vị Chấp Kim Cang Thần từ tâm dũng kiện Bồ Đề của hết thảy Như Lai sanh ra, nhằm minh thị lúc Như Lai tu hành có vi trần số phiền não chướng ngại tâm, Ngài bèn dùng Kim Cang Huệ phá trừ. Sau khi thành tựu Đại Giác, bèn có vi trần số trí môn là tác dụng của Kim Cang Huệ. Vì thế, lại hiện ra những thân bạo ác đáng sợ, vận dụng trí đại oai để điều phục những kẻ cứng cỏi khó điều phục, quát tháo chấn động cõi đại thiên, trấn áp quần ma”.

3. Theo Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh, Chấp Kim Cang Thần là tên gọi khác của Kim Cang Thủ Bồ Tát, một thân biến hiện của Phổ Hiền Bồ Tát, chính là hóa thân của vô ngại diệu trí lực của hết thảy chư Phật Như Lai.

Theo pháp sư Diễn Bồi trong Phổ Môn Phẩm Giảng Lục: “Chấp Kim Cang Thần là thần Hộ Pháp của Phật giáo, do Ngài tay thường cầm Kim Cang Bảo Xử, nên mang tên Chấp Kim Cang Thần. Tương truyền, trong quá khứ có Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế, cưới hai phu nhân. Phu nhân thứ nhất sanh một ngàn vương tử, phu nhân thứ hai chỉ sanh được hai vương tử. Một ngàn vương tử của bà phu nhân thứ nhất sau khi tiếp xúc Phật pháp, đều phát khởi đại Bồ Đề tâm, rộng hành Bồ Tát đạo, thành bậc Bồ Tát danh xứng với thật, tương lai đương nhiên sẽ thành Phật, nhưng ai sẽ thành Phật trước? Phụ vương vì muốn biết rõ điều này, truyền các vương tử phát Bồ Đề tâm rút thăm để định thứ tự thành Phật. Kết quả, đầu tiên là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda Buddha), cuối cùng là Lâu Chí Như Lai (Rucika Buddha). Thích Ca là vị thành Phật thứ tư. Sở dĩ phải định thứ tự là vì trong một thế giới, chẳng thể có hai đức Phật cùng xuất hiện trong đời. Hai vị vương tử của phu nhân thứ hai thấy các huynh trưởng đều phát Bồ Đề tâm, tương lai sẽ thành Phật, ngay đó, vị đại vương tử phát nguyện làm Đại Phạm Thiên Vương, khi các anh thành Phật sẽ thỉnh chuyển pháp luân. Vương tử thứ hai phát nguyện làm thần Hộ Pháp, sau khi các anh thành Phật sẽ hộ trì Phật pháp. Chấp Kim Cang Thần chính là vị vương tử thứ hai của bà phu nhân thứ hai”.

[88] Thường Kiến (Sasvatadrsti), còn gọi là Thường Tà Kiến, hoặc Thường Luận. Đây là tà kiến chủ trương thế giới thường trụ, bất biến, tự ngã của con người bất diệt, chấp trước các pháp hữu vi thế gian. Có nhiều loại Thường Kiến, nếu dựa theo ba đời và hữu tướng, vô tướng để phối hợp sẽ thành sáu mươi hai món tà kiến.

[89] Kim Đan Giáo, còn được biết dưới danh xưng Tại Lý Hội hoặc Học Hảo là một chi phái của Bạch Liên Giáo, do Dương Lai Như sáng lập tại huyện Tức Mặc, tỉnh Sơn Đông, rêu rao “dung hợp tam giáo thành một thể”, chủ trương cấm uống rượu, cấm hút thuốc phiện, mang tính chất hội kín nhằm lật đổ Thanh Triều, khôi phục nhà Minh. Năm Quang Tự 17 (1891), lãnh tụ Dương Duyệt Xuân đã sách động quần chúng khởi nghĩa, thiêu hủy giáo đường Thiên Chúa Giáo, tấn công giáo sĩ, tấn công quân Thanh. Nhà Thanh phải tốn rất nhiều công sức mới dẹp yên được.

[90] Theo Nội Đan (nhằm phân biệt với Ngoại Đan phải dùng đến dược vật), Đạo Sĩ chủ trương hít thở, nung luyện tinh khí thần sao cho Tinh – Khí – Thần hợp nhất, tạo thành thân trường sanh bất tử. Họ chủ trương quá trình nung luyện ấy gọi là Hỏa Hầu, tức là điều tiết vận chuyển sức nóng của nội hỏa phối hợp với 12 giờ Âm Dương trong một ngày. Theo họ, Nội Hỏa chính là sức nóng bên trong cơ thể do hấp thụ khí vũ trụ (Thái Dương chân khí). Mỗi ngày có 12 giờ (12 thời thần), đi hết một vòng Giáp Tý là 60 giờ, tức là một “hầu”. Nói cách khác, luyện Hỏa Hầu là một quy cách nhằm nắm giữ ý niệm trong thuật luyện đan, khống chế nội khí trong cơ thể và mỗi trình độ tu luyện có cách tập Hỏa Hầu riêng.

[91] Thăng, Giáng là hai trong bốn cách phân chia tác dụng (thăng, giáng, trầm, phù) của từng loại thuốc trong Đông Y. Theo họ, các bệnh tật có thể chia thành bốn loại lớn: Hướng thượng (như ói mửa, ho suyễn v.v…), hướng hạ (như tiêu chảy, băng huyết, lòi dom v.v…) hoặc hướng ngoại (như đổ mồi hôi trộm), hướng nội (như biểu hiện bệnh tình không rõ rệt). Để chữa các căn bệnh đó sẽ dùng các loại thuốc có tác dụng đối trị như Thăng (nâng lên), Giáng (hạ xuống) v.v… Chẳng hạn như với căn bệnh hướng thượng thì dùng thuốc có tác dụng Giáng, bệnh hướng hạ thì dùng thuốc có tánh Thăng, bệnh hướng ngoại thì dùng thuốc có tánh Trầm, bệnh hướng nội thì dùng thuốc có tánh Phù v.v… Những loại thuốc được coi là Giáng thường có tác dụng khử phong, tán hàn v.v…

[92] Đây là một câu trong thiên Cáo Tử Thượng của sách Mạnh Tử: “Vạn chung tắc bất biện lễ nghĩa nhi thọ chi, vạn chung ư ngã hà gia yên?” Chung là một đơn vị đo lường thời cổ, sáu thạch bốn đấu là một chung. Theo cụ Lý Bỉnh Nam, câu này phải hiểu như sau: “Đối với bổng lộc đến một vạn chung, có kẻ liền tiếp nhận chẳng cần suy xét xem bổng lộc ấy có hợp với lễ nghĩa hay chăng, bổng lộc vạn chung đối với ta có gì là tốt đẹp đâu?”

[93] Bình Tần Già: Ở Ấn Độ vào thời cổ, người ta thường làm bình có cái quai chạm thành hình chim Ca Lăng Tần Già (Kalavinka), bình này có khoét hai lỗ để đổ chất lỏng vào.

[94] Trí Độ Luận nêu ra ba thứ Bát Nhã: Thật Tướng Bát Nhã, Quán Chiếu Bát Nhã và Văn Tự Bát Nhã.

[95] Khí giới (器界) chỉ y báo, tức “khí thế gian thế giới”, những cảnh bên ngoài làm nơi nương tựa cho Căn và Thân (chánh báo).

[96] Tứ Tất Đàn: Tất Đàn (Siddhānta), có nghĩa là Thành Tựu. Phương tiện giáo hóa chúng sanh của Phật có thể chia thành bốn loại:

1. Thế giới Tất Đàn: Thuận theo phương cách suy nghĩ, khảo sát của thế giới, dùng văn tự, ngôn ngữ, quan niệm của thế gian để thuyết minh đạo lý chân thật khiến cho phàm phu thích nghe pháp, dần dần khế nhập chánh trí của Phật.

2. Các các vị nhân Tất Đàn: Dùng lập trường lấy con người làm gốc, nhấn mạnh trách nhiệm của con người, nhằm xoay chuyển tập quán phàm phu, kiến lập nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật pháp cho con người. .

3. Đối trị Tất Đàn: Những pháp được nói theo cách thế giới Tất Đàn chỉ trừ được ác tướng thô lậu, chẳng thể trừ dẹp cội rễ và tướng vi tế của ác nghiệp. Do vậy phải quán sát từng căn bệnh của chúng sanh để thuyết pháp phù hợp nhằm giúp họ đối trị phiền não, tập khí tận gốc.

4. Đệ nhất nghĩa Tất Đàn: Khi kiến giải của chúng sanh đã sạch vọng tưởng, chấp trước bèn dẫn dụ họ tiến nhập Đệ Nhất Nghĩa Đế, chứng nhập Chân Như Thật Tướng.