Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
觀世音菩薩本跡感應頌
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

 

QUYỂN III PHẦN 3

2.5.4. Tiếp dẫn

1. Bèn có Triệt Ngộ xưng danh, dần dần thấy một phần tướng hảo; Gia Vỹ làm lễ, hai lượt ngắm kim thân ngàn trượng.

2. Phật đón Tăng Huyễn, trao hương y đạo sư; Tăng dẫn Ngạn Thông lên lầu gác Tỳ Lô.

3. Vật như trăng tròn, nhằm tiếp dẫn ông Lưu; xâu chuỗi đếm mấy hạt, chỉ kỳ về cho Lý Mẫu.

4. Cùng Huệ Mạng chiêm ngưỡng tam thánh; Hữu Cơ báo mộng cho mọi người.

5. Liễu Nhiên đến thời, hai rồng biến hiện; Pháp Hỷ thần quở, khỏi đền mạng trĩ.

6. Cụ Thịnh, bà Trịnh cùng được ban kim đài, Trọng Mẫn, Hòe Đình đều lên tòa bạc.

7. Thật Tu tạo tượng, liền hiện thân Thiên Nhãn; Phật Kỳ ngửi hương, lại thấy hai chú thị đồng.    

8. Liễu Nghĩa, Sư Tán[1], đài vàng báu sáng ngời; Chung Thị, bà Tiết, sắc hoa sen lóa mắt.

9. Pháp Lâm thấy thánh hiền cùng nhóm tới, Khô Tâm biết cảm ứng đạo giao.

10. Cụ Mạnh hiện sa-môn rung tích trượng, bà Trương thấy hòa thượng vẫy tay gọi.

11. Chàng Nghê mua rau chẳng kịp, ông Châu đồ mặn đoạn trừ.

12. Thiện Ích thấy quang minh báu sạch, Vương Thị than chân thân cao to.

13. Đoái nhìn Pháp Tín, thánh chúng cúi đầu hân hoan đón tiếp; dẫn Quảng Đàm theo, co ba ngón tay, ngầm chỉ ắt chứng tam quả.

14. Tịnh Văn dạy vợ, thấy hảo tướng chốn Tây Phương, Hồ Nhân đợi Tăng, phiền Bồ Tát giáng lâm lâu lắc.

15. An nhân được hiện thân báo mộng, tín nữ chắp tay xưng danh.

16. Hoa sen đón Đào Thiện; Tịnh Độ tiếp Ngọ Đình.

17. Ấy là vì Di Đà nguyện hải dẫn đại chúng hiện tiền, Bồ Tát chú tâm khuyên dụ, an ủi tỳ-kheo.

18. Chỉ quý tâm giữ được chánh niệm, đừng lo Phật chẳng tiếp nghênh. Đấy chính là sự nhiếp độ chúng sanh thứ năm của Đại Sĩ vậy.

(1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, ngài Tế Tỉnh, tự là Triệt Ngộ, đã hiểu rõ lẽ hướng thượng, chuyên tu Tịnh nghiệp. Trong Triệt Ngộ Ngữ Lục, quyển 2, Sư khuyên tu hết sức thiết tha. Khi sắp mất, Sư thấy vô số tràng phan từ phương Tây đến. Nửa tháng sau, Sư lại bảo đại chúng: “Hôm qua ta thấy ba vị Đại Sĩ Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, nay lại được Phật đích thân đến đón, ta đi đây”. Đại chúng niệm Phật hiệu, ngài Triệt Ngộ chắp tay, bảo: “Niệm một tiếng hồng danh, thấy một phần tướng hảo”, rồi kết ấn, qua đời. Mùi hương lạ thơm lừng hư không, vẻ mặt như còn sống. Trà-tỳ được xá-lợi rất nhiều.

Lại nữa, Dương Gia Vỹ khi lâm chung nói: “Di Đà hiện thân cao ngàn trượng, Quán Âm thân bằng Phật. Kinh Di Đà công đức chẳng thể nói, chẳng thể diễn tả. Ta đã được sanh về Thượng Phẩm”.

(2) Theo Thánh Hiền Lục, đời Đường, Tăng Huyễn thấy Xước thiền sư (ngài Đạo Xước) giảng Quán Kinh bèn hồi tâm niệm Phật. Sư mắc bệnh, bảo đệ tử rằng: “A Di Đà Phật trao cho ta hương y (áo thơm), Quán Âm, Thế Chí đứng xếp hàng trước mặt, hóa Phật đầy hư không, ta đi đây”. Mùi hương lạ suốt bảy ngày chưa tan.

Lại nữa, vào đời Tống, Lý Ngạn Thông làm thợ rèn. Về sau, dốc lòng nơi Tịnh Độ. Một hôm, nói: “Ta mộng dạo chơi Tịnh Độ, thấy hai cánh cửa đóng chặt, gặp được vị Tăng tên Tông Lợi, mở cửa dẫn vào, thấy trong lầu, gác có Phật và Bồ Tát, ta đi đây” rồi niệm Phật qua đời.

(3) Theo Quảng Tín Phủ Chí, Lưu Sùng Khánh trì chú Chuẩn Đề. Trong nhà phóng bạch hào quang, hiện tướng Đại Chuẩn Đề. Lúc ông sắp mất, thấy rành rành ngài Quán Âm lấy ra một vật giống như trăng tròn, rõ ràng là tỏ ý tiếp dẫn. Ông bèn ngồi dậy tụng chú Đại Bi, tụng xong bèn mất.

Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Minh, mẹ ông Lưu Đạo Long là Lý Thị, ăn chay trường, thờ Quán Âm Đại Sĩ, sáng tối lễ bái, niệm Phật suốt hai mươi lăm năm. Cụ mộng thấy Đại Sĩ đưa cho xem một xâu chuỗi, bảo: “Xâu chuỗi là kỳ hạn sanh Tịnh Độ của bà”. Đếm xem thì chuỗi gồm năm mươi ba hạt, tới ngày Mười Ba tháng Năm, cụ nói: “Ta vãng sanh Tây Phương trong ngày hôm nay”, xướng Phật hiệu, qua đời.

(4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tùy, sư Huệ Mạng tham học với ngài Nam Nhạc Huệ Tư, ngộ sâu xa huyền chỉ. Lúc sắp mất, mọi người thấy A Di Đà Phật và Đại Sĩ đến đón, Sư hướng mặt về Tây ra đi.

Lại nữa, trong đời Tống, sư Hữu Cơ khuyên mọi người niệm Phật số đến vạn người. Sư thị hiện bị bệnh, mọi người thấy Tây Phương hiện quang minh, không trung tấu nhạc. Hữu Cơ nói: “Tây Phương Tam Thánh đến rồi!” hướng về Tây, qua đời. Có người mộng thấy Hữu Cơ oai nghi trọn đủ đi về Tây Phương, có người mộng thấy Hữu Cơ ngồi trên hoa sen đối trước Phật nghe thuyết pháp, có người mộng thấy Hữu Cơ được Phật Di Đà thọ ký.

(5) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, sư Liễu Nhiên từng mộng thấy bơi thuyền trên biển, thấy Quán Âm ngồi trong rừng trúc, dùng một trăm bài kệ để tán tụng. Từ đấy, biện tài nhanh chóng phát sanh. Một hôm, Sư mộng thấy hai con rồng đùa bỡn trên không, một con hóa làm thần nhân, từ trên không đáp xuống, rút thẻ chỉ cho biết kỳ hạn mất. Đến kỳ hạn, Sư cùng mọi người tụng kinh Di Đà, đến chữ “Tây Phương thế giới” bèn hóa.

Lại nữa, đời Tùy, ngài Pháp Hỷ hạnh nguyện suốt đời hồi hướng Tịnh Độ. Sư theo ngài Trí Giả hành Phương Đẳng tam-muội, chợt một con trĩ đến đòi mạng, có thần nhân quở trách: “Pháp sư sẽ sanh về Tịnh Độ, há đền mạng ngươi ư?” Lâm chung, Sư thấy Phật, Bồ Tát đến đón.

(6) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, bà cụ họ Thịnh trì Vô Lượng Thọ Kinh và danh hiệu Phật. Một hôm tắm gội rồi ngoảnh mặt về Tây, hỏi người chung quanh: “Có nghe tiếng khánh hay không? Thánh chúng Tịnh Độ đến rồi”. Nói xong, chắp tay, bảo: “Phật, Bồ Tát đã đến, đài vàng hiện tiền, ta đi đây” rồi qua đời.

Theo Linh Cảm Phú, vào đời Tống, Trịnh Thị ở Tiền Đường hằng ngày tụng phẩm Phổ Môn, niệm Phật không sót. Lâm chung nghe tiếng khánh, thấy Quán Âm tay cầm đài vàng, liền tịch.

Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, sư Trọng Mẫn cả đời giảng các kinh Quang Minh, Quán Âm v.v… Lúc sắp tịch, Sư nhóm chúng rồi lên tòa, thấy đài bạc từ Tây Phương đến rồi bèn hóa.

Lại nữa, vào đời Minh, Thái Thừa Thực tự là Hòe Đình, ăn chay thờ Phật từ trẻ. Về sau, đỗ Tiến Sĩ, làm quan đến chức Thái Thú, cấm dân gian sát sanh tế thần. Đến già, ông lập hội niệm Phật, nhằm hướng dẫn dân thường hồi hướng Tịnh Độ. Đến khi bị bệnh, ông liền đến chùa Phật chúc nguyện, trở về, thấy đài bạc tiếp dẫn, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát liên tiếp rồi mất.

(7) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Minh, ni sư Thành Tĩnh tự là Thật Tu, niệm Phật không thiếu sót, khuyên mọi người tạo tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi bằng đàn hương. Về sau, biết trước lúc mất, bảo đệ tử rằng: “Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm đến đây tiếp dẫn” rồi hóa.

Lại nữa, vào đời Thanh, ni sư Phật Kỳ tạo tượng Tây Phương Tam Thánh bằng gỗ chiên-đàn cao tám thước. Mỗi năm kết thất lập hội niệm Phật. Trước khi mất ba ngày, ni sư thấy Bồ Tát hiện thân, có hai đồng tử theo hầu. Có kẻ nói ngửi thấy mùi hương hoa cúc. Phật Kỳ bảo: “Đấy là hương hoa sen xanh”, niệm Phật rồi tịch.

(8) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, Liễu Nghĩa mười lăm tuổi đỗ Tiến Sĩ. Khi xuất gia, niệm niệm Tây Phương chưa từng gián đoạn. Ngài Tường công ở Hoàng Bá mộng thấy Sư đến từ biệt, bảo “về Tây Phương”. Lại thấy Phật, Bồ Tát trao cho đài vàng. Ba ngày sau, Sư mỉm cười, qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, Sư Tán mười bốn tuổi niệm Phật không ngớt, bị bệnh chết rồi sống lại, từ biệt cha mẹ bảo: “Tam Thánh đến, con phải đi theo”. Hàng xóm thấy đài báu tỏa quang minh năm màu. Sư Tán hướng về Tây qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, Chung Thị niệm Phật suốt hai mươi năm, một hôm bảo con: “Tây Phương thánh chúng trọn khắp hư không, hoa sen trắng to quang minh chiếu khắp, ta đi đây”. Bà chắp tay qua đời.

Lại nữa, vào đời Đường, Vương Thị là vợ ông Tiết, tu sám cầu sanh Tịnh Độ. Bà ta mắc bệnh, [tu hành] càng thêm khẩn thiết. Thấy hoa sen đỏ trước giường to như cái vò chứa được năm đấu. Lại thấy hoa sen xanh đầy nhà, Di Đà, Quán Âm, Thế Chí giáng lâm trên không. Cháu nội là Đại Hưng hầu bên cạnh, thấy thân Phật cao to vượt trỗi thân Bồ Tát. Khi tướng ấy ẩn thì Vương Thị qua đời.

(9) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tề, Pháp Lâm trì hai kinh Vô Lượng Thọ và Quán Âm. Khi tụng liền thấy một sa-môn khôi vĩ, đứng sừng sững trước mặt. Sư bị bệnh, chú tâm niệm Tây Phương, lễ sám không ngừng, thấy các thánh hiền đều nhóm đến. Sư hướng về đệ tử kể những điều đã thấy rồi qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, sư Pháp Nhân tự là Khô Tâm, ngầm dốc lòng nơi Tịnh nghiệp. Trong Định thấy hai vị Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí. Sư viết kệ rằng: “Ngã dữ Di Đà bổn vô nhị, nhị dữ bất nhị tịnh giai ly, ngã kim như thử kiến Di Đà, cảm ứng đạo giao nan tư nghị” (Ta cùng Di Đà vốn chẳng hai, hai với chẳng hai thảy đều lìa, ta nay thấy Phật như vậy đó, cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn). Sư kết ấn, thị tịch.

(10) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Mạnh Thị niệm Phật ba năm, bảo chồng báo với thân thuộc hãy đưa tôi về Tây. Mọi người đến, cùng xướng danh hiệu Phật, thấy một vị sa-môn rung tích trượng trên không, bảo: “Ngươi sẽ vãng sanh”. Trong khoảnh khắc, phan, lọng phất phới, Phật, Bồ Tát đều đến, bèn qua đời.

Lại nữa, Ngô Thị là vợ ông Trương, ăn chay, tu Tịnh nghiệp, mộng thấy Quán Âm dạy hãy quỳ niệm. Mắc bệnh, thỉnh tăng đến trợ niệm ba ngày, nói: “Trên không trung có hòa thượng đưa tay vẫy”. Tăng nói: “Đấy là hai vị Đại Sĩ, hãy nên nhất tâm hướng về”. Bà Ngô liền qua đời an lành.

(11) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, bà cụ Nghê Hiển Chân ăn chay niệm Phật. Trong thôn có tượng Quán Âm, sáng tối cụ đều đến lễ thành kính. Về sau, mấy lần thấy tượng Bồ Tát, liền thị hiện bị bệnh, bảo con: “Mấy lần thấy Bồ Tát gọi mẹ đi”. Đứa con nói: “Bồ Tát đã giáng lâm thì con sẽ vào thành mua rau làm cỗ cúng”. Bà bảo: “Cũng được, chỉ sợ không kịp”. Đứa con trở về thì bà cụ đã ngồi qua đời.

Lại nữa, vào đời Minh, Châu Đình Chương hằng ngày tụng các kinh Di Đà, Quán Âm, Kim Cang, mỗi bộ một lần. Có ai nói gì bèn cười, nói nặng nhẹ, nhục mạ cũng vẫn cười, nói: “Tôi chẳng lìa những việc thường ngày, chẳng dính dáng tham ái, có vậy mà thôi!” Tiết Thanh Minh, ông ra mộ từ biệt tổ tiên, trở về nói: “Di Đà, Quán Âm, Thế Chí cùng đến”. Xong rồi lại nói: “Quán Âm cho ta ăn một củ khoai, bảo ta thôi ăn mặn trong năm ngày mới đi được”. Ngay hôm ấy liền ăn một bữa cháo, một bữa rau, đến kỳ hạn, tụng kinh qua đời. Thân bốc mùi thơm, diện mạo như còn sống.

(12) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Lăng Thị chăm làm lành, hành Đại Bi Sám, lễ Hoa Nghiêm Kinh suốt năm. Buổi tối tụng chú Đại Bi, niệm Di Đà Phật hiệu, cầu sanh Tây Phương. Một hôm Quán Âm Đại Sĩ hiện hình tượng, bà liền thị hiện mắc bệnh, bảo con gái: “Phật quang đầy nhà, ta đi đây”.

Lại nữa, vào đời Thanh, Vương Thị thường tụng phẩm Phổ Môn, niệm Phật cầu cứu độ. Một hôm, thấy Quán Âm Bồ Tát trụ trên không trung, liền lớn tiếng xưng danh Bồ Tát liên tục, nói xong bèn qua đời.

(13) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, phu nhân Phùng Pháp Tín, đứng ngồi, động tịnh luôn quy hướng Tây Phương. Một đêm bảo kẻ hầu rằng: “Ta đã thần thức dạo chơi cõi Tịnh, tận mặt lễ Từ Tôn, nhìn Quán Âm chầu bên trái, thấy Thế Chí chầu bên phải, trăm ngàn vạn ức Phật tử cúi đầu mừng ta được sanh về cõi ấy, cung điện, rừng, ao, quang minh đẹp đẽ thần kỳ, chẳng khác gì Quán Kinh đã nói”, bà niệm Phật, qua đời.

Lại nữa, vào đời Minh, bà Phan Quảng Đàm là vợ ông Lý Dương Xuân. Sau khi Dương Xuân đã mất, về gặp bà Phan trong giấc mộng, lên lầu mở cửa sổ, lớn tiếng bảo: “Phải tu hành, phải tu hành!” Bà Phan lễ ngài Vân Thê làm thầy, học Thiền. Bà bị bệnh, bảo mọi người: “Ta ba đời là Phạn tăng, nay theo Đại Sĩ về Tây”. Xưng niệm danh hiệu Phật chẳng ngớt miệng, co ba ngón tay qua đời. Chân tay, mình mẩy, mềm mại, vẻ mặt như còn sống.

(14) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Tống, vợ Ôn Tĩnh Văn bị bệnh đã lâu, Tĩnh Văn dạy vợ niệm Phật, bà ta nghe theo. Suốt hai năm niệm Phật không ngớt miệng. Một hôm bảo chồng: “Em thấy Tịnh Độ Tam Thánh, ngày sau gặp nhau tại Tây Phương” rồi qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, Hồ Nhân mắc bệnh, Thanh Chiếu luật sư khuyên niệm Phật, ông ta bèn đại cảm ngộ, nhất tâm xưng danh suốt tháng. Về sau, ngài Thanh Chiếu tới thăm, Hồ Nhân nói: “Sao thầy đến chậm thế? Đã phiền Quán Âm, Thế Chí giáng lâm lâu lắm rồi!” Ông ta an nhiên qua đời.

(15) Theo Nhất Hạnh Cư Tập, người xứ Trần An tên là Mộng Nghiêm, thờ Quán Âm Đại Sĩ suốt ba mươi năm. Thoạt đầu nguyện đời sau làm Tăng để làm cơ sở sanh Tây. Bành Nhị Lâm khuyên ông ta hãy sanh thẳng về Tây Phương, do vậy tỉnh ngộ. Về sau, ông ta lễ tượng Đại Sĩ ở cầu Thái Thông quay về, mộng thấy một bà cụ mặc áo lam bảo: “Năm sau, ông chẳng qua được hai ngày này”. Đến kỳ hạn, ngã bệnh, trì chú Đại Bi, chợt liên tục niệm Phật rồi qua đời.

Theo Linh Cảm Phú, cô Chánh Tín là vợ cư sĩ Chánh Pháp ăn chay từ bé, cùng chồng tu Tịnh nghiệp. Lâm chung bảo chồng: “Mau đỡ em ngồi dậy, Quán Âm Bồ Tát đến”. Cô chắp tay đặt lên trán, dốc hết sức niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” rồi qua đời.

(16) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Đào Thiện là vợ Bành Hy Tốc, niệm Phật không thiếu sót. Lâm chung, nói: “Đại hòa thượng đến, ta đi đây”. Về sau, Tịch Căn Đại Sĩ giáng đàn, bảo: “Đào Thị lâm chung chánh niệm, nên cảm Quán Âm đến tiếp dẫn, hoa sen vàng hiện tiền, sanh về thế giới bảy báu nơi phương Tây”.

Theo Linh Cảm Phú, sư Ngọ Đình chuyên trì chú Đại Bi, tu Đại Bi Sám. Sau khi mất, có người chết đi sống lại, nói: “Ngọ Đình đã sanh về Tịnh Độ”.

(17) Di Đà Kinh: “Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng, hiện tại kỳ tiền” (Khi người lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt).

Bất Không Quyến Sách Thần Chú Tâm Kinh: “Lâm mạng chung thời, Quán Tự Tại Bồ Tát tác tỳ-kheo tượng, lai hiện kỳ tiền, hoan hỷ ủy dụ” (Khi mạng chung, Quán Tự Tại Bồ Tát hiện hình tượng tỳ-kheo đến trước mặt, vui vẻ an ủi, khuyên nhủ).

(18) Thập Vãng Sanh Kinh có đoạn văn nói đến mười thứ chánh niệm, hễ thành tựu được một điều lành nào đều được vãng sanh.

Trong Tịnh Độ Cáo Giới có ba điều nghi và ba điều khó vượt qua khi lâm chung. Điều thứ ba là nói: “Ta tuy niệm Phật Di Đà, nhưng lúc lâm chung, sợ Phật không đến tiếp dẫn, do nghi thành chướng, đánh mất chánh niệm, chẳng được vãng sanh. Vì thế, người niệm Phật điều thiết yếu là phải tin chắc vào kinh Phật, đừng sanh ý niệm nghi ngờ”.

Lại nữa, phần Phàm Lệ Phát Khởi của bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có đoạn: “Từ trước đến nay, những người vãng sanh được ghi chép ắt có sự chứng nghiệm rõ rệt. Nhưng các sự ứng nghiệm chưa được nghe tới, phần nhiều bị thiếu sót. Nhưng chẳng thấy hình thì xin hãy xét bóng, chỉ cần tự tâm tịnh thì còn đợi gì mà chẳng sanh? Như các vị tôn túc Tử Các, Thiên Y, Trung Phong, Thiên Như, Diệu Hiệp v.v… các bậc tiền bối như Trần Oánh Trung, Phùng Tế Xuyên, đều có mật nhân (nhân ngầm kín), chánh quả chẳng dối, buông tay liền ra đi, chẳng dời nửa bước, cần gì phải đợi lâm chung hiện tướng rồi mới có thể quyết đoán là họ vãng sanh hay không. Cho nên dẫu không có Phật đến đón, cũng chẳng ngại nhất tâm về thẳng [Cực Lạc]. Nguyện lúc lâm chung, đừng sanh nghi chướng”. Xét ra nhận xét này liên quan đến trường hợp bà Phan Quảng Đàm trong câu tụng thứ 13, co ba ngón tay rồi qua đời, chính là nhằm chỉ điểm bà ta đã chứng Tam Quả rồi vãng sanh. Đối với Sơ Quả, Nhị Quả, Tứ Quả có thể dựa theo đây để suy ra.

2.5.5. Ứng hiện điềm lành

1. Bèn có: Đâu Suất, Thạch Thành, vàng phủ kín đại địa; Tào Khê, Liên Tự, chói rực cả hư không.

2. Tổ Nam, Linh Chiếu, cùng lưu xá-lợi; Nhân Nhạc, Đại Hạnh, sắc thân chẳng hoại.

3. Giúp ông Lữ niệm Phật, nhà đầy ắp hương sen; Kim Thích may bỏ nghề chài, hư không rộn nhạc trời.

4. Mây hồng giăng bủa, dẫn Tư Nghĩa vãng sanh; lọng hoa trang nghiêm, mừng Kiền công thấy trước.

5. Bạch y, anh lạc, Chí Tây lên thuyền trăm báu, quang minh sắc tía, Thường Trí lửa sen rạng ngời.

6. Thiện Nguyệt ghế hiện hoa sen, ảnh tượng chẳng mòn; Đại Vu nhà nẩy linh chi, đỏ vàng đua rạng.

7. Tro áo Vạn Tông, hoảng nhìn thánh tượng phân minh; quần dơ tiết phụ, nở hoa sen sáng ngời.

8. Đốt hòm bà lão nghèo, thân Tam Thánh chói ngời kim sắc. Thiêu áo xống bà Từ, ngọn lửa rực hoa sen năm sắc.

9. Bà Trương, Nhữ Uyển, hương ngập chiên đàn; cô Vương, cô Hoàng, tro tàn sen trổ.

10. Ông Hà thấy phan lọng dập dìu, cô Bùi mừng hoa trời vờn lượn.

11. Cụ Dương hiện đàn hương quanh quẩn, bà Nghiêm nhìn dáng vẻ tươi hồng.

12. Nhận thưởng áo sạch, kính nghe kinh Liên Tổ. Chiếc váy tỏa sáng, hay khéo vượt trỗi Tăng Do.

13. Rạng ngời sắc mây hoa, cả chùa đều hãi; phóng quang minh bạch hào, ngàn đèn soi khắp.

14. Ấy là vì sáu chữ hồng danh, vốn đầy phước đức, nhưng nhất tâm bất loạn, liền sẵn trang nghiêm.

15. Pháp lưu tiếp nối, hải ấn tỏa quang.

16. Bồ Tát tu tập nhiều kiếp đến nay, chúng sanh nhất thời trọn đủ. Đấy chính là chuyện nhiếp độ chúng sanh thứ sáu của Đại Sĩ vậy.

(1) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đời Tùy, ngài Pháp Trí cảm được hai vị Đại Sĩ hiện tướng nơi đài Đâu Suất chùa Quốc Thanh. Về sau, Sư niệm Phật, qua đời, có ánh sáng sắc vàng từ trời Tây chiếu tới, soi sáng cả mấy trăm dặm.

Lại nữa, đại sư Trí Giả lúc lâm chung, trụ tại chùa Thạch Thành, chuyên niệm A Di Đà Phật, Bát Nhã, Quán Âm. Sư bảo đại chúng tụng Vô Lượng Thọ Kinh, quang minh ngập núi, nhạc trời tấu rộn. Tán rằng: “Bốn mươi tám nguyện, trang nghiêm Tịnh Độ, ao hoa, cây báu, dễ đi, không người. Tướng xe lửa hiện, kẻ nhất niệm cải hối, vẫn còn được vãng sanh. Huống người Giới Huệ huân tu? Các thầy và bạn ta, nay theo Quán Âm, Thế Chí, đều đến đón ta”. Nói xong, Sư như nhập tam-muội, kim quang chiếu mấy trăm dặm, dân chài ngỡ là trời đã sáng.

Lại nữa, đời Minh, ngài Hám Sơn về sau trụ tại Tào Khê, thị hiện mắc bệnh nhẹ, bảo mọi người: “Duyên đời sắp hết”, tắm gội, đốt hương qua đời, có ánh sáng chiếu rực trời.

Lại nữa, vào đời Tống, sư Liễu Nhiên trụ tại chùa Bạch Liên, lâm chung viết rằng: “Do sức niệm Phật, được sanh Cực Lạc. Này hỡi mọi người, há chẳng tự gắng?” Lúc Sư mất, thiên nhạc rộn hư không, tường quang chiếu rực trời.

(2) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Tổ Nam thấy Tam Thánh đến đón bèn mất. Giữa chặng mày hiện xá-lợi, lấy đi lại sanh [ra viên xá-lợi mới].

Lại nữa, trong đời Tống, ngài Linh Chiếu tự bảo: “Đã đến kỳ hạn sanh An Dưỡng” rồi mất. Lúc trà-duy (trà-tỳ, hỏa thiêu), mùi hương lạ quyện lấy mọi người, xá-lợi đầy ắp.

Lại nữa, vào đời Tống, Nhân Nhạc đã mất ba mươi năm, mọi người mộng thấy Sư bảo mở khám thờ trong tháp ra. Mở khám thì sắc thân bất hoại, xá-lợi tràn ngập.

Theo Tây Phương Trực Chỉ, đời Đường, ngài Đại Hạnh được vua ban hiệu là Thường Tinh Tấn Bồ Tát. Sau khi mất, mùi hương lạ đọng lại cả mười ngày, nhục thân chẳng hoại.

(3) Theo Thánh Hiền Lục, đời Thanh, Lã Úy Nhược ăn chay, thích bố thí, dốc lòng tu Tịnh nghiệp. Chương Thuyên bỏ nhà [để biến thành chùa], mộng thấy một vị Tăng ngồi xếp bằng trong sân niệm Phật hiệu, hỏi: “[Niệm Phật] để làm gì?” Đáp: “Chẳng mấy bữa nữa, ông Lã sẽ sanh về Cực Lạc, ông chẳng biết hay sao?” Đến lúc thị tịch, mùi hoa sen tỏa khắp buồng ngủ, tự nói: “Phật, Bồ Tát đều đến rồi”, niệm Phật qua đời.

Lại nữa, vào đời Tống, Kim Thích thoạt đầu làm nghề chài, về sau đổi nghề, ăn chay, niệm Phật không thiếu sót. Một hôm, ông Kim nói: “Ta thấy Phật và Quán Âm, Thế Chí”. Hôm sau, lại nói: “Hoa sen vàng đến đón ta” liền mất. Nhạc trời, hương lạ suốt ngày không tan.

(4) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Tư Nghĩa ngồi xếp bằng từ biệt đại chúng qua đời, chợt tỉnh lại nói: “Vừa mới đi theo Quán Âm, thấy người to lớn sắc vàng nói: ‘Báo duyên của ngươi chưa hết, bảy ngày nữa sẽ đến đón”. Đúng kỳ, Sư viên tịch, có mây đỏ giăng bủa, dường như dẫn lối, Sư ngoảnh mặt về Tây ra đi.

Lại nữa, vào đời Tấn, Huệ Kiền trụ tại chùa Gia Tường, tự biết sắp mất, tâm tưởng An Dưỡng, cầu đảo đức Quán Âm. Bà ni ở chùa Bắc là Tịnh Nghiêm mộng thấy ngài Quán Âm từ cửa Tây Quách đi vào, mắt trong veo, dung nhan tươi đẹp, quang minh chói lấp mặt trời, mặt trăng, tràng, phan, lọng hoa, bảy báu trang nghiêm. Bà ni làm lễ, hỏi Bồ Tát đi đâu. Đáp: “Đến đón Huệ Kiền”. Huệ Kiền cũng thấy trước thánh tượng, thị giả đều ngửi thấy mùi hương lạ khi Sư thị tịch.

(5) Theo Cao Tăng Truyện, tập 4, đời Thanh, sư Cơ Phổ tự là Chí Tây. Mẹ ngài mộng thấy người áo trắng trao cho đứa con bèn có thai. Sư chuyên tu Tịnh nghiệp, trì chú Đại Bi, linh ứng rất rõ rệt. Năm Dân Quốc thứ 4 (1915), trong Định, Sư thấy Bạch Y Đại Sĩ khắp thân đeo anh lạc, ngồi thuyền trăm thứ báu to như quả núi, lướt trên hư không đến đón. Sư bèn hướng về Tây niệm Phật qua đời.

Lại nữa, vào đời Thanh, sư Thường Trí thuở bé trông thấy tượng Đại Sĩ, đột nhiên khởi lòng tôn kính. Xuất gia tụng Tâm Kinh, đến câu “tâm vô quái ngại” đột nhiên như được cởi gỡ, bèn chuyên tu Tịnh nghiệp, biết trước lúc mất. Lúc trà-tỳ, có sắc tía như hoa sen từ trong ánh lửa xẹt ra sáng ngời.

(6) Theo Thánh Hiền Lục, đời Thanh, Trầm Thiện Nguyệt là vợ ông Trần, tu Niệm Phật tam-muội, ăn chay, phóng sanh, hằng ngày tụng một quyển [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện, mười lăm biến chú Đại Bi, niệm Phật ba vạn tiếng, mấy chục năm giống như một ngày. Bà mất rồi, trên ghế hiện hoa sen, hiện bóng chẳng diệt.

Lại nữa, vào đời Minh, Tôn Đại Vu mười hai tuổi liền thọ Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, thấy Di Đà, Quán Âm đến đón bèn qua đời. Thoạt đầu, mỗi năm trong nhà trổ nấm Linh Chi[2] đẹp đẽ, sắc như vàng, hoặc như bánh xe màu đỏ hoặc trắng.

(7) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Phan Vạn Tông ăn chay trường niệm Phật. Trên cửa tịnh thất, ẩn hiện hồ lô phóng quang. Ông thị hiện bị bệnh, niệm Phật qua đời. Vợ đốt áo, trong tro tàn hiện ra tượng Tam Thánh, mày mắt phân minh, nếp áo đầy đủ. Lại đốt một cái áo lót, trong tro hiện ra mấy chục chữ to màu đỏ, bị kẻ không hiểu biết quét mất.

Lại nữa, vào đời Thanh, tiết phụ họ Trương ở Thường Thục sống cảnh nghèo, khắc khổ thủ tiết, thờ Quán Âm, nhất tâm niệm Phật, lễ bái không gián đoạn. Về sau bà mất vì bệnh lỵ, cái váy bà mặc rất bẩn, đem quăng xuống sông, chợt hoa sen ngũ sắc sáng ngời mặt nước. Hàng xóm đem giặt sạch, dùng làm màn.

(8) Theo Linh Cảm Phú, trong niên hiệu Chí Thuận đời Nguyên, thành Hàng Châu đói kém, người chết đói sắp lớp. Một bà lão [chết rồi], để cả mười ngày xác chẳng hư, trồi lên các xác khác. Lục trong thân thấy có cất ba bức hình Phật. Người ta mua quan tài, tẩm liệm thiêu hóa. Trong ngọn lửa hiện kim thân Tam Thánh, người niệm Phật càng đông.

Theo Thánh Hiền Lục, đời Thanh, Dương Phất Trai, vợ là Từ Thị ăn chay niệm Phật và chú Đại Bi cầu sanh An Dưỡng. Một hôm bà ta niệm chú, [người nhà] cảm thấy tiếng vang ra ngoài cửa, nhìn lại thì bà ta đã mỉm cười, ngồi qua đời. Trời đang lúc nắng gắt, quàn xác ba ngày mà mặt vẫn như còn sống. Đem thiêu áo xống, ngọn lửa hiện thành hình hoa sen ngũ sắc.

(9) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Dương Thị là vợ ông Trương Trật Tư. Trong khi bị bệnh, bà phát nguyện cầu sanh về Tây, thờ tượng Tiếp Dẫn. Niệm Phật năm ngày, trong phòng ngửi thấy mùi hương chiên-đàn.

Lại nữa, vào đời Thanh, vợ ông Vương Mai là Nhữ Quý Uyển dốc lòng niệm Phật. Bị bệnh nguy ngập, bảo mọi người: “Quán Âm Đại Sĩ đến rồi, ta đi đây”. Chắp tay, tụng chú Đại Bi, [mọi người] liền ngửi thấy hương chiên-đàn tràn ngập trong phòng, bà mỉm cười qua đời.

Lại nữa, đời Tống, con gái nhà họ Vương niệm kinh Kim Cang, niệm Phật, mẹ bị chết, thân chảy máu. Cô phát nguyện, hồi hướng, máu liền thôi chảy. Về sau, lúc cô ta lâm chung, tay nắm lá phan báu thờ trước tượng Quán Âm, qua đời. Người nhà [sau khi thiêu] đem tro đặt trong phòng, hiện ra mấy đóa hoa sen.

Lại nữa, con gái ông Trưởng Sử họ Hoàng hằng ngày tụng phẩm Phổ Môn, Kim Cang Kinh, ngồi niệm Phật qua đời. [Người nhà] theo thói đời, bới tro để đoán cô ta sanh về đâu. Trong tro hiện ra một đóa hoa sen.

(10) Theo Thánh Hiền Lục, đời Tống, Hà Đàm Tích trì Bồ Tát giới, niệm Phật. Lâm chung, thấy Tam Thánh và phan, lọng, hương lạ đến đón, bèn qua đời.

Lại nữa, đời Tống, con gái nhà họ Bùi ở Phần Dương niệm Phật, dùng đậu để đếm số, [số đậu ấy] dồn lại được mười ba thạch[3]. Về sau, cô nói: “Phật, Bồ Tát đón tôi, tôi sẽ vãng sanh”. Hoa trời phơi phới rơi xuống, cô ta bèn qua đời.

(11) Theo Tân Tề Hài, bà cụ Dương sống nương tựa con gái, ở trong một ngôi lầu, thờ tượng Đại Sĩ, tụng kinh không lười nhác. Suốt ba mươi năm chẳng đặt chân xuống đất. Tánh tình từ thiện, hễ nghe tiếng đầy tớ bị đánh đòn liền bàng hoàng không ăn cơm được. Hễ tôi tớ lên lầu liền chia thức ăn của mình cho họ. Trước khi cụ mất ba ngày, lấy chậu rửa chân, bảo: “Ta đi lần này sẽ bước trên hoa sen”. Trong khoảnh khắc, mùi diệu hương chiên-đàn lẩn quẩn trên không trung, cụ ngồi xếp bằng qua đời. Mùi hương đọng suốt ba ngày mới tan.

Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Giang Thị là vợ ông Nghiêm Nhẫn, gà gáy liền dậy, quỳ trước Phật niệm Phật một ngàn tiếng. Tiếp đó, tụng kinh chú. Một hôm đi ngủ, bỗng lớn tiếng kêu: “Quán Thế Âm Bồ Tát đến rồi!” Tắm gội qua đời, vẻ mặt hồng nhuận, chân tay mềm mại.

(12) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Thanh, Tư Ngạn lâm chung bảo mọi người: “Ta đã đích thân đến Tây Phương, thấy Phật và hai vị Đại Sĩ, được Phật ban cho ta tịnh y. Lại thấy Liên Trì đại sư thuyết pháp cho đại chúng”

Theo Thiện Nữ Nhân Truyện, vào đời Minh, u già họ Hoàng thường ăn chay niệm Phật. Trong niên hiệu Vạn Lịch, bị bệnh nặng sắp mất, đem phơi những chiếc váy cũ ở sân. Mười hai chiếc váy ấy chợt hiện thành mười hai bức tượng Quán Âm, mỗi bức khác nhau: rừng trúc, chim két, xen lẫn trong ấy. Qua một ngày đêm liền biến mất thì bà cụ cũng qua đời.

Chí Công hiện tượng Quán Âm mười hai mặt, Trương Tăng Do chẳng thể vẽ được, xin coi lời chú thích thứ nhất trong phần Ứng Hóa.

(13) Theo Thánh Hiền Lục, vào đời Lưu Tống, bà ni Pháp Thịnh tu Thập Lục Quán, dốc chí Tây Phương. Trong khi bệnh tật, nằm nghỉ, thấy Quán Âm Đại Sĩ, mây, hoa, quang minh báu, chiếu sáng ngời khắp chùa. Đại chúng đều kinh ngạc. Pháp Thịnh nói: “Phật, Bồ Tát phóng quang độ tôi”, vui vẻ qua đời.

Lại nữa, đời Đường, bà ni Pháp Tạng sống ở Kim Lăng, niệm Phật. Ban đêm thấy quang minh của Phật, Bồ Tát chiếu sáng chùa liền qua đời.

Lại nữa, đời Tống, Trầm Thị Diệu Trí, ăn chay trường, niệm Phật. Chợt thấy Phật Di Đà đột ngột hiện thân trong không trung, hai vị Bồ Tát và thánh chúng đứng hai bên và vây quanh, phóng bạch hào quang, giống như cái mống dài vắt ngang hư không, ngàn ngọn đèn chiếu khắp. Bà Trầm liền qua đời.

(14) Di Đà Yếu Giải: “Dùng danh hiệu để cảm vời đức, đức chẳng thể nghĩ bàn, cho nên danh hiệu cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do công đức của danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn nên tán tâm xưng danh liền trở thành hạt giống Phật, chấp trì lên Bất Thoái”. Sách còn viết: “Tin một niệm tâm hiện tiền của ta vốn sẵn đủ Cực Lạc. Y báo, chánh báo, chủ, bạn cõi Tây Phương đều là bóng dáng hiện trong một niệm tâm của ta thì sẽ không còn nghi hoặc. Danh hiệu được chấp trì chân thật chẳng thể nghĩ bàn, tâm tánh năng trì cũng chân thật chẳng thể nghĩ bàn. Trì một tiếng thì một tiếng chẳng thể nghĩ bàn, trì mười, trăm, ngàn, vạn vô số tiếng thì mỗi tiếng đều chẳng thể nghĩ bàn”.

(15) Lăng Nghiêm Kinh: “Càn Huệ Địa, vị dữ Như Lai pháp lưu thủy tiếp” (Càn Huệ Địa chưa tiếp nhận được nước từ dòng pháp của Như Lai). Sau đó, kinh còn nói: “Như Lai nghịch lưu, như thị Bồ Tát thuận hành nhi chí, giác tế nhập giao, danh vi Đẳng Giác” (Như Lai ngược dòng, còn Bồ Tát thì thuận dòng mà đạt đến như thế, gặp gỡ nhau ở ngay nơi bờ mé chứng nhập quả giác, nên gọi là Đẳng Giác)[4]. Chú thích: “Nhập giao” chính là tiếp nhận nước từ dòng pháp vậy. Kinh còn chép: “Như ngã án chỉ, hải ấn phát quang” (Như ta nhấn ngón tay, hải ấn tỏa sáng).

(16) Trong kinh Thọ Ký, đức Phật nói: “Hằng hà sa số khả tri, thử Đại Sĩ tiên cúng dường Phật, chủng chư thiện căn, bất khả xưng kế” (Số cát trong sông Hằng còn có thể biết được, chứ vị Đại Sĩ này trước kia đã cúng dường Phật, gieo các căn lành thì chẳng thể tính kể được).

Kinh Bi Hoa cũng chép thái Tử Bất Thuấn (tiền thân của Quán Thế Âm Bồ Tát) và Luân Vương Di Đà cùng ở chỗ Bảo Tạng Như Lai, phát Bồ Đề tâm, giữ lấy cõi Tịnh Độ. Sau hằng hà sa số A Tăng Kỳ kiếp, [thành tựu] thế giới tên là An Lạc. Đủ thấy Đại Sĩ phù tá Phật Di Đà, trang nghiêm thế giới Cực Lạc, trải nhiều kiếp quả thật chẳng thể tính được số. Bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà, hễ chúng sanh vãng sanh đều cùng lúc trọn đủ [bốn mươi tám nguyện ấy].

Ngài Linh Phong nói: “Lấy các thứ trang nghiêm của Phật Di Đà để tăng thượng bản chất, nhờ đó, các thứ trang nghiêm trong tự tâm của chúng sanh được dấy khởi theo, [cho nên] toàn Phật là chúng sanh, toàn Tha chính là Tự vậy”.

1. Từ đấy về sau, hoa nở thấy Phật, mừng đứa con lêu lổng quay về. Quang chiếu lợi sanh, nghe Đại Sĩ thuyết pháp.

2. Quang minh vô lượng, được chiêm ngưỡng tự tánh Di Đà. Rốt ráo như hư không, thật chứng duy tâm Tịnh Độ.

3. Hóa thân vô số, trí lực trọn khắp mười phương. Nhất Sanh Bổ Xứ, đại nguyện thành trong khoảnh khắc.

4. Phàm những công năng của người học, không chi chẳng do Bồ Tát ban cho.

5. Chúng sanh giới tận, cùng về Cực Lạc tiêu dao. Không còn thấy danh hiệu Bồ Tát thì mới là bi tâm viên mãn.

6. Vì thế, Biện Tài thiên nữ tận hết sức chẳng thể tán thán hồng ân. Chép kinh điển nhiều tựa Tu Di, khó xưng dương thánh đức. Riêng thể hiện lòng Từ, rộng tuyên chánh pháp. Hồi hướng cho chúng sanh, nhằm báo đại đức chừng mảy giọt. Tán thán đã hết, xin đặt kệ tiếp (Đoạn này tổng kết sáu môn nhiếp độ chúng sanh và ca tụng chung lòng Từ và ân đức sâu dầy của Đại Sĩ. Ca tụng nhưng chẳng thể nào ca tụng, toan báo đáp nhưng chẳng thể báo đáp, dẫn khởi phần tụng văn trong đoạn kế tiếp, chánh yếu vẫn nhằm khuyến hóa chúng sanh).

(1) Trong bài Hồi Hướng Văn của ngài Từ Vân có câu “hoa khai kiến Phật”. Trong phần ca tụng công đức trang nghiêm của Bồ Tát trong Vãng Sanh Luận, có đoạn: “Vô cấu trang nghiêm quang, nhất niệm cập nhất thời, phổ chiếu chư Phật hội, lợi ích chư quần sanh” (Quang trang nghiêm vô cấu, một niệm và một thời, chiếu khắp các chúng hội, lợi ích các quần sanh).

(2) Theo Vãng Sanh Luận, ánh sáng thanh tịnh viên mãn, trọn đủ giống như gương, hay mặt trời, mặt trăng. Luận còn có câu: “Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé”.

(3) Hạnh Nguyện Phẩm: “Mông bỉ Như Lai thọ ký dĩ, hóa thân vô số bách câu-chi, trí lực quảng đại biến thập phương. Phổ lợi nhất thiết chúng sanh giới” (Được đức Như Lai thọ ký rồi, hóa thân vô số trăm câu-chi. Trí lực rộng lớn khắp mười phương, lợi khắp hết thảy chúng sanh giới).

Di Đà Kinh: “Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí, kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ” (Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí, trong ấy phần nhiều là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ).

Hạnh Nguyện Phẩm: “Ngã ký vãng sanh bỉ quốc dĩ, hiện tiền thành tựu thử đại nguyện” (Ta đã vãng sanh cõi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này).

(5) Hạnh Nguyện Phẩm: “Nãi chí hư không thế giới tận, chúng sanh cập nghiệp phiền não tận, như thị nhất thiết vô tận thời, ngã nguyện cứu cánh hằng vô tận” (Cho đến hư không thế giới tận, chúng sanh và nghiệp phiền não hết, hết thảy như thế chẳng cùng tận, nguyện tôi rốt ráo luôn vô tận).

Viên Giác Kinh: “Đối ly huyễn cấu, thuyết danh Bồ Tát. Cấu tận, đối trừ, tức vô đối cấu, cập thuyết danh giả” (Sự nhận thức không còn vướng vào cấu trần (phiền não) phân biệt hư vọng thì gọi là Bồ Tát; khi đã không còn có phiền não, dứt trừ sự nhận thức đối đãi thì chính là không còn có sự nhận thức, không còn phiền não, cũng như không còn có những danh xưng ấy)[5]. Chú thích: “Đối cấu” là Bồ Tát. “Cấu tận, đối trừ” là Phật.

(6) Hạnh Nguyện Phẩm: “Các dĩ xuất quá Biện Tài thiên nữ vi diệu thiệt căn, nhất nhất thiệt căn xuất vô tận âm thanh hải, nhất nhất âm thanh, xuất nhất thiết ngôn từ hải, xưng dương tán thán Như Lai chư công đức hải, vô hữu cùng tận” (Mỗi vị đều hiện tướng lưỡi vi diệu hơn lưỡi của Biện Tài thiên nữ, mỗi lưỡi phát ra biển âm thanh vô tận. Mỗi một âm thanh vang ra hết thảy biển ngôn từ để xưng dương, khen ngợi biển các công đức của Như Lai chẳng có cùng tận).

Kinh còn chép: “Bác bì vi chỉ, tích cốt vi bút, thích huyết vi mặc, thư tả kinh điển, tích như Tu Di” (Lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, trích máu làm mực, biên chép kinh điển, chất như núi Tu Di).

III. Kết luận – khuyên lơn – hồi hướng

Trong phần này chia thành ba đoạn:

1. Đoạn đầu gồm sáu bài kệ, dùng thí dụ thứ nhất trong kinh Pháp Hoa để tổng kết phần chánh yếu của tụng văn.

2. Đoạn thứ hai gồm mười bài kệ, dùng mười tâm trong Đại Bi Chú Kinh để khuyến tấn hành giả.

3. Đoạn cuối cùng là bài kệ tam hồi hướng.

Đấng Viên Thông Đại Sĩ, công đức thật vòi vọi. Giúp Thọ Phật đã lâu, bèn có hiệu Đại Bi, nghĩ chín, xét kỹ càng, lòng bi há ai bằng, tâm đau, gan tan nát, hối chẳng thể theo kịp.

Đời Minh, Châu Cẩn viết trong bài Đại Bi Điện Ký như sau: “Người trông thấy tượng này hãy nên nhất tâm suy xét kỹ, vì sao Phật thương xót con người, cũng như vì sao Phật động lòng Bi”.

Kinh Pháp Hoa có nói, con thơ bỏ trốn đi, cha thương, đuổi theo gọi, hiện vẻ oán, kêu gào, như mặt trời mới mọc, chiếu sáng núi cao trước (đoạn này nhằm kết lại đoạn lớn thứ nhất trong phần chánh yếu của tụng văn: Đại Sĩ trải nhiều kiếp thuyết pháp độ sanh mà đến nay chúng ta vẫn chưa ngộ).

Theo phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa, ví như có người tuổi còn thơ dại, bỏ cha trốn đi, ở nơi nước khác lâu ngày tuổi đã năm mươi. Tuổi đã cao rồi, lại càng túng quẫn, rong ruổi, lê la bốn phương để cầu cơm áo. Làm mướn lần hồi, đi qua nhà cha, dõi trông thấy cha mình ngồi trên giường sư tử, các thứ trang hoàng, oai đức đặc biệt tôn quý. Gã con nghèo nghĩ: “Đây chắc là một vị vua”, bèn nhanh chóng rời khỏi. Khi ấy, ông trưởng giả giàu vừa nhìn biết ngay gã ấy là con mình, liền sai người bên cạnh gấp rút đuổi theo, bắt về. Đứa con nghèo cùng kinh ngạc, lớn tiếng kêu van. Ngài Hám Sơn nói: “Đây là sánh ví hàng Nhị Thừa sợ hãi sự việc Đại Thừa trong hội Hoa Nghiêm”. Nhị Thừa tự hối chưa thể ngộ nhập trong hội Hoa Nghiêm, nhưng bọn ta được Đại Sĩ trải nhiều kiếp thuyết pháp, cho đến nay vẫn chưa thể ngộ nhập, chẳng đáng buồn ư? “Chiêu” (昭) nghĩa là sáng[6]. Do mặt trời chiếu vào [núi cao] trước, nên nó được sáng trước.

Thay đổi mặc áo bẩn, ngầm cầm đồ dọn phân, vào cõi tục độ sanh, gởi thân nơi Bạch Hoa, để gần gũi lũ con, ứng hiện nhằm Đồng Sự (Đoạn này ca tụng đoạn lớn thứ hai trong phần chánh của tụng văn, tức đoạn văn nói về sự thị hiện).

Theo phẩm Tín Giải, khi ấy, ông trưởng giả muốn dẫn dụ đứa con liền cởi bỏ anh lạc, bỏ áo sang quý mềm mịn và những vật trang sức, đổi sang mặc áo thô xấu, dơ bẩn, tay cầm đồ dọn phân để thuận tiện gần gũi con mình. Bổ Đát Lạc Ca, cõi này dịch là Bạch Hoa, chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, tức Phổ Đà.

Phẩm Hiền Thủ của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Chúng sanh khổ lạc, lợi, suy đẳng, nhất thiết thế gian sở tác pháp, tất năng ứng hiện đồng kỳ sự, dĩ thử phổ độ chư chúng sanh” (Chúng sanh khổ, vui, lợi, suy, thảy, hết thảy những pháp thế gian làm, đều hay ứng hiện hòng đồng sự, dùng đó phổ độ các chúng sanh).

Cứu khổ, ban vui, cần gì liền cho, như cha, như con, tình ngang thiên luân, vẫn ở chỗ mình, chẳng thoát vòng khổ (đoạn này kết lại đoạn văn cứu khổ ban vui)

Theo phẩm Tín Giải, sau đó, ông trưởng giả lại bảo: “Ngươi thường làm việc ở nơi đây, đừng đi qua chỗ khác nữa. Ta sẽ tăng lương cho ngươi, cấp tất cả những thứ cần dùng, đừng tự ngờ vực. Ta cũng có kẻ hầu già cả, vụng về, nếu ngươi cần, ta sẽ ban cho ngươi. Ta như cha ngươi, đừng lo âu nữa”. Khi ấy, trưởng giả bèn đặt tên cho hắn, gọi là con. Khi ấy, gã nghèo tuy vui mừng trước sự đãi ngộ ấy, nhưng vẫn ở chỗ hắn.

Lăng Nghiêm Kinh: “Nhữ ngã đồng khí, tình quân thiên luân” (Ta cùng với ngươi cùng một khí huyết, tình ngang mức thiên luân)[7].

Được liếc nhìn Phật tạng, của cải đầy ăm ắp, chẳng ăn được cỗ vua, trọn đành đói khát đạo, một môn Niệm Phật này, dễ hành nhưng khó tin (đoạn này nhằm kết lại đoạn văn nói về việc hoằng pháp. Không niệm Phật chính là dẫu đắc Thiền Định cảm thông, vẫn khó thể liễu thoát).

Theo phẩm Tín Giải, trưởng giả bảo đứa con nghèo cùng: “Ta nay có nhiều vàng bạc, trân bảo, kho lẫm đầy ắp, bao nhiêu thứ trong ấy đáng nên trao cho ngươi, ngươi phải biết rõ, hãy nên gắng dụng tâm, đừng để mất mát”. Đứa con nghèo liền vâng lời răn dạy, nhận lãnh, hiểu rõ các vật, vàng, bạc, trân bảo và các kho lẫm, nhưng không có ý niệm mong lấy một vật nào có giá trị dù chỉ bằng một bữa ăn.

Chứng Đạo Ca: “Đói gặp cỗ vua chẳng thể ăn”[8].

Phẩm Vấn Minh của kinh Hoa Nghiêm có câu: “Như nhân thiết mỹ thiện, tự ngạ nhi bất thực, ư pháp bất tu hành, đa văn diệc như thị” (Như người bày cỗ ngon, tự chịu đói chẳng ăn, chẳng tu hành nơi pháp, nghe nhiều cũng giống vậy).

Đại chí thành tựu, gánh vác Phật đạo, hiểu rõ Tịnh Độ, chẳng lìa tự tâm, gọi là “bảo tạng, tự nhiên đưa đến” (đoạn này tổng kết đoạn văn nói về sự nhiếp độ chúng sanh).

Theo phẩm Tín Giải, lại qua một thời gian ngắn, cha biết ý con đã dần dần thông suốt, thành tựu đại chí, bèn bảo con rằng: “Nay tất cả hết thảy tài vật của ta đều là của con. Những gì thu vào, phát ra trước nay con đều biết cả”. Khi ấy, đứa con nghèo nghe cha nói lời ấy, liền hết sức hoan hỷ: “Tâm ta vốn chẳng có mong cầu gì, nay kho báu này tự nhiên đưa tới”.

Trong Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, ông Bành Nhị Lâm đã viết: “Liễu tri hết thảy chư Phật chẳng lìa tự tâm, vì tự tâm thường có hết thảy chư Phật thành Chánh Giác. Liễu tri hết thảy cõi Phật chẳng lìa tự tâm vì tự tâm đầy đủ hết thảy cõi Phật trang nghiêm. Liễu tri chúng sanh nhất niệm niệm Phật, quyết định thành Phật, vì hết thảy Phật do niệm lực mà thành. Liễu tri chúng sanh phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, quyết định sanh về Tịnh Độ, vì hết thảy cõi là do nguyện lực hiện”.

Đã ưa thích tịnh, hãy nên chán nhơ. Rộng dẹp các khổ, đừng tham tự vui, mười tâm Đại Sĩ quyết chứng Diệu Giác. Một, đại từ bi, chúng sanh nên học. (Trong mười tâm, tâm thứ nhất là tâm từ bi).

Thập Nghi Luận: “Kẻ muốn quyết định sanh về Tây thì phải trọn đủ hai thứ hạnh, một là yếm ly hạnh (hạnh nhàm chán), hai là hân nguyện hạnh (hạnh vui ưa, mong muốn)”. Đối với hai câu “dẹp khổ” xin xem trong lời chú thứ năm của phần liên quan.

Phật tánh của chúng sanh, có đầy đủ vạn năng, tại phàm chẳng hề giảm, nơi thánh cũng chẳng tăng. Bản lãnh của Đại Sĩ, ta cũng quyết đạt được. Cái tâm bình đẳng ấy, lớn nhưng chẳng kiêu căng (thứ hai, tâm bình đẳng).

Khởi Tín Luận: “Tướng tự thể của Chân Như nơi hết thảy phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật chẳng có tăng giảm, chẳng sanh trong tiền tế, chẳng diệt trong hậu tế, rốt ráo thường hằng. Từ xưa đến nay, tự tánh trọn đủ hết thảy công đức, nghĩa là: Tự thể mang ý nghĩa quang minh đại trí huệ, ý nghĩa chiếu khắp pháp giới, ý nghĩa hay biết chân thật, ý nghĩa tự tánh tâm thanh tịnh, ý nghĩa thường lạc ngã tịnh, ý nghĩa thanh lương bất biến tự tại, đầy đủ Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn nhiều hơn cát sông Hằng như thế, cho đến trọn đủ những ý nghĩa không thiếu sót chút nào”.

Theo Hoa Nghiêm Hợp Luận, từ địa vị phàm phu, tin rằng tam-muội của chư Phật, tin rằng thần thông của chư Phật, tin rằng trí huệ của chư Phật, các công đức từ bi tự tại của chư Phật v.v… ta cũng sẽ đạt được!

Hết thảy hữu vi, mộng, huyễn, bọt, bóng, cái thân phù du, bóng dâu xế tà, mau hiểu vô vi, thời thời tự tỉnh (thứ ba, tâm vô vi)

Kim Cang Kinh: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc như điển. Ưng tác như thị quán” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp. Hãy nên quán như thế).

Theo sách Hoài Nam Tử, con phù du sáng sanh, tối chết. Cũng theo sách Hoài Nam Tử, mặt trời ngả bóng trên ngọn cây thì gọi là “tang du”.

Đại Bi Kinh: “Nguyện ngã tốc hội vô vi xá” (Nguyện tôi mau lên nhà Đại Bi).

Oai thế ắt mất, thân thuộc ắt lìa, than ôi rễ ái, giữ mãi chẳng rời, xót thay tam giới, ái niệm buộc ràng, ai không nhiễm trước, là thầy trời người (thứ tư, tâm không nhiễm trước)

Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm: “Thị nhân lâm mạng chung thời, nhất thiết thân thuộc, tất giai xả ly, nhất thiết oai thế, tất giai thoái thất” (Người ấy lúc lâm chung, hết thảy thân thuộc đều phải lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều lui mất).

Viên Giác Kinh: “Đương tri luân hồi, ái vi căn bản” (Nên biết: Ái chính là căn bản của luân hồi).

Trong Lô Phước Trí Truyện, ngài Linh Phong đã viết bài tán: “Buồn thay tam giới! Ái dục làm rễ, chẳng trừ cội rễ, mong chi sanh Tây!”

Kinh Viên Giác còn dạy: “Dục thoát sanh tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát” (Muốn thoát sanh tử, tránh khỏi các nẻo luân hồi thì trước hết phải đoạn tham dục và trừ lòng khao khát yêu mến).

Tinh thần lìa hình, hài cốt về cội, Tứ Đại ly tán, Ngã còn sao được? Không Quán phá chấp, là nguồn giải thoát (thứ năm, tâm Không Quán)

Liệt Tử: “Tinh thần lìa hình, đều trở về với chân thật. Hơn nữa, tinh thần nhập môn thì hài cốt phản căn, ta còn đâu nữa?” (“Nhập môn” là trở về với trời, “phản căn” là trở về với đất).

Viên Giác Kinh: “Ngã kim thử thân, Tứ Đại hòa hợp, sở vị phát, mao, trảo, xỉ, bì, nhục, cân, cốt, tủy, não, cấu sắc, giai quy ư Địa. Thóa, thế, nùng, huyết, tân dịch, diên mạt, đàm, lệ, tinh khí, đại tiểu tiện lợi, giai quy ư Thủy. Noãn khí quy Hỏa. Động chuyển quy Phong. Tứ Đại các ly, kim giả vọng thân đương tại hà xứ?” (Cái thân này của ta do Tứ Đại hòa hợp. Nghĩa là: Tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, cốt, tủy, não, hờm đều quy về Địa. Mũi rãi, mủ, máu, chất lỏng, nước miếng, đàm, nước mắt, tinh khí, đại tiểu tiện đều quy về Thủy. Hơi nóng quy về Hỏa. Sự động chuyển quy về Phong. Tứ Đại chia lìa, khi ấy cái thân huyễn vọng hiện thời sẽ ở chỗ nào?)

Tuy quán chư Phật, và chúng sanh Không, lễ bái, cúng dường, ắt kính, ắt thành, giống như Phật thật, vừa yêu, vừa sợ, Phật từ kính khởi, đừng lười tâm đầu (thứ sáu, tâm cung kính)

Duy Ma Kinh: “Tuy tri chư Phật quốc, cập dữ chúng sanh không, nhi thường tu Tịnh Độ, giáo hóa ư quần sanh” (Tuy biết các cõi Phật, và chúng sanh rỗng không, nhưng thường tu Tịnh Độ, giáo hóa bọn quần sanh).

Luận Bảo Vương: “Một hương, một hoa, một ngọn đèn, một tiếng nhạc và các thứ thức ăn dốc hết lòng dâng cúng tam thế chư Phật. Đấy chính là cái nhân mầu nhiệm của Tịnh Độ, là cội nguồn ban đầu để thành thánh, há  nên khinh dễ chuyện này? Nếu nghe nói ‘không lễ kính, hiến tâm hoa, thắp tâm đăng, đốt tâm hương, lễ tâm Phật’ thì có khác gì dùng sự khéo léo của khỉ, vượn, giữ lấy ước mộng rừng mơ ư? Hãy bảo bọn họ hãy mặc tâm y, hãy ăn tâm phạn (cơm trong tâm) thì họ sẽ tận lực cự tuyệt ‘chẳng thể làm được!’ Sao lại riêng đối với lục độ, vạn hạnh lại xếp vào cái tâm Không Kiến vậy?”

Niệm Phật Trực Chỉ: “Nếu đối với tượng của một đức Phật và hai vị Bồ Tát mà nghĩ thần thông, nguyện lực [của những tượng ấy] giống hệt như chân thân của Phật thì lạy sẽ linh, cầu ắt ứng, có sai biệt gì đâu? Há nên coi những tượng ấy là đất, gỗ, keo, sơn, thếp vàng, chẳng xem là vị Phật thật sự đại nguyện tướng hảo ở Tây Phương Cực Lạc ư? Ấy là vì lòng Từ của Phật trọn khắp, từ nơi thân vô nhị, thuận theo căn cơ mà ứng hiện, chỉ bày lẽ Chân, chỉ bày sự hóa hiện, hoặc hiện hình tượng; mắt ta do nghiệp chướng sâu nặng, đối với một pháp mà [mỗi người] thấy sai khác, đối với chân thân của Phật mà bảo là hình tượng. Tượng ấy có phải thật sự là tượng ư? Vì thế đối với thuyết ‘chân thân [của Phật] và hình tượng giống hệt như nhau’, người học đừng sanh kiến giải khác lạ. Hãy nên như kẻ ăn xin được gần gũi đế vương, vừa yêu, vừa sợ, khát ngưỡng được vua tiếp nhận, bao dung, để cầu được thoát lìa vậy”.

Phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhất thiết hóa Phật, tùng kính tâm khởi” (Hết thảy các hóa Phật do tâm cung kính mà có).

Chúng sanh đông đảo, là Phật vị lai, phụ mẫu, sư trưởng, thoạt chìm thoạt nổi, trong vết xe cạn, kêu cầu cứu vớt, tiếng rè, sức kiệt, cớ sao nung nấu, ăn thịt, chẻ xương. Tâm khiêm hạ ấy, đừng nên trái vượt (thứ bảy, tâm khiêm hạ).

Trong kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát lễ bái, tán thán tứ chúng, thọ ký khắp mọi người đều là Phật.

Phẩm Thập Vô Tận Tạng kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Ngã vô thủy thế lai, dữ chư chúng sanh, hỗ tác phụ, mẫu, huynh, đệ, tỉ, muội, nam, nữ, bất tương hộ tích, cánh tương sát hại. Thử vô tàm hạnh, hà do hành bất chỉ? (Ta từ vô thủy đến nay cùng với các chúng sanh lần lượt làm cha mẹ, anh em trai, chị em gái, con trai, con gái, chẳng che chở, thương tiếc nhau, mà lại sát hại lẫn nhau. Sao cứ hành mãi không dứt hạnh chẳng hổ thẹn ấy?)

Theo sách Trang Tử, Trang Châu thấy trong vết bánh xe có con cá diếc, nói: “Sao ông không dùng một thưng nước để cứu sống tôi?”[9]

Thơ Tào Thực có câu: “Vốn cùng một cội sanh, nấu nhau sao quá gấp?”[10]

Tam nghiệp thanh tịnh, nhất tâm hướng về, đoạn ý tạp loạn, lìa Kiến Thủ tưởng, dù Giáo hay Thiền, pháp môn chẳng hai, Đạo Tổ[11] chuyên tu, cao sơn ngưỡng mộ (thứ tám, tâm không nhiễm loạn; thứ chín, tâm không kiến thủ).

Trong bài Niệm Phật Tụng của ngài Thảo Am có đoạn: “Thề tu tam phước, siêng lục niệm. Thân, miệng, ý nghiệp không tỳ vết. Con nay dùng đấy niệm Di Đà, chưa thấy Di Đà, trọn chẳng chán”.

Ngài Hám Sơn nói: “Phàm khi niệm Phật, trước hết phải đem những ý niệm tạp loạn trong lòng mình cùng lúc bỏ xuống hết, buông đến chỗ không gì để buông được nữa. Chỉ đơn độc khởi lên một câu A Di Đà Phật, rành mạch phân minh, trong tâm chẳng gián đoạn, như chỉ xâu các hạt châu, trong ấy không có một mảy kẽ hở nào, trong hết thảy chỗ, chẳng bị cảnh duyên lôi kéo làm mất [ý niệm niệm Phật], trong động tịnh, sinh hoạt thường nhật, chẳng nhiễm, chẳng loạn thì đến khi lâm chung sẽ là lúc siêu sanh Tịnh Độ”.

Ngài Ngẫu Ích dạy: “Người niệm Phật kỵ nhất là hôm nay Trương Tam, bữa mai Lý Tứ. Gặp người thuộc Giáo Hạ lại tính tầm chương trích cú. Gặp người thuộc Tông Môn lại tính tham cứu vấn đáp. Đấy chính là chẳng rõ đầu đuôi, không rành manh mối! Chẳng biết niệm A Di Đà Phật thuần thục thì những giáo lý cùng tột trong Tam Tạng mười hai bộ kinh đều nằm trong [câu niệm Phật] ấy; một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy. Bước đầu tiên thực hiện thì phải dùng xâu chuỗi, nhớ cho phân minh, lập thời khóa cố định, quyết định chẳng thiếu sót. Nếu vừa mới phát tâm liền muốn chẳng chấp vào tướng, muốn học viên dung tự tại thì nói chung là tin chẳng sâu, hành chẳng dốc sức! Dẫu cho ông giảng được mười hai phần Giáo, hiểu thấu một ngàn bảy trăm lời chuyển ngữ thì đều là chuyện thuộc bên bờ sanh tử. Lúc lâm chung quyết chẳng sử dụng được đâu!”

Trong Thiện Đạo Tổ Sư Truyện, phần luận về hai lối Chuyên Tu và Tạp Tu có đoạn:

“Hỏi: Vì sao chẳng dạy quán tưởng mà lại dạy hãy trực tiếp chuyên xưng danh hiệu?

Đáp: Chúng sanh chướng nặng, cảnh tế, tâm thô, thức trôi nổi, tâm thần bềnh bồng, khó quán thành tựu. Do vậy, Đại Thánh thương xót, khuyên dạy thẳng thừng hãy chuyên xưng danh hiệu, ấy là vì xưng danh dễ dàng, hễ liên tục bèn vãng sanh. Nếu có thể niệm niệm tiếp nối, lấy hết mạng làm kỳ hạn, mười người niệm, mười người vãng sanh, trăm người niệm, trăm người vãng sanh. Vì sao vậy? Do bên ngoài không có tạp duyên nên đắc chánh niệm, do tương ứng với bổn nguyện của Phật, do chẳng trái nghịch lời dạy, do thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên niệm để tu những tạp nghiệp thì trong trăm kẻ hiếm được một hai, trong ngàn kẻ hiếm được ba bốn”.

Vì Bồ Đề đạo, cầu sanh Tịnh Độ, thân cận Như Lai, đích thân phù tá, mau đạt Phật thừa, uống mãi pháp nhũ, đại Bồ Đề tâm, tròn sáng chiếu khắp (thứ mười, đại Bồ Đề tâm).

Trong Hồi Hướng Văn của ngài Từ Vân có câu: “Vì Bồ Đề đạo, cầu sanh Tịnh Độ”. Lại còn có câu: “Liền nghe Phật thừa, mau khai Phật huệ”.

“Pháp nhũ”: Ý nói dùng chánh pháp để nhuần thấm, trưởng dưỡng Pháp Thân, như mẹ cho con bú.

Pháp Hoa Kinh: “Trí quang viên mãn, phổ chiếu nhất thiết” (Ánh sáng trí huệ viên mãn, chiếu khắp hết thảy).

Mười thứ tâm ấy, tướng mạo đại bi, bọn chúng sanh ta, phải nên học theo, chiếc thuyền xuất thế, mái chèo độ người, lớn thay Phật ân, to thay thánh giáo (tổng kết mười tâm). 

Đối với hai câu trên đây xin xem lời chú thứ ba trong đoạn thứ năm của phần ca tụng kinh Đại Bi Chú. Kinh Thi: “Quân tử thị tắc, thị hiệu” (Phải noi theo gương của người quân tử)[12].

Hổ Khê tôn giả nói: “Chỉ một câu Di Đà này là thuyền lớn vượt biển khổ. Chỉ một câu Di Đà này là đường tắt thoát tam giới”.

Đại Sĩ bổn tích, chiếu ngời đường tu, trong thời mạt kiếp, chỉ thẳng đường chánh, không ngõ rẽ ngang, công đức khuyến hóa của tụng văn này, chỉ Phật chứng biết. Nguyện hồi hướng trọn, cùng chứng Bồ Đề (Bốn câu đầu nhằm tổng kết toàn bộ tụng văn, hai câu kế tiếp cầu Phật chứng minh. Hai câu cuối chính là tam hồi hướng

Hoa Nghiêm Hạnh Nguyện Phẩm Sớ: “Phổ giai hồi hướng chính là nói về sự hồi hướng chúng sanh, làm cho họ thành Bồ Đề chính là hồi hướng Bồ Đề. Phổ chính là hết thảy chúng sanh trong tận pháp giới, hư không giới, đấy chính là hồi hướng Thật Tế”.

Phụ Lục:

Đời Thanh, trong tháng Sáu năm Đồng Trị thứ 7 (1868), giặc Hồi[13] kéo đến vùng làng quê ở Tây Nam huyện Cáp Dương. Trong niên hiệu Hàm Phong (1851-1861), người ta đã đào sẵn hầm nơi vách đá dựng (địa phương ấy không có núi, nhưng có khe sâu). Chợt nghe giặc kéo đến, các nơi đều ôm lương khô vào ẩn trong hang, nhưng nước không có một giọt, đã ba bốn ngày, ai nấy sắp chết khát. May mà trời rét căm căm, đến nỗi đổ tuyết lớn, tuyết ở những chỗ tối tăm đã dày đến hai tấc. Do vậy, người ta không bị khát. Nếu không, người ở quê tôi ắt sẽ chết sạch. Cơn binh kiếp ấy là do ác nghiệp đồng phận của chúng sanh cảm thành, nếu không được Bồ Tát vô duyên đại từ, đồng thể đại bi cứu vớt, che chở, há chẳng chết sạch cả sao?

Thích Ấn Quang ghi.

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 3, phần 3 hết

 

[1] Ở đây, người sao chép hay san khắc đã ghi sai tên vị này thành Tư Tán (思贊), trong phần sau Tụng Văn cũng như sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều chép là Sư Tán (師贊) nên chúng tôi sửa lại cho khớp.

[2] Linh Chi là tên một loại nấm (Ganoderma Lucidum), được coi là có dược tính thần kỳ giúp con người tráng kiện, trẻ lâu. Có nhiều loại Linh Chi, nhưng nói chung Linh Chi có hình dạng như quả cật, bẹt, phẳng, sắc nâu đỏ, có rìa màu vàng nhạt. Nói chung, dược tính của Linh Chi chưa hề được chứng minh cụ thể qua các khảo sát khoa học nào. Linh Chi rất mắc tiền chỉ vì các sách cổ mô tả Linh Chi như một vị thuốc vô song. Chẳng hạn, sách Thần Nông Bản Thảo cho rằng: “Linh Chi vị đắng, tính trung, không độc, chữa các bệnh đau ngực mãn tính. Tăng trưởng khí huyết lưu thông, nhuận thần… Dùng lâu ngày sẽ khiến thân nhẹ nhàng, không già, tăng thọ….”

[3] Thạch là đơn vị đo lường (đúng ra phải đọc là Đàm, nhưng từ trước đến nay ta vẫn quen đọc là Thạch). Nếu tính theo dung tích thì một Thạch là một trăm Thăng (mỗi Thăng là một lít), còn nếu xét theo đơn vị cân nặng thì một Thạch là 120 cân, tức 72 kg.

[4] Pháp sư Viên Anh giảng đoạn này như sau: “Thỉ giác trở về nguồn, hợp nhất với Bổn Giác, đắc tướng thanh tịnh nơi trí, bèn hòa nhập với Thập Địa. Trong địa vị này, Bồ Tát thấu hiểu Thỉ Giác, trí huệ ngang bằng với quả Diệu Giác của Như Lai, cùng phá được sanh tướng giống như Phật. Nói ‘Như Lai nghịch lưu’ có nghĩa là Như Lai nhân viên quả mãn, chứng đắc Niết Bàn quả hải, do chẳng bỏ chúng sanh nên thả chiếc bè từ, ngược dòng Niết Bàn [để vào tam giới], thị hiện tu nhân chứng quả. Đấy là nói về đoạn quả. Nếu nói theo phương diện trí quả thì Bồ Tát tiến nhập Bồ Đề giác quả, ngay trong lúc ấy đôi bên gặp gỡ nhau nơi bờ mé quả giác nên nói “giác tế nhập giao”.

[5] Chúng tôi dịch câu này theo cách pháp sư Văn Châu diễn giải lời giải thích trích từ bộ Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh Lược Sớ (do ngài Tông Mật soạn).

[6] Đây là lời giải thích ý nghĩa chữ Chiêu trong nguyên văn lời tụng: “Thí nhật sơ xuất, cao sơn tiên chiêu” (Ví như mặt trời vừa mới mọc, núi cao được chiếu sáng trước).

[7] Đây là lời Phật nói với ngài A Nan trước khi gạn hỏi bảy lần để chỉ dạy cái tâm. Theo pháp sư Thành Quán trong bộ Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Quán, câu này có hai cách hiểu:

1. Hiểu theo nghĩa thông tục, chấp trước của thế gian (mà tượng trưng là ngài A Nan) thì Phật và A Nan có là anh em con chú con bác, mối quan hệ cùng tổ tiên huyết thống ấy gọi là “thiên luân” (khác với “nhân luân” là mối quan hệ xã hội do kết hôn mà có). Thân tình như thế, lẽ nào, những điều ta biết, ta lại không dạy cho ngươi?

2. Hiểu theo một mức độ cao hơn, đức Phật quở trách ngài A Nan đã ỷ y vào mối quan hệ theo cách nhìn phàm phu để rồi không chịu tu học. “Đồng khí” có nghĩa là ta và ngươi cùng sẵn tự tâm trọn đủ Phật tánh, ta với ngươi cùng có khả năng thành Phật giống hệt như nhau. “Thiên luân” không phải là quan hệ họ hàng thân tộc mà là mối quan hệ giữa Phật và chúng sanh. Nay ngươi là đương cơ, do khí phận phàm phu chưa giác ngộ, ta là đấng đã giác ngộ thì phải làm sao cho ngươi được giác ngộ. Quan hệ giữa ta và ngươi là quan hệ giữa người đã giác và kẻ chưa giác, ta chỉ có thể hướng dẫn ngươi chứ không thể trao sự giác ngộ của ta cho ngươi được. Đức Phật nói lời ấy để dứt tuyệt những chấp trước tình cảm thân tộc hẹp hòi để ngài A Nan tự tỉnh ngộ, lắng lòng quán chiếu cái tâm.

[8] Đây là một thí dụ khác trong kinh Pháp Hoa. Trong phẩm Thọ Học Vô Học Ký, các vị Thanh Văn bày tỏ ý nguyện được đức Phật thọ ký rõ ràng rằng họ sẽ thành Phật, vì tuy đã nghe thọ ký “ai nấy đều có thể thành Phật”, nhưng họ vẫn chưa dám tin chắc chính mình sẽ thành Phật, giống như kẻ đói trông thấy cỗ bàn của hoàng đế bày sẵn, nhưng vua chưa ban lệnh ăn thì chẳng dám tự tiện ăn. Đáp lời cầu thỉnh, Phật lần lượt thọ ký cho các vị Thanh Văn.

[9] Đây là một câu chuyện ngụ ngôn trong thiên Ngoại Vật của sách Trang Tử: Trang Châu (Trang Tử tên thật là Châu) nhà nghèo, cho nên đến vay gạo của Giám Hà Hầu. Giám Hà Hầu nói: “Ờ! Ta sắp thâu được món tiền [thuế] từ thái ấp, ta sẽ cho ngươi vay ba trăm lạng vàng, được chăng?” Trang Châu lộ vẻ giận dữ nói: “Ngày hôm qua, Châu đi đường, nghe có tiếng gọi. Châu nhìn thì thấy trong vết bánh xe có con cá diếc ngoi ngóp, Châu hỏi: ‘Cá diếc ơi! Ngươi bị gì thế?’ Cá nói: ‘Vâng! Ông có thể dùng một đấu nước để cứu sống tôi hay không?’ Châu đáp: ‘Ờ! Đợi ta đi xuống miền Nam thăm vua Ngô, vua Việt, rồi đem nước Tây Giang về cứu ngươi, được chăng?’ Con cá diếc giận dữ nói: ‘Tôi bị sa chân lỡ bước, không nơi nương tựa. Tôi chỉ cần có một đấu nước là thoát chết rồi. Chứ như lời ông thì chắc ông sẽ sớm tìm thấy tôi trong sạp cá khô ngoài chợ!”

[10] Tào Thực và Tào Phi là con của Tào Tháo (Tào Phi là anh cả). Tào Thực nổi tiếng thông minh, có tài làm thơ rất giỏi, ứng đối nhanh nhạy, nên được cha yêu mến, khen ngợi, các danh sĩ đều ca ngợi tài văn chương, khiến Tào Phi vừa ghen ghét vừa nghi kỵ Tào Tháo sẽ nhường ngôi cho Tào Thực. Vì thế, sau khi cha mất, Tào Phi thường kiếm cớ giáng tội để xử chết em trai. Trong một buổi tiệc, Tào Phi hạ lệnh Tào Thực phải làm xong một bài thơ trong bảy bước chân; trái lệnh sẽ chém đầu. Nghe lệnh, Tào Thực bi phẫn vạn phần, trong bảy bước chân đọc ngay một bài thơ: “Chử đậu nhiên đậu cơ, lộc thị dĩ vi chấp, cơ tại phủ hạ nhiên, đậu tại phủ trung khấp, bổn thị đồng căn sanh, tương tiễn hà thái cấp?” (Nấu đậu bằng cành đậu, lọc nước đậu nấu đậu, đốt cành dưới đáy nồi, đậu ở trong nồi khóc, vốn cùng một cội sanh, nấu nhau sao quá gấp?) Bài thơ này về sau được gọi là Thất Bộ Thi (bài thơ bảy bước).

[11] Đạo Tổ: Ngài Thiện Đạo, Nhị Tổ của Tịnh Tông.

[12] Đây là một câu thơ trong bài Lộc Minh (hươu kêu) trong Kinh Thi, sách Mao Truyện giảng: “Thị tắc thị hiệu là đáng để bắt chước làm theo”.

[13] Biến cố này được Sử nhà Thanh gọi là Đồng Trị Thiểm Cam Hồi Biến (biến loạn của dân Hồi tại Thiểm Tây và Cam Túc dưới thời Đồng Trị). Cuộc chiến kéo dài từ năm 1862 đến năm 1877 từ Thiểm Tây, Cam Túc lan sang các vùng lân cận như Ninh Hạ, Thanh Hải, Tân Cương v.v… Do những bất mãn sẵn có với chánh sách cai trị của Thanh Triều, cộng với ảnh hưởng từ loạn Thái Bình Thiên Quốc trước đó, vào năm 1862, Mã Triệu Nguyên, Mã Hóa Long, Hách Minh Đường, Mã Sanh Sản, Mã Chấn Hòa, Bạch Ngạn Hổ v.v.. đã cùng nhau xướng suất dân Hồi nổi loạn, toan tách rời hai tỉnh này khỏi cương vực nhà Thanh. Loạn quân phát triển nhanh chóng, bao vây thủ phủ Tây An. Quân Thanh dưới sự chỉ huy của Đa Long A đánh trả dữ dội, dần dần chiếm lại đất, nhưng quân Hồi vẫn chiếm giữ phần lớn Thiểm Tây và Cam Túc. Đôi bên đánh nhau dằng dai mãi cho năm 1877, nhà Thanh mới hoàn toàn bình định, dẹp tan các tướng lãnh loạn quân. Số người chết vì thương vong cũng như vì tàn sát do xung đột chủng tộc hơn hai ngàn vạn người, khiến Thanh triều tài chánh kiệt quệ, Thiểm Tây, Cam Túc bị tàn phá nặng nề.