PHÁP HOA NGHĨA SỚ

SỐ 1721

QUYỂN 09

Đời Tùy, Sa môn Cát Tạng soạn

PHẨM NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ THỨ TÁM

Trong nhân duyên đời trước nói có hai đoạn:

Chánh vì nói pháp, văn nầy đã rồi, nay là thứ hai vì thọ ký. Do nghe pháp ngộ giải hành tương ứng với Phật cho nên được Phật thọ ký.

Văn gồm có hai:

1/ Thọ ký năm trăm đệ tử làm một phẩm.

2/ Thọ Hữu học, Vô học nhân ký làm một phẩm. Sở dĩ chia làm hai phẩm: Vì phẩm Thọ ký ở trên là nêu tên chung, nay muốn khác trên cho nên lấy người làm phẩm riêng. Vì thế hai đề chung riêng đặt tên tránh nhau. Sở dĩ căn cứ người chia ra hai phẩm là gồm có mười nghĩa năm cặp:

1- Năm trăm đệ tử nguyện hạnh đồng, hiện tại đồng thời được thọ ký, vị lai nối nhau thành Phật. Sau người Hữu Hữu học, Vô học nguyện hạnh cũng đồng, hiện tại đồng thời được thọ ký, vị lai nhất thời thành Phật, vì nhân duyên này nên chia ra hai phẩm.

2- Tức muốn dùng hai phẩm này nhiếp nghĩa thọ ký cùng khắp.

Nói thọ ký không ngoài hai thứ:

  1. Trước sau nối nhau thành Phật.
  2. Nhất thời thành Phật.

3- Trước năm trăm người là chúng cao danh hiển đức, sau hai ngàn người là chúng ẩn hạnh, mật hạnh, do bộ loại hiển mật khác nhau nên chia làm hai phẩm.

4- Tức muốn dùng hai người hiển mật nhiếp hết nghĩa thọ ký.

5- Trước năm trăm người đồng là vị Hữu học Vô học, sau hai ngàn người là địa vị Hữu Hữu học, Vô học, do bộ loại khác nhau nên chia hai phẩm.

6- Tức muốn dùng hai nghĩa này nhiếp nghĩa thọ ký cùng khắp.

7- Trước năm trăm người đồng có lãnh giải, sau người Hữu Hữu học, Vô học đồng không lãnh giải, do bộ loại khác nhau nên chia hai phẩm.

8- Tức muốn dùng hai nghĩa này nhiếp nghĩa thọ ký cùng khắp.

9- Trước năm trăm người cũng có phát tích cũng không phát tích như Mãn nguyện phát tích các người khác không phát tích, cho nên làm một loại. Người Hữu Hữu học, Vô học cũng có phát tích cũng không phát tích, như A-nan, La-hầu-la thì phát tích các người khác không phát tích, lại là một loại, do đó chia làm hai phẩm.

10- Tức dùng có phát tích không phát tích nhiếp nghĩa thọ ký cùng khắp.

Hỏi: Phẩm này thật thọ ký một ngàn hai trăm người vì sao đề năm trăm ư?

Đáp: năm trăm tức số một ngàn hai trăm, sở dĩ đề riêng gồm có bốn nghĩa:

1/ Khi Phật tại thế có cao danh nói lên oai đức năm trăm La-hán thường theo hầu Phật cho nên đề riêng.

2/ Năm trăm người này nguyện hạnh đồng, hiện tại đều cùng thời được thọ ký vị lai nối kế thành Phật.

3/ Năm trăm người này đồng tự có khả năng lãnh giải nói công buộc châu nơi chéo áo nên riêng nói.

4/ Khi Đức Phật mới thành đạo trước độ năm người, kế độ thầy trò Ca-diếp tức thành năm trăm. Nay từ đầu đặt tên cho nên nói riêng.

Phẩm chia làm hai phần:

  1. Thọ ký riêng cho Mãn nguyện.
  2. Tổng thọ ký cho các Thanh văn.

Thọ ký riêng Mãn nguyện: Mãn nguyện có phát tích các người khác không phát tích. Mãn nguyện không tự năng lãnh giải các người khác có tự năng lãnh giải, do bộ loại khác nhau nên chia hai phần.

Hỏi: Phát tích vì sao không tự trình bày lãnh giải, không phát tích tự có lãnh giải ư?

Đáp: Phàm luận lãnh giải chắc là xưa mê nay ngộ, kia đã phát tích thì xưa không thật mê, nay chẳng thật ngộ, cho nên người phát tích không thể tự lãnh giải, người không phát tích đã thật xưa mê nay ngộ nên có tự lãnh giải.

Hỏi: Hai hạng thượng căn trung căn đều không phát tích vì sao đến người hạ căn có phát tích ư?

Đáp: Có thể đủ năm nghĩa:

1/ Văn xen lẫn có ẩn hiển, hoặc đều phát tích thì là người không thật ngộ, nếu không đều phát tích thì ẩn đức Bồ-tát do đó văn kinh nêu ra khác nhau.

2/ Người hạ căn phát tích thì hiển Bồ-tát bất khả tư nghì, hiện làm Thanh văn rồi thì ẩn đức, ở trong hàng Thanh văn vẫn lại làm hạ căn do đó gọi là bất khả tư nghì.

3/ Thị hiện làm Thanh văn vốn vì giáo hóa chúng sinh, nay ba căn đều ngộ thì việc giáo hóa chúng sinh xong mới được phát tích. Chương trên việc giáo hóa chưa cùng khắp nên không nói về phát tích.

4/ Người hạ căn còn phát tích người trung căn thượng căn đâu phải hạnh thật ư? Cho nên luận Nhiếp Đại thừa chép: Xá-lợi-phất v.v… đều là hóa nhân, cho nên có kinh chép: Tu Bồ-đề là Phật Thanh Long Đà ở thế giới Phương Đông thì biết đều là người hạnh quyền.

5/ Nói lên Bồ-tát có phát tích không phát tích hai thứ phương tiện.

Hỏi: Phát tích có lợi ích gì?

Đáp: Khai một làm ba gồm có hai thứ:

1- Khai một pháp làm ba pháp.

2- Khai một người làm ba người, trên tuy nêu một pháp làm ba pháp, ba pháp qui về một pháp, chưa nói một người là ba người, ba người là một người, nay phát tích các Bồ-tát mới được nói về một người làm ba người, ba người làm một người. Do đầy đủ căn cứ người và pháp nói về nghĩa khai hiệp mới tròn đầy.

Thọ ký mãn nguyện có hai phần:

  1. Nghe pháp làm duyên lãnh giải.
  2. Như lai thọ ký.

Phần một văn lại có hai:

  1. Nêu lý do lãnh giải.
  2. Chánh là nói được lãnh giải.

Đầu có bốn trường hợp:

Nghe pháp làm duyên lãnh giải: Trí tuệ là tuệ thật, phương tiện là tuệ quyền, nói chung nhắc lại hai pháp tuệ quyền thật trong hai châu Pháp và Thí. Lại nghe thọ ký cho các đại đệ tử: Nói chung hai châu thọ ký người làm duyên lãnh giải. Lại nghe việc nhân duyên đời trước là nêu chu thứ ba việc hóa thành làm duyên lãnh giải. Lại nghe Chư Phật có năng lực tự tại thần thông lớn: tức việc Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười kiếp ngồi đạo tràng và hiện tướng lành. Lại giải tức là đức Thích-ca năng biết việc quá khứ lâu xa. Là sức tự tại thần thông. Sở dĩ chỉ nêu bốn việc: Việc đầu là giáo, việc kế là người được lợi ích, nhân duyên đời trước lý do trình bày giáo được lợi ích, sau nêu chủ năng hóa tức nghĩa thu nhiếp đã khắp thích nghi nóiminh bốn việc.

“Được điều không hề có:.. Chính là nói về lãnh giải cũng chia làm bốn: Nêu trong tâm vui mừng đắc vô sanh nhẫn không có sở đắc cấu nên nói tâm tịnh. “Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi…” là nói ngoại hình cung kính. “Mà nghĩ thế này”: Là im lặng lãnh giải. “Cứu vớt chúng sanh ra khỏi các chỗ tham đắm:” Như văn trước nói chúng sanh tham đắm các chỗ dẫn dắt họ khiến ra khỏi. Nói tham trước chẳng phải chỉ tham sử mà nói tất cả tâm có sở đắc. “Chỉ có đức Thế tôn…” là cầu xin thọ ký. Sở dĩ cầu xin thọ ký là gồm có hai nghĩa:

1) Vì hiện nhiếp hạ căn.

2) Vì có duyên chúng sanh phát nguyện vãng sanh cho nên xin ký. Thâm tâm: Vô sanh pháp nhẫn tức hạnh Bồ-tát gọi là thâm. Bổn nguyện: tâm Bồ-đề Vô sở đắc.

“Bấy giờ Đức Phật bảo v.v…” chính là thọ ký. Văn chia làm hai: Văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi có hai trước nêu hành nhân sau biện đắc quả, trong hành nhân nói về hành nhân ba đời:

  1. Khen ngợi hiện đức là hiện tại hành nhân.
  2. Nói hành nhân quá khứ.
  3. Nói hành nhân vị lai.

Hiện đức hiển rõ cho nên trước khen ngợi đức hiện tại, do quá khứ tu hành nên kế khen ngợi quá khứ, hai đời hành nhân cũng chưa tròn đầy nên kế khen ngợi vị lai. Đầu văn có bốn trường hợp:

1/ Bảo chúng hỏi:” Hỏi: Mãn nguyện ở trong hội vì sao hỏi chúng thấy không ư? Đáp: Chúng chỉ thấy hình mà chưa thấy đức, nay muốn hiển đức khiến chúng kính ngưỡng nên bảo chúng hỏi.

2/ “Ta thường khen ông là bậc nhất…” khen ngợi kia có công mở mang trên.

3/ Năng vì bốn chúng làm lợi ích v.v… khen ngợi đức lợi ích dưới.

4/ Ngoài đức Như lai ra không ai có thể v.v… là nói địa vị Mãn Từ Tử tức người chứng quả Thập địa,. “Các ông chớ cho rằng…” là khen ngợi đức quá khứ của Mãn nguyện, thời chúng chỉ nói hiện tại có công trên mở rộng dưới hóa, chưa biết quá khứ cũng có đức này cho nên nay khen ngợi.

Văn có ba:

  1. Nêu quá khứ chín mươi ức kiếp Đức Phật có công trên mở rộng dưới hóa.
  2. Ở nơi bảy Đức Phật có công thượng mở rộng hạ hóa.
  3. Ở chỗ Đức Phật Thích-ca trong hàng người nói pháp là bực nhất.

Đây tức từ nhiều Phật cho đến ít Phật. Văn đầu chia làm ba:

  1. Khen ngợi trí tuệ Mãn Từ Tử.
  2. Khen ngợi thần thông.
  3. Trí tuệ và thần thông của Mãn Từ Tử đều đầy đủ cho nên rộng làm lợi ích.

Đầu lại khai ba:

  1. Khen ngợi có tuệ, tức thật phương tiện.
  2. “Lại ở nơi Chư Phật nói pháp Không là khen ngợi Không tuệ gọi là phương tiện thật.
  3. “Đắc bốn trí vô ngại…” hiệp khen ngợi hai tuệ Không, Hữu. Do hiểu đầy đủ Không, Hữu mới có thể nói pháp vô ngại, không như vậy thì thành có sở đắc.

“Đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát…” kế khen ngợi thần thông. “Người thuở Đức Phật kia v.v…” nêu đủ thần thông trí tuệ rộng làm lợi vật. Văn lại có hai:

  1. Khen ngợi thành tựu chúng sanh.
  2. “Vì muốn thanh tịnh cõi Phật…” khen ngợi tịnh cõi nước Phật.

Trước lại có hai câu:

  1. Lợi ích chung chúng sanh bốn thừa.
  2. “Lại giáo hóa vô lượng…” là lợi ích riêng người cầu Phật.

“Các Tỳ-kheo…” khen ngợi trong pháp của bảy Đức Phật có đức trên mở rộng dưới hóa. “Nay ở chỗ ta v.v…” khen ngợi ở chỗ đức Thíchca nói pháp bậc nhất. “vào kiếp hiền…” khen ngợi vị lai tu nhân cũng chia ba:

  1. Khen ngợi ở chỗ tu hành của Phật trong một kiếp.
  2. “Cũng ở trong đời vị lai…” là chỗ tu hành của Phật nhiều kiếp.
  3. “Dần dần đầy đủ v.v…” là khen ngợi tu nhân tròn đầy.

“Qua vô lượng vô số kiếp sau v.v…” là nói đắc quả, gồm có sáu quả:

1- Quả hóa chủ.

2- “Đức Phật đó…” là quả cõi nước; đất bằng như bàn tay có hai: a) Nói Đức Phật tay bằng phẳng, là chỉ việc mà nói. b) Đáy biển có đá bốn phương ngàn dặm bằng như gương soi mặt gọi là tay đá.

3- Cung điện của chư thiên nêu quả quyến thuộc gồm có bốn ý.

  1. Nói về quyến thuộc trời người.
  2. Nói về quyến thuộc Bồ-tát.Nói về quyến thuộc Thanh văn.
  3. Tổng kết.
  4. “Kiếp tên Bảo minh v.v…” là nói quả thời gian. Nước tên Thiện Tịnh v.v… trên nêu thể nay nói về tên cõi.

4- “Tuổi thọ của Đức Phật kia v.v…” là nói quả tuổi thọ.

5- “Pháp trụ lâu xa v.v… là nói quả trụ trì.

Kệ văn có hai:

  1. Tụng về hành nhân.
  2. Tụng về đắc quả.

Tụng hành nhân ba đời tức là ba phần:

  1. Bảy hàng tụng khen ngợi chư Bồ-tát tức khen ngợi Mãn Từ Tử hiện tại hành đức.
  2. Năm hàng tụng hành nhân quá khứ.
  3. Hai bài rưỡi tụng hành nhân vị lai.

Bảy hàng đầu chia làm ba:

  1. Một bài nêu khen ngợi.
  2. Năm hàng giải thích khen ngợi.
  3. Một bài tổng kết tán. Rõ ràng không thể khen ngợi đủ.

Năm hàng kế lại chia làm hai:

  1. Bốn hàng khen ngợi Bồ-tát làm Nhị thừa phương tiện.
  2. Một bài khen ngợi Bồ-tát chỉ bày phàm phu phương tiện.

Bốn hàng đầu lại chia hai:

  1. Ba hàng khen ngợi Bồ-tát làm Nhị thừa phương tiện năng thành tựu chúng sanh.
  2. Một bài nêu Nhị thừa phương tiện năng tịnh cõi nước Phật.

Ba hàng đầu lại chia làm ba cặp.

  1. Nửa bài trên biện biết căn cơ, nửa bài kệ dưới nói lên oai nghi Tiểu thừa nghĩa là cơ giáo một cặp.
  2. Nửa bài trên khéo giáo hóa người, nửa bài kệ dưới tự nói là tiểu đạo gọi là tự tha một cặp.
  3. Nửa bài trên nêu độ vật, nửa bài kệ dưới nói ý thuyết giáo gọi là giáo lý một cặp.

“Dù ưa nhỏ biếng lười”: Dù hiện Tiểu thừa oai nghi nói Tiểu giáo mà tợ như pháp Bồ-tát biếng nhác mà thật chẳng biếng nhác. “Chỉ ba độc cho người lại hiện tướng tà kiến”: Trên nói Thánh phương tiện làm hai Thánh Thanh văn Duyên giác, nay chỉ phàm phu phương tiện cũng 220 làm hai phàm:

  1. Hiện làm chúng sanh tại gia ba độc.
  2. Hiện làm xuất gia tà kiến ngoại đạo.

Lại trên hiện Nhị thừa phương tiện tức là người không phiền não, nay chỉ hai phàm phu phương tiện nghĩa là người có phiền não. Nay đại sĩ thể ngộ phiền não không hề có, không cho nên phương tiện thị hiện có không. Như Kinh Tịnh Danh chép: Bồ-tát không dứt phiền não cũng không cùng đồng mà năng thị hiện đều đoạn hai việc.

“Nay Phú-lâu-na đây…” là hành nhân quá khứ. “Vị lai cũng cúng dường” v.v… là tụng hành nhân vị lai. “Sau đó được thành Phật…” là tụng đắc quả có hai:

  1. Tụng về đắc quả.
  2. Tổng kết.

Trong tụng đắc quả: nửa hàng tụng là quả hóa chủ, nửa hàng tụng là quả cõi nước quả, một câu tụng là quả thời gian quả, bốn hàng một câu tụng quả quyến thuộc, năm câu tụng Bồ-tát, một bài tụng Thanh văn, hai bài tụng về trời người, từ hơn đến kém xếp vào thứ lớp. “Pháp hỷ, thiền duyệt thực”: Là định tuệ có công năng nuôi dưỡng pháp thân nên gọi là thực. Lại ngoài theo Phật nghe pháp vui mừng là pháp hỷ, trong như nói tu hành là thiền duyệt, lại Thánh nói pháp gọi là pháp hỷ, bậc Thánh im lặng gọi là thiền duyệt. Đức Phật dạy đệ tử thường thực hành hai việc cho nên chỉ có hai món ăn. Các kinh khác nói có chín món ăn: Thế gian bốn món, xuất thế gian năm món:

  1. Thiền.
  2. Nguyện.
  3. Niệm
  4. Tám giải thoát.
  5. Hỷ. “Tỳ-kheo Phú-lâu-na v.v…” một bài rưỡi là tổng kết tịnh độ.

“Bấy giờ ngàn hai trăm vị…” là thọ ký cho Thanh văn chia làm hai:

  1. Thọ ký.
  2. Lãnh giải.

Trong thọ ký có hai:

  1. Xin ký.
  2. Thọ ký.

Hỏi: Một ngàn hai trăm năm mươi người thường theo Phật, kinh này trước sau vì sao chỉ nói một ngàn hai trăm ư?

Đáp: Hoặc có thể rút trong kinh chỉ lấy số chẵn; hoặc có thể xưa có một ngàn hai trăm năm mươi, đến thời Pháp Hoa năm mươi người đã mất cho nên chỉ nói một ngàn hai trăm thôi!

“Chúng ta vui mừng được điều không hề có v.v…” nghe trên nói pháp và cho thọ ký chung nên vui mừng, không được thọ ký cũng sung sướng lắm nghĩa là một ngàn hai trăm vị La-hán thấy các người khác được ký riêng, nghĩ rằng mình không được ký riêng nên đến xin nếu như được ký riêng được thành Phật thì gọi là sung sướng. “Đức Phật biết tâm niệm v.v…” là được Phật thọ ký. Văn chia làm ba:

  1. Hứa chung.
  2. Thọ ký riêng.
  3. Bảo Ca-diếp khiến tuyên cáo chúng kia được thọ ký.

“Nay… là hứa chung. Trong chúng đó v.v…” Nêu thọ ký riêng, trước văn xuôi, sau kệ tụng, trước văn xuôi có hai: Trước thọ ký riêng Kiều-trần-như, kế thọ ký riêng năm trăm. Phải biết năm trăm và một ngàn hai trăm đều là trong số một ngàn hai trăm, một ngàn hai trăm là số đầu đắc Ba đạo thừa, trong một ngàn hai trăm đây năm trăm là nêu số lãnh giải cho nên nói năm trăm. Dù nêu năm trăm cũng là trong số một ngàn hai trăm như gọi nhóm Tỳ kheo mười bảy vị, sáu vị. “Năm trăm vị A la hán..” là thọ ký năm trăm người: Ca Lưu Đà Di: Ca lưu Hán dịch là Thời. Đà Di gọi là Khởi. Thập bát bộ sớ chép: Ca lưu là Hắc, Đà Di là Thượng, là thầy của Thái Tử Tất-đạt khi còn ở trong cung. Châu đà: Hán dịch là Bất lạc, lại nói Tiểu lộ. Sa-già Đà dịch là Thiện lai, xưa dịch là Ác lai, ngoại quốc cũng gọi là Sa Kiệt Đà. Cũng gọi Sa Già-đà. Ưu Đà Di cũng gọi là Ô đà di, Trung hoa gọi là Xuất.

Văn Kệ cũng có hai: Trước sáu hàng tụng Kiều-trần-như được thọ ký, kế ba hàng rưỡi tụng năm trăm người được thọ ký. “Ca-diếp! Ông đã biết…” là bảo Ca-diếp khiến tuyên cáo thọ ký. Do không có Nhị thừa chỉ có Nhất thừa, tất cả Thanh văn đều sẽ thành Phật, bảo tuyên chỉ thọ ký là ý đây.

“Bấy giờ năm trăm vị La-hán…” là tự trình bày lãnh giải. Văn có hai: Văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi có bốn:

1) Pháp. 2) Thí. 3) Hiệp. 4) Tổng kết vui mừng.

Đầu nói pháp lại có bốn:

  1. Nêu duyên lãnh giải được thọ ký tức là duyên lãnh giải.
  2. “Vui mừng hớn hở v.v…” là trong tâm vui mừng.
  3. “Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi …” là ngoại hình cung kính. “Ăn năn lỗi tự trách v.v…” là phát ngôn tự trình bày lãnh giải.

Đây lại chia làm bốn:

  1. Hối lỗi tự trách.
  2. Thuật lại xưa mê.
  3. Nói nay ngộ.
  4. Giải thích.

Hối lỗi tự trách: Sám hối tội Tiểu thừa có sở đắc, khiến người chưa bỏ rồi chấp Nhị thừa do đây mà bỏ rồi phát tâm Đại thừa vững chắc không lui sụt. Nhưng kinh này từ đầu đến cuối nhờ một ngàn hai trăm người phá tất cả các người Tiểu thừa trong mười phương ba đời, khiến cho họ bỏ chấp có sở đắc ngộ nhập chánh quán bình đẳng, cho đến nhờ người ba căn bác bỏ hạng Bồ-tát cố chấp hai kiến đại, Tiểu thừa trong mười phương ba đời, cũng khiến họ ngộ nhập phi đại phi tiểu không một không ba mà diệu ngộ không y, không đắc, do đó kinh này từ đầu đến cuối đều lấy một ngàn hai trăm người mà nói làm đầu mối. Nhờ họ chấp mê để nói lên mê đại tiểu có sở đắc, nhờ họ ngộ để dẫn tất cả tâm mê chấp có sở đắc Đại Tiểu khiến họ được ngộ.

Hỏi: Nếu vậy kinh này ba châu đều là người phương tiện không thật ngộ đạo?

Đáp: Nhờ người ba căn này trình bày sự mê ngộ khiến người thực hành Tiểu thừa đối với kinh Pháp Hoa đắc tín tâm, cho nên trước nói các hàng Thanh văn tin lời Phật nên thuận theo kinh này, tức kia chứng minh.

Hỏi: Vì sao biết được ba căn Thanh văn đều là phương tiện ư?

Đáp: Không có người thực hành nghe Kinh Pháp Hoa liền lãnh giải giúp Phật tuyên dương giáo hóa cho nên Kinh này Phật có ba châu nói, đệ tử cũng có ba châu nói, hoặc thầy hoặc đệ tử đều là hiển phát thầm giáo điều phục chúng sinh. Nhưng chánh quán vắng lặng không hề có thầy trò vì chúng sanh nên phương tiện mà có thầy trò, muốn cho chúng sinh thọ hóa ngộ nhập bình đẳng. Cho nên, Kinh Niết-bàn chép: Nói pháp chẳng phải thầy cũng chẳng phải đệ tử gọi là Trung đạo, thầy trò tức là phương tiện, mê ngộ cũng như vậy, bình đẳng chánh quán không hề có mê ngộ, vì chúng sanh nên phương tiện có mê ngộ. Lại kinh Niết-bàn nói tất cả chúng sanh không thể phá kết; chẳng phải không năng phá, chẳng phá chẳng phải không phá gọi là Trung đạo, nên thường theo ý nầy mà đọc kinh Pháp Hoa.

Nếu chấp xưa khai nay hợp, có Nhất thừa, không có ba thừa, cho đến trước sau mê ngộ thì thành có sở đắc, có sở đắc tức vô minh, chẳng phải đại tuệ bình đẳng. Có sở đắc ấy không đạo không quả không thể hành nhân Phật đắc quả Phật; có sở đắc gọi là thô chẳng phải diệu pháp, có sở đắc tức là nhiễm trước không gọi là hoa sen. Nói hối lỗi: Đức Phật quá khứ khiến ta phát tâm Bồ-đề vô sở đắc không hai, mà do ta điên đảo sâu dày trái đại chấp tiểu là tội thứ nhất của con. Từ đầu Kinh đến nay hai châu đã vì con nói đại tuệ bình đẳng, mà con nghi hối không hiểu đó là tội thứ hai của con. Đã ở trong hai đời nhọc phiền Như lai cho nên sám hối lỗi đối với Phật, lại chấp tiểu, nghi đại sâu làm chướng pháp cho nên đối pháp sám hối tội có sở đắc. Tự trách: do trái đại chấp tiểu, chấp tiểu nghi đại đều do mình độn căn cho nên tự trách.

Hỏi: Vì sao người hạ căn có riêng lời này?

Đáp: ba phen nghe mới hiểu thì có các lụy sâu cho nên nói riêng. Lại hàng Thanh văn ba căn đều nên hối lỗi tự trách, chỉ muốn chuyển thế bày lỗi cho nên ba thứ khác nhau.

“Thế tôn! Chúng con v.v…” là thuật xưa mê. Nay mới biết đó như người vô trí. Nêu nay ngộ. “Vì sao”: Là giải thích. Nói lẽ ra đắc đại mà chấp chặt tiểu tự cho là đủ nên là người vô trí tức giải Thích-câu trên “như người vô trí.”

“Thí như có người…” là Thí nói trình bày rộng về lãnh giải. Kinh này Phật có ba châu chép:

  1. Pháp nói.
  2. Thí nói.
  3. Vừa thí vừa pháp nói.

Đệ tử ba phen lãnh giải cũng có ba giai cấp: Xá-lợi-phất nghe pháp nói trên lại làm pháp nói lãnh giải, Ca-diếp ngộ trước thí nói lại làm thí nói mà lãnh giải, nay hiểu rõ cả hai pháp thí lại làm hai thứ pháp thí lãnh giải, cho nên trước nêu pháp nói lãnh giải, nay nói thí nói lãnh giải. Căn cứ thí nói đầu cuối có tám phần:

  1. Người nghèo đến nhà bạn thân.
  2. Bạn thân cho uống rượu.
  3. Say rượu nằm.
  4. Bạn buộc viên ngọc vào áo.
  5. Vì say nên không hay biết.
  6. Thức dậy bèn đi tìm cầu việc ăn mặc.
  7. Gặp lại bạn chỉ cho viên ngọc.
  8. Người nghèo được châu báu vui mừng.

Bạn thân từ đầu đến cuối muốn làm lợi ích cho nhau, nêu đủ tám việc, do loại theo nhau nghĩa ý chỉ có ba:

  1. Cột ngọc châu quý.
  2. Giữa đường lạc nhau.
  3. Gặp lại chỉ ngọc châu quý.

Sở dĩ lập ba thí dụ này là lại lãnh giải ba nghĩa trên:

1/ Lãnh xưa bẩm thọ Đại thừa, tức vào thời Đức Phật Đại Thông. Kế là lãnh quên Đại chấp Tiểu, từ quá khứ lui sụt tâm Bồ-đề xong nay trước Linh Sơn, ba lần lãnh đắc ngộ Đại tức hội Linh Sơn.

2/ Lãnh hóa thành ba thí dụ: lãnh trước ban đầu nói Đại thừa, lãnh kế giữa đường nói Tiểu thừa, kế lãnh sau lại nói Đại thừa.

3/ Lãnh Như lai có ba thứ pháp luân: Đầu lãnh pháp luân căn bản, kế lãnh pháp luân chi mạt, sau lãnh pháp luân gom ngọn về gốc.

“Thí như có người v.v…” tức là người hạ căn. “Đến nhà bạn thân v.v…” xưa có cảm Đại thừa nói giáo Đại thừa nên gọi là đến, đồng có Phật tánh lại từng thọ hóa là pháp ra đời là thân, đồng chí hướng Bồ-đề cùng vượt sanh tử nên là bạn. Phẩm Thí Dụ làm cha con, phẩm Tín Giải lại làm cha con mà lãnh giải Phẩm Hóa Thành làm đạo Sư, bạn lữ, nay lại làm anh em mà lãnh giải, do mười sáu Sa-di quá khứ ngộ trước nên gọi là anh, anh tức là bạn, người theo thọ giáo học sau tức là em. Nhà: là chỗ nói giáo Đại thừa. “Say rượu mà nằm ngũ”: Ngài Quang Trạch v.v… chép: Người nghèo vốn say đến nhà bạn thân nằm, dụ chúng sanh bị năm trược làm mê chìm đắm sanh tử gọi là say. Vô minh mê hoặc tâm được giải không lâu mà quên giải, sau bèn không tu hành như say rượu nằm ngủ. “Nay nói không đúng. Vì kệ dưới chép: “Thí như có người nghèo đến nhà bạn thân, nhà kia rất giàu có, bày các thức ăn ngon”. Đã nói say đến mà nằm ngủ, vì sao nói bày thức ăn, lại đã bày thức ăn ngon đây sao không uống rượu ư? Đây là dụ việc không thành. Nay nói về trong đó có thể có hai nghĩa:

1/ Bạn thân bày tiệc uống rượu ăn ngon, nhưng văn xuôi lược nên không nói, kệ thì đầy đủ.

2/ Tức văn xuôi nầy tự bao gồm nghĩa đó. Văn nói say rượu mà nằm ngủ. Rượu do bạn thân bày ra. Say là người nghèo uống rượu mà say. Xưa nói Pháp Hoa tức Đại thừa Trung đạo vô tướng giáo làm rượu, đắm chấp giáo là say, mê lý là nằm. Cho nên Kinh chép: Cầm bình Tam-muội Không chứa đầy rượu vô tướng.

Hỏi: Vì sao dùng rượu dụ cho giáo ư?

Đáp: Rượu có nghĩa vui thích dụ cho nghe giáo vui mừng tự biết

sẽ thành Phật và rượu có nghĩa hôn mê, dụ cho do giáo sanh khởi mê. Nay dụ Đại thừa chính là muốn nói nghĩa ba căn Thanh văn giữa đường mê giáo, nên chánh nhờ rượu làm dụ vì thế ban đầu nói say rượu mà nằm ngủ.

Hỏi: Vì rượu nên say nằm, lập ra giáo nên khởi mê ư?

Đáp: Bạn thân cùng gặp vốn làm thần vui không khiến say mê, Như lai nói giáo ý ở ngộ lý, không khiến duyên mê, chỉ vì lầm tôn chỉ nên bị mê hoặc!

“Lúc ấy, người bạn thân có việc quan phải đi”: Bực Đại Sĩ lợi ích chúng sinh hóa độ chúng sanh tự tại chẳng vì mình như việc quan, lại cõi này cảm tận phương khác duyên đến. Không được không đi như việc quan phải đi. “Buộc châu báu vô giá trong áo của gã say: Đây chính là thí dụ buộc châu. Luận Pháp Hoa chép: Có người tâm tán loạn tăng thượng mạn thật không có định, quá khứ tuy có gốc lành Đại thừa mà không hay biết, không biết nên không cầu Đại thừa, đối với tâm xấu hẹp ấy sanh luống dối hiểu cho là bậc nhất thừa, chấp điên đảo như vậy, vì đối trị hạng người này nên nói thí dụ buộc châu. Tức là chỉ cho biết gốc lành quá khứ làm cho nhớ nghĩ, rồi sau dạy bảo khiến nhập Tammuội. Luận lại nói thị hiện giải vô thượng cho nên nói thí dụ buộc châu. Giải Đại thừa Trung đạo dụ như châu báu, cùng tột trong lý nên gọi là vô giá. Lại do đây giải lý không hai mà cảm Đại quả của Phật, do có nhiều khả năng nên gọi vô giá, giải do Phật trao cho nên gọi là buộc, giải hoặc ẩn mật vi tế trong tâm như trong áo.

Hỏi: Trao cho lãnh giải vốn do chúng sanh lãnh ngộ, đã nói say rượu mà nằm ngủ đều không hay biết, vì sao trong lúc không hay biết mà trao lãnh giải?

Đáp:

1/ Buộc châu vốn nói ý chỉ Đại thừa không khiến tạm thọ mà thôi chính là nhiễm thần trải qua nhiều kiếp không suy, cho nên mượn say không biết để nói về cột châu, thật ra chẳng phải là lúc không biết mà cột.

2/ Xét về lãnh giải châu dụ cho tâm Bồ-đề, không mất chánh là ở thời sau, nay muốn hiển rõ thời sau giải không suy do Phật được trao cho nên ở thời sau nói. Lại sở dĩ biết buộc ngọc châu chẳng phải là lúc không hay biết là vì châu dụ cho tâm Bồ-đề, nếu đều không biết thì làm sao phát tâm Bồ-đề! Chỉ vì nay căn cứ thời sau bỏ quên cho nên nói không biết.

Hỏi: Cột châu đã là lúc hiểu biết thì uống rượu cũng có không say ư?

Đáp: Lúc đầu chưa say sau mới say, như lúc đầu bẩm giáo thì chưa mê sau mới mê.

Hỏi: Bạn thân vì sao bày tiệc rượu thức ăn lại cột châu ư?

Đáp: Bạn thân ân tuệ có lợi ích có thể có từ đầu đến cuối hai việc:

1/ Bày tiệc rượu ăn uống.

2/ Là ân tuệ châu báu quý trọng châu báu quý trọng là nhân giàu sang lúc trước, rượu thức ăn là vui đương thời hội ngộ. Trước theo Đại thừa cũng đủ hai việc: Đương thời được lợi ích như uống rượu tình vui, kế giải nhiễm thần trải qua nhiều kiếp không suy, đồng là thí dụ buộc hạt châu.

Hỏi: Đã là từ đầu đến cuối một giải vì sao không nêu một thí dụ ư?

Đáp: Ăn, uống rượu chỉ có ích đương thời mà không có nghĩa thời sau không mất, buộc châu chỉ có thời sau không mất mà không có lý xen lẫn lợi ích, cho nên nêu hai thí dụ đầu và cuối chỉ một giải.

Hỏi: Nếu chỉ là trao cho một lãnh giải thì ban đầu thấy bạn thân liền cột châu nơi áo vì sao đến lúc say nằm ngủ mới cột ư?

Đáp: hai thí dụ thật ra là một lúc, mà trước sau nói để có hai nghĩa ấy, uống rượu là ý ban đầu có giải chút ít sau thì hôn mê, tuy lại sau mê mà giải ẩn kín trong mê cuối cùng cũng không suy diệt cho nên như buộc châu. Vì thế rượu dụ nói lên kia giải sau đó khởi mê, châu dụ rõ kia giải tuy lại khởi mê mà giải khô ng suy diệt.

Hỏi: Kinh tự nói về trước sau vì sao nói một thời ư?

Đáp: Trong kệ sau nói về bày tiệc rượu ăn uống liền buộc châu cho nên biết nhất thời nhưng muốn hiển rõ hai nghĩa đầu đuôi, như trước giải thích.

Hỏi: Rượu châu chỉ dụ cho giải cũng dụ cho giáo ư:

Đáp: Chung đều được dụ, giáo Trung đạo tròn đầy như viên ngọc, luyện thần dưỡng tánh việc đồng với rượu, giáo đã đủ hai, giải cũng theo lệ như vậy, nhưng châu chính dụ giải gọi là tâm Bồ-đề cho nên dưới hiệp nói nhất thiết trí nguyện cũng còn không mất.

Rượu dụ hai nghĩa:

1/ Dụ giáo.

2/ Uống rượu lợi thân dụ cho lãnh giáo sanh giải cho nên biết có đủ hai nghĩa. Nhưng rượu chánh là dụ giáo. “Cho đó rồi đi”: tức thời chưa thể hóa chẳng được không bỏ. Lại đầu lập bày rượu dụ cho thuyết giáo lấy châu buộc dụ trao giải, trao giải đã xong cõi này cảm đã dứt cho nên đi. “Gã đó say nằm đều không hay biết v.v…” là dụ cho giữa đường quên đại chấp tiểu. Đã chấp giáo khởi hoặc, trải qua sanh tử không biết đã từng có Đại thừa. “Khi dậy liền dạo đi”: Câu trước nêu quên đại giải như đều không hay biết, câu này nói tập hành Tiểu thừa cho nên nói đứng dậy dạo đi. Lại câu trước nói đều không hay biết quên mất iải xưa, nên lưu lạc trong năm đường, câu này nói khởi cầu pháp xuất thế Nhị thừa. Căn cơ Tiểu thừa phát đứng dậy, tu hành pháp Tiểu thừa là đi (hành). “Đến nước khác”: Chính là nói Niết-bàn đáng chứng, còn chẳng phải nước mình cho nên nói nước khác, tức Đại thừa làm nước mình Giáo Nhị thừa làm nước khác. Trong phẩm Tín Giải dụ dùng lý Đại thừa làm nước mình sanh tử làm nước khác, nay dùng Đại thừa làm tự mình Tiểu thừa làm nơi khác. “Vì việc ăn mặc mà phải gắng sức tìm cầu rất là khổ nhọc”: Nhị thừa vui ít, nghĩa sánh với ăn mặc, điều phục hoặc không biếng nhác là gắng sức, không có liên quan lo lắng là gian nan khổ nhọc, lại chẳng phải thuận lý nên gọi là khổ nhọc, lại Bồtát như lạc đạo, Thanh văn như khổ đạo, cho nên nói khổ nhọc. Nếu có được chút ít liền cho là đủ”: Trên nói hành nhân, nay nói đắc quả, giữ lấy ít quả cho là rốt ráo cho nên nói tự đủ.

“Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy…” là thí dụ gặp gỡ chỉ bày châu.

Hỏi: Nay mới thấy bạn thân, hay trước đã thấy ư?

Đáp: Trong đứng dậy dạo đi đã thấy bạn thân, chỉ nói giáo Tiểu thừa chưa xưng bạn ngày xưa cho nên không nói thấy, nay đã chỉ bày châu lại như bạn xưa mới gọi là thấy.

Lúc sau: Tức là sau nói Tiểu giáo, đại căn cơ dần dần phát gọi là gặp gỡ, vì trí Phật chiếu so nên gọi là thấy. “Liền bảo rằng: Lạ thay! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này”: Trước nêu thấy căn cơ, nay nói thuyết giáo, xưa phát đại tâm thực hành đại hạnh, ý chí mạnh mẽ gọi là trượng phu. Nay liền bỏ đại học tiểu đây thật đáng thương. “Lúc trước ta muốn anh được an vui tha hồ năm món dục”: Xưa muốn cho chúng sanh được quả Phật an vui. “Ngày tháng năm đó cột châu báu vô giá vào trong áo anh nay vẫn còn đó”. Thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng là ngày tháng năm, vì nói Pháp Hoa trao Nhất thừa giải là cột châu, nhân xưa không suy yếu là nay vẫn còn đó. “Mà anh không biết”: là nói không biết có đại giãi. “Lại đi nhọc nhằn sầu khổ để kiếm tìm tự nuôi sống”: là nói chấp Tiểu thừa. “Thật là ngu si”: Quên đại chấp tiểu do vô minh phiền não nên gọi là si. “Nay anh nên đem ngọc ấy đổi lấy các thứ cần dùng”: Dùng tâm Bồ-đề báu đổi sẽ cảm được đức của Phật tròn đầy. Dùng nhân cảm quả tức nghĩa đổi chác.

“Đức Phật cũng như vậy…” là nêu ba hiệp ba dụ. Tức ba “là lúc làm Bồ-tát”: Hiệp trên bạn thân. Giáo hóa: Hiệp trên bày rượu. “Khiến phát tâm cầu nhất thiết trí”: Hiệp trên buộc châu báu. “Mà chúng con bỏ quên…” Hiệp bỏ đại chấp tiểu tức bao gồm hiệp trên: say rượu mà nằm. Bỏ quên chính là hiệp trên đều không hay biết. “Đã đắc La-hán”: Hiệp trên quên đại, hiệp đây chấp tiểu. “Tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất”. Hiệp bạn thân chỉ bày châu. “Nay đức Thế tôn giác ngộ chúng con mà nói…” là hiệp trên nói lạ thay! Anh này sao đến nỗi như vậy! “Ta từ lâu đã khiến các ông…” hiệp văn trên: xưa ta muốn các ông được an vui… cho đến buộc châu: “Mà các ông chưa thiệt diệt độ”: Hiệp trên mà anh không biết rất là ngu si.

“Thế Tôn! Chúng con nay mới biết mình…” là tổng kết ngộ giải vui mừng.

Kệ có mười hai hàng rưỡi tụng bốn đoạn trên, chia làm bốn:

  1. Hai bài rưỡi tụng Pháp nói.
  2. Sáu hàng tụng Thí nói.
  3. Ba hàng tụng hiệp dụ.
  4. Một bài tụng kết vui mừng.

Trên pháp nói hai bài rưỡi có bốn:

1) Nửa hàng tụng duyên lãnh giải.

2) Một câu tụng trong tâm vui mừng.

3) Một câu tụng ngoại hình cung kính.

4) Một bài rưỡi tụng hối lỗi. Hối lỗi tự trách có bốn: nay chỉ tụng hai: Đầu nửa hàng tụng hối lỗi. Kế hàng tụng xưa mê, tức giải thích việc hối lỗi. Sáu hàng tụng ba thí dụ tức có ba riêng: Một bài ba câu tụng thí dụ buộc châu, “Bày đủ các tiệc ngon…”: Văn xuôi nêu rượu, kệ nêu tiệc ngon, rượu dụ nói tâm Bồ-đề, bày tiệc ngon nói Bồ-đề hạnh. Cũng được chuyển thí, trên dùng rượu thí dụ giáo Pháp Hoa, nay dùng tiệc ngon dụ cho giáo. Nói bày đủ: Đức Phật nói lược ở trước, Sa-di nói rộng ở sau. “Thầm cho rồi bỏ đi v.v…” giải không suy diệt đã hiển rõ ở sau thì sau giải chẳng phải là ngôn giáo đã trao nên nói thầm cho. Có người chép: Bấy giờ không có thầy dẫn dắt một khi phát sanh thiện trải qua nhiều kiếp không suy diệt lại gặp gỡ nhau cho nên gọi là thầm cho. Có người chép: lúc bấy giờ tuy vì người độn căn nói giáo mà họ không hiểu, không khác với im lặng cho nên nói thầm cho. Lại rượu, thức ăn ngon dụ cho giáo gọi đó là ngôn từ buộc châu trao giải cho nên gọi là thầm cho, giải thích nầy là đúng.

Hỏi: Trong kệ vì sao nói bày ra các tiệc ngon thì nói buộc châu? Đáp: Vì khi nói Đại thừa tức trao tâm Bồ-đề giải, thật ra chẳng khác thời nên biết kế tục nói.

“Mà bỏ đi”: Nói giáo trao giải được lợi ích đủ rồi nên bỏ. “Gã say nằm không hay biết v.v…:” hai bài một câu tụng thí dụ giữa đường quên mất đại ở trên. “Người thân hữu cho châu…” hai bài tụng trên gặp gỡ lại chỉ bày châu. “Chúng con cũng như vậy…” ba hàng tụng bên trên hợp thí thứ nhất: Đầu kệ tụng hợp thí thứ nhất, kế kệ tụng hiệp thứ hai, sau kệ tụng hiệp thứ ba. “Con nay từ Phật nghe v.v…” một hàng tụng thứ tư tổng kết vui mừng.

PHẨM THỌ HỮU HỌC, VÔ HỌC NHÂN KÝ THỨ CHÍN

Học và Vô học có Đại thừa, Tiểu thừa khác nhau. Tiểu thừa Hữu Hữu học, Vô học: Thành luận chép: Học pháp: Là người Hữu học ở tâm bậc nhất nghĩa. Vô học: Là người Vô học ở tâm bậc nhất nghĩa. Nếu tâm duyên chân thật lại có nghĩa tăng tiến đó gọi là Hữu Học, tâm duyên chân đã mãn không còn tiến cầu đó gọi là Vô học. Nếu tâm ra đời tục chẳng phải Hữu Học chẳng Vô học. Theo Luận A Tỳ-đàm chép: Hợp lý tiến cầu gọi là Hữu Học, hợp lý dứt cầu gọi là Vô học, tâm duyên sự gọi là chẳng phải Hữu học chẳng phải Vô học. Nhưng phẩm nầy đều không nói về nghĩa này, Hữu Hữu học, Vô học đã ở tâm quán thì không thể đắc ký cũng không thể đắc thọ, nay chỉ căn cứ địa vị phân rõ! Ba quả đầu gọi là Hữu Học, La-hán gọi là Vô học. Mà nói người ấy: luận Trí Độ chép: Người Tu-đà-hoàn, đạo Tu-đà-hoàn là Mười lăm tâm. Quả Tu-đà-hoàn là tâm thứ mười sáu, nay chánh nêu người đó để làm phẩm.

Đại thừa Hữu Học,Vô học: Đức Phật gọi là Vô học, đăng Địa trở lên gọi là Học. Căn cứ trong nhân địa, Thất địa trở xuống là công dụng đạo gọi là Hữu Học, Bát địa trở lên là vô công dụng đạo gọi là Vô học. Cho nên, Đại Phẩm chép: Bồ-tát có địa vị Hữu Hữu học, Vô học.

Hỏi:đại thừa có quả địa Hữu Hữu học, Vô học, lại có Hữu Hữu học, Vô học trong nhân vì sao Tiểu thừa không có Hữu học, Vô học trong nhân địa?

Đáp: Tiểu thừa trong nhân không có công dụng nghĩa vô công dụng nên không chia hai, chỉ có công dụng nên chỉ có Học đạo. Nay nói về trong đây các người thường là đồng hành với Phật thì gọi là Đại thừa Hữu học, Vô học, nay Phật tráo ký cho hai loại người Hữu học, Vô học hiển danh và mật hạnh cho nên dùng gọi tên phẩm.

Phẩm chia làm hai:

  1. Xin ký.
  2. Thọ ký.

Xin ký chia làm hai:

  1. A-nan, La-hầu-la, hai người xin ký.
  2. Hai ngàn người xin ký.

Hỏi: Phẩm tựa nêu chúng, A-nan đều thuộc chúng Vô học nay vì sao nhập vào chúng Hữu học, Vô học?

Đáp: Gồm có ba nghĩa:

1/ Phẩm trên nói về đức A-nan dự lãnh Phật pháp là thầy thứ hai tuy chẳng phải Vô học mà thuộc về chúng Vô học, nay căn cứ địa vị của Ngài mà phân chia. Đã là Sơ quả nên không nhập chúng vô học.

Hỏi: Nếu vậy La-hầu-la đã là vô học vì sao không xếp vào chúng ở phẩm trước ư?

Đáp: Phải thọ ký cho A-nan mới được thọ ký cho La-hầu-la, Anan đã thuộc phẩm này, La-hầu-la cũng thuộc về phẩm này.

2/ A-nan, La-hầu-la và năm trăm đệ tử trên nguyện hạnh khác nhau cho nên chỉ thuộc về phẩm này.

3/ Trên nói về hàng Vô học có quyền có thật, như Mãn Từ Tử là quyền, các vị khác là thật, nay muốn nói về người Hữu học, Vô học cũng có quyền thật. A-nan, La-hầu-la có phát tích nên gọi là quyền. Hai ngàn người không phát tích nên gọi là thật, như trên giải thích.

Văn đầu có ba:

  1. Trong tâm tư duy.
  2. Bên ngoài cung kính.
  3. Nói lời xin ký tức thứ lớp ba nghiệp.

“Chúng con trong đây lẽ ra cũng có phần”: Có hai suy xét, và hai kết luận. Hai suy xét:

1/ Nêu tự suy nghĩ lẽ ra được thọ ký, nói về chúng con trong đây cũng đáng có phần: Trình bày mình được hiểu ngộ, “Chỉ có Như lai là chỗ nương về của chúng con”: Xin Phật chứng minh xem xét cho họ là có hiểu ngộ. Lại tích ở Thanh văn tông qui Phật đạo cho nên nói thế này.

2“Lại chúng con v.v…” là nói suy nghĩ người khác lẽ ra được thọ ký. Hai người này rất gần gũi.

Nếu không được thọ ký gồm có hai lỗi:

  1. Trái với vật hy vọng.
  2. Trái với bổn nguyện kia.

“Nếu Phật thọ ký v.v…” là nói về hai kết: “Nguyện con đã mãn”:

là kết trên tự suy nghĩ. “Mà lòng chúng cũng được đủ”: một kết trên người khác suy nghĩ. Lại chỉ có đức Như lai là chỗ quay về của chúng con tức đồng các Thanh văn cho nên phải được thọ ký. “Lại chúng con là tất cả các thế gian đều quen biết”: là nói ngoài Thanh văn ra các chúng khác lẽ ra được thọ ký. Nguyện con đã mãn: Là nói đồng các

Thanh văn, lòng chúng trông cũng được đủ: là kết các chúng khác ngoài Thanh văn.

“Lúc đó người Hữu học, Vô học v.v…” nêu hai ngàn người xin ký. “Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo A-nan v.v…” là nói thọ ký. Trước thọ ký 232 cho hai người, kế thọ ký cho hai ngàn người. Trước thọ ký hai người: Đầu tiên thọ ký cho A-nan, sau thọ ký cho La-hầu-la. Thọ ký cho A-nan có bốn:

  1. Thọ ký.
  2. Mới học sanh nghi.
  3. Giải thích nghi.
  4. Tổng kết vui mừng.

Trong phần thọ ký trước có văn xuôi, sau là kệ tụng. Văn xuôi trước nói hành nhân, kế nói đắc quả. Trong đắc quả có nói riêng về tuổi thọ dài lâu tức muốn nói lên nhân duyên A-nan hộ pháp nên đắc quả sống lâu.

“Bấy giờ trong hội…” là nói người mới học sanh nghi, sở dĩ nghi: Là do Đức Phật gia tăng Thần lực kia muốn phát tích A-nan cho nên sanh khởi niệm nghi này. “Bấy giờ, đức Thế tôn…” là giải thích nghi. Đức Phật Không Vương: là vua rốt ráo Không trong các Không. luận Trí Độ chép: Bồ-tát hành tánh Không, rốt ráo Không là Đức Phật hành. Đức Phật Thích-ca và A-nan đồng dùng rốt ráo Không làm gốc cho nên chép: đồng ở chỗ Đức Phật Không vương đồng phát tâm Bồ-đề, Đức Thích-ca phát tâm về sau siêng năng tu tập rốt ráo Không cho nên tự thành Phật. A-nan học rộng nên xếp vào thị giả, thầy và trò đồng khởi rốt ráo Không, ký và không ký đâu có gì nghi ư!

Hỏi: Siêng năng tu tập rốt ráo Không làm sao thành Phật, A-nan học rộng vì sao làm đệ tử?

Đáp: Nương tích mà chép: Đa văn là một hạnh trong các hạnh, siêng năng tinh tấn khắp các hạnh cho nên có thành và chưa thành tựu.

“A-nan mặt ở trước Đức Phật…” là lãnh giải khen ngợi, kế thọ ký cho La-hầu-la như văn. “Lúc bấy giờ đức Thế tôn…” là thọ ký cho người Hữu học, Vô học trước thọ ký, kế lãnh giải khen ngợi. “Vắng lặng thanh tịnh…” hiển rõ hai ngàn người biết các pháp xưa nay vắng lặng bổn tánh thanh tịnh cho nên có thể thọ vô sanh. Các văn khác dễ biết.

PHẨM PHÁP SƯ THỨ MƯỜI

Nay dùng bốn môn giải thích:

  1. Ý nghĩa có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Nói thể tướng.
  4. Thứ bậc.

I. Ý nghĩa: nói lược mười nghĩa:

1) Ở trên nương quyền, nương thật, gồm có bốn chương:

a) Lược bỏ quyền bày thật động chấp sanh nghi. Chấp động nghi sanh trình bày nghi đến xin.

b) Rộng bỏ quyền bày thật dứt nghi sanh tín, ba thứ nầy đã rồi, nay là thứ tư kế nêu truyền bá. Sở dĩ nêu truyền bá là trên chỉ một xứ, một thời lợi ích một hội, nhưng chúng sanh không cùng, đại bi không hạn nay muốn tất cả nơi, tất cả thời lợi ích tất cả mọi người cho nên nói về truyền bá.

2) Theo luận Trí Độ chép: Giải thích Bát-nhã có hai môn: a) Môn nói thẳng. b) Môn Xưng tán, nay cũng hai: Trên nói thẳng Pháp Hoa, dưới khen ngợi môn nói cho nên có các phẩm dưới.

3) Lại có hai môn: a) Môn trí tuệ. b) Môn phước đức.

Trên ba châu nói hai trí quyền thật gọi là môn trí tuệ, dưới đây nói về thọ trì đọc tụng công đức vô biên gọi là môn công đức.

4) Lại có hai môn: a) Môn thể. b) Môn dụng.

Trên ba châu nói rộng đại bi chánh quán không hai gọi là thể của Pháp Hoa, nay nói về thọ trì đọc tụng đúng như lời dạy tu hành năng sanh phước tuệ gọi là dụng của Pháp Hoa.

5) Căn cứ ở người lại có hai môn:

1/ Phước đức sâu dày chúng sanh hiện tại được gặp Phật thọ kinh Pháp Hoa.

2/ Phước đức cạn mỏng chỉ gặp kinh chứ không thấy Như lai, ba châu nói pháp, trên đến nay là người đức phước sâu dày, từ đây trở xuống là người phước đức mỏng cạn, luận Trí Độ chép: Phước đức dày tự thân theo pháp còn thọ Bát-nhã, người phước đức mỏng chỉ gặp văn tự kinh.

6) Chúng sanh có hai:

  1. Kết duyên nhiều với Phật.
  2. Làm thiện tri thức với Bồ-tát.

Trên đây vì Đức Phật kết duyên cho chúng sanh nói kinh Pháp Hoa rồi, nay vì các Bồ-tát kết duyên chúng sanh nói Pháp Hoa, cho nên đức Như lai ba châu nói xong phó chúc bốn y, khiến chúng có duyên khác đời đồng lợi ích.

7) Có hai môn: a) Đốt đèn. b) Nối đèn.

Đức Thích-ca tự nói bình đẳng đại bi gọi là khơi đèn, nay khuyên tất cả chúng sanh lần lượt mở mang truyền bá rộng khắp chúng sanh, cho đèn pháp không tắt thường chiếu gọi là nối đèn.

8) Giảng nói chánh pháp gồm có hai môn: a) Chính là nói môn. b) Chứng nói môn.

Từ trên đến nay nói về chính là nói rồi, từ đây trở xuống nói chứng minh nói. Cho nên tháp báu vọt hiện chứng minh nói không luống dối, khiến cho người chưa tin sanh tâm tin, người đã tin không lui sụt.

9) Như lai ra đời nói rộng chánh pháp gồm có hai môn: a) Chính là nói. b) Răn dạy và khuyên.

Nói khuyên là khiến cho chúng sanh thọ trì dẫn đến như nói tu hành. Nói răn dạy là người có một lời nói chê pháp và người mở rộng kinh có tội và phước vô biên, trên đây nói về môn chánh thuyết, từ đây trở xuống nói môn răn dạy và khuyên.

10) Nối kế văn thọ ký trên mà sanh. Như lai thọ ký gồm có hai thứ: a) Thọ ký riêng. b) Thọ ký chung.

Trên chỉ nêu thọ ký riêng chưa nói thọ ký chung thì nghĩa thọ ký chưa hết, nay muốn nói nghĩa thọ ký chung cho nên có phẩm này. Nói thông thọ ký riêng gồm có ba thứ.

1/ Thế chung riêng, trên chỉ biệt, nêu Đức Phật ở đời, người được thọ ký, nay thông nêu hai đời người được thọ ký.

2/ Nhân chung riêng, trên nói riêng người ba căn Thanh văn được thọ ký, nay nêu chung cả chốn u hiển phàm Thánh có dự nghe kinh sanh tâm tin đều được thọ ký.

3/ Thời chung riêng: Trên nói riêng kiếp số có hạn được thọ ký, nay nêu chung được thọ ký bất luận kiếp số kỳ hạn. Vì sao? Vì kiếp số có hạn chắc là ngộ sâu nay chung cả cạn sâu nên không nói về kỳ hạn.

Hỏi: Vì sao trao đủ thọ ký chung riêng?

Đáp: Kinh này nói về chỉ có Nhất thừa không có các thừa khác, tất cả chúng sanh đều thành Phật cho nên đều được Đức Phật thọ ký, cũng đều được Phật thọ ký thì nói lên chỉ có Nhất thừa, cho nên nêu thọ ký giải thích thành Nhất thừa.

1. Giải thích tên: Nói Pháp Sư: Pháp là pháp mầu bình đẳng chánh quán có thể làm phép tắc cho tâm nên gọi là Pháp, do người có khả năng trên mở rộng đại pháp, dưới làm thầy dẫn dắt chúng sanh nên gọi là Pháp Sư. Như thầy thuốc ở đời dùng thuốc trị bệnh cho người gọi là Dược Sư, không nói thuốc là thầy, Pháp Sư cũng như vậy, không nói là pháp làm thầy gọi là Pháp Sư, nhưng lại có dùng pháp làm thầy nên nói là Pháp Sư. Do đó kinh chép: Chỗ Chư Phật làm thầy, như nói là pháp, văn dưới cũng có ý nầy cho nên chỉ bày phương pháp mở rộng kinh thì lấy pháp làm thầy, nhưng tuy có hai việc mà hiệp thành một ý chỉ, trên đã làm thầy đối với pháp rồi sau mới vì người làm thầy.

2. Thể Tướng: Xưa nói năm hạng pháp Sư hiệp thọ trì làm một. Đại luận quyển sáu mươi lăm giải thích nghĩa thọ trì nói tín lực cho nên thọ, niệm lực nên trì, tức thọ là đầu trì là sau, lâu xa không quên mất mới là nghĩa trì, tức phân chia thọ trì làm hai nên thành sáu thứ, thành sáu hạng Pháp Sư, nếu cộng thêm chánh ức niệm thì thành bảy hạng Pháp Sư, nhưng nhiều ít thích nghi thời không định số. Hỏi: năm hạng Pháp Sư đủ bao nhiêu nghĩa nghiệp?

Đáp: Thọ trì gọi là ý nghiệp, biên chép gọi là thân nghiệp, đọc tụng là miệng nghiệp, đây đại khái mà nói thôi! Nhưng biên chép đầy đủ hai nghiệp, vận dụng tay chắc chắn trải qua ý đọc tụng v.v… đủ ba nghiệp. Căn cứ phước tuệ, nói pháp thường là trí tuệ, bốn thứ còn lại có thể thông cả hai.

3. Thứ bậc: nhưng nói chung: Hàng Thập Tín trở lên đều có khả năng mở rộng pháp làm thầy chúng sinh. Nói riêng thì theo kinh Niết-bàn chép: trong mười sáu phần giải nghĩa một phần là có khả năng vì vật làm thầy. Xưa nói truyền bá gồm có năm phẩm chia làm ba chương:

  1. Ba phẩm khiến tìm người mở rộng kinh.
  2. Phẩm Trì là nhận thọ lệnh mở rộng kinh.
  3. Phẩm An lạc là chỉ bày phương pháp mở rộng kinh.

Sở dĩ có ba chương này là do một châu nói pháp đã xong thì phải truyền bá, do đó tán pháp khen người khiến người kính mến mở rộng truyền pháp cho nên có chương thứ nhất khiến tìm người mở rộng kinh.; Như lai có bảo đại chúng thuận theo ý chỉ cho nên có thứ hai vâng lệnh mở rộng kinh. Nhưng đã ở trong đời ác muốn mở rộng thiện đạo phải gặp nhiều cản trở khó khăn, khiến an trú trong bốn pháp thì thân tâm rất an vui mới có thể mở rộng kinh truyền đạo lợi lạc, chúng sanh cho nên có thứ ba chỉ bày phương pháp mở rộng kinh.

Chương đầu lại có hai:

  1. Phẩm trước khiến tìm người mở rộng kinh.
  2. Hai phẩm chứng nói, nay nói đều là ý đây.

Nhưng một phẩm Pháp Sư chính là truyền bá, từ phẩm Hiện Bảo Tháp trở xuống riêng thuộc loại đọan lớn sau sẽ nói đầy đủ. Trong phẩm này có hai văn xuôi hai kệ tụng chia làm hai riêng.

  1. Một văn xuôi một kệ khen ngợi đức của người trì kinh khiến tâm họ vui mừng để khuyên mở rộng kinh.
  2. Một văn xuôi một kệ tụng khen ngợi chỉ bày cách mở rộng kinh để khuyên mở rộng kinh.

Văn đầu lại có hai: Trước văn xuôi sau kệ tụng. Văn xuôi chia làm hai:

  1. Khen ngợi đệ tử hai thời.
  2. Khen ngợi Pháp Sư hai đời.

Khen ngợi đệ tử hai thời tức có hai:

  1. Khen ngợi Phật ở đời đệ tử nghe pháp.
  2. Khen ngợi sau khi Phật diệt độ đệ tử nghe pháp.

“Nhân nói với Bồ-tát Dược vương để bảo tám muôn đại sĩ:”

Hỏi: luận Trí Độ chép: Nói môn trí tuệ đối với người xuất gia, nói môn công đức đối với người tại gia, nay vì sao nói môn trí tuệ đối với hàng Thanh văn? Nói môn công đức đối với Bồ-tát?

Đáp: hai Kinh đều có khác. Kinh kia nêu người xuất gia ưa trí tuệ người tại gia ưa công đức, kinh này nêu Thanh văn bị bệnh chấp Ba thừa cho nên nói đại bi bình đẳng để bác bỏ, do đó đối Thanh văn nói, Bồ-tát không có chấp nầy nên không đối. Đại Sĩ vốn muốn mở rộng đạo lợi người, nay truyền bá chính là việc ấy cho nên đối Bồ-tát nói công đức.

Lại ở trên bỏ ba bày một nghĩa ấy đã đầy đủ thì đều thành Bồ-tát không còn Thanh văn cho nên phải đối Bồ-tát. Lại theo ngài Long Thọ chép: Kinh này là pháp bí mật không thể phó chúc Thanh văn cho nên phó chúc Bồ-tát. Trong hàng Bồ-tát mà bảo riêng Dược vương: là do vị ấy tự thân nghe Pháp Hoa đắc ngộ xả bỏ thân mạng, tài sản để mở rộng pháp này, nay muốn cho các người khác học nên bảo Ngài. Sở dĩ nhân Bồ-tát Dược vương để bảo tám muôn đại sĩ ấy: vì tám muôn người này rất có duyên với đời mạt pháp, nay muốn cho tám muôn đại sĩ trên học Dược vương dưới lợi ích chúng sanh đời mạt pháp, nên nhân Dược vương mà bảo chúng.

“Dược vương! Ông thấy trong Đại chúng nầy”: gồm có hai nghĩa:

1/ Muốn cho Dược vương và tám muôn Đại sĩ truyền bá kinh này giúp cho thiện căn họ thành tựu, cho nên nêu hai đời đệ tử nghe kinh được thọ ký; khiến cho thầy biết, cho nên nói ông thấy không. Nếu ông mở rộng kinh hành hóa thì thành tựu, nếu không mở rộng kinh hành hóa thì không thành tựu, do đó bảo hỏi nói thấy không?

2/ Muốn đem phó chúc hai đời đệ tử cho Dược vương và tám muôn người. Như luận Kim cương Bát-nhã luận rằng: Do Bồ-tát căn cơ chưa thuần thục mà phó chúc, Bồ-tát căn thuần thục nên nói chúng hỏi. Một niệm tùy hỷ thì được thọ ký: nghe pháp nhất niệm thuận theo chí lý thì hợp với lý, hợp với lý nên sanh tâm vui mừng, liền tu hành tương ưng với Phật nên được Phật thọ ký. Lại mộtt niệm tùy hỷ thì biết chỉ một không hai, chắc sẽ thành Phật không lui sụt thành Nhị thừa, nên được Phật thọ ký. Chú giải kinh rằng: Có thể hiện tại nghe pháp một niệm tùy hỷ, thí như cây tùng cây bách nẩy mầm liền có thế vươn cao tận mây, nay nghe pháp tuy cạn nhưng cũng đã gieo trồng cội rễ Bồ-đề cho nên được thọ ký.

“Đức Phật bảo Dược vương: Lại sau khi Như lai diệt độ v.v…” là nói sau khi Phật diệt độ đệ tử nghe kinh được thọ ký. Sở dĩ có văn nầy, là do có hai nghĩa:

1/ Trước khiến tám muôn Đại Sĩ ở khắp thế giới Phật mười phương mở rộng kinh, nay sau khi Phật diệt độ mở rộng kinh.

2/ Có người nghi: Phật ở đời thì chúng sanh phước đức lợi căn nghe pháp tùy hỷ có thể được thọ ký, sau khi Phật diệt độ thì phước mỏng căn độn tuy là tùy hỷ mà không được thọ ký, vì vậy nên giải thích rằng: chỉ khiến nghe kinh tin hiểu công đức đồng đẳng đều được thọ ký.

“Nếu lại có người…” là khen ngợi công đức của hai đời Pháp Sư, sở dĩ trước nêu công đức đệ tử sau nêu công đức pháp sư là vì có ba nghĩa:

1/ Từ cạn đến sâu, trước khen ngợi đệ tử công đức cạn, nay khen ngợi Pháp Sư công đức sâu.

2/ Trước nêu đệ tử xuất tướng sở hóa, nghĩa là nghe kinh tùy hỷ liền được thọ ký gọi là tướng sở hóa. Nay nói công đức Pháp Sư xuất ra tướng mạo người năng hóa, có tướng mạo này nên gọi là Pháp Sư.

3/ Trên bảo Dược Vương nêu hai đời đệ tử khiến thầy biết đệ tử, nay xuất tướng mạo Pháp Sư khiến đệ tử biết thầy, do thầy trò biết nhau thì nghĩa mở rộng pháp hóa người thành tựu. Văn chia làm hai phần:

  1. Nói riêng hai đời công đức Pháp Sư.
  2. Nói chung về tin và chê.

Phần một lại có hai:

  1. Nếu Phật tại thế có hai thứ Pháp Sư.
  2. Biện sau khi Phật diệt độ hai thứ Pháp Sư.

Đầu nêu hai thứ Pháp Sư tức chia làm hai biệt:

  1. Hạ phẩm.
  2. Thượng phẩm.

Phẩm Pháp Sư địa vị đã nhiều nay nói lược hai phẩm thượng hạ. Nói theo vị: Y theo người đầu là hạ phẩm, ba người còn lại dựa theo làm là thượng phẩm. Sở dĩ phân chia hai thứ này: Người đầu đầy đủ phiền não đã là địa vị phàm phu nên gọi là hạ phẩm, ba người sau đồng là vị Thánh nên hiệp làm thượng phẩm. Nhưng theo nghĩa vị khó biết, tạm mượn một môn để làm thứ lớp.

Người đầu có bốn ý:

1- Nói hiện đức tức nêu ra tướng mạo Pháp Sư, nghĩa là có tướng mạo nầy thì gọi Pháp Sư.

2- “Dược vương nên biết…” là nói ra nhân xưa thành Pháp Sư tức nói về đức của Pháp Sư quá khứ. “Thành tựu đại nguyện:” là nêu người này đã từng cúng dường nhiều Đức Phật nên sanh tịnh độ chỉ thành tựu đại nguyện nên đến sanh trong nhân gian.

“Dược vương! Nếu có người hỏi:..” nêu Pháp Sư này đời vị lai đắc quả, người này đã từng mở rộng truyền truyền bá Đại thừa trong hiện tại, quá khứ gieo trồng nhân chứa nhóm lâu xa cho nên nhất định thành Phật. “Vì sao?…” là nói nhân hiện tại giải thích quả tương lai. “Người ấy tất cả thế gian…” là nói khuyên chúng sinh cúng dường người ấy. Do nói đủ công đức của ba đời Pháp Sư thì đó là ruộng phước vô thượng sơ tâm Phật cho nên phải lấy sự cúng dường Phật mà cúng dường người đó. Lại mở rộng Phật đạo nên lập ra như cúng dường Phật.

“Huống lại là người hay thọ trì…” là nói Pháp Sư thượng phẩm, người này văn lý đều đủ nên nói hay thọ trì. “Nếu người thiện nam thiện nữ…” là nói sau khi Phật diệt độ có hai thứ pháp Sư, cũng trước nêu hạ phẩm kế nêu thượng phẩm, hai phẩm này khác hai phẩm trước; trước y cứ mở rộng pháp rộng lược để chia hai phẩm, nay vì người nhiều ít để phân hai phẩm. “Là sứ giả của Như lai:” là tuyên chuyển giáo lệnh nên gọi là sứ. “Sai làm việc của Như lai là truyền bá tôn chỉ của Như lai, chắc đáng uỷ thác dùng lý gọi sai làm. Làm việc của Như lai: Đức Phật dùng lợi vật làm việc, mở rộng nói có ích gọi là làm việc Như lai. “Huống chi ở trong đại chúng rộng cho người nghe:” là nói Pháp Sư thượng phẩm.

“Dược vương! Nếu có người ác v.v…” nói chung tin và chê, căn cứ văn có hai:

  1. Nêu chê mắc lỗi lớn.
  2. Tin được phước lớn.

Sở dĩ nói tin chê gồm có hai nghĩa:

1/ Như lai ra đời muốn chỉ bày hai môn tội phước cho chúng sanh, nên Đại Phẩm chép: Nếu không nói việc ma, tội ma thì đó là ác tri thức của chúng sanh.

2/ Trên nói hai thứ pháp Sư khi truyền bá chánh pháp, không nên khinh chê cần phải cúng dường, chê bai người trì kinh tội nặng hơn chê Phật, tức là nói rộng nghĩa tội phước gồm có hai thứ:

  1. Căn cứ tâm.
  2. Căn cứ cảnh.

-Căn cứ tâm: tâm nặng thì tội nặng tâm nhẹ thì tội nhẹ, nếu vậy tâm chê Phật nặng, thì mắc tội nặng, tâm chê Phật nhẹ thì mắc tội nhẹ, chê người trì kinh cũng như vậy, không nên nói chê bai Phật tội nhẹ chê bai người trì kinh tội nặng.

-Căn cứ cảnh: Nếu chê bai cảnh cao quý thì tội nặng chê cảnh xấu thì tội nhẹ, cũng không nên nói chê bai Phật tội nhẹ chê bai người trì kinh tội nặng. Đã không căn cứ tâm cảnh làm sao giải thích văn này ư! Có người chép: Chê mắng Phật không làm dứt pháp nên tội nhẹ, chê bai người mở rộng kinh ý làm dứt pháp nên tội nặng. Sở dĩ như vậy là do người đây, mở rộng pháp nên bị chê mắng, người này tức mắng lại người chê bai pháp tội gồm hai thứ cho nên nặng. Ngài Trúc Đạo Sanh chép: Pháp xuất từ Phật, nếu nghe nói chê mắng Phật thì người này chẳng phải chê mắng pháp do đó tội nhẹ. Nay thọ trì hữu ngã nếu chê bai chính là hủy mạ người có pháp chính là chê bai pháp. Nay nói Phật do lìa tám thứ gió không còn lo buồn tuy là bị chê mà không trở ngại chánh hóa, nay người mở rộng kinh còn là phàm phu chưa thoát bát phong, nếu gặp bị hủy báng thì tâm thoái hối hận không thể mở rộng pháp, pháp đã không mở rộng liền không có người hành pháp, đã không người hành pháp thì ai thành Phật ư! Do dứt hạt giống Ba bảo cho nên tội nặng. Lại người mở rộng kinh nghe bị chê bai thì chướng ngại tự mình không được thành Phật, cũng chướng ngại hóa tha nên người khác cũng không thành Phật thì tội nặng. Đức Phật nghe chê bai đều không ngăn ngại tự hành hóa tha nên tội nhẹ.

“Dược vương! Có người đọc tụng kinh…” khen ngợi người mở rộng kinh phước nặng. “Dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình”: Đức Phật dùng pháp chánh quán trang nghiêm ở người, người mở rộng kinh cũng nhập chánh quán nên dùng pháp trang nghiêm người, lại Đức Phật trú Đại thừa dùng muôn đức mà tự trang nghiêm, hạnh của người mở rộng kinh tương ưng với Phật, cũng tùy phần đủ muôn đức của Phật. “Thời được Như lai dùng vai mang vác”: là Như lai mang vác, người trì kinh đã là người mở rộng pháp, Đức Phật do cung kính pháp, nên gánh vác sở mở rộng cũng gánh vác người năng mở rộng.

Kệ chia làm ba:

  1. Hai bài tụng thứ nhất, hai đời đệ tử khuyên cúng dường hai hạng pháp Sư gồm tự thọ trì.
  2. Mười ba hàng tụng hai hạng pháp Sư trên.
  3. Một bài khen ngợi pháp giải thích thành khen người v.v…

Hai bài đầu lại chia hai riêng: Nửa bài trên nêu muốn thành tựu trí tự nhiên, đây là trí vô công dụng. Một bài rưỡi nêu tuệ Nhất thiết chủng trí, đây là nói hai thứ trí: nhất thiết chủng trí chiếu hữu trí. Tuệ: Nhất thiết trí chiếu không tuệ.

“Nếu người hay thọ trì v.v…” mười ba hàng lại chia làm hai:

  1. Bảy hàng tụng hai đời pháp Sư.
  2. Sáu hàng tụng trước tin chê.

Căn cứ đầu lại có hai:

  1. Bốn hàng tụng Phật tại thế có hai thứ pháp Sư.
  2. Ba hàng tụng sau khi Phật diệt độ có hai hạng pháp Sư.

Căn cứ đầu lại có hai:

  1. Một bài tụng hạ phẩm.
  2. Ba hàng tụng thượng phẩm.

Sau khi Phật diệt độ cũng có hai: Hai bài tụng thượng phẩm, một bài tụng hạ phẩm. Kế tụng tin chê cũng có sáu hàng: Hai bài tụng chê mắc tội, bốn hàng tụng cung kính được phước, cúng dường người trì kinh hơn cúng dường Phật, cũng không căn cứ ruộng phước và tâm, chỉ được cúng dường khen ngợi thì tăng tiến tự hành hóa tha, Đức Phật thì

không đúng cho nên hơn Phật. Nhưng luận Trí Độ nói cúng dường mười phương Bồ-tát Bổ xứ không bằng Phật, đây là căn cứ ruộng phước hơn kém tốt xấu .

“Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo ngài Dược vương”… Sở dĩ có văn này gồm có bốn nghĩa:

1/ Trên khen ngợi người nay khen pháp, do khen ngợi người khen pháp mà thành nghĩa truyền bá.

2/ Trên khen ngợi người nói người làm Pháp Sư, nay khen pháp lấy pháp làm Pháp Sư, muốn giải thích thành nghĩa Phẩm Pháp Sư có hai hạng pháp Sư cho nên có văn này.

3/ Trên khen ngợi người mở rộng kinh được vô lượng phước, nay khen pháp thì sanh tuệ vô biên, do phước tuệ đầy đủ nên nghĩa truyền bá thành.

4/ Trên chánh khen ngợi người mở rộng kinh, nay chỉ bày phương pháp mở rộng kinh; giải thích thành nghĩa mở rộng kinh trên. Cũng có văn xuôi và kệ tụng.

Văn xuôi có ba:

  1. Tán pháp sở mở rộng.
  2. Nêu phương thức mở rộng pháp.
  3. Nêu lợi ích mở rộng kinh, ba thứ này tức là thứ lớp.

Phần đầu có năm:

  1. Căn cứ pháp khen ngợi.
  2. Căn cứ người khen ngợi.
  3. Căn cứ xứ khen ngợi.
  4. Căn cứ hành khen ngợi.
  5. Căn cứ nghĩa được, mất hiển thành khen ngợi.

Kinh điển của ta nói nhiều vô lượng ngàn muôn ức: Nghĩa là từ Hoa Nghiêm về sau đến trước Linh Sơn các giáo chẳng phải một. Đã nói hiện nói sẽ chép: nói lược ba phen nói gồm nhiếp tất cả giáo. Đã nói: là tất cả Đại Tiểu thừa giáo trước Pháp Hoa. Hiện nói: là Pháp Hoa. sẽ nói: là Pháp Hoa về sau đến Niết-bàn. “Mà ở trong đó Kinh Pháp Hoa rất hó tin khó hiểu:” Trước Pháp Hoa Đại tiểu chia dòng kia nói dễ tin, sau Pháp Hoa ba, một đã hợp cũng chẳng khó hiểu, kinh này mở cửa phương tiện hiển nghĩa chân thật, bắt đầu trở lại ba mới qui về một, đối với người xưa chấp khác cho nên khó tin khó hiểu, đầu tiên không thọ nhận gọi là khó tin sau không ngộ gọi là khó hiểu. Lại bỏ ba về một, bác bỏ ngắn nêu dài gọi là khó tin, chẳng ba chẳng một không ngắn không dài gọi là khó giải. “Kinh này là tạng bí yếu của Chư Phật không thể phân chia vọng trao cho người:” Kinh này nói về hai quyền hai thật, lời nói về lý đầy đủ nên gọi là yếu, xưa ẩn mà không truyền gọi là bí, như người dấu vật báu bên trong gọi là tạng cho nên không thể vọng trao cho người. “Kinh này là của Chư Phật giữ gìn từ xưa đến nay không hề bày nói:” là giải thích tạng bí yếu trên. Nói giữ gìn: Nhưng pháp tướng vắng lặng không cần giữ gìn chẳng phải pháp khí mà vọng truyền cho họ thì liền phá pháp, do đề phòng phá pháp nên gọi là giữ gìn. “Mà chính Kinh này khi Như lai đang hiện tại còn nhiều người oán ghét”, là giải thích trên không thể phân chia vọng trao cho người, tất cả chúng sanh khắp nơi đều đắm nhiễm, Đại thừa khắp nơi bị phá trái với thế gian nên gọi là oán. “Huống chi sau khi Như lai diệt độ”: Khi Phật còn tại thế phiền não còn mỏng mà còn có người không tín nhận, huống chi sau khi Như lai diệt độ điên đảo sâu dầy mà có thể giải ư!

“Dược vương nên biết…” là dựa vào người khen ngợi gồm có năm việc khen ngợi. Được Phật lấy y trùm cho. Chú giải kinh chép: lấy nhất cực làm vạt áo phủi bay đeo bám không có đoạn thường, giải từ Phật đến cho nên nói được Phật lấy y che cho. “Lại các Đức Phật ở phương khác…” Được Phật hộ niệm khen ngợi, do hạnh của người mở rộng kinh tương ưng với Phật nên được Phật hộ niệm, khiến ngoại đạo kẻ ác không xâm phạm hủy phá là hộ, bên trong sanh thiện là niệm. “Người đó có sức tin lớn v.v…” là thiện bên trong thành tựu khen ngợi. Tin đối với Ba thừa gọi là tiểu tín, nay tin Nhất thừa gọi là đại tín. Ban đầu có sức tin kế khởi đại nguyện, thì tâm Bồ-đề gọi là sức chí nguyện kế tu hạnh Bồtát gọi là sức các gốc lành, ba thứ này là thứ lớp. “Phải biết người đó ở chung với Như lai…” khen ngợi cùng ở chung có hai thứ:

1/ Tự hành luận ở chung: lý Nhất thừa là nơi Phật dừng nghỉ, người mở rộng kinh cũng ở trong đó nên nói là ở chung.

2/ Hóa tha ở chung: Đức Phật lấy sanh tử làm đêm dài, ứng tích ở trong sanh tử nói kinh cho chúng sinh nghe làm chỗ nghỉ, người này năng nhập lý mở rộng kinh xen dự vào ứng tích gọi là ở chung. “Được đức Như lai lấy tay xoa đầu v.v…” cha mẹ thương nhớ con nên dùng tay xoa đầu, người trì kinh đã là Phật tử lý nên trọng ái. Chú giải kinh rằng: Tay xoa là tiêu biểu người mở rộng pháp được dừng nghỉ, đầu là tiêu biểu kia tu hành cao. Lại giải thích Đức Phật dùng tay trí Nhất thừa xoa đỉnh tâm kia, khuyến họ thọ trì cho nên nói lấy tay xoa đầu.

“Dược vương! Nơi nơi chỗ chỗ…” là nương xứ khen ngợi. Trước nêu ở người thì người tôn trọng, nay nêu tại xứ thì xứ đáng quí. “Chẳng cần để Xá-lợi: Luận Pháp Hoa chép: Kinh này nói đủ ba hạng Phật Bồđề, cho nên trong mười bảy tên có một tên gọi là Vững chắc Xá-lợi, chân như Pháp thân của Như lai ở trong kinh này thường không hoại cho nên không cần an trí thân Xá-lợi.” Dược vương! Có rất nhiều người…” là căn cứ hành khen ngợi. Văn chia làm bốn:

1) Pháp. 2) Thí. 3) Hiệp. 4) Giải thích.

Pháp nói hai cặp: Nêu khéo hành và không khéo hành một cặp: Nếu chưa nghe Pháp Hoa bỏ quyền bày thật chưa tinh thông đạo quyền thật thì hành Đạo Bồ-tát còn tự sợ hãi, hoặc nói tiến thành Phật đạo hoặc có thể thoái trụ Nhị thừa cho nên không khéo hành, do được nghe kinh này có một không ba thẳng tiến không thối lui nên gọi là khéo hành. Lại chưa nghe kinh này bỏ quyền bày thật thì chưa hiểu biết hai tuệ không thể hóa vật, không gọi là khéo hành, trái với ở đây gọi là khéo hành. Lại không nghe kinh này nói về thân quyền thân thật thì không nhàm chán sanh tử ưa thích thân Phật cũng là chưa khéo hành, trái với ở đây gọi là khéo hành.

“Có chúng sanh nào…” là nói về gần Bồ-đề không gần Bồ-đề, bản tiếng Phạn đầy đủ, nay dịch lược nên chỉ có gần. “Dược vương! Thí như có người v.v…” nói thí nói, thí đây chỉ có hai ý:

  1. Nói cách Phật xa.
  2. Cách Phật gần.

Thí như có người: là người cầu Phật đạo. Khát tìm: là tâm chí kia cầu Phật mạnh mẽ như khát đi tìm nước. “Ở nơi gò cao kia soi đào tìm kiếm vẫn thấy đất khô biết rằng nước còn xa”: Nay phải tiến lùi luận nghĩa này:

  1. Căn cứ trước Pháp Hoa nói về nghĩa cách Phật đạo còn xa.
  2. Căn cứ Pháp Hoa tự luận nghĩa xa.

Căn cứ trước Luận Pháp Hoa nghĩa xa có hai:

1/ Ở trong Giáo Nhị thừa cầu Phật cách đạo xa, cho nên Đại Phẩm chép: Dùng Kinh Thanh văn cầu Bồ-đề gọi là không xét.

2/ Ba tạng về sau các kinh Đại thừa chưa bỏ Nhị thừa, ở trong giáo đó cầu Phật đạo cũng có nghĩa xa, dùng trong giáo này nói về Đại thừa chính cùng Pháp Hoa không khác, chỉ chưa phế bỏ Nhị thừa tức mới hành Bồ-tát còn chưa hiểu rõ quyền thật, lại còn trông mong lo sợ thì tâm cầu Phật không quyết định, căn cứ một bên này thì có cầu Phật xa. “Ra công đào không thôi”: là Pháp Hoa sanh Văn tuệ. “Dần thấy đất ướt”: đối với kinh này sanh tư tuệ. “Lần thấy đến bùn”: kinh này sanh Tư tuệ. “Tâm người ấy quyết định biết rằng nước sẽ gần”: Đã sanh ba tuệ biết nước Phật tánh đã gần.

Hỏi: Vì sao luận Pháp Hoa dùng nước dụ cho Phật tánh ư?

Đáp: Chính nói nước ẩn dưới đất như Phật tánh không nói lên cho nên nước dụ Phật tánh.

Ngài Trúc Đạo Sanh chú giải Kinh Pháp Hoa rằng:

1/ Đây là đối với giáo Tiểu thừa cầu Phật cho nên biết cách Phật xa. Theo giáo Pháp Hoa cầu Phật nên cách Phật gần.

2/ Căn cứ Kinh Pháp Hoa tự nêu gần Phật xa Phật; nếu bẩm thọ Pháp Hoa chưa sanh Ba tuệ thì cách Phật xa, nếu đã sanh Ba tuệ thì cách Phật gần.

Hỏi: Vì sao căn cứ giáo Pháp Hoa luận về gần xa ư?

Đáp: Chỉ nói một cao nguyên cầu tìm nước có gần xa, chỉ là một pháp Hoa giáo cầu Phật có gần xa. Cao nguyên dụ cho giáo Pháp Hoa, giáo Pháp Hoa đối với Nhị thừa là khó tin nên gọi là cao nguyên. Lại chấp Phật đạo khó đắc làm dụ nên nói ở cao nguyên tìm cầu nước. Xoi đào tìm kiếm: Nghĩa là viết chép thọ trì như xoi đào. Vẫn thấy đất khô cách nước còn xa: Do chưa sanh ba tuệ nên cách Phật xa. Thi công không thôi: là đọc tụng giải thích như nói tu hành thâm cầu Pháp Hoa phát sanh ba tuệ nên cách nước gần.

“Bồ-tát cũng giống như vậy v.v…” Hiệp thí. Cũng được dựa theo hai nghĩa giải thích:

1/ Chưa nghe Pháp Hoa chưa sanh ba tuệ nên cách Phật xa, nếu nghe Pháp Hoa phát sanh ba tuệ nên cách Phật gần.

2/ Tuy nghe Pháp Hoa chưa sanh văn tuệ cũng gọi là chưa nghe nên cách Phật xa, nếu nghe Pháp Hoa phát sanh ba tuệ nên cách Phật gần. Vì sao? v.v…” là giải thích. Ba Bồ-đề đều thuộc kinh này, kinh này nói về ba Phật Bồ-đề cho nên ba Phật Bồ-đề đều thuộc kinh này, lại ba Phật Bồ-đề đều từ kinh này ra cho nên đều thuộc kinh này. Kinh này mở phương tiện muốn chỉ bày tướng chân thật, mở hai thứ phương tiện chỉ bày hai thứ chân thật, xưa không nói hai thứ là phương tiện cho nên đóng cửa phương tiện, phương tiện thì không được chỉ bày hai thứ chân thật, nay nói hai thứ là đóng cửa phương tiện thì mở cửa phương tiện, mở cửa phương tiện nên được chỉ bày hai thứ là chân thật. “Tạng kinh Pháp Hoa này sâu xa kín vững chắc mầu nhiệm không có người đến được”: hai quyền hai thật ẩn chứa trong kinh này gọi là tạng, sâu kín khó lường gọi là thâm, xưa nay không thay đổi gọi là vững chắc, kiếm tìm mờ thẳm gọi là kín, thăm thẳm không đến kịp gọi là xa, Thập trú chưa hiểu rõ gọi là không có người đến được. Nay Phật giáo hóa: Vì nghi giải thích, nghi rằng: Nếu không có người đến được thì chúng sanh làm sao được hiểu ư? Vì vậy nên giải thích rằng: Vì giáo hóa Bồ-tát cho nên khai thị khiến được tin hiểu. “Dược vương! Nếu có Bồ-tát v.v…” theo nghĩa được, mất để khen ngợi. “Kinh nghi sợ sệt”: Chẳng phải chỗ đáng sợ làm sợ, do một phen nghe không có ba trái với bổn tình kia là sợ đâu phải Phật nói ư? Cho nên nghi, nếu nói không có ba tức là hủy báng pháp cho nên sợ, hoàn toàn không dám quyết gọi là sợ tâm có lo sợ gọi là sợ. Bồ-tát gọi là tân học, nhị thừa gọi là tăng thượng mạng, nghĩa là hàng Thanh văn tự cho mình đã đầy đủ nên gọi tăng thượng mạn. Do Bồ-tát xưa không nghe nay bỗng nghe không cho mình đã đủ nên gọi là tân học. Lại có văn nầy, tức là đời vị lai có tướng như vậy thì chớ nói cho họ nghe Kinh Pháp Hoa, nên nói giáo Ba thừa cho họ nghe.

“Dược vương! Nếu có thiện nam thiện nữ…” Nêu bày phương pháp mở rộng kinh, văn lại có bốn trường hợp: là phương pháp thỉnh nói. “Người thiện nam thiện nữ đó v.v…” là chỉ bày phương pháp nói. “Nhà Như lai v.v… là giải thích phương pháp nói. “An trú trong đây…” là tổng kết phương pháp nói. Từ bi có công che chở dụ như nhà, nhẫn nhục làm dừng dung mạo san nhuế, ác như áo che xấu, Không là nói an dưỡng tinh thần, như tòa là chỗ an nghỉ của thân, ba môn nầy tức là thứ lớp. Đại bi cứu khổ đại từ ban vui, bởi là nền tảng gieo giống giác ngộ, là bổn ý của việc mở rộng đạo, muốn nói pháp mầu nhiệm nên trước kiến lập tâm này. Cho nên thứ nhất nói vào nhà Như lai, đây là khuyên răn Bồ-tát chớ vì lợi dưỡng danh văn thế lực đồ chúng chỉ khởi từ tâm bi nói pháp cho chúng sinh nghe. Đã ở trong đời ác muốn mở rộng thiện đạo ắt gặp nhiều nạn cần phải nhẫn nhục cho nên kế nói về mặc áo nhẫn nhục, từ bi bên ngoài che, hòa nhẫn bên trong an, nếu không có Không oán trống sáng thì hai hành chẳng thành không do đâu ngộ vật cho nên kế nói ngồi nơi rốt ráo không. “Không biếng nhác nói pháp”: Trên nói ý nghiệp, nay thân miệng nghiệp.

Hỏi: Kinh Tịnh Danh chép: Từ tâm bi là nữ, rốt ráo Không vắng lặng là nhà, Bốn thiền là tòa ngồi cùng nay vì sao khác nhau?

Đáp: hai kinh đều có một nghĩa, kia nói về từ bi có công năng dưỡn dục có dụng thích hợp hóa độ cho nên dụ như nữ, nay lấy nghĩa công cứu khổ ban vui ở che chở cho nên dụ như nhà. Kia nói về rốt ráo Không thông suốt không hệ lụy có thể chướng, không phải gió, mưa pháp cho nên dụ như nhà, Nay nói về ý huyền diệu trùng trùng sợ sệt có thể xếp vào chỗ an thần nghỉ ngơi cho nên gọi là tòa.

“Dược vương! Bấy giờ ta ở nước khác…” nói về lợi ích để biết giáo sở mở rộng lại thông đạt phương thức mở rộng giáo liền cảm việc tốt đẹp thì gọi là lợi ích, sở dĩ nêu linh thuỵ là sắp khuyên người mở rộng kinh gồm có bốn việc:

  1. Sai hóa chúng.
  2. Sai thật chúng.
  3. Thấy thân Phật.
  4. Lại được nhớ pháp.

Sai hóa chúng: cúng dường Pháp Sư, người dẫn dắt thật, quyền hộ Pháp Sư. Sai thật chúng: cũng đủ ba nghĩa: Lại khiến thật chúng được lợi ích. Thường thấy thân Phật: Người mở rộng kinh nếu thường ở trong chánh quán thì thường thấy thân Phật. Cho nên Hoa Nghiêm chép: tất cả pháp không sanh tất cả pháp không diệt, nếu hiểu được như vậy hiểu Chư Phật thường hiện tiền. Chỉ vì người tu hành không thể thường tại trong chánh quán thường thường được thấy thân Phật.

Kệ chia làm ba:

  1. một bài nói chung khuyến khích.
  2. Mười lăm hàng rưỡi chính tụng văn xuôi.
  3. Hai bài kết khen ngợi người nói pháp.

Tụng trên thứ hai văn xuôi có ba đoạn chia làm ba: Bốn hàng tụng khen ngợi pháp, trên khen ngợi pháp có năm, nay chỉ tụng thứ tư nương tu hành khen ngợi, Trong văn xuôi nương tu hành khen ngợi có bốn, pháp, thí, hiệp, giải thích, nay chỉ tụng thí, hiệp có hai. “Quyết rõ pháp Thanh văn:” Xưa chưa bỏ quyền bày thật thì chưa biết Thanh văn, chẳng phải là rốt ráo, nay bỏ quyền bày thật định biết Thanh văn chẳng phải đến tột cùng mới là phương tiện nhập Đại thừa. Nói Kinh vua là: kinh này đối xưa nay quyền thật khai hiệp tự tại cho nên gọi là vua, lại độc nhất vô nhị cũng gọi là vua. “Nếu người nói kinh này…” bốn hàng rưỡi tụng phương pháp mở rộng kinh. “Sau khi ta diệt độ…” bảy hàng tụng cảm nơi linh thuỵ, văn trên có bốn, nay chia làm năm nhưng không có thứ lớp:

1) Ba hàng tụng sai hóa chúng. 2) Một bài rưỡi tụng thấy thân Phật… 3) Nửa bài tụng lại được nhớ pháp. 4) Một bài lặp lại tụng thấy thân Phật. 5) Một bài tụng sai thật chúng.

PHẨM HIỆN THÁP BÁU THỨ MƯỜI MỘT

Phẩm này giải thích khác nhau gồm có ba chép:

1/ Đạo Lãng ở Hà Tây v.v… chép: Từ văn này xuống dưới là đoạn lớn thứ hai nói về quả Nhất thừa.

2/ Pháp Sư Quang Trạch nói: Phẩm nầy còn thuộc chương trước làm chứng trên nói không sai.

3/ Ấn Pháp Sư chép: Phẩm này gồm đủ hai nghĩa: Chứng minh trên nói không dối và vì khai nghĩa thọ mạng ở sau. Nay đồng với ý chứng minh thứ ba trước khai sau mà dùng khai sau làm chánh.

Nói chứng minh trước: Chứng nghĩa trên bỏ quyền bày thật không dối, sở dĩ cần chứng minh ấy:

1/ Là dứt tâm nghi, trong chúng còn có tâm nghi, như khi nghe đức Đại Thông Trí Thắng nói cũng có sanh nghi, cho nên nay phải chứng nói đoạn tâm nghi kia.

2/ Vì người đã tin được thêm lớn gốc lành khiến không thoái chuyển, như bảy chỗ tám hội trong Hoa Nghiêm nói pháp đã xong Bồtát mười phương đến mà làm chứng; kia do Bồ-tát nói nên Bồ-tát đến làm chứng, nay do Phật nói nên Phật đến làm chứng.

Nói khai sau: Kinh này đầu đến cuối hai phần lược có mười việc khác nhau.

1/ Hóa chủ khác nhau: Nói phần đầu kinh chỉ dùng một Đức Phật Thích-ca là hóa chủ, nói phần kinh sau thì có nhiều Phật, nghĩa là mười phương Phật phân thân và đức Đa Bảo quá khứ, vì sao? Là vì phần đầu kinh chỉ nêu Pháp sở thừa chưa nói người năng thừa cho nên không cần nhiều Phật, nhóm họp Phật mười phương phân thân là muốn nói lên bổn một tích nhiều, khai mở tháp báu thị hiện ứng diệt chân thật cho nên phần đầu kinh chỉ nói về 1 Đức Phật, phân sau kinh nói nhiều Phật.

2/ Nơi nói có tịnh uế khác nhau: Nói phần đầu kinh ở cõi uế, phần sau kinh nói ở cõi tịnh, cho nên Luận Pháp Hoa chép: Thị hiện cõi nước vô thượng cho nên hiện tháp Đa Bảo, Vì sao như vậy? Là vì nói phần đầu kinh chưa nhóm họp phân thân cho nên không biến thành tịnh, nói phần sau kinh đều nhóm họp phân thân do đó biến thành tịnh. lại nói phần trước kinh tuy khai thừa quyền thừa thật còn che lấp thân quyền thân thật, chúng sanh tâm cấu một nửa còn tự chưa tịnh cho nên cõi còn uế, đến phần kinh sau đều che hai quyền đều chia hai thật thì tâm cấu sẽ trừ cho nên cõi nước thanh tịnh.

3/ Nơi nói không hữu khác nhau: Nói phần đầu kinh có chỗ ở núi Linh Sơn, nói phần sau kinh năng hóa sở hóa đều bay lên hư không, vì sao? Vì nói phần Kinh đầu tháp báu chưa hiện chớ nên ở dưới đất nói pháp, phần Kinh sau tháp báu bay lên hư không cho nên trên hư không nói pháp. Lại nói phần kinh đầu chưa nói thân Phật vô sanh diệt, do nói về có sanh diệt nên có chỗ, nói phần sau kinh hiển pháp thân như hư không; phương tiện có sanh diệt cho nên bay lên hư không nói pháp.

4/ Đồ chúng khác: Nói phần đầu kinh chúng Bồ-tát ít, nói phần sau kinh chúng thọ đạo nhiều, vì sao? Vì đầu kinh chỉ vì người ba căn Thanh văn chưa chánh vì Bồ-tát cho nên chúng Bồ-tát ít, nói phần sau kinh muốn nói lên đức Thích-ca thành Phật đã lâu; lại nói về Bồ-tát vọt lên xuất hiện chúng nhiều nói lên đức Thích-ca thành Phật đã lâu; lại nói về pháp thân quả đức khiến Bồ-tát tu tập thủ chứng, cho nên nói chúng Bồ-tát nhiều. Lại nói phần đầu kinh có Ba thừa tạp chúng, nói phần sau kinh chỉ có chúng Bồ-tát, vì sao? Vì phần đầu kinh chính hội ba qui nhất cho nên nói chúng Ba thừa, phần sau kinh gom ba đã xong chỉ khiến Bồ-tát tu nhân chứng quả Phật cho nên chỉ có chúng Bồ-tát.

5/ Thời tiết khác nhau: Nói phần đầu kinh thời gian ngắn nói phần sau kinh thời gian dài, vì sao? Vì phần đầu kinh chưa nói về Bồ-tát Dũng xuất hỏi han Đức Phật nên thời gian ngắn, phần sau kinh nói về dũng xuất với chúng nhiều hỏi han nên thời gian dài. Lại nói hỏi han thời lâu hiển bày dng xuất chúng nhiều, do dũng xuất chúng nhiều nên nói lên đức Thích-ca thành Phật lâu xa, phần đầu chưa nói nghĩa này cho nên không biện thời gian dài.

6/ Xin chủ khác nhau: Nói phần đầu kinh Thanh văn đứng đầu xin, nói phần sau kinh Di-lặc đứng đầu xin, vì sao? Vì nói thừa quyền thừa thật chính là gom ba về một khiến Thanh văn bỏ Tiểu về Đại cho nên Thanh văn đứng đầu xin. Nói phần sau kinh nói về thân quyền thân thật, khiến người tìm tòi học Bồ-tát đắc chứng vô sanh pháp nhẫn của Như lai cho nên Di-lặc đứng đầu xin.

7/ Nói pháp có khác: Trên nói pháp sở thừa nay nói nhân năng thừa, nói pháp sở thừa chỉ nói về đức Thích-ca một kỳ giáo môn từ đầu đến cuối, nói pháp thì lược, người năng thừa tự theo quá khứ ban đầu đắc đạo cho đến cuối cùng tất cả các giáo ở kiếp vị lai cho nên nói pháp thì rộng.

8/ Lợi ích có khác nhau: Nói quyền thừa thật thừa chỉ khiến Thanh văn bỏ Tiểu về Đại nhập vào Thập tín nghĩa lợi ích nông cạn, lại đắc lợi ít; nói thân quyền, thân thật khiến vô số Bồ-tát được mười hai lợi ích sâu xa lại được lợi nhiều, vì sao? Vì phần đầu kinh chỉ khai thừa quyền thừa thật còn che thân quyền thân thật cho nên lợi ích thì ít, phần sau kinh đều phế bỏ hai quyền song hiển hai thật cho nên giáo không chút ẩn, lý không mảy may che cho nên người đáng đắc đạo đều lãnh ngộ nên được lợi ích nhiều.

9/ Tướng lành có khác nhau: Do phần trước nói lược ba điềm lành cho đến một muôn tám ngàn cõi, phần sau nói rộng tám điềm lành nơi hiện điềm lành rộng nhiều, mỗi phương có bốn trăn muôn ức na do tha nước.

10/ Công đức có khác nhau: Trước lược khen ngợi khéo trì kinh, sau nói rộng phước mà so sánh lượng.

Nói phẩm Hiện Bảo Tháp gồm có hai nghĩa:

  1. Căn cứ sự mà nói tháp báu từ đất vọt lên đại chúng đều thấy nhân sự mà lập danh.
  2. Tháp báu vọt hiện hiển pháp thân vô sanh diệt, phương tiện có sanh diệt, muốn khiến đại chúng do đây ngộ giải cho nên gọi là Hiện Bảo Tháp.

Phẩm khai năm đoạn:

  1. Nói tháp báu vọt hiện.
  2. Giải thích ý hiện tháp.
  3. Nói mở tháp.
  4. Hai Đức Phật phân tòa cùng ngồi.
  5. Sai người trì kinh, năm hạng này tức là thứ lớp.

Đầu văn phần lớn nói về hai việc hình tiếng, phân nhỏ mười câu khác nhau:

  1. Lúc tháp báu xuất hiện.
  2. Phương tháp báu xuất hiện.
  3. Nói danh tự.
  4. Nêu hình lượng.
  5. Nói xuất xứ.
  6. Biện trụ giữa hư không.
  7. Nói sự trang nghiêm.
  8. Nói chỗ đến.
  9. Trình bày cúng dường.
  10. Nói phát ra âm thanh.

“Lúc bấy giờ”: là nói lúc tháp xuất hiện. Có người chép: Ý tháp báu đến vì muốn chứng minh kinh chẳng phải nay mới xuất hiện, lẽ ra trước đã nói rộng. Vì sao biết như vậy? Vì trước phóng quang, động địa nhóm họp người có duyên, hoặc chỉ một người không nhóm họp, thì

250

duyên chúng sanh thọ đạo không đầy đủ do đó biết được nên sau nói lược trước nói rộng ba phen xin ngay giữa (trung ương) cho đến ngài Phổ Hiền Diệu Âm cũng đều đến trước, do nói lược một châu thì Như lai dừng, nếu nêu việc ấy thì cách bặt văn kinh nghĩa thế không thứ lớp, vì vậy nên đợi huấn xin nói rộng, cho đến phần truyền bá xong mới được nêu bày. Nay nói việc này khó biết, nếu nêu trước thì có hai lỗi:

1/ Nói về chứng nói chủ yếu đợi nói kinh rồi, cho nên Kinh Hoa Nghiêm và Phổ Hiền Quán v.v… đều ở sau chứng nói. Nếu ở trước thì không thành nghĩa chứng.

2/ Tháp báu vọt hiện là khai thân quyền thân thật, trước chỉ nói thừa quyền thừa thật nên không ứng vọt hiện vì thế biết ở sau xuất hiện. Dù khiến trước xuất hiện cũng chưa được phát ra tiếng ấn chứng, do chưa nói đại tuệ bình đẳng của Pháp Hoa thì do đâu mà được tuyên bố như vậy ư!

Lại căn cứ Phổ hiền Quán cũng sau cùng mới xuất hiện, vì chứng minh cho hành giả tội diệt nên đến, thì biết rõ chứng nói không ở trước.

Nay chép: “Lúc bấy giờ” là:

  1. Khai pháp thân.
  2. Chứng nói.

“Ở trước các Đức Phật”: là nói nơi chốn tháp hiện: Muốn chứng minh Phật nói nên hiện ở trước Phật, muốn chia hai thân Phật cho nên ở trước Phật. “Có tháp bảy báu”: là Nêu danh tự tháp: sở dĩ nêu tháp vọt hiện là gồm có ba nghĩa:

1/ Theo luận Pháp Hoa chép: Sở dĩ nêu hiện tháp là thị hiện Như lai Xá-lợi trú trì.

2/ Đa Bảo thệ nguyện làm chứng nói không dối.

3/ Tiểu thừa cho rằng Phật rốt ráo vô thường cho nên xây tháp, nay tháp vọt hiện Phật liền bất diệt, thì biết rằng sanh diệt là phương tiện bất sanh diệt là chân thật, vì nhân duyên này nên nói về hiện tháp. Các kinh khác chỉ nói chứng nói không luống dối không muốn khai thân quyền thân thật nên không dùng tháp làm chứng.

Hỏi: Vì sao phân thân mười phương Phật nhóm họp mà chỉ có một tháp hiện ư?

Đáp: Luận Pháp Hoa chép: Vì còn lược, lược là: Đa bảo Như lai thân một thể thị hiện nhiếp lấy tất cả pháp thân Phật.

Cao năm trăm do tuần: Trình bày hình lượng tháp: năm trăm tiêu biểu thân Phật vô sanh diệt, hai trăm năm mươi tiêu biểu ứng tích có sanh diệt, do thật hơn quyền nên tương giao gấp bội một lần. “Từ dưới đất nổi lên”: Nêu chỗ tháp xuất hiện: Xưa dùng quyền che thật nên quyền giáo như đất, nay phế quyền bày thật như từ đất nổi lên. Lại xưa chấp tích mê bổn, lấy mê chấp làm đất, đây chấp sắp ngã đổ nên như đất nứt ra tháp hiển hiện. “Trú giữa hư không:” Nêu nơi trú: Nêu pháp thân Phật trụ ở thật tướng hư không, như kinh Phổ Hiền Quán chép: Pháp thân trú cõi Thường Tịch Quang. “Các thứ báu vật”: Nêu tháp trang nghiêm: Tiêu biểu pháp thân do các đức tạo thành. “năm ngàn lan can” dụ cho tổng trì rất nhiều. “Ngàn muôn phòng nhà”: Nghĩa là các pháp môn độ người vô lượng. “Vô số cờ phướn”: Nghĩa là sáu thần thông. “Chuỗi ngọc báu rủ xuống”: Là tứ nhiếp pháp. “Muôn ngàn linh báu” là tứ biện tài tám âm. “Bốn mặt phát ra mùi thơm”: Là hương giới xông thơm khắp bốn loài. “Các phướn lộng đều do bảy báu hiệp thành: là nói mỗi đức đều do các đức tạo thành. Cao đến ngang cung trời Tứ Thiên Vương v.v… là nói về chỗ tháp đến: Xưa nói tiêu biểu nói lý tứ đế cùng tận. “Trời ba mươi ba” trời Đao-lợi: là nói về cúng dường tháp: Nêu ba mươi ba tâm Thập địa nội ngoại phàm Thánh đều tôn sùng kính ngưỡng pháp thân.

“Lúc bấy giờ, trong tháp:..” là nói phát ra âm thanh. Trước hiện hình dáng tháp linh cho rằng ý thức không tồn tại nay đại âm đã phát thì biết pháp thân bất diệt. Lại muốn chứng kinh trên nói không dối nên phát ra âm thanh. Đại tuệ bình đẳng: Trí tuệ Như lai không một không ba bặt duyên bặt quán lìa tất cả các bên cao thấp thủ xả đoạn thường, cho nên nói bình đẳng, đây là thể bình đẳng. Mà nói nhân quả quyền thật đều là diệu dụng của Pháp Hoa, trong các dụng chính là nói về quả dụng, chỉ có một quả cho nên quả tuệ bình đẳng, vì sao? Vì là đề là Diệu Pháp chỉ quả Phật là diệu nhân chưa phải là diệu, cho nên chánh dùng quả tuệ làm đại tuệ bình đẳng, trong nhân tùy phần có tuệ cũng tùy phần có bình đẳng. Lặp lại lần nữa hai chữ “đúng thế” là nói về bỏ quyền bày thật hai việc đều không dối.

“Bấy giờ bốn chúng v.v…” là nói ý hiện tháp: Lại chia hai biệt:

  1. Nghi hỏi.
  2. Phật đáp.

Nghi hỏi có hai:

  1. Đại chúng nghi.
  2. Đại Nhạo Nói hỏi.

Đại chúng nghi có hai:

  1. Nghi có tháp.
  2. Nghi phát ra âm thanh. Hỏi cũng có hai, văn dễ biết.

252

“Lúc đó, Đức Phật bảo v.v…” là nói Phật đáp. Văn có ba:

1- Nói trong nhân đức Đa Bảo thệ nguyện thuận theo hai nghi vấn kia.

2- “Đức Phật kia thành đạo rồi lúc sắp diệt độ v.v…” tức hiển nhân duyên có tháp thuận theo hai nghi vấn kia.

3- Từ “nay tháp của Đa Bảo v.v…” Nói về ngày nay vọt hiện tháp chánh đáp hai vấn đề kia. Đức Phật đáp rằng: Đa Bảo có đại thệ nguyện cho nên làm chứng minh. Thích luận quyển bảy chép: Giải thích về xin Phật rằng: Chư Phật không có người xin liền nhập Niết-bàn, như trong Kinh Pháp Hoa Đức Phật Đa Bảo không có người xin nên liền nhập Niết-bàn sau hóa Thân Phật và tháp bảy báu chứng nói Pháp Hoa đồng thời xuất hiện, cũng như Phật Tu Phiến Đa đệ tử ngài vốn tu hành chưa thành thục bèn xả nhập Niết-bàn lưu lại hóa Phật một kiếp để hóa độ chúng sanh. Tương truyền rằng: Khi Đa Bảo thành đạo không có đại cơ cảm không được nói kinh này mà chọn diệt độ cho nên chỗ nào nói kinh này đều xuất hiện để chứng minh, Thích luận hợp với ý nầy. Kinh nói Bồ-tát lúc có thệ nguyện, là không ngăn cản nhân địa duyên sự phát nguyện, hoặc một phen hóa chúng sanh không có đại căn cơ không nghe kinh này nên phát nguyện này tức nhân quả và kinh luận đều không trái nhau đầy đủ hai nghĩa.

“Lúc bấy giờ, Đại Nhạo Nói v.v…” là nói về mở cửa tháp: Sở dĩ phải mở tháp: là vì tuy tự thân nghe âm thanh, chưa bằng thấy hình sanh tín cho nên phải mở tháp thấy hình thì tin càng vững chắc, đó gọi là mở cửa phương tiện chỉ bày pháp thân chân thật.

Văn chia làm hai:

1/ Thảy đều nhóm họp phân thân làm duyên mở tháp.

2/ Chánh nêu mở tháp. Sở dĩ đều nhóm họp phân thân là muốn nói bổn một tích nhiều, vì sao? Vì đức Thích-ca cùng Chư Phật với nhau chỉ là phân thân tức biết kia và đây đều chẳng phải thật là Phật, riêng có bổn thống nhất làm pháp thân cùng cực mầu nhiệm cho nên thị hiện tích có tịnh uế v.v… thì biết pháp thân không hai tích thân không một. Hỏi: vì sao Đức Thích-ca chỉ Phật của cỏ tịnh làm phân thân ư?

Đáp: Phật cõi Tịnh mầu nhiệm còn là ứng mà chẳng thật chân, thì hiển đức Thích-ca uế thân đầy khắp là tích mà chẳng phải bổn, do đó đều nhóm họp phân thân Phật ở tịnh độ có ý chỉ sâu xa kia.

Hỏi: Vì sao biết hai Đức Phật chẳng chân thật để hiển bày pháp thân chẳng tịnh chẳng uế thân hư không mới là Phật chân thật ư?

Đáp: Duệ Sư truyện, ngài La-thập giải thích rằng: Phân thân rõ

ràng kia không thật, thì biết hai Đức Phật chẳng chân thật, không hai mới là thật.

Lại nữa lý, thường như vậy chỉ nên thẳng mở tháp báu. Vì sao đều nhóm họp phân thân ư! Cho nên biết mượn nhờ nguyện của đức Đa Bảo muốn hiển rõ bổn không hai, tích không một do đó nhóm họp phân thân. Luận Pháp Hoa chép: Thị hiện vô lượng Phật là thị hiện Phật ở kia đây làm nghiệp vô sai biệt cho nên nói nhóm họp phân thân Phật. Lại chia làm hai:

  1. Nêu duyên nhóm họp phân thân Phật.
  2. Chánh nêu phân thân Phật nhóm họp.

Hai chương đều có bốn:

1. Thần lực phát dẫn khiến Đại Nhạo Nói hỏi.

2. Đức Phật đáp.

3. Lập lại hỏi.

4.  Như lai phát ra ánh sáng triệu tập. Ban đầu dùng thần lực cho nên hỏi. Sắp nói pháp thân đại sự cho nên được danh hiệu Đại nhạo Nói, và gia thêm thần lực rồi sau hỏi. “Phật bảo v.v…” là nói Đức Phật đáp. “Đại Nhạo Nói bạch Phật…” là lặp lại hỏi: Trước muốn thấy Đa Bảo tức muốn biết pháp thân vô sanh diệt ứng thân có sanh diệt, nay muốn thấy phân thân Phật muốn hiểu rõ bổn một tích nhiều. Nghĩa bổn tích vô cùng tận, lược mà luận không ngoài pháp thân vô sanh diệt, ứng thân có sanh diệt và bổn một tích nhiều, cho nên phẩm này từ đầu đến cuối chỉ hiển hai nghĩa ấy. “Lúc bấy giờ Đức Phật phát ra ánh sáng nơi lông trắng giữa chặn mày…” nói về triệu tập phân thân.

Trước bốn chương là nêu lý do xa, nay là lý do gần, căn cứ văn cũng có bốn:

  1. Phát ra ánh sáng chiếu khắp mười phương.
  2. Trình bày ý Chư Phật khắp mười phương đến.
  3. Biến uế thành tịnh.
  4. Mười phương Phật nhóm họp mở tháp báu.

Đầu văn có hai:

  1. Nói ánh sáng chiếu một phương.
  2. Nêu chín phương khác.

Sở dĩ phát ra ánh sáng nầy là trên nói lên thừa quyền thừa thật, nay hiển thân quyền thân thật. Xưa hai quyền che hai thật dụ cho đồng bụi dơ mờ tối, nay đều phế hai quyền song chia hai thật, nghĩa đã hiển rõ cho nên dùng ánh sáng lông trắng giữa chặn mày tiêu biểu, trên nêu pháp sở thừa không hai, nay biện pháp thân năng thừa chỉ có một, cho

nên chỉ phóng một ánh sáng, pháp cùng nhân đều là Trung đạo cho nên đều phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày. Đã là Trung đạo tức đều mầu nhiệm cho nên có pháp diệu người diệu. Kế nói về chín phương như văn.

“Lúc đó các Đức Phật ở mười phương…” nói về ý mười phương Phật muốn đến, mà nói muốn thấy đức Thích-ca và đức Đa bảo, do mười phương Phật nhóm họp được có làm hai nghĩa:

  1. Đức Thích-ca bổn một tích nhiều.
  2. Đức Đa bảo chân thường ứng diệt.

“Lúc bấy giờ cõi Ta bà v.v…” là nói biến thành tịnh:

1. Sở dĩ biến tịnh, đây là thế giới tất đàn vì kế đón khách cho nên trang nghiêm cõi: Thích luận quyển thứ mười chép: Như người mời khách quí thì trang nghiêm chỗ ở, chủ nhà thì trang nghiêm một nhà, chủ nước thì trang nghiêm một nước, vua Chuyển Luân thì trang nghiêm bốn thiên hạ, Phạm vương thì trang nghiêm cõi Tam thiên, Phật là đấng Pháp vương thì trang nghiêm mười phương cõi.

2. Nói chúng sanh chấp tích mê bổn, tâm ứng tịnh nên nêu tịnh độ.

3. Muốn dùng quả y báo hiển quả chánh báo, Chư Phật y quả vốn là uế độ nay lại thanh tịnh, thì biết uế là quyền độ, tịnh là thật độ, muốn hiển bày chánh quả sanh diệt là thân quyền, không sanh diệt là thân thật. Luận Pháp Hoa chép: Nói hiện tất cả cõi Phật thanh tịnh: Thị hiện thế gian sanh ra thiện căn vô lậu sinh ra, chẳng phải thiện căn hữu lậu thế gian sanh ra.

Hỏi: Vì sao ba phen biến cõi nước ư?

Đáp: Nếu một phen biến thì chúng không biết cõi rộng Phật nhiều, nay muốn nói lên cõi rộng Phật nhiều khiến khởi lòng tin cung kính nên ba phen biến. Lại muốn tiêu biểu ba căn uế mà lại được tịnh ngộ, lại tiêu biểu Ba thừa uế đều trừ, hiển Nhất thừa tịnh như tịnh độ. Lại tiêu biểu kia đây vô lượng cõi đồng làm một cõi Phật, kia đây vô lượng thân đồng một pháp thân.

Hỏi: Cũng được phân thân Phật tiêu biểu Ba thừa làm Nhất thừa hay không?

Đáp: Cũng được. Vốn là một Đức Phật chia làm nhiều Phật, vốn là một thừa chia làm ba thừa, nay Đức Phật đã nhóm họp phân thân đều là một Đức Phật cũng hội Ba thừa để qui Nhất thừa.

Văn nói về ba phen biến cõi tức làm ba phần riêng:

  1. Văn có hai:
  2. Nói biến cõi.
  3. Nói về Phật nhóm họp.

“Không có biển cả núi rừng” v.v… Muốn nói đồng thành một pháp tòa khách thọ Phật Bồ-tát. Luận Pháp Hoa chép: Sở dĩ không có uế ấy là thị hiện tất cả cõi Phật bình đẳng thanh tịnh cho nên Đa bảo thị hiện tất cả cõi Phật đồng thể thật tánh. Luận Thập địa chép: một cõi Phật nhiếp tất cả cõi Phật do các cõi Phật đồng thể. “Dời các hàng trời người…” là chúng sanh vô duyên không được nghe.

2) “Lúc đó các Đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị giả…” là nói Phật nhóm họp. Chỉ đem theo một vị Bồ-tát đến, gồm có hai nghĩa: Quả Pháp thân không hai, nhân pháp thân cũng một. Lại đem một thị giả đến vì muốn dùng để sai mở tháp, tức tiêu biểu Chư Phật nhóm họp muốn khai dụng một pháp thân cho nên chỉ đem một người đến. “Đều đến dưới cây báu:” Tức muốn lập ra nghĩa pháp thân. “Đều ngồi tòa Sư tử”: nay hiển bày pháp thân không sợ chúng sanh khởi tâm nghi sợ, đồng trên chép: “Nay ta vui không sợ.” Kế hai phen biến cõi như văn dễ biết.

“Bấy giờ ở phương Đông v.v…” Nói mười phương Phật nhóm họp muốn đồng mở tháp. Văn có hai:

  1. Tổng kết Phật nhóm họp.
  2. Chư Phật muốn đồng mở tháp.

“Lúc đó Chư Phật v.v…” Đức Phật kia cùng muốn mở tháp báu này v.v… Đây nói về Chư Phật đồng muốn mở tháp báu hiện thân Đa Bảo chỉ bày cho Đại chúng khiến biết pháp thân bất diệt, không hẳn như trong Tăng Yết ma dự dục. Lại Kinh Đại Tập quyển hai mươi mốt chép: Phương Nam Đức Phật Kim cương tạng đáp Bồ-tát kia rằng: Đức Thích-ca Mâu-ni ở phương Bắc muốn vì đại chúng nói pháp, vì phá đại mạn sai khiến theo Ta cầu xin, muốn ta nay cho kế. Phương Tây phương Đông cũng đều như vậy giống như Tăng sự dự dục, mười phương Phật tuy đều làm hóa chủ, nhất thời xếp vào Phật sự, cũng được chút ít phần đồng Tăng chỉ không thường như vậy cho nên khác Tăng sự.

“Lúc bấy giờ Đức Phật Thích-ca thấy các vị Phật của mình phân thân….” chính là nói về khai mở tháp. Văn có bốn:

  1. Đức Thích-ca thăng lên hư không.
  2. Đại chúng đứng dậy.
  3. Chánh nêu mở tháp.
  4. Đại chúng đồng thấy và khen ngợi cúng dường.

Một và hai đều như văn. “Khi ấy đức Thích-ca dùng ngón tay mở

v.v…” chính là khai mở tháp. Ngón tay phải mở tháp: Tức là dùng trí phương tiện, tiện cho việc nói giáo hóa độ chúng sinh. Phẩm Pháp Giới trong Kinh Hoa Nghiêm: Trưởng Giả An Trú mở tháp Chiên Đàn thấy Phật quá khứ đều không diệt độ tức là nói lên pháp thân vô sanh diệt. Luận Pháp Hoa chép: Phá ba thứ không là người phiền não, nhiễm mạn và điên đảo:

  1. Tin các thứ thừa.
  2. Tin thế gian Niết-bàn khác nhau.
  3. Tin thân kia đầy khác nhau,

Vì đối ba thứ này nhiễm nên nói ba thứ bình đẳng:

  1. Thừa bình đẳng: Thọ ký cho Thanh văn chỉ có Đại thừa không có Nhị thừa.
  2. Thế gian Niết-bàn bình đẳng: Do Đa Bảo Như lai nhập nơi Niết-bàn và thế gian Niết-bàn kia đây bình đẳng không khác nhau.
  3. Thân bình đẳng: Đa Bảo Như lai đã nhập Niết-bàn lại thị hiện thân, tự thân tha thân pháp thân bình đẳng không khác nhau.

“Lúc bấy giờ bốn chúng..:” Nói bốn chúng đồng thấy khen ngợi cúng dường.

“Lúc đó Đức Phật Đa Bảo” v.v…: nói hai Đức Phật cùng ngồi.

Văn lại có bốn:

  1. Đức Đa Bảo yêu cầu đức Thích-ca đến ngồi.
  2. Đức Thích-ca ngồi nửa tòa ấy.
  3. Đại chúng đồng thấy nghĩ muốn bay lên hư không
  4. Đức Thích-ca kế đưa đại chúng lên hư không.

Bốn điều này văn dễ biết. Sở dĩ hai Đức Phật đồng ngồi, chính muốn dùng Đa Bảo nói lên Thích-ca. Đa Bảo diệt đã bất diệt, bất diệt thị hiện diệt, đức Thích-ca ở song lâm tuyên bố diệt nghĩa cũng đồng như. Lại Đa Bạo diệt đã bất diệt, bất diệt thị hiện diệt tức nói lên đức Thích-ca bất sanh mà sanh sanh mà bất sanh do Đa Bảo xuất hiện muốn nói lên đức Thích-ca thực vô sanh diệt mà phương tiện sanh diệt cho nên yêu cầu đức Thích-ca cùng ngồi. Sở dĩ Đa Bảo muốn hiển đức Thích-ca chính vì người thọ theo đức Thích-ca giáo hóa chấp đức Thích-ca thật có sanh diệt, nên nêu Đa Bảo dùng hiển Thích-ca, phá bệnh chấp đức Thích-ca sanh diệt, phân thân cũng vậy. Do người thọ theo đức Thích-ca giáo hóa chính cho rằng đức Thích-ca là Phật thật, nên nhóm họp phân thân để nói lên đức Thích-ca, nói về Phật cõi tịnh còn là tích mà chẳng phải bổn thì biết đức Thích-ca là ứng chẳng phải chân. Luận Pháp Hoa chép: hai Đức Phật cùng ngồi là nói lên hóa Phật, báo thân Phật, pháp thân Phật đều vì thành đại sự, đây là muốn nói lên Chư Phật đồng tâm cùng hiển đại sự cho nên cùng ngồi, đại sự tức là pháp thân.

“Dùng đại âm thanh v.v…:” là sai tìm người mở rộng kinh: Văn có hai:

  1. Văn xuôi.
  2. Kệ tụng.

Kệ văn lại có hai:

  1. Tụng Chư Phật đến.
  2. Tụng sai tìm người mở rộng kinh.

Sở dĩ tụng Chư Phật đến ấy là có hai nghĩa:

  1. Chúng tuy thấy đức Đa Bảo vọt hiện phân thân Phật nhóm họp ý đều chưa thông suốt cho nên nay giải thích.
  2. Sắp muốn sai tìm người mở rộng kinh.

Trước trình bày ý hai Đức Phật đến ý trên cao khuyến khích dưới, giải thích thành ý bảo trì kinh. Đầu văn chia làm hai:

  1. Giải thích ý đức Đa Bảo đến.
  2. Giải thích phân thân nhóm họp.

Hai Đức Phật đều chia làm ba nghĩa cho nên đến. Giải thích đức Thích-ca có ba:

  1. Một bài rưỡi ở trên cao khuyến khích dưới nên đến.
  2. Một bài hiển nêu pháp khó gặp nên đến.
  3. Một bài kệ nêu bổn nguyện Phật nên đến.

Giải thích thành hai nghĩa trên. “Ta lại phân thân ra v.v…:” Giải thích phân thân nhóm họp cũng có ba ý:

  1. Một bài nêu vì nghe pháp nên đến.
  2. Nửa bài muốn mở tháp báu hiển chân thường ứng diệt nên đến.
  3. Nói đều bỏ cõi đẹp v.v…” Khiến pháp trụ lâu nên đến.

Văn này lại có ba:

  1. Một hàng rưỡi nói chung vì pháp trụ lâu nên đến.
  2. Năm hàng giải thích vì pháp trụ lâu nên đến.
  3. Nửa hàng tổng kết pháp trú lâu cho nên đến.

“Nói với các đại chúng…”: Là sai tìm người mở rộng kinh: Tụng đức Phật Đa Bảo nói về đời quá khứ Đức Phật mở rộng kinh Pháp Hoa, tụng phân thân Phật nói về đời hiện tại Đức Phật mở rộng kinh Pháp Hoa, nay sai các Bồ-tát mở rộng kinh tức nói đời vị lai Phật mở rộng kinh, đây tức là nói Chư Phật ba đời cùng mở rộng kinh này.

Hỏi: Vì sao mười phương Phật hiện tại nhóm họp còn quá khứ chỉ

một Đức Phật Đa Bảo ư?

Đáp: Luận Pháp Hoa chép: Dùng lược nhiếp rộng nên chỉ nêu một Đức Phật tức lược nhiếp tất cả Chư Phật.

Lại tụng hai Đức Phật đến tức nói pháp sở mở rộng, nay sai mở rộng kinh tức nói người năng mở rộng, hai Đức Phật đến là nói hai thân chân ứng cho nên có pháp sở mở rộng. Kế nói người năng mở rộng gồm có bốn sai khiến bốn giải thích:

  1. Một bài rưỡi chính sai.
  2. Hai bài giải thích ý sai khiến.

Nói “phải biết ý nầy” có hai ý:

  1. Muốn nói lên Chư Phật truyền bá pháp nên đến.
  2. Muốn nói lên chân thường ứng diệt bổn một, tích nhiều. Ý là ở đây cho nên nói “Phải biết ý này.”

“Các Phật tử v.v…”: một bảo một giải thích: Đầu một bài là bảo, kế bốn hàng giải thích. “Các thiện nam tử này…” một bảo một giải thích: Đầu một bài là bảo, kế mười chín hàng nêu giải thích sáu sự khó, chia làm bảy riêng:

  1.  Năm hàng nêu nói rộng khó
  2. Hai bài nêu ghi chép khó.
  3. Hai bài nêu đọc tụng khó.
  4. Hai bài nêu vì một người nói khó.
  5. Ba hàng nêu hỏi khó.
  6. Ba hàng nêu trì khó.
  7. Hai bài sau cùng khen ngợi giáo giải thích thành sáu việc khó.

Hỏi: Hiện thấy thế gian trì kinh Pháp Hoa vô lượng vì sao có sáu thứ nạn này?

Đáp: Có sáu hạng người không tin Pháp Hoa:

1. Tham đắm năm dục ưa thích tiểu lạc mà quên đại lạc nên không tin Pháp Hoa.

2. Ngoại đạo chấp đắm các kiến không chịu thọ pháp lìa kiến.

3. Người Tiểu thừa chấp quyền mê thật không tin Nhất thừa, cho nên luận Trí Độ chép: Ngũ Bách bộ nghe rốt ráo Không như bị đao đâm vào tim huống chi nghe có một, không ba.

4.  Chấp Kinh này là giáo vô thường, người nghe Pháp Hoa thường, không sanh tin nhận.

5. Chấp Kinh này là ngăn che tướng thường nghe nói hiển rõ thường, không sanh tín nhận.

6. Người có sở đắc chấp trước kinh này quyết định là thường nghe nói chẳng thường chẳng vô thường không ba không một không y không đắc không sanh tin nhận. Nếu vậy xưa nay nam bắc người tin hiểu ít, kinh xướng rõ sáu việc khó nói không luống dối.

“Các người Thiện nam này v.v…”: một bảo một giải thích:

  1. Một hàng rưỡi là bảo.
  2. Sáu hàng khen ngợi trì kinh lợi ích, giải thích lời bảo trên.

PHẨM ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA THỨ MƯỜI HAI

Sở dĩ có phẩm này là do phẩm Hiện Bảo Tháp đã chứng trước, khai sau đầy đủ hai nghĩa: Nay cũng vậy. Nói thành tựu trước ấy gồm có hai nghĩa:

1) Mục đích xa: Kinh này mở cửa phương tiện chỉ tướng chân thật khai tất cả phương tiện chỉ bày tất cả chân thật. Nhưng phương tiện có hai thứ:

1- Thuận phương tiện nghĩa là Chư Phật Bồ-tát.

2- Trái phương tiện như Điều-đạt Thiện Tinh, trên đây khai thuận phương tiện nghĩa kia đã rồi, như Mãn Từ Tử thật là Bồ-tát phương tiện thị hiện làm Tiểu thừa, đức Thích-ca là quả đức phương tiện thị hiện có sanh diệt.

Nay kế khai trái phương tiện dụng cũng có hai người: a) Điều-đạt là người trái phương tiện. b) Long nữ là Súc sanh là trái phương tiện dụng. Cho nên thuận phương tiện chân thật có nhân quả hai người, trái phương tiện dụng có người và hai hạng Súc sanh.

2) Phẩm trên nói về đức Đa Bảo quá khứ tự đến chứng minh Pháp Hoa nay phẩm này đức Thích-ca dẫn Điều-đạt làm chứng minh. Do Điều-đạt đời quá khứ vì ta nói Pháp Hoa nay được thành Phật, cho nên công lực của Pháp Hoa sâu nặng cần phải tin và thọ trì, cho nên trên là dẫn người khác làm chứng nay dẫn tự mình làm chứng do đó hai phẩm nói kế nhau. Lại trên bốn lần sai trì kinh, nay khen ngợi ba lực của kinh giải thích thành bốn lần bảo. Ba lực: Là dẫn Đề-bà-đạt-đa chứng có thành Phật lực, cung rồng chúng nhóm họp chứng minh kinh có lực rộng lớn, Long nữ thành Phật chứng minh có lực nhanh chóng, do chính ở kinh có ba lực nên cần phải tin nhận trì cho nên dẫn ba lực giải thích thành bốn sự khuyên, do đó có phẩm này.

Kế “sanh sau” gồm có bốn nghĩa:

1/ Trên dùng Đa Bảo bất diệt thị hiện diệt, nói lên đức Thích-ca phương tiện sanh diệt thật không sanh diệt, nay lại nêu Điều-đạt ví như trên để hiển bày Thích-ca, Điều-đạt chẳng phải ác thị hiện ác cho nên ác là phương tiện thiện là chân thật, giống như hiển bày đức Thích-ca bất sanh diệt thị hiện sanh diệt nên sanh diệt là phương tiện, bất sanh diệt là chân thật. Vì thế trên lấy Phật khác nói lên đức Thích-ca, nay dẫn Bồ-tát khác nói lên đức Thích-ca do đó hai phẩm nối kế nhau.

2/ Vì thành tựu nghĩa tin cho nên đến: Như Kinh Niết-bàn Phẩm Sư Tử Hống chép: Vì sao gọi là tin? Tin Như lai rốt ráo bất sanh diệt, tin Đề-bà-đạt-đa không hề phá tăng. Kinh Niết-bàn đã nói hai việc nối kế kinh nay cũng vậy. Cho nên nói phẩm này do trái và thuận đối nhau nên nói có hai phẩm nối kế.

3/ Nhưng truyền bá khuyên tin đều là vì người mới học, như người tu hành sâu không nhọc công khuyên, nay vì dắt dẫn người ác tự khinh thân mình không dám học đại pháp, vì vậy nên nay nói Điều-đạt tuy là người ác được nghe Đại thừa thọ ký thành Phật cho nên cần phải học tập.

4/ Căn duyên khác nhau hợp thời mà nói do trong chúng nghe phẩm này được ngộ nên ứng căn cơ mà nói.

Đề-bà-đạt-đa là con của vua Hộc Phạn: Đề-bà Hán dịch là Thiên, Đạt Đa dịch là Nhiệt, do khi sanh ông chư thiên tâm nóng bức nên gọi là Thiên Nhiệt. Vì sao? Vì chư thiên biết Đề bà gây ra ba tội nghịch phá hoại Phật pháp, thấy Đề bà lúc mới sanh tâm sanh nóng bức do đó mà đặt tên.

Phẩm này khen ngợi ba lực của kinh chia làm ba đoạn:

  1. Lực thành Phật.
  2. Lực rộng lớn.
  3. Lực nhanh chóng.

Do Đề-bà-đạt-đa nói kinh mới được thành Phật nên kinh có lực thành Phật, do Văn-thù nói kinh Pháp Hoa vô lượng vô biên chúng sanh đều được ngộ đạo nên khen ngợi Pháp Hoa có lực rộng lớn, Long Nữ nghe kinh hiện thân thành Phật cho nên khen ngợi Kinh này có lực nhanh chóng. Sỡ dĩ khen ngợi 3 lực của Kinh này vì thành tựu nghĩa khai tìm người mở rộng kinh. Nay từ đầu đặt tên nên gọi là phẩm Đề Bà. Chương đầu có bốn:

  1. Nêu việc đời quá khứ của Đề Bà.
  2. Kết hợp xưa nay nói về việc đời hiện tại.
  3. Vì Đề Bà thọ ký nói về việc đời vị lai
  4. Xưng tán lợi ích của phẩm này. Đầu văn có hai: Trước trường sau kệ tụng.

Văn xuôi lại có ba:

  1. Nêu đức Thích-ca trải qua nhiều kiếp cầu kinh.
  2. Biện rõ Vị tiên bố thí pháp.
  3. Nói Đức Thích-ca báo ân cúng dường.

Văn đầu lại có ba câu:

1/ Nêu quá khứ thọ các thân thường cầu Pháp Hoa.

2/ “Trong nhiều kiếp…” nói riêng làm Vua cầu đạo vô thượng, ở đây trước nói cầu quả. “Vì muốn đầy đủ…” là nêu tu nhân. Trong tu nhân, ban đầu nói chung muốn viên mãn sáu độ. “Phải siêng tu hành bố thí…:” Là lược nói về đàn độ. Trong đàn độ, đầu tiên là nói về ngoại thí.

“Đầu mắt…” là nói nội thí.

3/ Lúc đó nhân dân v.v… chánh là nói về cầu kinh Pháp Hoa.

“Lúc bấy giờ có vị tiên…” là nói vị tiên trao pháp. Vua nghe lời vị tiên nói…” Vì pháp cần khổ báo ân cúng dường…

Kệ có bảy hàng rưỡi tụng ba chương trên tức có ba biệt:

  1. Hai hàng tụng vua cầu pháp.
  2. Hai bài tụng vị tiên trao pháp.
  3. Ba hàng rưỡi tụng vua báo ân.

“Đức Phật bảo các Tỳ-kheo…” là kết hợp xưa nay nói về việc đời hiện tại. “Đức Phật bảo bốn chúng…” Vì Đề-bà-đạt-đa thọ ký nêu việc đời vị lai. Đề Bà là bổn Sư của đức Thích-ca nay lại được đức Thích-ca thọ ký, thì biết thầy trò phương tiện không nhất định, trái thuận bình đẳng dụng cũng hợp thời vì chúng sanh. Kinh Tiểu thừa nói về Đề-bà đọa vào Địa ngục Vô gián, sau thành Bích-chi-phật, nhưng nay trong Đại thừa nói về đời vị lai thành Phật và đã tùy duyên trái thuận tức cũng ứng thời đại tiểu. “Hai mươi trung kiếp v.v…” Đại kiếp có ba, tiểu kiếp cũng có ba. Văn Tạp Tâm chỉ nói tiểu kiếp xếp vào trung kiếp. Kinh Thiện Tinh chép: Mười tám tiểu kiếp làm một trung kiếp. “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo v.v…” là nói lợi ích nói phẩm này: Sở dĩ nói riêng nghe phẩm này không sanh nghi ngờ là vì trong kinh Tiểu thừa nói về Điều-đạt xúi giục vua giết cha, nếu ông giết vua cha ta sẽ giết Cù Đàm thì có vua mới, Phật mới, thật không vui sướng hay sao! Điều-đạt tự gây ra ba tội nghịch lại bảo người khác tạo tội nghịch thì tội ấy cực ác. Nay bèn nói là bạn lành trong quá khứ vị lai thành Phật người học Tiểu thừa sao không kinh nghi cho nên nói riêng không sanh nghi ngờ. Lại ở nước ngoài các người Tiểu thừa không tin Phương Đẳng đều cho là Điều-đạt nói không tin là đức Thích-ca nói nay khuyên tin Điều-đạt tức là khuyên tin Đại thừa…

“Không đọa vào địa ngục…” Theo Luận Thành Thật nói về bốn luận để trị tám nạn, nay nói một niệm tin kinh Pháp Hoa không nghi phẩm này đầy đủ lìa tám nạn không đọa vào địa ngục lìa nạn ba đường, sanh ở trước các Đức Phật trong mười phương lìa nạn sanh trước Phật sau Phật, thường nghe kinh này lìa nạn thế trí, nếu sanh trong trời người lìa nạn không nghe, nếu sanh ở trước Phật được hoa sen hóa sanh lìa biên địa nạn trường thọ thiên.

“Bấy giờ ở phương hạ vị Bồ-tát…” Khen ngợi lực kinh rộng lớn: Lại có bảy câu:

1/ Trí Tích xin đức Đa Bảo trở về bổn quốc là nguyên nhân phát khởi luận.

2/ Đức Phật bảo Trí Tích v.v…” Đức Thích-ca xin dừng lại giây lát.

3/ “Lúc bấy giờ Văn-thù v.v…” Nêu Văn-thù đến. Phẩm tựa Vănthù ở trong hội, phẩm này nói từ cung rồng đến, tức nói theo sự: cũng như Kinh Niết-bàn nói Văn-thù ban đầu tuy ở tòa mà cùng Thuần-đà bỏ đi, cho đến phẩm Đại chúng vấn lại cùng Thuần-đà đến, nay cũng vậy. Phần đầu khai kinh đã xong; hoặc có thể đến cung rồng hóa đạo, nay muốn khen ngợi công năng kinh và hỏi hạnh an vui cho nên lại đến.

Nói theo lý thì: Văn-thù vốn ở núi Linh Thứu mà nay bỗng ở cung rồng, có thể cho là tuy đi mà ở, không đi mà đến.

4/  Trí Tích hỏi Văn-thù v.v…: chính là hỏi.

5/ “Văn-thù Sư lợi v.v…:” là đáp. Ban đầu nói Văn-thù hóa độ thẳng đến Bồ-tát, “các vị mà xưa vốn Thanh văn…” là nêu giáo hóa họ hồi tiểu nhập đại Bồ-tát.

6/ Bấy giờ Trí Tích…:” là nói Trí Tích khen ngợi.

7/ “Văn-thù Sư lợi nói v.v….:” Suy tôn công qui về Pháp Hoa tức là khen ngợi lực kinh.

“Trí Tích hỏi Văn-thù v.v…:” là nói Long Nữ thành Phật, là khen ngợi năng lực kinh nhanh chóng cũng có bảy chương:

  1. Hỏi.
  2. Đáp.
  3. Thí dụ nạn vấn.
  4. Long nữ đến.
  5. Thân Tử nạn vấn.
  6. Long Nữ nêu dụ đáp.
  7. Nói chúng đương thời ngộ đạo.

“Văn-thù Sư lợi nói…:” Ở trong khoảng sát na phát tâm Bồ-đề được thành Phật. Kinh Già-da Sơn Đỉnh nói về có bốn thứ phát tâm:

  1. Sơ phát tâm gọi là nhập sơ địa.
  2. Hành phát tâm là Nhị địa đến Thất địa.
  3. Bất thoái phát tâm là Bát địa, Cửu địa.
  4. Nhất sanh Bổ xứ phát tâm là Thập địa. Long Nữ phát tâm thành

Phật là nghĩa thứ tư. Nhưng Bồ-tát Thập tín cũng có tám tướng thành đạo, vị không thể biết. Lại thích ứng giáo hóa (không nơi chốn) vô phương có thể có bốn trường hợp:

  1. Phương tiện chậm: Như mười kiếp ngồi đạo tràng.
  2. Phương tiện nhanh: Long Nữ trong sát na thành Phật.
  3. Cũng nhanh cũng chậm: Như đức Thích-ca sáu năm hiện rõ hai thứ này.
  4. Chẳng chậm chẳng nhanh: Như trong Tịnh độ thành Phật; không luận nhanh chậm.

Lại có bốn trường hợp:

  1. Nam thân thành đạo tức đức Thích-ca.
  2. Thân nữ thành Phật, riêng có Kinh nói Đức Phật xuất hiện ở nước người nữ làm thân nữ thành Phật.
  3. Vừa nam vừa nữ tức là Long nữ, vốn là nữ biến thành nam.
  4. Phi nam phi nữ phi thiên phi nhân, như Tịnh độ thành Phật.

Lại có ba câu:

  1. Xuất gia thành Phật như đức Thích-ca.
  2. Tại gia thành Phật như luận Trí Độ chép: là Phật Thiên vương, cho nên không cần bát và Ca sa, tức Điều-đạt thành Phật hiệu Phật Thiên vương.
  3. Đều chẳng phải. Nghĩa là Tịnh độ Phật.

Lại ba câu:

  1. Đồng chân thành Phật tức Long nữ.
  2. Phi đồng chân thành Phật tức đức Thích-ca.
  3. Đều chẳng phải tức là Phật ở tịnh độ. Sở dĩ khác nhau như vậy là do thể đạo không ngăn ngại nên có dụng vô ngại, thích hợp duyên vô phương ứng lợi ích vô cùng. Nếu vậy thì không nên nghi nói phẩm này chẳng phải Phật nói bởi do tình cuộc có hạn mà giáo hóa vô phương.

“Bồ-tát Trí Tích nói v.v…:” là nói nạn vấn. “Nói luận chưa xong v.v….” Long nữ đến. “Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất…:” là Thân tử nạn vấn. “Lúc bấy giờ Long nữ…:” Nêu dụ đáp chung hai người nạn vấn. “Lúc ấy, ở thế giới Ta bà v.v…” là nói chúng đương thời ngộ đạo được lợi ích.

Sở dĩ có phẩm này cũng đầy đủ hai nghĩa:

  1. Thành trước.
  2. Khai sau.

Nói thành trước: Phẩm Tháp báu kệ văn bốn phen khuyên bảo trì, phẩm Đề-bà-đạt-đa khen ngợi kinh có ba lực cũng là khuyên trì, nay Bồ-tát, Thanh văn nên bảo trì kinh do đó có phẩm này. Nói khai sau tuổi thọ tức là: Do Bồ-tát Thanh văn đều nói về trụ nơi lực nhẫn, sợ xa nghe tuổi thọ tâm sanh nghi sợ nên trái ngăn. Sở dĩ nên bào làm có bốn ý:

  1. Muốn trên báo ân Phật.
  2. Muốn tăng tiến tự hành.
  3. Muốn đem khuyên những chỗ chưa được mở rộng tuyên cũng khiến truyền hóa.
  4. Đã là Bồ-tát muốn lợi ích chúng sanh cho nên có phẩm này, vì trì kinh này để giáo hóa vật cho nên gọi là phẩm Trì. Phẩm chia làm năm:
  1. Hai muôn Bồ-tát phát nguyện mở rộng kinh.
  2. Năm trăm Thanh văn phát nguyện mở rộng kinh.
  3. Hàng Hữu học, Vô học tám ngàn người phát nguyện mở rộng kinh.
  4. Các Tỳ-kheo phát nguyện mở rộng kinh.
  5. Lập lại bảo Bồ-tát phát nguyện mở rộng kinh.

Căn cứ năm người này có thể chia làm hai:

  1. Bốn người là ứng Phật trước sai tự thệ mở rộng kinh.
  2. Một người Phật lặp lại sai mở rộng kinh.

Căn cứ trong bốn người thì một người đầu là trực vãng Bồ-tát tự thệ trì kinh, sau Tỳ-kheo Tỳ-kheo ni là Bồ-tát hồi tiểu nhập đại tự thệ mở rộng kinh, lại chia làm ba loại:

  1. Các Bồ-tát từ bi sâu dày sức nhẫn rộng lớn có thể ở õi uế mở rộng kinh.
  2. Tự ba chúng còn lại tích thị hiện yếu đuối ở Tịnh độ mở rộng kinh.
  3. Các Bồ-tát trú nơi Bất thoái địa chung cả tịnh uế hai cõi mở rộng kinh. Đầu tiên chỉ nêu hai người: Dược vương đã truyền bá sở ký, Nhạo Nói năng phát huy dũng tháp cho nên tuyên trì làm đầu. Dược vương truyền bá sở ký: Là truyền bá thừa quyền thừa thật. Nhạo Nói phát huy dõng pháp: Là khai phát nguyên nhân thân quyền thân thật.

“Lúc đó trong chúng…” Là nói Bồ-tát hồi tiểu nhập đại lại chia làm hai:

  1. Tỳ-kheo tự thệ mở rộng kinh.
  2. Tỳ-kheo ni tự thệ mở rộng kinh.

Tỳ-kheo lại có hai:

  1. Nêu người Vô học tự thệ mở rộng kinh.
  2. Nêu hữu Hữu học, Vô học tự thệ mở rộng kinh.

“Lại có bực Hữu học, Vô học v.v…” Kinh Niết-bàn nói tám mươi người, nay nói tám ngàn người hoặc có thể chữ thiên (ngàn) lầm là chữ thập (mười), hoặc có thể riêng có tám mươi. Nhưng kinh đã hợp ba về một đều thành Bồ-tát mà còn nói Thanh văn gồm có ba nghĩa:

  1. Vẫn giữ tên cũ.
  2. Tuy là ngộ một mà không mất nơi ba, vì sao? Vì vốn phá bệnh chấp ba cho nên nói một, bệnh chấp ba đã trừ một thuốc cũng thôi, chẳng ba chẳng một cho nên năng một năng ba.
  3. Tức gọi Bồ-tát xếp vào Thanh văn như trước nói: nay chúng con, thật là Thanh văn dùng âm thanh Phật đạo khiến tất cả đều nghe.

Thanh văn ở cõi khác mở rộng kinh:

  1. Tích thị hiện độn căn, như trước giải thích.
  2. Chê cõi này khó hóa độ.
  3. Chú giải kinh chép: Bồ-tát ở cõi này Thanh văn ở cõi khác, muốn nói về Nhất thừa đã hiển muôn dòng có thể một, cõi nước không có kia đây, ngộ không có tiểu đại, đại thệ nguyện tuy khác mà thông suốt đại đồng.

“Lúc ấy Di mẫu của Phật…”: Nêu Tỳ-kheo ni mở rộng kinh. Văn có hai: Trước thọ ký kế biện mở rộng kinh. Thọ ký hai Tỳ-kheo ni tức chia làm hai riêng:

  1. Xin ký.
  2. Thọ ký.

Kinh này từ đầu đến cuối thọ ký có hai:

  1. Không xin mà thọ.
  2. Xin mà thọ.

Trong xin mà thọ tự có ba thứ:

  1. Phát lời xin như Mục-liên v.v…
  2. Tâm niệm xin như một ngàn hai trăm người v.v…
  3. Hiện tướng xin như Đại Ái Đạo v.v…

“Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn…” là nói thọ ký: Thọ ký Tỳ-kheo ni ở

sau cùng.

  1. Theo ở trên nói chúng có thứ lớp nên để sau cùng.
  2. Chỉ người nữ tội cấu sâu nặng.
  3. Muốn dứt sự ganh tỵ của thế gian cho nên thọ ký sau.

Kiều-đàm-di: Kiều-đàm là họ dịch là Nê-thổ, Di là nữ. Kế thọ ký cho Da-thâu-đà-la cũng có hai:

  1. Thỉnh ký.
  2. Thọ ký.

Lúc ấy bà Ma-ha v.v… là nói phát thệ mở rộng kinh cũng chia làm hai:

  1. Lãnh giải vui mừng.
  2. Phát thệ mở rộng kinh.

“Bấy giờ đức Thế tôn v.v…: Lặp lại bảo Bồ-tát mở rộng kinh. Văn có hai:

  1. Nói mắt thấy.
  2. Các Bồ-tát phát thệ mở rộng kinh.

Mắt thấy: Nói lên các Bồ-tát trí tuệ lợi căn xa hiểu ý Phật và ngộ tôn chỉ kinh khiến chúng sinh tin, như Trang Chu chép: tận mắt thấy đạo còn. “Các vị Bồ-tát đó…:” Nêu phát thệ mở rộng kinh. Văn có hai: Trước văn xuôi sau kệ tụng. “Nay Đức Phật im lặng chẳng thấy dạy bảo”: Đức Phật tuy khen ngợi Bồ-tát xa ngộ ý Phật mà Bồ-tát khiêm nhường, cho nên nói Phật không dạy bảo. Thầy trò khen ngợi khiêm nhượng hiệp luận đều căn cứ một nghĩa. “Lúc đó các vị Bồ-tát v.v…” Nêu Bồ-tát lại tự tư duy, Phật tuy không nói ta là Bồ-tát, mà pháp nên trên mở rộng dưới lợi ích thoả mãn nguyện để báo ân. “Xa giữ gìn cho”:

Lâu biết tuổi thọ thường hằng song lâm chẳng phải viễn diệt.

Kệ văn chia làm ba:

  1. Một bài nói chung phát nguyện mở rộng kinh.
  2. Mười bảy hàng nói riêng phát nguyện mở rộng kinh.
  3. Hai bài tổng kết phát nguyện mở rộng kinh.

Trong đoạn thứ hai lại chia làm hai:

  1. Nói Bồ-tát nhẫn ác.
  2. Nêu nhẫn ác nên vì chúng sinh mở rộng kinh.

Trong nhẫn ác có hai:

  1. Nói đại sĩ nhẫn ác.
  2. Giải thích lý do khởi ác.

Đầu tiên lại có hai:

  1. Một bài nhẫn ba nghiệp ác, như hại do Đề bà ngoại đạo.
  2. “Tỳ-kheo trong đời ác..:” là nói nhẫn miệng nghiệp ác.

Lại chia làm hai:

  1. Người khởi ác.
  2. Chính nói về khởi ác.

Mỗi thứ có hai đoạn: 1) Hai trong người: Người tăng thượng mạn tức nêu người.

2) Hoặc người mặc áo nạp v.v… Nói về nơi chốn, nêu nơi chốn nhiếp tận tất cả mọi người.

“Mà nói như thế này v.v…” Nêu khởi ác cũng có hai:

1/ Nói về lời ác chê bai.

2/ Là khéo nói lời hủy báng, đều nói về Bồ-tát năng nhẫn. Người ác nói lời hủy báng: Là hủy pháp báng người, hủy pháp là luận nghĩa ngoại đạo, báng người là người tà kiến. Văn chia làm ba:

  1. Hai hàng đầu nêu hủy pháp báng người.
  2. Thường ở trong đại chúng v.v…:” hai bài cùng chung hủy pháp báng người.
  3. Nửa bài nói Bồ-tát năng nhẫn.

Hỏi: Đầu đã nói luận nghĩa ngoại đạo, sao lại nói tự soạn kinh luận điển ư?

Đáp: Đầu nói luận nghĩa ngoại đạo, mà kinh Thập Bát Đại của ngoại đạo lại không có điều này, cho nên nói tự tạo. Nhưng đã chẳng phải nội giáo lý đồng ngoại đạo.

“Bị người đó khinh rằng v.v…”: Là khéo nói lời chê bai: Cho nên trong loài người chỉ có nêu nơi chê bai chứ không nêu thiện ác, lại có hai:

  1. Nửa bài nêu khởi tâm chê bai.
  2. Nửa bài nói năng nhẫn.

“Bị người đó khinh rằng, các người đều là Phật v.v…”: Người Tiểu thừa cho rằng người học Đại thừa hiểu rõ các pháp tánh vốn vắng lặng không có hai tướng, liền nói rằng: Nếu chúng sanh và Phật không có hai tướng thì ông lẽ ra là Phật, như người đời chép: Ông học như thế tức liền thành Phật, nói thì năng mà ý thì khinh, do nhẹ nên tâm phát ra lời này nên gọi là lời khinh mạn. “Trong đời ác kiếp trược…”: năm hàng rưỡi giải thích ý hủy báng: Người ác sở dĩ hủy báng gồm có hai nghĩa: 1) Ngoại ma xâm nhập vào trong thân người ấy khiến hủy báng có ba hàng. 2) Trong ngu si nên không biết Tiểu thừa là phương tiện nên chấp lấy chê bai Đại thừa, có hai hàng rưỡi. “Các thành ấp làng xóm v.v…” một hàng giải thích Bồ-tát nhẫn ác nên mọi nơi vì chúng sinh mở rộng kinh. Hai bài sau cùng tổng kết thệ nguyện như văn.

—————————

Ngày mồng bảy Niên hiệu Vĩnh Nhân năm thứ ba ở Giao Chung, các người con gái đồng tâm hiệp lực khắc một quyển nghĩa sớ để cầu nguyện cho cha mẹ được giải thoát. Xét rằng ân cha mẹ cao vời vời như núi Thái hơn tám muôn Bích la, đức cha mẹ sâu thẳm như biển xanh 3 ngàn cho nên nói về sự nuôi dưỡng thì khó lường được. Người con gái ở Giang Thủy Quận Ngô là thiếu nữ khuê các nhưng vì báo ân hiếu hạnh biết ý chí của cha mẹ muốn thẳng đến Diệu thừa làm kim chỉ nam vãng sanh cõi An Lạc.

Sa môn Đô Can Duyên Tố Khánh kính ghi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12