PHÁP HOA NGHĨA SỚ

SỐ 1721

QUYỂN 11

Đời Tùy, Sa môn Cát Tạng soạn

PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI TÁM

Ba phẩm dưới đây là nói rộng về công đức người trì kinh khuyến khích truyền bá, ba phẩm chia làm ba chương:

  1. Phẩm Tùy Hỷ nói về công đức hạ phẩm.
  2. Phẩm Pháp Sư nói về năm hạng pháp Sư tức là công đức trung phẩm này.
  3. Phẩm Thường Bất Khinh nói về công trì Pháp Hoa được sáu căn thanh tịnh cho đến thành Phật gọi là công đức thượng phẩm.

Căn cứ phần vị:

  1. Phẩm đầu Tùy hỷ là nói người sơ phát tâm đến địa vị Thập tín.
  2. Người sáu căn thanh tịnh địa vị ba mươi tâm, nên Luận Pháp Hoa chép: Người được sáu căn thanh tịnh là hàng phàm phu nhờ lực của kinh cho nên được căn thắng dụng, chưa nhập Sơ địa mà văn kinh nói là chưa đắc vô lậu cho nên biết đó là người Địa tiền.
  3. Phẩm Thường Bất Khinh nói theo tích tức từ nội phàm trở lên đến thành Phật, ba phẩm này gồm nhiếp năm mươi hai địa vị Đại thừa. Năm mươi hai địa vị phàm thánh đều từ trong kinh Pháp Hoa sanh ra cho nên khen ngợi sự thắng dụng của kinh, khuyên chúng sinh truyền bá hành trì.

Sở dĩ có phẩm này vì:

  1. Xa trước phẩm Pháp Sư nói đệ tử hai đời nghe kinh tùy hỷ trên tuy nói liền thọ cho ký nhưng chưa nói rộng công đức, nay muốn nói nên có phẩm này.
  2. Nếu theo phẩm kế tục sanh thì nghe phẩm Phân Biệt Công Đức trên vui mừng truyền đạt cho nhau nên có phẩm Tùy Hỷ. Cuối phẩm trên nói sau khi Như lai diệt độ nếu nghe kinh này không sanh chê bai và khởi tâm tùy hỷ nên biết người ấy tin hiểu sâu xa, nay muốn nói công đức kia nên có phẩm này.
  3. Muốn nêu kém bày thắng khen ngợi công đức kia khuyên chúng sinh truyền bá hành trì, chỉ im lặng tùy hỷ thì phước đã vô biên huống chi lại viết chép thọ trì đọc tụng v.v… ư?
  4. Phẩm trên nêu thọ trì cúng dường kinh này công đức vô lượng. Lại có người không thể viết chép thọ trì lại cho là không có công đức, vì vậy nên nay nói về nếu không thể viết chép thọ trì chỉ khởi tâm tùy hỷ thì phước cũng vô biên. Lại phần truyền bá Kinh này khiến ban đầu nói phẩm tùy hỷ: Kinh này nói về hai quyền hai thật trái với xưa nói những người chấp giáo nghe trái tai, nghịch tâm không thể tín nhận, vậy nên nay nói về công đức tùy hỷ vô biên tức là khuyên tin hiểu.

Hỏi: Vì sao người nghe kinh không nghe tùy hỷ ư?

Đáp: Trong phẩm Hiện Bảo Tháp đã nêu ra sáu người, nay nói về bốn:

  1. Người học Tiểu thừa chấp chặt giáo xưa, nghe hai quyền hai thật trái tai nghịch tâm không sanh vui mừng.
  2. Chấp Kinh này cũng là vô thường nhân quả vẫn còn chưa rốt ráo, nếu nghe nhân Nhất thừa nói có thật tánh, quả Nhất thừa thường trú bất diệt cũng trái tai nghịch tâm không sanh tín nhận nên không sanh tâm tùy hỷ.
  3. Người chấp ngăn che tướng thường nghe kinh này mở cửa phương tiện chỉ bày nói tướng chân thật rốt ráo vô dư liễu nghĩa, cũng trái tai nghịch tâm nên không sanh tùy hỷ.
  4. Người có sở đắc chấp chặt quyền là thật, nếu nghe phi quyền phi thật vô y vô đắc cho là đoạn kiến cũng trái tai nghịch tâm không sanh tùy hỷ, cho nên rất khó có người tùy hỷ, và công đức có nhiều như.

Hỏi: Vì sao gọi là tướng tùy hỷ?

Đáp: hai đoạn kinh đều có thể dụng, thể dụng của thừa quyền thừa thật là không ba không một; ngôn ngữ dứt, ý quên gọi là thể, của thừa, xưa vì chúng sinh nói ba, nay phá ba nói một gọi là dụng của thừa. Thể dụng trong thân quyền, thân thật pháp thân phi thường vô thường, mạng không dài không ngắn cũng lời đoạn ý dứt gọi là thể của thân Phật. Xưa vô thường nay thường, xưa ngắn nay dài gọi là dụng của thân, thuận theo thể dụng của hai quyền hai thật mà sanh vui mừng cho nên có tướng tùy hỷ.

Hỏi: Tùy hỷ có bao nhiêu thứ?

Đáp: Lược có hai thứ:

  1. Tùy hỷ pháp.
  2. Tùy hỷ người.
  • Tùy hỷ pháp: Nếu thuận theo kinh này mà sanh vui mừng tức là Kim cương Bát-nhã, tín tâm không nghịch nên gọi là tùy hỷ.
  • Tùy theo người trước làm mà sanh vui mừng, như thấy người thọ trì kinh này cho đến giải thích mà sanh vui mừng nên gọi là tùy hỷ người.

Hỏi: Tâm năng tùy hỷ và sự được tùy hỷ hơn kém hế nào?

Đáp: Có bốn trường hợp:

  1. Đều không có hơn kém, sở tùy hỷ là vô sở đắc, năng tùy hỷ cũng vô sở đắc.
  2. Năng sở đều kém, sở tùy hỷ là có sở đắc, năng tùy hỷ cũng có sở đắc.
  3. Sở tùy hỷ hơn, năng tùy hỷ kém: như phàm phu tùy hỷ bậc Thánh gieo trồng gốc lành.
  4. Năng tùy hỷ hơn, sở tùy hỷ kém, như bậc Thánh tùy hỷ phàm phu gieo trồng gốc lành.

Hỏi: Kinh Đại Phẩm nói về có sở đắc tùy hỷ hồi hướng như là ăn tạp độc. Ăn tạp độc: Lúc đầu ăn tuy ngon sau thì hại thân. Có sở đắc tùy hỷ ban đầu cảm báo trời người sau sẽ thọ sanh già bệnh chết ưu bi khổ não nay nói về tùy hỷ những gì?

Đáp: Ý Phật nói về tùy hỷ Pháp Hoa, Pháp Hoa là pháp vô sở đắc tức là Bát-nhã, vì thế so sánh lượng ở phẩm trước nêu năm độ trừ Bátnhã nên biết là tác vô sở đắc tùy hỷ. Lại nếu có sở đắc tùy hỷ, tức là chiêu cảm quả báo thế gian, làm sao có thể hơn sau tài thí pháp thí ư!

Hỏi: Có tâm năng tùy hỷ có sự được “Sở” tùy hỷ làm sao thành vô sở đắc ư?

Đáp: Đã gọi là năng sở tức là nhân duyên cho nên năng không tự tánh năng, năng gọi là sở năng, sở không có tự tánh sở, sở gọi là năng sở, năng sở như vậy không có tự tánh tức là vắng lặng, nên Trung luận chép: pháp do nhân duyên sở sanh tức là nói tánh vắng lặng. Tịch diệt bởi là năng sở rõ ràng tự nhiên không hề năng sở nên gọi là vắng lặng, vắng lặng rõ ràng tự nhiên mà không mất năng sở, năng sở rõ ràng mà vắng lặng tức là phương tiện thật tuệ, vắng lặng rõ ràng mà năng sở tức là thật tuệ phương tiện, cho nên kinh Đại Phẩm chép: Bồ-tát tùy hỷ dục không rơi vào tâ m, tưởng, thấy ba thứ điên đảo, nên dùng Bát-nhã phương tiện lực.

Hỏi: Hỷ trong Tứ đẳng, hỷ trong Thiền chi, bảygiác chi, năm thọ có gì khác với hỷ ở đây?

Đáp: Hỷ trong bốn vô lượng đẳng là mừng cho người khác mà được vui? Trong Thiền chi là mừng tự mình có được trừ bỏ, trong năm thọ là chung cả mình, người, cấu uế và thanh tịnh; trong bảy giác chi chỉ là vô lậu, đều có khác với hỷ ở phẩm này.

Hỏi: Chỉ tạo vô đắc tùy hỷ hay cũng tạo hữu đắc tùy hỷ ư?

Đáp: Ban đầu hành Bồ-tát chưa kham nổi tu tập quán không đắc, chỉ tác hữu đắc tùy hỷ mà còn hơn người nghe trái tai.

Phẩm chia làm hai: Hỏi và đáp. Hỏi có văn xuôi và kệ. Di-lặc nêu hỏi: Tùy hỷ hồi hướng là pháp môn Bồ-tát nên đại sĩ vì chúng sanh nêu ra câu hỏi. Sở dĩ chính nói sau khi Phật diệt độ: Vì chính đời không gặp Phật nên chúng sanh vọng tìm bờ tự bặt. Phật đáp cũng có hai: Đầu là văn xuôi kế là kệ tụng. Văn xuôi có hai:

  1. Chính là nói tùy hỷ công đức, đáp Di-lặc hỏi.
  2. Nói rộng về bốn người còn lại sở đắc công đức.

Nêu tạng người tùy hỷ có ba:

  1. Thông nêu công đức năm mươi người tùy hỷ.
  2. Chọn người thứ năm mươi sau cùng nêu hai thí tài pháp để so sánh lượng.
  3. Nói sau so sánh đầu.

Nói đầu càng hơn trước lại chia làm ba:

  1. là nói người tùy hỷ.
  2. “Nghe kinh này tùy hỷ rồi”: là nói nghe pháp tùy hỷ.
  3. “Từ trong pháp hội ra đến chỗ khác v.v…:” là nói chuyển giáo, tùy hỷ là tự hành, chuyển giáo là hóa tha.

“Các người đó nghe rồi…:” là nói người tự hành hóa tha. “Người khác nghe rồi v.v…:” là nói người tự hành hóa tha. “Xoay vần như thế đến người thứ năm mươi:” Tren nói lược ba người, nay từ bốn người trở lên đến năm mươi. “A Dật Đa v.v…”: là nói so sánh lượng của người thứ năm mươi. Trên thì nói tùy hỷ, nay ở đây nói công đức thì gọi là phẩm nêu ai việc:

  1. Tùy hỷ.
  2. Công đức.

Lại chia bốn phần:

  1. Hứa nói răn bảo lắng nghe.
  2. “Nếu bốn trăm muôn ức v.v…”: Chính là nói tài pháp thí để hỏi Di-lặc.
  3. Di-lặc vâng đáp.

) Đức Phật so sánh lượng.

Trước nói về tài thí. Nói pháp thí. Trong phần nói về tài thí trước nói ruộng phước, kế nói thí chủ. Nói sáu đường nêu bốn loài, luận Tạp Tâm chép: sáu đường chỉ cho nhiếp chánh sanh không nhiếp trung ấm nhiếp sanh bất tận, nay muốn nhiếp sanh tận, cho nên nói bốn sanh. Trời và địa ngục hoàn toàn hóa sanh, ngạ quỷ có thai hóa sanh, nhân súc sanh đủ bốn loài. Nói sáu đường: khai hiệp khác nhau, hoặc hiệp làm một gọi là phần đoạn sanh tử, hoặc chia làm hai tức hai đường thiện ác, hoặc chia làm ba, có chỗ gọi là ba cõi, lại chia làm năm, y kinh Chánh Pháp Niệm nói Tu-la có hai: Hoặc quỉ hoặc súc sanh nên không có đường riêng. Theo Kinh Già-đà thì Tu-la gồm quỷ, súc sanh và trời thuộc về ba đường nên không có đạo riêng y kinh này thì nói sáu đường. Luận Trí Độ chép: ba thứ địa ngục gọi là lạnh, nóng, đen tối. ba thứ súc sanh là đất, nước, hư không. Ba thứ quỉ: Nga quỉ, quỉ ăn đồ bất tịnh, thần quỉ. Theo các kinh nói hai thứ địa ngục:

  1. Chánh địa ngục ở bên biển lớn.
  2. Biên địa ngục ở giữa các núi.

Chánh địa ngục có một trăm ba mươi sáu chỗ. Y Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Súc sanh có ba mươi bốn ức chủng loại, đủ có tứ sanh tứ thực: Ngạ quỉ có hai:

  1. Ở loài người.
  2. Ở cõi quỉ.

Diêm-phù-đề xuống dưới năm trăm do tuần là nước của ngạ quỉ, chủng loại riêng có ba mươi sáu. Bắt đầu từ ngạ quỷ thân bị nấu cho đến ngạ quỉ thân bị đốt. Có hình không hình là sáu đường cùng bốn sanh gồm nhiếp nghĩa là một môn nhiếp chúng sanh tức là thú cùng sanh, nay dùng hai môn gồm nhiếp gọi là có hình không hình. Kế là nhiếp ba môn gọi là hữu tưởng vô tưởng phi hữu tưởng, phi vô tưởng; kế bốn môn nhiếp, không chân, hai chân, bốn chân nhiều chân đều là tăng số pháp môn dùng để nhiếp sanh.

“Có người cầu phước…”: là nói về thí chủ. “Mà nghĩ rằng…”: Nói pháp thí gồm có ba câu:

  1. Trước nói ý pháp thí.
  2. “Liền nhóm chúng sanh đó v.v…”: chính là nói pháp thí.
  3. “Đồng thời đều chứng đắc…”: Nói được lợi ích. Hai câu trước là pháp thí nay nói ruộng phước.

“Ngài Di-lặc bạch Phật v.v…:” Nói Di-lặc vâng đáp. “Đức Phật

bảo v.v…”: Chính là nói so sánh lượng hai thí: Thời gian dài tu hành sâu rộng sở dĩ không bằng tùy hỷ, vì tài thí là nhân thế gian, pháp thí chỉ đắc Nhị thừa, tùy hỷ siêu phàm vượt Thánh chắc sẽ thành Phật cho nên tùy hỷ là hơn. Như lửa đom đóm trong khắp mười phương không bằng ánh sáng một mặt trời, loài dã can khắp cả đại thiên không bằng một con Sư tử. luận Trí Độ chép: Ba ngàn cỏ cây không bằng một cây Như ý. Lại tội phước từ sự trái và thuận lý sanh thế gian, nhị thừa gốc lành cách xa lý nên phước ít, tùy hỷ cách lý gần nên phước nhiều. Thiện có ba phẩm: Tài thí là nhân thế gian gọi là hạ phẩm, pháp thí khiến đắc Nhị thừa gọi là trung phẩm, tùy hỷ thành Phật gọi là thượng phẩm.

“A Dật Đa! Người thứ năm mươi như v.v…”: là dùng sau so sánh đầu. Có người chép: Người đầu tiên hơn, người sau cùng kém. Người thứ nhất trước nghe Phật nói pháp, kế năm mươi người nghe pháp tùy hỷ tức là năm mươi vị gọi là Thập địa, bốn mươi tâm, người thứ năm mươi là Thập tín sơ tâm, người đầu là Thấp địa tâm cuối cho nên người sau không bằng người đầu. Nay nói về không đúng, nghe kinh hơn kém trước sau bất định, nay tạm theo một cách giải thích là người đầu gần gũi nghe nên phước hơn người sau nghe truyền lại nên phước kém.

Lại “A Dật Đa v.v…:” nói rộng bốn người còn lại: Di-lặc chỉ lược hỏi tùy hỷ, Đức Phật đáp rộng. Luận Trí Độ giải thích trong phẩm Vãng Sanh chép: Thân Tử lược hỏi mà Phật đáp rộng, như người nghèo xin chút ít vật dụng người giàu bố thí nhiều.

Hỏi: Phẩm nêu đủ về công đức năm người vì sao riêng đề phẩm Tùy hỷ?

Đáp: Tùy hỷ là đầu tiên trong năm người cho nên nói nghiêng lệch. lại phẩm này dùng nói riêng danh, phẩm Pháp Sư dưới từ thông thọ xưng hai danh tránh nhau nên nêu xen lẫn.

Người thứ nhất đi đến nghe pháp nên được quả báo sanh lên cõi trời, nếu đến bên cạnh nghe pháp thì rõ ràng được báo phước vô biên. Trong ba phẩm, nếu người hạ phẩm cất chân đi đều có xe voi ngựa đưa đi, người trung phẩm được đi xe bảy báu, người thượng phẩm lên cõi trời. Người thứ hai chỉ chọn phần tòa một bên nên được quả báo ba đời làm vua, nếu đến bên nghe pháp thì phước vô cùng. Người thứ ba chính chọn khuyên người nghe Pháp Hoa được bốn thứ báo:

  1. Khuyên người nghe kinh đó chính là bạn lành cho nên sau được báo gặp bạn lành, nên nói cùng Bồ-tát Đà-la-ni sanh chung một chỗ.
  2. Nên khuyên người nghe pháp trước người thọ giáo chỉ chốc lát nghe pháp phát sanh trí tuệ sau lại được quả báo trí tuệ, cho nên Kinh
  3. nói lợi căn trí tuệ.
  4. Dùng miệng nghiệp khuyên người nghe pháp mầu nhiệm người kia sanh tín chánh giải cho nên miệng không hôi hám được quả báo xinh đẹp khôi ngô.
  5. Khuyên người nghe kinh người ấy là bạn lành đời đời thường được thấy Phật nghe pháp tín nhận dạy bảo. Người thứ tư, “huống chi nhất tâm nghe”: người ấy phước báo cao quý không thể nói hết.

Kệ có mười tám hàng tụng năm người trước chia làm năm biệt nhưng không thứ lớp: Chín hàng đầu tụng người thứ nhất. Kế năm hàng tụng người thứ tư. Sở dĩ tụng vượt đến người thứ tư là do người thứ tư cùng người đầu đều là nói rộng công đức cho nên tụng một chỗ. Ba người còn lại nói lược nên tụng một chỗ, lại tùy hỷ là vì người khác nói pháp. Thứ tư khuyến người khác nghe pháp đều là vì người khác, nghĩ ý nương nhau thành cho nên tụng một chỗ. Kế hai bài tung người thứ hai, kế một bài tụng người thứ ba, đây đã là đi đến và phân tòa khiến ngồi, nghĩa loại liên tục nên liên kế tụng một hàng, sau tụng người thứ năm. Trước thứ một giải thích văn xuôi có ba, nay chín hàng tụng đủ, một bài rưỡi đầu tụng thứ một. “Người sau cùng v.v…” sáu hàng rưỡi tụng thứ hai nêu hai bố thí so sánh, kế một bài tụng thứ ba nêu sau so sánh đầu.

PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI CHÍN

Sở dĩ có phẩm này là vì:

  1. Xa là từ phẩm Pháp Sư mà có, Phẩm Pháp Sư nói lược hai đời đệ tử hai đời Pháp sư, phẩm Tùy Hỷ đã nói rộng công đức hai đời đệ tử, nay kế nói công đức hai đời Pháp sư.
  2. Gần từ cuối phẩm Phân Biệt Công Đức nói về ba phẩm người:
  3. Hạ phẩm gọi là tùy hỷ người; Phẩm tùy hỷ đã nói rộng công đức kia.
  4. Nay kế nói rộng hai phẩm người còn lại cho nên có phẩm này.
  5. Trên phẩm Tùy hỷ lẫn lộn nói về hai thứ công đức thế gian xuất thế gian, như nương cung trời và tòa chuyển luân gọi là công đức thế gian, tùy hỷ chuyển giáo sau được thành Phật là công đức xuất thế gian, phẩm này chỉ nêu công đức xuất thế gian, do sáu căn thanh tịnh ở ba cõi không có nên gọi là xuất thế gian. Căn cứ địa vị nói về: Trước là địa vị đệ tử Thập tín, nay là địa vị các sư ba Hiền. Căn cứ người: Phẩm trước nói về năm người, phẩm này cũng nói về năm người.

Phẩm đây nói về Sư mở rộng pháp được công đức sáu căn thanh tịnh để khuyến khích người trì kinh, phẩm chia làm hai:

  1. Nói chung năm hạng Pháp Sư đắc sáu ngàn công đức.
  2. Biệt giải thích đối thường tinh tấn. a) Tùy duyên thích nghi. b) Người này trì kinh rồi đắc quả báo căn thanh tịnh cho nên lại  đối.

b) Muốn được tịnh căn ắt phải tinh tấn, nhân danh nói nghĩa cho nên đối. “Sáu ngàn công đức”: Bồ-tát hành thiện không ra ngoài ba nghiệp v.v…: Thân ba miệng bốn ý ba hiệp thành mười thiện: một thiện là đầu chín thiện còn lại trang nghiêm, mười thiện ấy xen lẫn trang nghiêm thành một trăm thiện. Tự hành một trăm thiện dạy người khác hành một trăm thiện, người khen ngợi một trăm thiện, pháp khen ngợi một trăm thiện, hiệp làm bốn trăm thiện. Căn cứ năm hạng Pháp Sư mỗi hạng đều đủ bốn trăm thành hai ngàn thiện, hai ngàn thiện này lại có phẩm thượng trung hạ cho nên thành sáu ngàn. Có người nói Bồ-tát hành Thập thiện, một thiện cũng dùng chín thiện trang nghiêm cho nên thành mười thiện, mười thiện liền thành một trăm thiện, tự hành một trăm thiện dạy người hành một trăm thiện, khen ngợi pháp làm một trăm khen ngợi người làm một trăm hiệp thành bốn trăm, bốn trăm đây có thượng trung hạ phẩm thành một ngàn hai trăm, hàng ba căn trì kinh dụng thắng đầy đủ đắc ba phẩm nên có một ngàn hai trăm, còn ba căn trì kinh dụng kém chỉ đắc trung hạ hai phẩm nên có tám trăm. Có người chép: Căn cứ một trăm phước mà luận, kinh này có một trăm phước tướng trang nghiêm, phẩm Dược vương trang dụ, thì biết sáu căn đều đầy đủ một trăm phước, mỗi một phước đều có một trăm thiện trang nghiêm thành một ngàn công đức, một căn một ngàn thì thành sáu ngàn. Nhưng ba căn đối với việc mở rộng kinh công đức cao quý thì nhiều, ba thứ còn lại đã kém nên ít. Nói về năm thứ pháp Sư làm nhân cho nên được sáu ngàn công đức. Kinh Phổ Hiền Quán nói về sám hối tội của sáu căn nên được sáu căn thanh tịnh, nhưng sám hối có hai pháp: Đầu tiên đối mười phương sanh thân Phật căn cứ trong sự sám hối tội sáu căn cho nên nói từ vô thỉ đến nay sáu căn tạo tác ba chướng nay đều sám hối. Kế đối với pháp thân Phật y thật tướng sám hối quán sáu căn là nhân duyên sanh xưa nay vắng lặng; đầy đủ hai thứ sám hối nầy nên sáu căn thanh tịnh.

Hỏi: Thực hành hai thứ sám hối này sáu căn mới thanh tịnh vì sao kinh này nói năm hạng Pháp Sư đắc sáu căn thanh tịnh ư?

Đáp: Quán thật tướng của thân sám hối tức là trì kinh nầy cho nên không trái nhau.

“Các người thiện nam tử v.v…” là khai riêng sáu căn thanh tịnh mỗi căn đều có văn xuôi và kệ tụng. Mắt do cha mẹ sanh ra. Luận Pháp Hoa chép: người phàm phu nhờ năng lực kinh nên được dụng căn cao quý chưa nhập Sơ địa, nếu nhập Sơ địa thì bỏ xả thân phần đoạn trong ba cõi thì không dùng mắt của cha mẹ sanh. Ngài Long Thọ phân rõ hai nhẫn cũng vậy. Nhu thuận nhẫn gọi là nhục thân, vô sanh nhẫn tức là pháp thân, cũng gọi là pháp tánh sanh thân. Kinh này nói nhục nhãn là nhu thuận nhẫn.

Hỏi: Mắt chỉ nên thấy sắc vì sao lại nói thấy nghiệp nhân duyên quả báo?

Người Tiểu thừa nói nhục nhãn chỉ thấy sắc pháp, thiên nhãn thông: do thiên nhãn làm phương tiện cho nên phát thiên nhãn trí năng biết các việc sanh tử đời vị lai.

Luận Pháp Hoa chép: Sáu căn thanh tịnh, trong mỗi căn đầy đủ sáu dụng vì vậy gọi là nhãn căn cũng biết nghiệp hành và quả báo.

Hỏi: sáu căn vì sao được dùng lẫn nhau?

Đáp: Ngộ sáu căn tức là thật tướng, thật tướng tức là pháp thân cho nên sáu căn vô ngại, do đó nên được dùng lẫn nhau.

Hỏi: Căn đầy đủ công đức nhiều ít khác nhau vì sao đồng thấy Tam thiên ư?

Đáp: Như đèn tuy lớn nhỏ đồng chiếu một nhà.

Hỏi: Vì sao chỉ thấy ba ma trời không thấy nhiều ư?

Đáp: luận Trí Độ chép: Ngoài cõi Tam thiên có phong luân trái với nhãn cho nên không thể thấy.

Hỏi: Đã có thể thấy Tam thiên vì sao không gọi là thiên nhãn ư?

Đáp: Vì chẳng tu thiền đắc tịnh sắc nhập vào mắt, lại chẳng sanh báo ở cõi trời kia cho nên không gọi là thiên nhãn.

Hỏi: thiên nhãn của Nhị thừa thấy Tam thiên có gì sái khác với nay?

Đáp: Nhị thừa chỉ thấy cõi nước Tam thiên, nay y thật tướng sám hối và sức trì kinh đắc nhãn căn thấy Chư Phật và Bồ-tát từ đất vọt lên và tháp báu cho nên khác với Nhị thừa.

Hỏi: Phổ Hiền Quán chép: Sám hối tội sáu căn nay nói trì kinh có gì khác nhau không?

Đáp: Nhất thừa tức thật tướng nên trì kinh tức là sám hối, sám hối tức trì kinh.

Núi Di Lâu: Trung hoa gọi là Cao Sơn, lại nói Quang Sơn. Tu-di Sơn: Hán dịch là An minh Sơn cũng gọi là Hảo cao sơn.

Kế giải thích nhĩ căn, văn xuôi chia là ba:

  1. Nói chung năm hạng pháp Sư làm nhân.
  2. Được một ngàn hai trăm công đức nhĩ căn: là nói quả.
  3. Dùng tai thanh tịnh đó: Biệt khen ngợi dụng của nhĩ căn.

Đó là nói về công đức, có ba, câu: câu đầu nói chung Thanh văn. “Tiếng voi v.v…” Là nói riêng tiếng nghe. “Tóm lại…:” Là tổng kết tiếng nghe. “Nói mà không hư nhĩ căn:” Muốn nghe thì tùy ý nghe được tự tại cho nên không hoại. Lại người trì kinh ngộ pháp vắng lặng tuy nghe mà không hề nghe cho nên nói là lại hoại.

Hỏi: Nhĩ làm sao hơn nhãn được một ngàn hai trăm công đức?

Đáp: Người không có mắt thì không chướng ngại tự hành hóa tha, đối với người điếc thiếu hai nghĩa nầy cho nên nhĩ hơn nhãn.

Kế giải thích tỷ căn. Văn xuôi cũng hai: Đầu nêu năm hạng pháp Sư làm nhân, kế nói quả công đức. Trong quả cũng có ba: chung, riêng, kết. Trong riêng có hai: Trước nói ngửi được hương trong ba cõi. Kế “mùi hương Thanh văn” là ngửi nghe mùi hương của người ngoài ba cõi. Trong cõi Dục có hai: Ngửi mùi hương trong loài người, kế mùi cõi trời. Trong loài người có ba: Ngửi mùi phi chúng sanh, kế mùi chúng sanh. “Và cỏ cây v.v…:” Hiệp ngửi hai mùi hương. Trong các tầng trời cõi Dục cũng có hai mùi hương của chúng sanh và phi chúng sanh, cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng có hai mùi hương, tìm văn dễ biết. Trên nghe tiếng loạn nay không loạn tức xen lẫn hiển. Nói xa nghe mùi, hỏi: Tiểu thừa có ba chép:

1) Luận Bà-sa chép: trong ba căn hiệp biết, đó là tị thiệt thân, trong ba căn lìa biết đó là nhãn nhĩ ý. Tạp Tâm chép: Trong hai căn lý biết, ý không nên lìa hợp.

Luận Thành chép: Nhãn chỉ ly mà không hợp, tị thiệt thân hợp mà không lìa, nhĩ căn vừa hiệp vừa lìa, nghe tiếng bên ngoài là lìa nghe tiếng gọi bên tai là hợp, ý căn chẳng lìa chẳng hợp nay vì sao nói tị xa nghe mùi hương ư?

Đáp: Xưa giải thích: trách nhiệm căn thường dùng thì như ba giải thích trên nay nương theo lực kinh nên tỉ có thể ngửi mùi từ xa. Luận Pháp Hoa chép: một căn đủ sáu dụng mà nói mũi xa nghe mùi hương, đây thì biết cảnh thắng dụng, tị căn biết nên đây ý nói tị căn đã đầy đủ sáu dụng, sao lại không ngửi được mùi xa ư! Bởi Bồ-tát không sáu mà sáu quyền trí khéo dụng, nếu sáu mà không sáu tức không hề dụng, không sáu mà sáu gọi là thật phương tiện, sáu mà không sáu là phương tiện thật, người trì kinh đã ngộ kinh này đầy đủ hai tuệ nên có thể như. Phổ Hiền Quán ý cũng vậy. Biết sáu tức thật tướng nên biết sáu thường không sáu, ngộ thật tướng tức sáu căn nên không sáu mà thường sáu, nên sáu không sáu đều vô ngại, đây là ngộ hữu vô vô ngại. Lại căn cứ trong hữu, sáu căn tự vô ngại có thể một căn làm sáu dụng, sáu căn làm một dụng. Hoa Nghiêm chép: Nhãn nhập Tam-muội nhĩ xuất chánh thọ quán nhãn vô sanh, vô tự tánh, nói không vắng lặng vô sở hữu tức chứng minh kia.

Hỏi: Tỳ-đàm chép: Cõi trên không có hương vị nay vì sao nói ngửi hương ở cõi Phạm ư?

Đáp: Phạm Thế có hương thơm nhỏ nhiệm người Tiểu thừa năng lực yếu không thể biết nên nói không có hương. Đại Sĩ lợi căn không bờ bến nên nói ngửi mùi hương cõi Phạm.

Hỏi: Luận Thành chép: vàng bạc không có hương, Kim cương không có vị vì sao kệ nói tạng báo giấu trong đất nghe mùi biết chỗ nào ư?

Đáp: có người chép: Luận nói không là không có hương thô nay nói nhỏ nhiệm. Có người chép: Đây là chấp thể vật cho nên có hương, chất vàng bạc thì không có mùi hương, như gió không có mầu sắc. Phẩm Quán Âm chép: Nếu phong tùy theo chỗ thổi cho nên được tên nầy, nay cũng.

Nay nói đồng trên phá nghĩa của Tỳ-đàm, Tiểu thừa độn căn không biết hương trời kia, đại sĩ thì biết. Hoa Tu mạn na Hán dịch Hảo ý hoa. Xa Đề hoa hương Hán dịch Sanh cũng dịch là thật. Ba la la hoa Hán dịch là Trọng. Ba-lợi-chất-đa-la: Ba-lợi Hán dịch là Hộ, Chất-đala dịchlà các thứ. Câu bệ đà la: Hán dịch là Đại du hý, địa địa phá. Chiêm bặc hoa hương (mùi bông chiêm bặc): Hán dịch là Hoàng hoa thọ, cũng dịch là Kim sắc hoa.

Trong công đức thiệt căn đắc hai thứ quả: Đắc quả thượng vị nghĩa là các vật thô nhám đến thiệt căn thì đều biến thành thượng vị. Đây có hai nghĩa:

  1. Như cõi trời thức ăn dở biến thành thượng vị, như ngạ quỷ thức ăn ngon trái lại thành đồ bất tịnh.
  2. Trong cổ họng Phật có suối cam lộ hòa tất cả thức ăn đều thành cam lộ, nay người trì kinh tùy phần cũng có.

Hỏi: Thiệt có thể biết vị dở, vị chưa đến lưỡi thì đều biến thành thượng vị, tai có thể nghe các tiếng xấu vì sao không biến thành tiếng tốt?

Đáp: Đều xen lẫn thông suốt. Tai đã nghe tất cả tiếng hay dở, tốt xấu, lưỡi cũng chọn lọc thông thạo riêng biệt tất cả vị chỉ xen lẫn khen ngợi! Lại nữa, người khác không thể xa nghe tiếng nay khen ngợi sức trì kinh có thể nghe xa các người không đắc thượng vị, khen ngợi người trì kinh sức có thể đắc thượng vị. Lại tiếng không lợi ích cho thân nên không cần biến, vị chánh giúp cho thể chất nên cần phải biến. Trong thức ăn đầy đủ các vị trần, trần đã biến thì thức ăn cứng nếu đụng vào thì cũng thành mềm, cho đến màu đỏ biến thành cơm trắng, nêu một lệ theo nhiều cũng. Lại vị chính lợi thân nên nói về biến, các thứ khác không chính lợi ích nên không nói về biến. “Người đó ở chỗ nào các Đức Phật đều hướng về phía đó nói pháp”: Người này đã trái hoặc hướng đến lý cho nên thường thấy được mặt Phật như chuyển hướng, còn nếu trái lý hướng về hoặc thì không thể thấy Phật, như trái với Phật, đây là giải thích trong thân căn đắc quả thân thanh tịnh: Như trên, tị căn đã xa ngửi mùi, thân căn cũng xa biết xúc chạm, nhưng nay không chọn nghĩa này, chỉ nói về tâm các người bất tịnh nên thân căn bất tịnh, người trì kinh tâm tịnh nên thân tịnh, như A-nan khuôn mặt như gương sáng, sắc tượng già trẻ đều hiện trong đó.

Kệ nói chỉ tự hiểu rõ, là người trì kinh riêng tự hiểu các người khác không trì kinh nên không thấy chỗ Bồ-tát thấy là giải thích trong ý căn nói nghiêng về sau khi Như lai diệt độ nêu một loại. Nói về ý thanh tịnh đủ đắc bốn biện tài, nghe một câu một kệ gọi là Pháp biện, thông đạt Vô Lượng Nghĩa gọi là Nghĩa biện, năng giảng nói một câu một kệ gọi là Từ biện, mà nói “một tháng bốn tháng. Một năm”: mmột tháng là đầu trong mười hai tháng, bốn tháng là một trong bốn thời, một năm là thời cuối cùng, nói lược ba thời đầu, giữa, sau, “Tam Thiên đại thiên thế giới v.v…” là biết căn cơ, tức là Nhạo nói biện tài.

PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ-TÁT THỨ HAI MƯƠI

Sở dĩ có phẩm này gồm có bảy nghĩa:

1/ Ba phẩm nói ba thứ công đức, hai phẩm trên nói hai công đức của phẩm hạ, trung đã rồi, nay kế nói công đức phẩm thượng.

2/ Kinh này từ đầu đến cuối nói người tuyên dương trì tụng được ba đời công đức. Phẩm Phân Biệt Công Đức ban đầu nêu mười hai thứ lợi ích nghe kinh ngộ đạo được công đức đời hiện tại. Từ Phẩm Phân Biệt Công Đức đến phẩm Pháp Sư khen ngợi kinh này có thể sanh công đức cho chúng sanh đời vị lai, nay một phẩm nầy khen ngợi kinh có công năng sinh ra công đức chúng sanh đời quá khứ đây đều y cứ khi Phật còn tại thế, ở đây phân ba đời, lực kinh tuy nhiều mà cho không ngoài lợi ích ba đời.

3/ Gần tức chứng minh phẩm Pháp Sư cho nên có: Trên tuy nói người trì kinh được sáu căn thanh tịnh mà chưa có việc ấy, nay dẫn đức Thích-ca bổn sanh tự thân chứng nghiệm. Chứng nghiệm: Là chánh chứng nghiệm sau khi Phật diệt độ người trì kinh này được sáu căn thanh tịnh, và khuyên chúng sanh đời vị lai trì kinh.

4/ Trên nói quả sáu căn thanh tịnh nay trình bày nhân sáu căn thanh tịnh, muốn được căn tịnh phải như Bồ-tát Thường Bất Khinh nhất tâm nhẫn chịu các sự đánh đập lăng mạ vì chúng sanh mở rộng kinh thì hiện tại thân được các căn thanh tịnh.

5/ Muốn nói chúng sanh đều có Phật tánh thành Nhất thừa cho nên nói phẩm này. Tất cả chúng sanh có Phật tánh không có các tánh khác cho nên chỉ có Nhất thừa không có các thừa khác. Xưa nói kinh Pháp Hoa chỉ nói về người thiện có Phật tánh, kinh Niết-bàn nói người có tâm đều được thành Phật. Nay nêu phẩm này chính là nói người ác có Phật tánh. Phẩm Phương Tiện nêu một chút thiện đều thành Phật đạo thì biết tất cả người có tâm đều có Phật tánh đều thành Phật.

Hỏi: Chúng sanh nầy vì sao là những người ác ư?

Đáp: Tiểu thừa chấp chặt chống trái Đại thừa là người hủy báng Phương Đẳng, lại người chấp Tiểu không tin Đại thừa đối với Đại thừa không tin là người nhất xiển đề tức là người cực ác. Nghĩa có Phật tánh không khác với Niết-bàn.

6/  Từ trước đến nay nói nghĩa thọ ký còn tự chưa hết, trên chỉ nói Phật thọ ký chưa nói Bồ-tát thọ ký thì người năng thọ ký chưa hết, trên chỉ thọ ký cho người thiện chưa thọ ký cho người á, do đó người được thọ ký chưa hết. Trên chỉ hiện tại thọ ký chưa nói về sau khi Phật diệt độ cũng được thọ ký, tức là thời gian chưa hết, nay muốn nói về nghĩa của ba thứ hết cho nên nói phẩm này.

7/ Hai phẩm trên kinh đã rộng khen ngợi phước người trì kinh khuyên vật nói về sự tu hành, nay kế rộng trình bày tội chê bai pháp chê bai người khuyên đời vị lai chớ tạo nghiệp ấycho nên nói phẩm nầy.

– Thường Bất Khinh: Tất cả chúng sanh thường có Phật tánh cho nên nói các pháp xưa này tướng tự vắng lặng, Đại sĩ quán được tâm nầy nên thường không khinh vật từ người mà nêu tên. Phẩm chia làm hai:

trước văn xuôi kế kệ tụng.

Văn xuôi chia làm ba phần:

  1. Nêu hai loại người tin và chê.
  2. Dẫn quá khứ cùng chứng hai việc.
  3. Cùng khen ngợi tức khen ngợi pháp khen người.

Phần một có hai:

1/ Nêu người hủy báng mắc tội: “Bảo ngài Đắc Đại Thế v.v…:” Là nói lên Bồ-tát này biết pháp xưa nay tướng thường vắng lặng có thế lực chánh quán, không bị kết hoặc trói buộc khiến người mở rộng kinh cũng phải học tập. Tức là hiển rõ Thường bất khinh đắc đại nhẫn lực không bị nhục chí do đánh mắng khiến người trì kinh học theo hạnh ấy. “Như trước đã chép:” là cuối phẩm Thí Dụ.

2/ Đắc công đức như trước đã nói v.v…: Nói về người trì kinh được phước.

– “Đắc Đại Thế v.v…:” là nói việc quá khứ song chứng. Văn có hai:

  1. Nêu lý do.
  2. Chính là nói việc Thường bất khinh.

Trong lý do lại có hai:

  1. Nói một Đức Phật ra đời.
  2. Nói nhiều Đức Phật ra đời.

Đầu có bảy câu:

  1. Nêu thời gian.
  2. Có Phật hiệu là Oai Âm Vương: là nói hóa chủ.
  3. Kiếp tên Ly suy: là Nêu tên kiếp.
  4. Nước tên Đại Thành: là Nêu tên nước.
  5. Đức Phật Oai Âm Vương kia: là nêu giáo môn. Nhân Ba Bồ-đề nói lục Ba-la-mật. Nhân: Là do. Vì giúp cho chúng sanh đắc Ba Bồ-đề, vì vậy nên Như lai nói sáu độ.
  6. “Đắc Đại Thế v.v…:” là nói thọ mạng.
  7. “Chánh pháp trú thế v.v…” là Nêu trú thế; “Chánh pháp tượng pháp sau khi diệt hết”… là nói nhiều Phật ra đời. Đầu tiên Đức Phật Oai Âm Vương v.v…: Chính là nói việc Thường Bất Khinh, lại chia hai:
  1. Đầu tiên nêu hai người hành nhân.
  2. Nêu hai người đắc quả.

Trong hành nhân gồm có năm cặp:

1/ Nêu thời gian hành nhân, nghĩa là chánh pháp đã diệt ở trong đời tượng pháp có hai người tin và chê. Sở dĩ chỉ y cứ tượng pháp là muốn khuyên chúng sanh đời tượng pháp trì kinh cũng được các căn thanh tịnh, lại khuyên răn người thời tượng pháp chớ chê bai người chê bai pháp.

2/ “Tỳ-kheo tăng thượng mạn..:” cùng nêu hai người: trước nêu người ác, sau nêu người thiện.

3/ “Đắc Đại Thế v.v…:” cùng nêu hai người hành nhân: trước nói người thiện hành nhân, đây Bồ-tát dùng ba nghiệp phá bệnh mở rộng kinh: Thân nghiệp lễ bái, miệng nghiệp khen ngợi. Sở dĩ thân cung kính vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là Phật đương lai, nay muốn cung kính vị Phật đương lai cho nên lễ bái, miệng khen ngợi cũng như vậy, do đều có Phật tánh sẽ được thành Phật cho nên khen ngợi Phật đương lai. Thân miệng đã có cung kính khen ngợi thì có trải qua ý nghiệp nên đầy đủ ba nghiệp mở rộng kinh Pháp Hoa. Luật dạy: Tỳ-kheo không lễ bái người thế tục, nay nói lễ bốn chúng ấy là pháp đại tiểu có khác nhau. Như Kinh Niết-bàn chép: Người có hiểu biết pháp hoặc già hoặc trẻ thảy đều cung kính.

Hỏi: Lúc bấy giờ vì sao thực hành việc cung kính khen ngợi mở rộng Nhất thừa ư?

Đáp: Bất Khinh mở rộng kinh gồm có hai việc:

  1. Mật nói.
  2. Hiển nói.

Hành cung kính khen ngợi tức là thầmnói Nhất thừa, sau đắc nhãn căn thanh tịnh đầy đủ trí tuệ thần thông hiển nói Nhất thừa. Sở dĩ trước mật nói sau hiển nói là vì đời mạt pháp người tăng thượng mạn ác mạnh, thiện yếu không thể nói ngay cho nên đầu chỉ được nói sơ lược qua, trong sơ lược chỉ nói thành Phật gọi là nghĩa hiển thật, chưa được bác bỏ Nhị thừa nên không mở cửa phương tiện.

“Rất kính quí ngài”: Là hiển chúng sanh có chánh nhân Phật tánh. Mà nói rất kính là vì đã có Phật tánh tức là Phật đương lai là rất cung kính cho nên nói rất. Lại chúng sanh có Phật tánh có nghĩa thậm thâm cho nên nói rất kính. Hành đạo Bồ-tát: là nói duyên nhân Phật tánh, tuy có Phật tánh chủ yếu cần phải tu hành mới được thấy. “Sẽ được thành Phật”: là vốn có Phật tánh, nay lại hành nhân đủ nghĩa hai nhân duyên chánh cho nên được thành Phật. Nhưng kinh chép: Tất cả chúng sanh xưa nay là Phật, đối duyên nghĩa là chẳng phải Phật, như Trưởng giả thấy cùng tử là con mình mà cùng tử tự cho là khách chẳng phải con của Trưởng giả, cho nên hiện Phật đối duyên thành “sẽ”. Lại trong đây chưa kham nổi nói chúng sanh xưa nay là Phật chỉ được nói sẽ thành. Sau trong hiển nói mới được nói về Phật pháp từ xưa nay tướng thường tự vắng lặng tức là Phật. “Trong hàng bốn chúng…:” là nói nhân hạnh của người ác. Tu Bồ-đề không khởi tránh luận với người nay sanh tức giận người cùng là Đại Tiểu thừa khác nhau hợp thời mà khuyên.

“Trải qua nhiều năm như v.v…:” Cùng lặp lại nêu hai người hành nhân, nay trước nói người thiện hành nhân, trước chỉ hành nhân thiện, nay kế nói nhẫn ác. “Lúc nói lời đó:” Là nêu người ác hành nhân. “Chạy tránh đứng xa”..: cùng nói lại hành nhân, trên nói nhẫn lời chê mắng, nay kế nhẫn thân đánh đập. “Do ông thường nói lời đó…:” Là tổng kết tên Thường Bất Khinh, tức nói nghĩa người ác hành nhân.

Hỏi: Thường Bất Khinh mở rộng kinh có gì khác với ba việc ở phẩm Pháp Sư?

Đáp: Thường Bất Khinh đầy đủ ba việc: Có tâm từ bi mới năng hành cung kính khen ngợi tức là vào nhà Như lai, nhẫn nơi sự đánh mắng gọi là mặc áo Như lai. “Rất quí các ông”: Tức là biết các pháp tướng thường vắng lặng gọi là ngồi tòa Như lai.

Trải qua nhiều năm thường làm việc này tức là tâm không biếng nhác. Vì bốn chúng nói pháp lại tức là tứ hạnh an lạc, do biết có Phật tánh, Phật tánh tức là bậc nhất nghĩa Không gọi là hạnh vắng lặng, đã thực hành cung kính khen ngợi thì không kiêu mạn, nhẫn chịu được đánh mắng tức đâu có tâm ganh ghét trải qua nhiễu năm nhẫn khổ mở rộng đạo thì đủ đại từ bi cho nên đầy có bốn hạnh. “Vị Tỳ-kheo đó lúc sắp chết..:” là nói hai người đắc quả, trước nói người thiện đắc quả, kế nói người ác đắc quả. Người thiện đắc quả có hai: trước nói đắc quả, kế kết hợp xưa nay. Đắc tám thứ quả:

  1. Quả nghe pháp năng trì: Trong đây nói hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa tức kệ thủ lư.
  2. “liền được nhãn căn hanh tịnh như trên v.v…:” Tức nói đắc quả các căn thanh tịnh “sáu căn thanh tịnh đó: là nói quả tuổi thọ lâu dài tức đại sĩ ấy đạt pháp không sanh diệt đâu có tâm còn mất, chỉ muốn vì vật 350 mở rộng kinh cho nên thị hiện có tuổi thọ lâu dài.

4/ “Lúc đó các vị tăng thượng mạn v.v…” là nói quả người ác tin phục. “Đại thần thông lực:” Nghĩa là thân thị hiện thần thông lực. “Nhạo nói biện lực:” là miệng nghiệp nói pháp. “Đại thiện tịch lực:” Ý đắc thiền định.

5/ “Lại giáo hóa v.v…” là nói người khéo trụ nơi đạo quả.

6/ “Sau khi qua đời v.v…” là xả thân được quả Phật.

7/ “Ở trong pháp chư Phật” Nêu đắc quả sáu căn thường thanh tịnh không sợ hãi.

Nay nói Thường Bất Khinh đắc quả thứ tám, căn cứ vị có ba: a) đắc căn thanh tịnh nghĩa là quả nội Ba Hiền phàm.

  1. Đắc căn thường thanh tịnh tức đắc Sơ địa trở lên, đắc vô sanh nhẫn liễu ngộ tất cả pháp xưa nay vắng lặng cho nên các căn thường thanh tịnh.
  2. Đắc quả Phật địa, trước chưa đắc các căn thanh tịnh thì gọi địa vị Thập tín mà mở rộng kinh nên người này đầy đủ năm mươi hai địa vị hiền Thánh.

8/ “Đắc Đại thế v.v…” Nêu quả sẽ được thành Phật. Tám quả không ra ngoài ba báo: bốn quả đầu là hiện báo, kế một quả là sanh báo, ba quả sau là hậu báo.

“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao?” Là kết hợp xưa nay. Đắc Đại Thế! Thuở đó…: là nói người ác đắc quả cũng chia làm hai:

  1. Chính là nói đắc quả.
  2. Kết hợp xưa nay.

Trong đắc quả có hai:

  1. Đắc quả ác.
  2. Đắc quả thiện. Trước đắc quả ác sau đắc quả thiện: Do đánh mắng Thường Bất Khinh nên đắc quả ác sau tin chịu thuận theo nên được quả thiện.

Hỏi: Kinh nói Chư Phật, Bồ-tát không vì chúng sanh gây ranhân duyên phiền não vì sao lễ bái khen ngợi sanh nhân ác ư! Sau khiến bị quả khổ ư?

Đáp: có hai nghĩa:

  1. Bốn chúng tăng thượng mạn ác đã thành tựu, ắt rơi vào địa ngục, nay lễ bái khen ngợi vì tạo nhân ra khỏi địa ngục duyên thành Phật chẳng sanh vào chỗ ác kia. Sở dĩ biết như vậy là do lúc Thường Bất Khinh chưa lễ lạy đã là tăng thượng mạn rồi. Lúc bấy giờ, đã chấp tiểu không tin Đại đó là người hủy báng Phương đẳng.
  2. Như vị thầy thuốc ở đời trị bệnh có hai cách: a) Cho thuốc tốt liền lành bệnh. b) Cho thuốc đắng lúc đầu tuy không ưa thích mà sau chắc an vui. Chư Phật cũng vậy. Tự có đầu nói diệu pháp tức liền liễu ngộ, tự có ban đầu vì nói pháp tâm kia hủy báng rơi vào địa ngục, sau do điều thiện nầy chắc được giải thoát, nếu không vì nói thì không hy vọng giải thoát.

Hỏi: Phẩm Thí Dụ chép: Người chê bai kinh Pháp Hoa đọa vào ngục A tỳ trải qua vô số kiếp, sao nay chỉ nói ngàn kiếp ư?

Đáp: Bốn chúng nếu trực kế sanh chê bai thì như kia nói, nay nghe Bất Khinh mạnh vì kia nói, tuy hủy báng mà nhờ vào sức này nên chịu khổ thì nhẹ và sau được tin hiểu.

Hỏi: Bất Khinh gọi là hạnh thật hay hạnh quyền ư?

Đáp: Tích đã thọ lượng thì biết đó là hạnh quyền.

“Hết tội đó rồi v.v….:” là nói đắc thiện. “Đắc Đại Thế! Nên biết v.v…:” Là đoạn lớn khen ngợi giáo khuyên tu chia làm hai: trước khen ngợi kế khuyến. Trước khen ngợi giáo: Do năng lực kinh Pháp Hoa nên Thường Bất Khinh được hai thứ lợi ích:

  1. Hết các tội kia là năng lực diệt ác.
  2. Được sáu căn thanh tịnh cho đến thành Phật gọi là năng lực sanh thiện. Sở hóa bốn chúng cũng được hai lợi ích:
  3. Do năng lực kinh chịu khổ nhẹ.
  4. Được vượt khỏi địa ngục cho đến Bồ-đề bất thoái. “Vì vậy các Bồ-tát v.v…” là khuyên tu.

Văn kệ không tụng văn xuôi cùng nêu tin, chê chỉ tụng song chứng và khen ngợi khuyên tu, chia làm hai:

Mười lăm hàng rưỡi tụng tụng thứ nhất song chứng, bốn hàng còn lại tụng thứ hai khen ngợi giáo khuyên tu. Song chứng có hai:

  1. Nói lý do.
  2. Chính là nói việc Thường Bất Khinh, nay tụng đủ. Đầu một bài rưỡi tụng thứ nhất. Sau khi Phật diệt độ là tụng thứ hai.

Văn xuôi có hai:

  1. Nói hành nhân.
  2. Nói đắc quả, nay tụng đủ.

Trước bốn hàng tụng hai người hành nhân. “Tội Bồ-tát hết rồi v.v…” Mười hàng tụng đắc quả: Đầu năm hàng tụng người thiện đắc quả. “Khi ấy bốn bộ chúng..:” năm hàng tụng người ác đắc quả. Khai thị dạy cho người khiến trụ trong Niết-bàn v.v… “Thường khiến hiểu biết các pháp từ xưa nay tướng thường vắng lặng gọi đây là Pháp Hoa dạy đắc Niết-bàn. “Trải qua ức muôn kiếp v.v…” Là tụng khen ngợi giáo khuyên tu: hai bài kệ tụng khen ngợi giáo, do chúng sanh gieo giống Trung đạo gốc lành không hai đã thiếu ít, đối người kia vì khó nghe nên Phật cũng khó nói. hai bài tụng khuyến tu: Do khó nghe đã được nghe, khó nói đã được nói, nên kịp thời tu hành chớ sanh nghi.

PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC THỨ HAI MƯƠI MỐT

Môn khen ngợi lưu thông, có hai phần:

  1. Ba phẩm trước phẩm này là chính là nói về khen ngợi pháp, khen ngợi người.
  2. Nói Như lai hiện thần lực.

Sở dĩ ban đầu khen pháp khen người, sau đó hiện thần lực:

  1. Là do trên đã khen pháp khen người, Chư Phật dùng đạo nhãn thấy mười phương hiện tại, vị lai nhiều kiếp, hai đời chúng sanh đều muốn giảng nói hành trì, do gốc lành này dẫn đến thành tựu Phật, cho nên Phật vui mừng hiện thần lực lớn.
  2. Trên tuy là khen người khen pháp mà khuyên giảng nói thọ trì chưa hết, nay lại hiện thần lực, lại khen người khen pháp, khuyến khích mở rộng kinh, cho nên đoạn văn sau chép: Thần lực của Chư Phật vô lượng vô biên, dùng thần lực này ở trong vô lượng kiếp mà khen ngợi kinh thì công đức không thể cùng tận, cho nên hành giả phải thọ trì.
  3. Thần lực nầy từ kinh này sanh ra, nếu muốn được quả báo ấy thì phải thọ trì kinh này.
  4. Kế là nghĩa phẩm trên, trước tuy có dẫn việc quá khứ đắc sáu căn thanh tịnh, mà đại chúng lúc ấy tin chưa rõ ràng nên Như lai hiển bày rộng lên thần lực
  5. Kinh này trước sau gồm có ba hội, hội đầu trên núi Linh Thứu ở cõi uế, nói thừa phương tiện thừa chân thật. Hội thứ hai là ba lần biến cõi nước tám phương thành cõi tịnh để nói thân phương tiện thân chân thật. Hội thứ ba là từ phẩm Thần lực, mười phương thế giới thông đạt vô ngại đồng làm một cõi khiến chúng sanh mười phương đều nghe Pháp Hoa.

Chỗ của ba hội này là từ hẹp đến rộng, đại chúng cũng từ ít đến nhiều, phẩm này chia ra hai phần.

  1. Các Bồ-tát nghe khen ngợi pháp khen ngợi người ở các phẩm trước liền phát nguyện mở rộng kinh.
  2. Phật thấy các Bồ-tát phát nguyện mở rộng kinh tâm sanh vui mừng nên hiện thần lực lớn.

Các Bồ-tát từ đất vọt lên có hai ý:

  1. Vì khai phát tuổi thọ tức bắt đầu từ điều thiện.
  2. Phát nguyện truyền bá kinh khiến thiện đến cuối cùng Đại pháp chân chánh thanh tịnh, vì đối với Nhị thừa không ngay thẳng nên gọi là chân, hệ lụy chẳng có gì không hết nên gọi là tịnh, đức không gì không tròn đầy nên gọi là đại.

“Lúc bấy giờ, đức Thế tôn v.v…”, đây là nói phần hiện thần lực, gồm có văn xuôi và kệ tụng văn xuôi chia làm hai, ban đầu là hiện thần lực, sau là khen ngợi pháp và khuyên tu. Phần hiện thần lực lại chia làm hai, ban đầu nói hiện thần lực, sau nói đại chúng lúc ấy thấy thần mà được lợi ích. Phần đầu lại chia ra hai ý, ban đầu nói ở trước đại chúng, sau chính là nói hiện thần lực lớn.

Sở dĩ ở trước đại chúng, là muốn đại chúng được lợi ích, cũng là muốn khen ngợi Phật có thần lực tự tại không có sợ hãi. Nói về hiện thần lực, ở trong ấy hiện năm món thần lực.

1. Hiện tướng lưỡi, biểu hiện nói hai thứ phương tiện, hai thứ chân thật không có luống dối. Luận Pháp Hoa chép: Đưa tướng lưỡi dài rộng là khiến nhớ nghĩ, tức là nhớ nghĩ lời Phật dạy không có luống dối.

2/ Phát ra ánh sáng, là nói lên kinh này có thể diệt mê hoặc mà sanh hiểu biết, như ánh sáng xua tan tối tăm, các vật được thấy rõ, lại muốn cho kia đây thấy nhau.

Hỏi: Hai chỗ trước chỉ phóng một ánh sáng nơi hai đầu chân mày, nay vì sao phát ra ánh sáng từ tất cả chân lông mà chiếu khắp cả mười phương?

Đáp: Hai chỗ trên là biểu hiện chỉ có Nhất thừa và pháp thân không hai, cho nên chỉ phát ra một lằn ánh sáng. Nay muốn truyền bá kinh này khiến chúng sanh trong hai đời đều được tin hiểu và thọ trì cho nên phát ra tất cả ánh sáng.

Phân thân của Phật cũng hiện ra hai điềm lành, là muốn nói lên cùng một pháp thân mà ứng tích như nhau, cho nên đồng hiện hai điềm lành. Lại nữa, đại chúng thấy nhiều Phật hiện thần lực thì tấm kính tin thêm sâu xa, nếu một vị Phật thì lời nói có thể không thật, nhưng cả Chư Phật mười phương lẽ nào luống dối sao, vì thế đồng hiện tướng lưỡi rộng dài.

“Đầy đủ cả trăm ngàn kiếp”, thần lực trong một lúc thì chưa đủ gọi là ít có, đủ tất cả trăm ngàn năm mới là đặc biệt kỳ diệu, cũng là nói lên pháp ở đời lâu cho nên thần lực hiện lâu dài.

Hỏi: Vì sao hoàn nhiếp tướng lưỡi mà không thâu ánh sáng?

Đáp: Biểu hiện việc nói pháp đã xong nên hoàn nhiếp tướng lưỡi, nhưng muốn khiến mười phương được thông suốt, kia đây thấy nhau nên không thâu ánh sáng lại. Kinh Niết-bàn thì biểu hiện chỗ làm đã xong nên thâu ánh sáng.

3&.4 “Đồng thời cùng tằng hắng và búng ngón tay”: Xưa nói tằng

hắng là biểu hiện nói hai thứ phương tiện, hai thứ chân thật làm thích hợp ý Phật. Luận Pháp Hoa chép: Hiện tiếng tằng hắng là khiến chúng sanh nghe nói kệ, nghe rồi thì đúng như thật tu hành, không có phóng dật. Búng ngón tay là biểu hiện giác ngộ chúng sanh, khiến người tu hành được giác ngộ.

5. Đất rung chuyển là cũng khiến chúng sanh giác ngộ, biết Phật nói pháp lại chỉ bày tướng vô thường khiến mau tu pháp này. Cũng là biểu hiện chúng sanh trong mười phương xa nghe hội này nói kinh Pháp Hoa, tùy hỷ cúng dường, nhờ vào gốc lành mà sau được thành Phật, cho nên đất rung chuyển. Theo ý Luận Pháp Hoa thì tướng lưỡi và tằng hắng là thuộc về điềm lành của miệng nghiệp, phát ra ánh sáng và búng ngón tay là thuộc điềm lành của thân nghiệp, đất rung chuyển là điềm lành của ý nghiệp. Trong văn kinh là nói theo thứ lớp, hai điềm lành trước thuộc về sắc, hai điềm lành kế theo thuộc về tiếng, bốn điềm lành này gọi là điềm lành chánh báo, đất rung chuyển là điềm lành y báo.

Năm điềm lành theo thứ lớp, tướng lưỡi là bậc giáo chủ nói pháp, cho nên hiện trước, nói pháp có dụng diệt hoặc sanh hiểu biết cũng khiến mười phương được thông đạt, kia đây cùng thấy nhau, cho nên kế đến là phát ra ánh sáng. Kia đây đã thấy nhau cho nên tằng hắng khiến được nghe, khiến nghe là khiến giác ngộ cho nên búng ngón tay. Bốn điều này là hiện điềm lành chánh báo đã rồi, kế đến hiện đất rung chuyển là điềm lành y báo.

“Chúng sanh ở trong ấy” là nói chúng sanh mười phương thấy điềm lành, trước có hiện điềm lành hai chỗ là có nhiều lợi ích ở hội này, nay hiện năm thứ thần lực là có nhiều lợi ích cho mười phương, nên nói mười phương đều thấy, ở đây chia làm bốn:

  1. Thấy hiện thần lực mà sanh vui mừng.
  2. Chư thiên xướng nói khuyến khích tùy hỷ cúng dường, tức câu: “Tức thời chư thiên ở giữa hư không”.
  3. Nói mười phương thuận theo, tức câu: “Các chúng sanh ấy nghe tiếng nói giữa hư không rồi chắp tay v.v…”.

Phật lại hiện hai món thần lực, tức câu: “Các vật rải xuống thí như mây nhóm”.

Tất cả đều thành màn báu là biểu hiện pháp thân không hai, như phần kinh sau nói. Thông đạt vô ngại như một cõi Phật, là nói lên giáo pháp không khác nhau như phần kinh trước nói, là biểu hiện mười phương đồng ngộ hai điều này.

“Lúc bấy giờ Phật bảo đại chúng bậc Bồ-tát thượng hạnh”, đây

là phần khen ngợi pháp và khuyên tu. Trong phần khen ngợi pháp lại chia bốn ý:

  1. Tất cả pháp mà Như lai hiện có, tức là phần đầu kinh nói về thừa phương tiện, thừa chân thật.
  2. Như lai có tất cả thần lực tự tại, tức là phần sau kinh nói về thân phương tiện, thân chân thật, thích ứng giáo hóa dài hoặc ngắn đó là thần lực tự tại.
  3. Như lai có tất cả tạng bí yếu, hai thứ này bao gồm tất cả nghĩa, nên gọi là yếu, pháp mà thuở xưa chưa nói nên gọi là bí.
  4. Như lai có tất cả việc sâu xa, thọ ký cho người trong năm thừa thành Phật thì gọi là việc sâu xa. Bốn ý này là theo thứ lớp, lại bao gồm hết ý nghĩa của một bộ kinh. Ý đầu là nói pháp nhân quả của Nhất thừa, thứ hai nói chỗ hiện thần thông của một bộ kinh, thứ ba nói nhân quả thần thông xưa chưa nói nên gọi là bí yếu, thứ tư thì như cách giải thích trên.

“Cho nên các thầy sau khi Như lai diệt độ, phải một lòng thọ trì v.v…”, đây là phần khuyến khích. Phần kệ lại chia làm hai:

  1. Kệ tụng hiện thần thông.
  2. Kệ tụng về khuyên tu.

Trong phần hiện năng lực thần thông chia làm ba phần:

  1. Kệ tụng nói vì lợi ích của chúng sanh mười phương trong hiện tại mà hiện thần lực.
  2. Hai bài kệ kế chính là nói hiện thần lực.
  3. Một bài kệ nói vì lợi ích cho chúng sanh ở đời vị lai nên hiện thần lực.

Vì phó chúc kinh này nên nói về khuyến khích tu, lại chia ra hai phần:

  1. Khen ngợi.
  2. Khuyên thọ trì.

Phần khen ngợi lại có bảy phần:

  1. Hai hàng kệ đầu nói về công đức vô biên.
  2. Một hàng kệ rưỡi nói được thấy Chư Phật.
  3. Hai hàng kệ nói Chư Phật vui mừng.
  4. Một hàng kệ nói không bao lâu sẽ được thành Phật.
  5. Một hàng kệ rưỡi nói đắc bốn thứ vô ngại.
  6. Một hàng kệ rưỡi nói đắc ý thú của kinh.
  7. Một hàng kệ rưỡi nói diệt chướng hoặc sanh giải ngộ.

Người trì kinh Pháp Hoa thì có được bảy quả báo này, đây là phần khuyên thọ trì, như văn chép: Sau khi ta diệt độ, nên thọ trì kinh này v.v…”

PHẨM CHÚC LỤY THỨ HAI MƯƠI HAI

Trên đây đã nói về khen ngợi truyền bá kinh, nay nói về phó chúc truyền bá.

Hỏi: Tiểu thừa cho rằng Phật mãi vào cõi vô dư, không trở lại giáo hóa chúng sanh nên phải phó chúc. Kinh này nói pháp thân thường còn, có cảm thì có ứng, vì sao lại phải phó chúc?

Đáp: ở đây gồm có ba nhân duyên:

  1. Đại chúng lúc ấy nghe Phật ân cần phó chúc thì tâm tôn trọng pháp sâu xa, ai nấy đều muốn thọ trì, giảng nói.
  2. Phó chúc cho các Bồ-tát là khiến họ thực hành lợi mình và lợi tha.
  3. Bồ-tát có nhân duyên nặng với chúng sanh, cho nên khiến Bồtát mở rộng kinh và hóa độ chúng sanh.

Văn nầy chia hai phần:

  1. Phẩm này cính là nói về phó chúc.
  2. Từ phẩm Dược Vương trở đi là vâng mệnh truyền bá. Nói chữ chúc lụy, chúc là phó chúc, lụy là dựa vào, chúc lụy có hai nghĩa:
  3. Phó chúc pháp cho người, nghĩa là phó chúc pháp mầu Đại thừa cho các Bồ-tát.
  4. Dùng người phó chúc cho người, đem chúng sanh trong hai đời phó chúc cho Bồ-tát tứ y, như luận Kim cương Bát-nhã phó chúc Bồ-tát căn chưa thành thục cho Bồ-tát căn cơ thành thục, nay là đủ hai nghĩa này.

Luận Trí Độ chép: Bát-nhã chẳng phải là pháp bí mật nên phó chúc cho Thanh văn Pháp Hoa là pháp bí mật nên phó chúc cho Bồ-tát. Luận tự giải thích rằng: Bát-nhã chưa nói La-hán thành Phật, chỉ nói Bồ-tát thành Phật nên lời ấy dễ hiểu Thanh văn có thể thông suốt nên thích hợp phó chúc cho Thanh văn. Pháp Hoa nói A la hán thành Phật đối với giáo xưa là rất sâu, Thanh văn chưa hiểu nên phó chúc cho Bồtát, phẩm này có ba phần:

  1. Đức Phật phó chúc.
  2. Bồ-tát nhận lời phó chúc.
  3. Nói việc nói kinh đã xong.

Phần đầu lại chia làm hai ý:

1. Đức Phật xoa đầu phó chúc mà nói hiện thần lực lớn. Có người nói đó là bảy thứ thần lực như phẩm trước nói, nhưng nay không đúng. Đức Thích-ca đưa cánh tay mấy thước đồng thời xoa khắp đảnh vô lượng Bồ-tát số nhiều như cát bụi của ngàn thế giới, thần lực lớn này không có gì hơn đây.

“Mà nói lời này”, trước hiện thần lực lớn nghĩa là ý nghiệp phó chúc, dùng tay xoa đảnh nghĩa là thân nghiệp phó chúc, nay miệng nghiệp phó chúc.

“Khó đắc Bồ-đề”, đây là khen ngợi pháp Bồ-đề khó đắc, muốn cho chúng sanh tôn trọng pháp. Kinh này nói về hai phương tiện hai chân thật, nay nói chung Bồ-đề tức là nhất chánh quán, chánh quán là ý tự tại, cho nên gọi là thừa, tức phần đầu của kinh. Có thể làm dài hoặc ngắn thích ứng giáo hóa, gọi là tuổi thọ, tức phần sau của kinh, nay nói chung Bồ-đề tức bao gồm hai phần.

2. Giải thích ý chúc lụy, tức câu: “Vì sao”, tức là chỉ bày phương cách truyền bá, gồm có ba cách:

  1. Khiến trên học theo Chư Phật.
  2. Khiến dưới biết căn tánh chúng sanh.
  3. Đủ hai nghĩa này thì chẳng pháp nào không mở rộng, chẳng

người nào không lợi ích, đó là báo ân Phật.

Như lai có đủ ba đức bên trong:

  1. Có lòng từ bi lớn, thường ưa cứu khổ ban vui.
  2. Không có bỏn sẻn, không cất giấu pháp báu, hai thứ này là nghiệp công đức của Phật.
  3. Không có sợ sệt, tức nghiệp trí tuệ.

Bên trong đủ ba đức này, bên ngoài ban cho chúng sanh ba thứ trí tuệ, trí tuệ của Phật là tuệ chiếu hữu, trí tuệ của Như lai là tue chiếu không. Trí tuệ tự nhiên là tùy ý biết hai thứ không và có, tức là vô công dụng tuệ. Ba thứ tuệ này bao gồm tất tả tuệ, kinh này tuy nói hai quyền hai thật mà ý là ở nhập tuệ Phật. Cho nên nói riêng. “Các ông cũng nên theo học pháp của Như lai”, trên là nói bên trong có ba đức, bên ngoài ban ba tuệ nay là khuyên Bồ-tát nên theo học.

“Chớ sanh tâm bỏn sẻn”, bỏn sẻn có năm thứ:

  1. Bỏn sẻn chỗ ở.
  2. Bỏn sẻn nhà.
  3. Bỏn sẻn bố thí.
  4. Bỏn sẻn khen ngợi.
  5. Bỏn sẻn pháp.

Bỏn sẻn pháp thì có bảy lỗi:

  1. Đời đời thường mù.
  2. Đời đời ngu si.
  3. Thường sanh vào nhà kẻ thù.
  4. Mất đầu thai làm Thánh.
  5. Phật ba đời oán trách.
  6. Người lành xa lánh.
  7. Không có việc ác nào không gây ra.

Do có bảy tội này nên Đức Phật riêng căn dặn đừng bỏn sẻn. “Ở đời vị lai nếu có người nào v.v…”, đây là khiến biết căn tánh chúng sanh, gồm có hai câu:

  1. Nếu người có tâm lớn thì nên nói pháp đúng như thật.
  2. Nếu có chúng sanh không tin Nhất thừa thì vì họ mà nói giáo pháp Ba thừa.

“Các ông nếu được như thế v.v…”, đây là nói nếu có thể học theo hai đức của Phật, biết hai căn cơ chúng sanh để mở rộng pháp lợi người, tức là đã báo ân Phật.

Hỏi: Trong văn chép: “Nếu có chúng sanh không tin nhận thì ở trong pháp khác của Như lai nên chỉ dạy cho họ”, nhưng ba tạng Tiểu thừa chẳng phải là sâu mầu, đại pháp tức là Đại thừa, vì sao lại riêng có pháp sâu mầu khác nữa?

Đáp: Phương Đẳng gồm có hai: một là Đại thừa, hai là nhất thừa, các pháp khác tức là Đại thừa.

Hỏi: Vì sao họ tin Đại thừa mà không tin Nhất thừa?

Đáp: Có hai hạng người tin Đại thừa mà không tin Nhất thừa.

  1. Là Tiểu thừa tin kinh Đại phẩm. Kinh Đại phẩm tuy là Đại thừa mà chưa phế bỏ Tiểu thừa, cho nên Tiểu thừa tin Đại thừa là pháp Bồtát, tin Tiểu thừa tức là pháp Thanh văn.
  2. Bồ-tát tân học cũng tin Kinh Đại phẩm, cho rằng Đại phẩm là nói pháp Bồ-tát, nói Đại phẩm là chỗ thực hành của chúng ta, chẳng phải chỗ thực hành của Nhị thừa.

Hỏi: Người Tiểu thừa đã không tin Nhất thừa, vì sao tin Đại thừa là kinh Đại phẩm?

Đáp: Kinh Đại phẩm là thầm khiến xả tiểu, thầm khiến tin đại, như trong phẩm Tín Giải trước mật Đại thừa có hai giáo pháp lợi mình lợi tha, cũng vì Bồ-tát tân học mà nói kinh Đại phẩm, thầm khiến tin một, thầm khiến xả ba.

“Lúc ấy, các vị Bồ-tát nghe Phật nói rồi”, đây là nói Bồ-tát nhận lời Phật phó chúc, cũng chia làm hai phần:

  1. Bạch Phật nhận lời phó chúc.
  2. Ba phen thuận theo ý chỉ.

Trong mỗi văn đều có đủ ba nghiệp nhận lời phó chúc, ban đầu trong tâm vui mừng là ý nghiệp, kế đến là thân nghiệp cung kính, sau cùng là miệng nghiệp thuận theo.

“Lúc bấy giờ, Đức Thích-ca v.v…” đây là nói việc nói kinh đã rồi, chia làm hai phần:

  1. Đức Thích-ca khiến các Đức Phật phân thân ở mười phương đến đều trở về bổn quốc.
  2. Đại chúng vui mừng.

Hỏi: Vì sao khiến phân thân Chư Phật trở về bổn quốc, riêng tháp Đa Bảo được hoàn như cũ?

Đáp: Có nghi nhiều dễ dứt cho nên khiến phân thân khắp nơi, “hoặc” thường diệt khó phá nên chỉ có Phật Đa Bảo dừng một chỗ. Như cũ tức là khiến đóng tháp lại mà chưa khiến trở về cõi tịnh. “Sau đó đại chúng vui mừng” như văn.

Hỏi: Vì sao lại vui mừng?

Đáp: Từ đầu kinh cho đến phẩm Chúc Lụy là nói Phật có pháp sớ thừa, người năng thừa đã rốt ráo, cho nên đại chúng vui mừng. Phẩm Dược Vương sau là nói pháp sở thừa, người năng thừa của Bồ-tát, cho nên phẩm Chúc Lụy ở giữa.

PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỒ-TÁT BỔN SỰ THỨ HAI MƯƠI BA

Từ đầy trở xuống là thứ hai, các Bồ-tát đã vâng lời mở rộng kinh cho nên có phẩm Dược Vương và các phẩm sau. Trên đã nói kinh Pháp Hoa, nay nói người thực hành kinh Pháp Hoa có được quả báo để khuyên thọ trì truyền bá. Luận Trí Độ: Bà-nhã có hai môn:

  1. Nói pháp là Bát-nhã.
  2. Nói vị lai vãng sanh các Bồ-tát đồng với người thực hành Bànhã cũng vì đó mà nói Bà-nhã. Pháp Hoa cũng. Trước nay nói pháp là Pháp Hoa, nay nói đức hạnh của các Bồ-tát cũng là nói ở Pháp Hoa, cho nên Pháp Hoa có vô lượng môn khiến chúng sanh ngộ nhập. Luận Nhập nhị môn giải thích nghĩa Đại thừa có hai ý:
  3. Thừa của Chư Phật là bậc đại nhân nên gọi là đại.
  4. Thừa của các Bồ-tát như ngài Di-lặc, Văn-thù cũng gọi là đại.

Đủ hai ý này thì ý nghĩa của thừa đã đầy đủ, kinh này nói Nhất thừa cũng như vậy, một là thừa của Chư Phật, hai là thừa của Bồ-tát. Từ đầu kinh cho đến phẩm Thần lực là nói pháp sở thừa và người năng thừa của Phật, chương này đã xong cho nên phó chúc. Từ phẩm này về sau là nói pháp sở thừa và người năng thừa của Bồ-tát, nhưng Ơ trên là chia pháp sở thừa và người năng thừa thành hai đoạn, nay là hợp nói chung pháp sở thừa và người năng thừa, có sự khai hợp khác nhau là vì chuyển thế nói pháp.

Căn tánh của chúng sanh kết duyên khác nhau nhau, trên nói giáo hóa là đức Thích-ca kết duyên chúng sanh, việc này đã xong. Nay nói giáo hóa là Bồ-tát kết duyên chúng sanh, cho nên trong mỗi phẩm đều có ngộ đạo chứng nhập.

Kinh Tịnh Danh chép: “Bồ-tát thành Phật sự”. Trên là nói Chư Phật thành Phật sự đã rồi, nay nói Bồ-tát thành Phật sự.

Nói thiện tri thức gồm có hai hạng:

  1. Chư Phật là thiện tri thức chân thật của chúng sanh, cho nên triệu tập phân thân và Phật Đa Bảo quá khứ.
  2. Bồ-tát là thiện tri thức của chúng sanh, cho nên nói rộng về Bồ-tát, như trong phẩm Pháp Giới nói kinh Hoa Nghiêm xong thì đến phần truyền bá. Nói rộng các Bồ-tát tức là Thiện tài chân thiện tri thức, Pháp Hoa tức là Hoa Nghiêm, cho nên nói Pháp Hoa xong trong phần truyền bá cũng nói vô lượng Bồ-tát tuyên dương Nhất thừa, là thiện tri thức chân thật của chúng sanh.

Theo Luận Pháp Hoa thì hợp sáu phẩm sau kể từ phẩm này trở đi

xếp vào bốn chương.

  1. Hai phẩm đầu là nói lực khổ hạnh mở rộng kinh, nghĩa là Dược Vương dùng thân mạng và tài vật để báo ân cúng dường, mở rộng kinh lợi người, giáo hóa chúng sanh. Bồ-tát Diệu Âm phân thân khắp sáu đường để mở rộng tuyên Nhất thừa, đây gọi là lực khổ hạnh.
  2. Hai phẩm Quan Thế Âm và Đà-la-ni là nói năng lực hộ nạn mở rộng kinh, Quán Âm thì dùng người mà cứu hộ ách nạn, Đà-la-ni thì dùng pháp môn mà cứu hộ tại nạn, đây gọi là năng lực hộ nạn.
  3. Phẩm Diệu Trang Nghiêm vương thị hiện công đức cao quý, nghĩa là hai ngài Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn có công đức cao quý, có thể khiến cho vua cha bỏ tà quy chính, tức là thiện tri thức chân thật của chúng sanh, đây gọi là lực công đức cao quý.
  4. Phẩm Phổ Hiền gọi là năng lực hộ pháp, nghĩa là ngài Phổ Hiền dùng thần lực lớn mở rộng kinh này khiến không có các nạn, cũng gọi là năng lực hộ pháp. Bốn chương này là có thứ lớp, năng lực khổ hạnh nghĩa là báo ân cúng dường, truyền bá kinh này, tức trên nói mở rộng đại pháp. Chỉ vì người chịu sự giáo hóa thường có các lưu nạn, người truyền bá phải cứu họ mới có thể thọ pháp, cho nên có chương thứ hai. Sở dĩ dưới cứu độ chúng sanh là do có công đức cao quý, tức là giải thích sự cứu vớt. Sở dĩ có thể mở rộng kinh là nhờ sự ủng hộ pháp, cho nên nêu chương hộ pháp là giải thích sự thành tựu mở rộng kinh, ý truyền bá là ở bốn chương này.

Phẩm này chia làm bốn chương.

  1. Ngài Tú Vương Hoa hỏi Phật.
  2. Đức Phật trả lời.
  3. Đại chúng lúc ấy được lợi ích.
  4. Phật Đa Bảo khen ngợi.

Trong phần Tú Vương Hoa hỏi Phật lại chia làm ba:

  1. Hỏi chung.
  2. Hỏi riêng về hạnh khổ.
  3. Cầu Phật giải đáp.

Phật giải đáp gồm có hai ý:

  1. Nói về nhân duyên quá khứ của ngài Dược Vương.
  2. Khen ngợi giáo hóa người, người là người thực hành pháp, pháp là pháp thành tựu người, tức là một cặp về khen ngợi người khen ngợi pháp. Ý đầu lại chia làm hai:

a) Nói về lý do.

b)Chính là nói việc quá khứ của Dược Vương.

Trong phần lý do gồm có năm việc.

  1. Thuở quá khứ có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như lai, đây là nói về bậc hóa chủ.
  2. Phật ấy có tám mươi ức Bồ-tát, bảy mươi hai hằng sa chúng Thanh văn, đây nói về chúng đệ tử.
  3. Đức Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, đây là nói về tuổi thọ của Phật.
  4. Nước ấy không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, đây nói về cõi nước.
  5. Trong nước không có các thứ dơ uế, đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đây nói sự thanh tịnh. “Các cây cách đài bằng một lằn tên”, một lằn tên bằng hai dặm. “Lúc bấy giờ Đức Phật ấy v.v…”, đây chính là nói việc quá khứ của ngài Dược Vương, chia làm bốn phần:
  1. Nói kinh Pháp Hoa.
  2. Nói về chứng ngộ, tức câu: “Ngài Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến ưa tu tập khổ hạnh v.v…”
  3. Nói về báo ân cúng dường, tức câu: “Đặng Tam-muội rồi lòng vui mừng nghĩ rằng v.v…
  4. Kết hợp việc xưa và nay, tức câu: “Phật bảo Tú Vương Hoa, ý ông nghĩ sao v.v…”

Trong phần báo ân cúng dường lại chia hai phần:

  1. Báo ân cúng dường ở thời hiện tại.
  2. Báo ân cúng dường lúc chuyển thân, bởi thọ nhận ân sâu nặng cho nên phải báo đáp nhiều đời.

Trong phần đầu lại chia làm hai:

  1. Cúng dường tài vật bên ngoài.
  2. Cúng dường thân bên trong, là câu: “lúc từ Tam-muội xuất”. “Chất thơm Đâu lâu bà, Tất lực ca”, ngài La-thập nói các chất này là từ nước Long Thần, ở Trung hoa không có nên không dịch. “Ngài Nhất Thiết Chúng sanh Hỷ Kiến làm việc pháp cúng dường xong v.v…”, đây là nói chuyển thân cúng dường, lại chia hai phần:
  3. Nói cúng dường lúc Phật còn tại thế.
  4. Cúng dường sau khi Phật diệt độ.

Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Vì vua cha mà nói hai thứ chứng đắc ở Phật rồi báo ân, nói đây để giáo hóa vua cha.
  2. Muốn đến chỗ Phật báo ân cúng dường.

Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Một bài kệ rưỡi nói nghe pháp được lợi ích.
  2. Lúc nói kệ xong rồi là nói cúng dường được lợi ích “Chân ca la, Tần bà la, A súc bà, các bài kệ” Có người nói, ban đầu là bài kệ bốn câu, kế đến là bài kệ năm câu, sau là bài kệ bảy câu. Nay nói không đúng, văn nầy là có hai số:

1- Tám trăm ngàn muôn ức, bởi đây là số của cõi này, từ trăm tăng đến ức, từ na do tha trở lên đều là số của nước ngoài dùng, tức từ ức tăng lên nên có số là na do tha, không nên giải thích như trước. Ban đầu nói tám trăm ngàn muôn ức, là bao gồm từ trăm lên đến A súc bà v.v…. như thường gọi ba tăng kỳ. Ở chú thích kinh chép: Bởi đây là số của nước ngoài dùng, như Trung hoa gọi thập ức triệu. Chân Ca la, Pháp Hoa gọi là Hà tác, Tần bà la gọi là Mô Thí, A súc bà gọi là Bất động.

“Đại Vương, nay tôi nên cúng dường Đức Phật”, đây là nói về cúng dường, lại chia ra hai phần.

1/ Nói cúng dường lúc Phật còn tại thế, tức như bài kệ nói. Từ đoạn văn này trở về trước là đủ ba nghiệp cúng dường, trước nói nhập Tam-muội rưới các thứ hoa hương là ý nghiệp cúng dường, kế xuất định thiêu thân là thân nghiệp cúng dường, nay nói bài kệ là miệng nghiệp cúng dường. Lại hợp ba nghiệp này làm thành hai cặp: ý nghiệp cúng dường là cúng dường tài vật, đốt thân là cúng dường nội thân. Miệng nghiệp cúng dường cũng có hai, đó là cung kính và khen ngợi, bốn thứ cúng dường này là việc báo ân.

2/ Nói cúng dường sau khi Phật diệt độ, tức câu: “Lúc ấy ngài Nhất Thiết Chúng sanh Hỷ Kiến thấy Phật diệt độ”, lại chia làm ba phần:

  1. Ngài Hỷ Kiến hỏi Đức Phật, tức là đầu mối để Phật nhập Niết-bàn.
  2. Đức Như lai diệt độ, tức là Phật Nhật Nguyệt nói giờ nhập Niết-bàn đã đến, giờ đến tức là an trụ trong ba đức mà nhập Niết-bàn, giờ diệt độ đến tức là bỏ ứng thân
  3.  quy về chân thân.

2- Chính là nói việc cúng dường, tức lúc ngài Nhất Thiết Chúng sanh thấy Phật diệt độ rồi, lại chia hai:

  1. Cúng dường bằng tài vật.
  2. Cúng dường bằng nội thân, tức là ngài Nhất Thiết Chúng sanh tự suy nghĩ đem thân cúng dường, lại chia ra năm phần:
    1. Đốt tay cúng dường.
    2. Khiến vô số đại chúng được lợi ích.
    3. Các Bồ-tát và đại chúng sầu khổ.
    4. Ngài Nhứt Thiết Chúng sanh phát thệ nguyện, thân trở lại
    5. như cũ.
    6. Lúc ấy chiêu cảm các điềm lành.

“Phật bảo Tú Vương Hoa”, đây là nói phần kết xưa và nay, và cũng khuyên người đốt ngón tay cúng dường.

Hỏi: Theo luật kiết giới thì thiêu thân phạm tội Thâu lan giá, thiêu tay đắc tội Đột-cát-la. Vậy Bồ-tát này không phạm tội sao?

Đáp: Đây có thể là Bồ-tát tại gia, không kể vào phạm giới, nếu xuất gia mà thích ứng giáo hóa, như ngài Xá-lợi-phất và Tu Đạt cùng chở một xe mà không phạm tội.

Hỏi: Luận Trì Địa có mười thứ cúng dường, phẩm Dược Vương có đủ chăng?

Đáp: Mười thứ cúng dường gồm có:

1. Thân cúng dường. 5. Người khác làm.
2. Chi đề. 7. Tài vật.
3. Hiện tiền 8. Tâm cao quý.
4. Không hiện tiền 9. Không nhiễm ô.
5. Tự làm 10. Đạo đến mức.

Hai phần cúng dường đầu đều có khác nhau, đối với thân Phật mà cúng dường gọi là thân cúng dường, cúng dường tháp miếu thờ Phật gọi là Chi đề cúng dường. Theo luật Tăng Kỳ thì tháp có Xá-lợi gọi là Tháp bà. không có Xá-lợi gọi là Chi đề.

Luận Trì Địa chép: bất luận là có hay không có Xá-lợi đều gọi là Chi đề. Luận Minh Liễu chép: Chi đề, Hán dịch là Tịnh xứ.

Hai phần cúng dường kế gọi là thời xứ, hiện tiền cúng đường là mặt đối diện trước thân Phật và Chi đề mà cúng dường; không hiện tiền cúng dường là không đối diện trước Phật và Chi đề mà rộng bày cúng dường. Nếu theo sự thì có ba ý, hai ý cúng dường như đã nói, ý thứ ba là cũng hiện tiền không hiện tiền cúng dường, hiện tiền cúng dường Phật và Chi đề và không hiện tiền cúng dường Phật và Chi đề. Ba thứ cúng dường nay đắc ba phẩm công đức, hiện tiền cúng dường được đại đại công đức, không hiện tiền cúng dường được đại đại công đức, do cảnh giới lớn rộng. Hiện tiền, không hiện tiền cúng dường thì được tối đại đại công đức. Hai phần nói về người cúng dường có khác nhau, theo sự thì chia làm ba:

  1. Tự mình làm để cúng dường, nghĩa là tự thân cúng dường Phật và Chi đề.
  2. Người khác làm để cúng dường, có ít tài vật mà không dám biếng nhác nên dạy người khác làm để cúng dường.
  1. Mình và người đồng cúng dường, tức kia đây xếp vào. Tự mình cúng dường được đại công đức, dạy người khác cúng dường được đại đại công đức, mình và người cùng cúng dường được tối đại đại công đức.

Hai thứ cúng dường thứ bảy và tám thì phân biệt về tâm và sự, đem tài vật của mình cúng dường gọi là tài vật cúng dường, gồm có ba thứ:

  1. Tư cụ: là y phục, thức ăn.
  2. Cung kính cụ: là dùng hương hoa cúng dường.
  3. Trang nghiêm cụ: là tất cả vật báu.

Dùng tâm cao quý cúng dường thì gọi là cao quý cúng dường, tâm cao quý gồm có ba:

  1. Chuyên tinh hiểu, tâm khéo hiểu bố thí, dọn bày các món cúng dường.
  2. Tâm thuần tịnh tin Phật có đức sâu nặng mà dọn bày cúng dường.
  3. Tâm hồi hướng cầu tâm Phật mà dọn bày cúng dường.

Hai thứ cúng dường sau là phân biệt về chỗ thực hành, xa lìa lỗi lầm gọi là không nhiễm ô mà cúng dường, không nhiễm ô có hai thứ:

  1. Tâm không nhiễm ô: là xa lìa tất cả lỗi lầm.
  2. Tài vật không nhiễm là ô xa lìa tài vật phi pháp. Thực hành cúng dường thuận theo đạo quả thì gọi là cúng dường đạo đến mức. quả Phật là chỗ hướng đến, thực hành cúng dường có thể đến chỗ ấy nên gọi là đạo đến mức.

Kinh Duy Ma gọi là pháp cúng dường, luận Trì Địa gọi là hạnh cúng dường, ở đây có ba thứ:

1. Tài vật cúng dường là đạo đến mức. 2. Tùy hỷ cúng dường là đạo đến mức. 3. Tu hành cúng dường là đạo đến mức.

Đối với Phật đã có đủ mười thứ cúng dường, thì với Pháp với Tăng cũng hơi giống như vậy, Dược Vương cũng có đủ mười thứ cúng dường.

“Nếu có người cúng dường Phật bảy thứ báu” đây là phần khen ngợi giáo pháp chia làm hai phần:

  1. Khen ngợi chung toàn bộ kinh.
  2. Khen ngợi riêng phẩm Dược Vương.

Phần khen ngợi chung chia làm bốn phần:

  1. Khen so sánh lượng.
  2. Khen giáo pháp là bậc nhất.
  3. Khen kinh có công năng dứt ác.
  4. Khen kinh có công năng sanh thiện.

Phần khen giáo pháp gồm có mười thí dụ, từ thí dụ về biển, núi, cho đến Chư Phật, tức là từ thấp đến cao, mười thí dụ thì khác nhau nhau, hợp thành năm cặp là: núi và biển, mặt trăng và mặt trời, cõi người và cõi trời, phàm và Thánh, Phật và Bồ-tát “Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh”, đây là khen ngợi kinh công năng dứt ác.

“Nếu có người nghe kinh này v.v…”, đây là khen ngợi kinh có công năng sanh điều thiện.

“Nếu có người nghe phẩm Dược Vương v.v…”, đây là khen ngợi riêng một phẩm, gồm có bốn phần:

  1. Khen ngợi chung nếu nghe phẩm này được vô lượng công đức.
  2. Khen ngợi về sanh báo: “như có người nữ nào nghe phẩm này thì sau không còn thọ thân nữ”.

Hỏi: Nghe phẩm này thì không còn thọ thân nữ, nghe các phẩm khác thì thọ thân nữ ư?

Đáp: Các phẩm đều không thọ, nhưng nói về sự tương tợ cho nên đặc nói riêng phẩm này, do người nữ thường ưa Thích-các thứ trang nghiêm ởhân mình, nay nói Bồ-tát xả thân, đốt tay là để phá bỏ sự tham đắm kia, do không sanh tham đắm nên xả thân người nữ.

  1. Nói về hiện báo, nếu có người nghe kinh này mà tu hành, khi chết liền sanh về cõi An Lạc.
  2. Về phó chúc, cũng nói nghe kinh được thành Phật tức là khen ngợi hậu báo nếu người bị bịnh nghe kinh này liền lành bịnh, chẳng già chẳng chết. Có người chép: Nghe kinh Pháp Hoa thì sống đến già mới chết, không có chết yểu. Nay theo luận Trí Độ chép: Không dứt trừ một trăm lẻ tám phiền não thì gọi là bịnh, được nghe kinh rồi, trừ hết phiền não này nên gọi là tiêu diệt. Không già là không khởi sáu mươi hai tà kiến, không mất tuệ mạng thì gọi là không chết. Rơi vào Nhị thừa cũng gọi là chết. Lại nghe kinh này thì biết già, bịnh, chết xưa nay vốn vắng lặng, vì vậy gọi là không già chết.

“Lúc Phật nói phẩm Dược Vương Bồ-tát xong v.v…”, đây là nói đại chúng được lợi ích.

“Đức Đa Bảo Như lai ở trong tháp báu v.v…”, đây là nói Phật Đa Bảo khen ngợi.

Trước tuy nói đóng cửa tháp mà nay còn khen ngợi, tức là ý nghĩa không diệt mất.

Giữa hạ, năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Nhân, từ miền nam Lạc Dương mà đến chùa Đông Đại, nhờ ân mở rộng mà học được tông Tam luận, nay khắc bản kinh Pháp Hoa nghĩa sớ thứ 11, cầu Phật pháp ngày càng sáng rỡ, hơn hai ngàn năm truyền bá không thay đổi. Sa môn Đô Can Duyên Tố Khánh kính ghi.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12