PHÁP HOA NGHĨA SỚ

SỐ 1721

QUYỂN 10

Đời Tùy, Sa môn Cát Tạng soạn

PHẨM HẠNH AN LẠC THỨ MƯỜI BỐN

Giải thích Hạnh An Lạc gồm có sáu môn:

  1. Ý nghĩa vì sao có phẩm này.
  2. Giải thích tên phẩm.
  3. Khai hiệp.
  4. Thể tướng.
  5. Thứ bậc.
  6. Đồng và khác.

I. Ý nghĩa: Cũng có hai nghĩa:

  1. Thành trước.
  2. Khai sau.

– Thành trước: có ba ý:

1) Phật dạy Thanh văn gồm có ba việc:

– Khiến hồi tiểu nhập đại phát tâm Bồ-đề tức ba châu nói ở trên.

– Kkhiến tu hạnh Bồ-tát tức bốn hạnh an lạc nầy.

– Khiến đắc quả Phật là văn tuổi thọ phần sau, vì nhân duyên này nên có phẩm này.

2) Diệu Pháp liên hoa gồm có hai thứ: a) Môn thiện xảo dụng.

b) Môn chân thật thể. Trên phá ba nói một gọi là dụng đối trị, bệnh chấp ba đã bỏ, một thuốc cũng trừ, muốn hiển không một không ba, không hai chánh quán tức thể Diệu Pháp Hoa. Dưới kệ chép: Quán tất cả pháp Không như thật tướng, cũng không hành, không phân biệt thì biết ba, một, hai xả duyên quán đều mất, nay muốn nhiếp dụng quy về thể cho nên có phẩm này.

3) Cuối phẩm Trì chép: Đời ác mở rộng kinh bị hủy nhục chê bai chịu ác khổ não hạng tu hành ít thường lui sụt không thể mở rộng kinh, vì vậy nên nay nói về an trú trong bốn hạnh thì tuy ở đời ác mà thường được an vui, muốn chỉ bày phương pháp đời mạt pháp mở rộng kinh nên nói phẩm này.

– Khai sau: Muốn nói về quả tuổi thọ lâu dài. Cho nên nay nói nhân tuổi thọ lâu dài tức bốn hạnh an lạc.

II. Giải thích tên: giải thích tên bốn hạnh khác nhau, nay theo ngài Trúc Đạo Sanh và chú giải kinh pháp Hoa nói về bốn hạnh:

  1. Hạnh vắng lặng.
  2. Hạnh không kiêu mạn.
  3. Hạnh lìa ganh ghét.
  4. Hạnh từ bi.

– Hạnh vắng lặng: Không tịch tức là thật tướng các pháp Bát-nhã chánh quán, đã trái với lý thật tướng thì liền có khổ không có vui, tương ưng với lý thì có lạc không có khổ, nay chính nói về nghĩa mở rộng kinh an vui cho nên ban đầu nói hạnh vắng lặng. Tuy bên trong tu không quán, nhưng người mới bắt đầu hành sức quán chưa thành ở trong chúng nói pháp thường cậy vào sự hiểu biết lấn hiếp người nên kế nêu hạnh lìa kiêu mạn. Hễ làm thầy giỏi nếu ỷ hiểu biết xem thường người khác hoặc ghét người hơn mình vì có hiểu biết là điều thường tình, nhưng là đại hoạn cho người mở rộng kinh! Thế nên kế nêu hạnh lìa ganh ghét: Người thông hiểu pháp tuy không kiêu mạn ganh ghét mà chỉ biết người được hóa độ gồm có hai thứ:

1/ Cầu đại đạo.

2/ Chấp Tiểu thừa, hai hạng người này thường sanh ái nhuế, nếu khởi ái nhuế thì si sử liền theo cho nên người cần học Đại thừa phải khởi từ tâm, đối với hạng phi Bồ-tát nên sanh tâm thương xót, vì vậy nên kế nói hạnh từ bi của Bồ-tát: Nghĩa không hết thì văn phải đầy đủ. Gọi chung là hạnh an lạc: Tức an trú trong bốn pháp thì được an vui cho nên gọi hạnh an lạc. Hạnh: Là trải qua sự tu hành, nghĩa là tâm hành bốn pháp này.

III. Khai hiệp: Khai thành bốn hạnh hiệp chỉ hai môn:

l) Hạnh đầu là trí tuệ ba hạnh sau là công đức, tâm an phước tuệ mở rộng đạo lợi người liền được an vui gọi là phước tuệ một cặp.

2) Tuy có bốn hạnh mà không ngoài hai lìa môn và đắc.

Đắc có hai thứ đức: Không tịch là trí tuệ, từ bi là công đức, trung gian hai thứ gọi là lìa nên lìa môn cũng có hai:

  1. Ly kiêu mạn.
  2. Ly ganh ghét. Tức là đắc lìa một cặp.

a) Tuy có bốn hạnh mà không ngoài hai hành không và hữu: Đầu là không hành, ba thứ còn lại là hữu hành, gọi là không hữu một cặp.

b) Tuy có bốn hạnh mà không ngoài tự hành hóa tha, ba thứ đầu là tự hành, từ bi là hóa tha, gọi là tự hành hóa tha một cặp.

IV. Thể tướng:

Hạnh thứ nhất lấy quán không rốt ráo làm thể, hạnh thứ hai lấy tâm không kiêu mạn làm thể, hạnh thứ ba lấy tâm không ganh ghét làm thể, hạnh thứ tư lấy tâm từ bi làm thể, nhưng bốn hạnh này chỉ có một chánh quán, căn cứ dụng khác nhau nên khai bốn thứ’, quán nghĩa thật tướng gọi là hạnh vắng lặng, tức là nghĩa chánh quán đây lìa lỗi tức không kiêu mạn, ganh ghét, tức không quán nầy cứu khổ ban vui nên gọi là từ bi, tâm từ bi chẳng trở ngại rốt ráo Không, rốt ráo Không chẳng ngăn ngại từ bi, tuy hành từ bi mà thường rốt ráo Không, tuy rốt ráo Không mà không xả từ bi; vì vậy nên siêu phàm vượt Thánh gọi là hạnh Bồ-tát cũng là hai đạo Không, Bi. Đại Phẩm nói Bồ-tát trụ trong hai pháp mà không thể hoại được:

1/ Biết Không.

2/ Không bỏ chúng sanh.

V. Thứ bậc: Từ sơ phát tâm cho đến Phật địa, năm mươi hai địa vị đều đầy đủ bốn hạnh, trong đó tự có thành và chưa thành và nghĩa công dụng, vô công dụng tỏ ngộ và mê muội, cạn, sâu tùy địa vị sai khác, nhưng chánh ý của kinh là kế sức cho người lui mất. Đời mạt pháp mở rộng kinh chịu nhiều khổ não cho nên khiến an trú trong bốn pháp liền được an vui. Địa vị cao trở lên tự đầy đủ bốn hạnh không đợi nói vì vậy nên người phát tâm tự phải y theo phẩm này tự hành hóa tha toạ thiền, tụng kinh, sám hối.

VI. Đồng và khác: Cuối phẩm Pháp Sư nói về ba việc:

1/ Vào nhà Như lai.

2/ Mặc áo nhẫn nhục.

3/ Lấy các pháp Không làm tòa, không đồng với bốn hạnh nghĩa. Trên văn trước nêu hạnh hữu kế biện nơi Không, vì sao? Vì phẩm trên chánh giải thích Pháp Sư, bởi làm Pháp Sư vì chúng sinh nói pháp thích hợp trước hết vận tâm từ bi, nhưng từ tâm bi ở lâu trong sanh tử gặp nhiều hoạn nạn nên phải hành nhẫn, tuy có từ bi nhẫn nhục mà nếu chẳng nhập quán Không thì từ bi nhẫn không thành cho nên kế nói về hạnh Không nên từ hữu nhập không. Phẩm này chính vì đời ác mở rộng kinh chịu nhiều khổ não tâm sanh lui sụt nên trước nói về nhập rốt ráo Không, thì không thấy thân tâm tự tha đều tĩnh lặng liền được an vui cho nên trước nói hạnh Không. Do đắc không quán nên không sanh khởi kiêu mạn ganh ghét, do đắc không quán nên dẫn dắt thành từ bi, nên trước nêu hạnh Không sau nói hạnh hữu. Lại hai phẩm muốn chỉ bày không, hữu, không hai cho nên trước sau nói xen lẫn. Căn cứ phẩm chia làm hai:

  1. Hỏi.
  2. Đáp.

-Hỏi có hai: a) Khen ngợi trước. b) Hỏi sau.

-Trong đáp cũng có hai: a) Nói chung tên bốn hạnh. b) Nêu thể bốn hạnh.

An trụ bốn pháp: Tâm an trụ bốn pháp thì không còn khổ, cho nên được an vui gọi là hạnh an lạc: An trú trong hành xứ và gần gũi xứ của Bồ-tát v.v…: Là nói riêng thể của bốn hạnh, lại chia làm bốn:

  1. Chánh nêu thể của hành.
  2. Khen ngợi giáo.
  3. Khuyến tu.
  4. Giải thích chung nghĩa an vui.

Căn cứ thể của bốn hạnh lại chia làm bốn: Căn cứ thể của hạnh đầu lại chia làm ba:

  1. Chánh nêu thể của hạnh.
  2. Bốn hàng rưỡi kệ sau cùng biện tướng an vui, văn đầu tức giải thích hành, văn sau tức giải thích tướng an vui, hành nghĩa là nhân, an vui tức do hành đắc quả.
  3. Kệ sau văn xuôi tổng kết hạnh an vui đầu, văn đầu lại có hai:

Văn xuôi và kệ tụng.

Văn xuôi lại có hai:

  1. Nêu hai chương môn hành xứ, cận xứ.
  2. giải Thích-cả hai môn.

Hành xứ: Người tu hành đã nhập lý mà thi hành gọi là hành xứ, tuy chưa nhập lý mà tự gần gũi gọi là cận xứ, hai xứ này gọi là từ đầu đến cuối cho nên hiệp thành một.

Hỏi: Hành xứ đã sâu cận xứ thì cạn, vì sao trước nêu hành xứ sau nói cận xứ ư?

Đáp: Trước nêu hành xứ là nêu tâm sâu tiêu biểu ý chỉ khiến tu tập mà gần gũi.

Hỏi: Căn cứ địa vị như thế nào?

Đáp: Có người chép: Thất địa trở lên đã nhập nơi lý gọi là hành xứ, từ nay lại nhập lý vô sanh dần dần gần gũi gọi là cận xứ.

Nay nói về y luận Trí Độ vô sanh đã có hai xứ hành, cận nghĩa cũng vậy. Nhưng ý của kinh chính vì người mới học nên nêu hai xứ này. Vì đắc vô sanh tương ưng gọi là hành xứ, nếu chưa tương ưng với Bátnhã khiến người phát tâm dần dần tu tập gần gũi nên gọi là cận xứ. Nếu gần gũi vô sanh thì cùng điên đảo, xa rời liền được an vui, nếu gần gũi với điên đảo, thật tướng xa rời thì chịu khổ não.

“Thế nào gọi là v.v…” Là giải thích hai chương hành xứ, cận xứ chia làm hai riêng: Giải thích chương hành xứ chia làm ba: Nghĩa là nêu, giải thích, tổng kết. “Nếu đại Bồ-tát v.v…” Là giải thích chương. Văn nầy ý bao gồm nhiều, nay dùng bảy nghĩa giải thích: Theo luận Trí Độ nói về hai nhẫn giải thích: Trú nhẫn nhục địa gọi là sanh nhẫn, sau nêu quán không là pháp nhẫn. Luận nói Bồ-tát thực hành sanh nhẫn được vô lượng công đức, thực hành pháp nhẫn đắc vô lượng trí tuệ, sanh nhẫn là các cảnh trái thuận, Bồ-tát năng an nhẫn nơi trái nghịch mà không sân, đối với thuận không tham nên gọi là công đức. Pháp nhẫn không thọ tất cả các pháp biết kia vắng lặng nên đắc trí tuệ. Đây y cứ hai môn không, hữu để phân phước tuệ. Lại sanh không địa vị nông cạn nên gọi là công đức, pháp không đã sâu thọ gọi là trí tuệ. Đây căn cứ hai Không cạn sâu để phân biệt phước tuệ. Lại đều căn cứ hữu môn để nói về hai nhẫn: Nhẫn trái, thuận với chúng sanh gọi là sanh nhẫn, nhẫn các pháp trái thuận của chúng sanh gọi là pháp nhẫn, hai thứ này cũng có cạn sâu. Chúng sanh năm tình chấp không được lại gọi là giả danh cho nên dễ nhẫn, các pháp thuận nghịch là việc thấy nghe hiện tại cho nên khó nhẫn. Do căn cứ nhẫn có sâu cạn để phân biệt phước tuệ, nhưng tự có phước tuệ không hai, không có cạn sâu. Nay căn cứ quán môn thứ bậc nên phân cạn sâu. Đầu văn có bốn trường hợp:

1/  Trú nhẫn nhục địa nói chung về ba nghiệp. Nhẫn nhục gọi là địa có hai thứ nghĩa:

-Không bị duyên bên ngoài lay động nên gọi là địa.

-Có công năng sanh trưởng như đất, do năng nhẫn các nhục nên được thông hiểu đại pháp. Muôn điều thiện thuận tiện sanh nên gọi tâm nhẫn làm địa. “Hòa diệu khéo thuận”: Diệu hòa: Là lời nói không sai lầm, trái với vật gọi là miệng nhẫn. “Mà không gấp bạo:” Tuy dao gậy kề thân mà không vọng động, do không thêm báo nên gọi là thân nhẫn, lại là oai nghi tường tận gọi là không gấp bạo, như kinh Đại Phẩm chép: Bồ-tát nhất tâm an tường. “Tâm cũng chẳng kinh sợ”: Lại chỉ chẳng phải thân miệng không gia báo, cũng không khởi một niệm sân gọi là ý nhẫn, lại năng an nơi đồng, khác nên tâm không sợ. “Lại đối với pháp không có sở hành”: Trên nói sanh nhẫn nay là pháp nhẫn.

2/ Trên là phương tiện, quán nầy là thể chánh quán, do điều hòa thân miệng rồi sau mới đắc nhập quán thật tướng.

3/ Trên nói hạnh Bồ-tát, nay nói giải Bồ-tát.

4/)Trú nhẫn nhục địa là tuệ phương tiện, quán Không là tuệ thật.

5/  Quán nhẫn nhục địa là hành xứ bên ngoài, quán không là hành xứ bên trong.

6/ Trú nhẫn nhục địa rồi sau quán Không, phải trước nói về trong hữu, hành các công đức dùng hữu giúp Không rồi sau mới đắc từ Không ra có, nếu không như vậy thì đọa vào địa ngục.

7/ Trú nhẫn nhục địa rồi sau quán Không, muốn phân biệt khác với Da kiến quán không.

Luận Trí Độ chép: Tà kiến không trước gây nghiệp ác rồi sau bác bỏ, nay nói chân không, trước hành thí, giới, nhẫn, thiền rồi mới quán Không. Lại đối với pháp không có sở hành, do trú nhẫn nhục địa điều hòa thân miệng nên được nhập Không, do nhập Không nên không hành tất cả các pháp sanh tử Niết-bàn. “Mà quán tướng như thật của các pháp:” trên không hành pháp điên đảo, nay quán pháp thật tướng. “Cũng chẳng thực hành”: Đầu tiên nói chẳng thực hành không thật, kế nói thực hành thật, nay thật không thật tất cả không hành cho nên nói cũng không hành. “Không phân biệt”: Cũng không phân biệt hành và không thực hành. Trên nhẫn nhục v.v… tức quán thế đế, quán thật tướng các pháp cho đến không thực hành không phân biệt gọi là quán bậc nhất nghĩa đế, do Chư Phật nói pháp thường y hai đế cho nên Bồ-tát y Phật tu học cũng quán hai đế.

“Kế căn cứ sanh Không, pháp Không giải thích: Từ đầu không hành đến quán thật tướng gọi là pháp không, chẳng hành vô phân biệt gọi là sanh không quán xuất, trong chánh Pháp Hoa phần kệ dưới cũng có ý nầy. Đầu không hành tất cả các pháp tức pháp không, cũng không phân biệt nam nữ gọi là chúng sanh không, trước nói pháp không sau nói sanh không tức là:

1/ Nói theo thứ lớp.

2/ Người mê hoặc cho rằng có người năng thực hành pháp quán không cho nên lại trừ bỏ quán chủ. Kia luận Trí Độ cũng có nói điều này. Kế căn cứ ba đế giải thích văn nầy: Trụ địa nhẫn nhục đồng gọi là quán thế đế, đối với pháp không có sở hành mà quán thật tướng gọi là quán Chân-đế, cũng chẳng thực hành không phân biệt gọi là phi chân phi tục Trung đạo quán. Không hành: Là không thực hành Chân-đế.

Không phân biệt là: Không phân biệt việc thế đế nên gọi là phi chân phi tục Trung đạo quán. Ba đế này là nghĩa nhân duyên, vì không hai nói hai, hai gọi là hai đế, hai không hai là Trung đạo. Kế căn cứ diệt cảnh trí giải thích: Lại, đối với các pháp không có sở hành cho đến quán các pháp thật tướng nói về duyên tận nơi quán. Nói duyên tận quán: Là tất cả điên đảo là duyên đều tận ở trong chánh quán. “Cũng chẳng thực hành không phân biệt”: Là quán tận ở duyên. Do tà duyên đã hết chánh quán cũng dứt, nên duyên quán đều mất cảnh trí đều lặng. Trong kệ sau cũng có ý đây. Đầu nói về sanh không, pháp không gọi là tận duyên, kế kệ nói không đắc các pháp không biết không thấy tức tận quán. Cho nên trong luận Niết-bàn Ngài Tăng Triệu chép: Pháp không có tướng hữu không, Thánh không có trí hữu không. Pháp không có tướng hữu không cho nên ở ngoài vô số, bậc Thánh không có trí hữu không nên ở trong vô tâm, ở ngoài vô số bên trong vô tâm không biết lấy gì nên gượng gọi là chánh quán! “Đó gọi là chỗ hành xứ của Bồ-tát” là tổng kết hành xứ.

“Thế nào gọi là v.v…”: kế giải Thích-cận xứ. Văn cũng có hai:

1/ Nêu hữu cận xứ.

  1. 2/ không cận xứ, cũng trước là hình cận xứ, kế là tâm cận xứ. Xét lúc mới tu hành chọn nơi yên vắng để tĩnh thân, rồi sau tâm định vì gần ở lý.

Hỏi: Trong hành xứ cũng nói về không hữu có gì khác với ở đây hay không?

Đáp: Trước nói về không hữu là sâu, nay nói về không hữu là cạn, cho nên khi mới tu hành có hai quán không hữu có thể noi theo nhu thuận nhẫn của Địa Tiền.

Hành sâu: Cùng có hai quán không, hữu tức đăng Địa trở lên vô sanh nhẫn. Văn có hai:

  1. Nói không nên gần gũi.
  2. Nói nên gần gũi.

Không nên gần gũi gồm lìa xa mười duyên:

1/ Không gần gũi vua chúa gọi là lìa duyên kiêu mạn.

2/ Không gần gũi ngoại đạo là lìa duyên tà kiến, người mới tu hành chưa thể quán tà chánh bình đẳng vì thế, không nên gần. Chú giải kinh rằng: Trời đất nơi ngón tay chỉ muôn vật ở con ngựa chạy, cho nên không nên gần ngoại đạo. Lộ Già-da đà xưa gọi là ác giải. Nghịch lộ Già-da đà: Là ác luận. Chú giải kinh rằng: Lộ Già-da đà: ở Trung quốc là lễ nghi danh giáo của Nho mặc. Nghịch lộ-già-da-đà: Như sách, của Lão Trang theo lệ bặt nhân bỏ thánh. Lại nói Lộ-già-da-đà dịch là thế gian hành. Kinh Chánh Pháp Hoa chép: Tán tựa ca âm. Nghịch Lộ-giàda-đà: Đây gọi là hạnh nghịch thế gian. Kinh Chánh Pháp Hoa chép: kết ngẫu tập tục.

3/ Cũng không gần gũi những kẻ chơi hung hiểm…:” Là lìa duyên tán loạn. Na la Hán dịch là lực. Chú giải kinh rằng: là Văn thân huyễn thuật: Văn thân: Là họa vẽ thân, khiến loang lổ

4/ “Cũng không gần gũi Chiên đà la..:” là lìa duyên nghiệp ác. Chiên đà, Hán dịch Đáng sợ, cũng dịch là ác. La là họ thấp hèn.

5/ Lại không gần gũi hạng người cầu Thanh văn…:” Lìa duyên Tiểu thừa, mới hành Bồ-tát Đại thừa chiếu soi chưa tròn đầy sợ dễ nhiễm pháp Tiểu thừa nên khiến ý hình ngăn cách, hành và ở chớ cùng. “Hoặc có lúc lại đến” thì tùy nghi nói pháp không có lòng mong cầu; nếu có cơ cảm liền vì họ nói pháp, không vì danh lợi không có lòng mong cầu.

6/ “Lại Bồ-tát v.v….:” Lìa duyên nhiễm ác: Dưới năm tuổi gọi là gái nhỏ, đến lúc hứa gả lấy chồng gọi là gái trinh, lại nói lập chí không lấy chồng gọi là gái trinh.

7/ Lại chẳng gần năm hạng người bất nam: lìa duyên không có ý chí: luật tụng nêu năm pháp: a) sanh ra không khả năng nam. b) Nửa tháng không có khả năng nam. c) Ganh ghét không có khả năng nam. d) Tinh không có khả năng nam. e) Bệnh không có khả năng nam.

Lại nói trời phạt đều biến ra phân nửa. Thiên: Thiên tánh không khả năng. Hình là bị hình phạt. Đô: đều không có căn. Biến: Nữ biến thành nam cũng không có khả năng. Bán: Nửa tháng có thể nửa tháng không thể. Chú giải kinh rằng: a) Vô căn. b) Hai căn. c) Bất định căn. d) Hữu hạn căn. e) Ganh ghét không có khả năng nam.

8/ “Chẳng một mình vào nhà người v.v…”: Lìa duyên chê bai.

9/ “Nếu vì người nữ nói pháp v.v…”: Lìa duyên làm người khác sanh ái.

10/ “Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi” Lìa duyên tự sanh nhiễm ái.

Hỏi: Vì sao không gần gũi mười duyên này ư?

Đáp: Người mới tu hành điên đảo mạnh quán hạnh yếu, bỗng gần gũi duyên phi đạo tiến thì không có công năng cứu giúp, thoái thì có lỗi ái lụy, như chút ít nước nóng đổ vào tảng băng, ngược lại còn giúp thêm đông đặc. Nếu được chánh quán hiện tiền tùy ý gần gũi như thông đạt phi đạo tức là Phật đạo.

Không thấy sự sản nghiệp thì không nhập quán Bát-nhã, luận Nhiếp Đại thừa chép: Bồ-tát có giới thậm thâm, tạo đủ các nghiệp năm nghịch mười ác thì tiến có công cứu giúp, thoái không có lỗi ái nhiễm.

Lại Bồ-tát có hai môn:

  1. môn Thế giới.
  2. môn Đệ nhất nghĩa.

Tất đàn thế giới tùy cõi nước phong tục chê bai tuy là hành sâu mà không được gần gũi. Đệ nhất nghĩa môn, không thấy cận và không cận bốn câu không hành. tuy có hai môn mà không hề có hai thích thời mà động. Thường ưa ngồi thiền v.v…: là nói về chỗ nên gần gũi.

Hỏi: Nhiếp tâm nên ở lại quán ban đầu vì sao ở cuối ư?

Đáp: Do xa lìa các duyên mới được nhiếp tâm do đó nên ở sau, lại xa lìa mười duyên gọi là giới Bồ-tát, thường ưa ngồi thiền gọi là định Bồ-tát, sau nêu quán không tức là trí tuệ.

“Lại nữa v.v…”: là nói về “Không” gần gũi xứ. Văn có hai:

  1. Thực hành quán đệ nhất nghĩa.
  2. Nói về thế đế quán.

Đầu có mười bảy câu, quán tất cả pháp Không là chẳng thấy có. Như thật tướng: Hiển bày Không quán là chân thật. Lại quán tất cả pháp đều như đều là thật tướng. Không điên đảo: chẳng chấp tướng không. Bất động: Không sanh động niệm. Bất thoái: hễ được thì không mất. Bất chuyển: Không bị duyên khác làm lay động. Như hư không: Rốt ráo thanh tịnh, không như Số luận của ngoại đạo chấp hư không. Không có tánh sở hữu: bổn tánh như. Tất cả đường ngôn ngữ đạo dứt: bốn câu chẳng thể giải thích. Không sanh không xuất không khởi: luận Trí Độ chép: Duyên một bên rốt ráo không thể đắc cho nên nói không sanh, nhân một bên không thể đắc gọi là không xuất, quả một bên không thể đắc gọi là không khởi. Lại giải không từ ngoài đến gọi là sanh, không từ trong ra gọi là không xuất, không từ trong ngoài mà hiệp có gọi là không khởi. Không danh không tướng: Ngoài không có danh nên gọi vô danh, trong không có tướng nên gọi là vô tướng, lại lìa mười tướng nên gọi vô tướng. “Thật không có gì”: Thật ghi chép không có gì, lại thật biên chép chẳng có chỗ không, cho đến thật biên chép không điên đảo năm câu. “Vô lượng vô biên vô chướng vô ngại”: Sáu căn không thể lường nên gọi là vô lượng, lại không rơi vào ba đời nên gọi vô lượng. Lại nói không có lượng, của không hữu nên gọi là vô lượng, biên không thể đắc gọi là vô biên lại không dứt các biên nên gọi là vô biên, tức hữu là không, tức không là hữu, không hữu chẳng hai nên gọi là vô ngại. Pháp tánh tư như vậy lụy không năng chướng nên gọi là vô chướng. “Chỉ do nhân duyên mà có”: là nói về nhân duyên thế đế quán, trước nêu Chân-đế sau nói thế đế, chỉ bày thật tướng làm gốc, các pháp làm ngọn. Lại trên nói thường ưa ngồi thiền tu nhiếp tâm kia, thì từ hữu nhập không nay từ không xuất hữu. Kinh An lạc chép: Từ hữu nhập không gọi là quán đệ nhất nghĩa, từ không xuất hữu gọi là quán bình đẳng, nhờ hai quán này làm phương tiện đắc nhập quán Trung đạo đệ nhất nghĩa. “Từ điên đảo mà sanh cho nên nói thường lạc: ở trên nói hai đế không hữu tức hiển nghĩa chánh, câu này trình bày duyên mê. Do không biết nhân duyên có nên từ điên đảo sanh chấp có thường lạc, thường lạc thuộc câu trên.

Có người chép: Các pháp thật không có gì từ điên đảo sanh, nên thấy có như mắt bệnh thấy hoa đốm trong hư không. Ngài Quang Trạch chép: Do chấp tướng nhân sanh các pháp cho nên nói từ điên đảo sanh. Có người chép: Điên đảo tức giải thích thành nghĩa nhân duyên trên. Trên nói nhân duyên như kinh Đại Phẩm nói nhân duyên chúng sanh điên đảo cho nên có sáu đường.

Kệ văn chia nhân duyên làm hai:

1/ Nêu cả hành xứ, cận xứ.

2/ Giải thích hành xứ cận xứ. a) Một bài rưỡi nêu cả hai. b) “Thường xa lìa vua chúa v.v…” là: Giải thích hai môn. Văn xuôi nêu hành xứ cận xứ, mỗi xứ có hai môn không hữu nay kệ chuyển thế nói pháp. Trước hợp giải thích hữu môn hành xứ cận xứ, kế hiệp giải thích không môn hành xứ cận xứ, muốn dùng không hữu hợp thành một loại. Trong giải thích hữu môn có hai: Trước giải thích, kế tổng kết. Căn cứ trong giải thích chỉ giải thích hữu cận xứ, không giải thích hữu hành xứ, gồm có hai nghĩa:

3/ Muốn nói lên lìa mười duyên ác đều được làm hành xứ cận xứ tiền phương tiện, lìa mười thứ duyên ác đã dlàm hành, cận phương tiện tức nói lên trước trụ nhẫn nhục địa v.v… cũng chung được cùng hành xứ cận xứ làm phương tiện.

4/ Vì muốn tóm lược chỉ nêu cận xứ hữu hành mà thôi!

Hỏi: Vì sao văn xuôi ở trước nói hành xứ, nay kệ trước nói cận xứ?

Đáp: Trong văn xuôi căn cứ nói theo thứ lớp, trước nói hành xứ sâu, kế biện cận xứ cạn, nay y tu hành thứ lớp trước nói cận xứ cạn, sau nói hành xứ sâu. Văn xuôi nói đủ mười duyên, văn kệ không thể phân biệt chỉ lược nên không có thứ mười sanh duyên tự nhiễm ái.

Nói Ba tạng gồm có ba thứ:

  1. Ba tạng Tiểu thừa.
  2. Đại thừa tự có ba tạng, như luận Nhiếp Đại thừa chép
  3. Đại Tiểu hợp luận ba tạng, đó là tạng Thanh văn, tạng Duyên giác tạng Bồ-tát.

Có người chép: Hoa Nghiêm v.v… là Đại thừa tuệ tạng, kinh Quyết định Tỳ ni kinh là Đại thừa Tỳ ni tạng. Trì Địa luận v.v… là Đại thừa A-tỳ-đàm tạng. Nay nói trong kinh Đại thừa tự có ba tạng không nên dẫn luận. Nay nói ba tạng Tiểu thừa: Là muốn lựa phân hai thứ ba tạng còn lại. Tham mê năm món dục cầu hiện tại diệt độ: v.v… Tham đắm năm món dục gọi là người khởi ái, cầu hiện tại diệt độ là người khởi kiến, kiến có thân tâm lao lụy nên cầu mau diệt, đó gọi là hành xứ. Cận xứ: Tổng kết: Có người chép: Nên tổng kết cận xứ. “Lại nói và hành xứ”: đây là hành gần gũi. Sở dĩ nói và hành xứ là dùng hai xứ này. Có người chép: Chỉ nên nói dùng một xứ này mà nói hai xứ tức là hành xứ là thứ nhất, gần gũi xứ là thứ hai cho nên nói hai xứ! Nay nói không đúng, lìa trên mười duyên đắc chung hành xứ, cận xứ phương tiện cho nên gọi là hai xứ.

“Lại cũng chẳng hành theo”: Hợp là tụng hành xứ, cận xứ hai môn nghĩa Không. Văn cũng có hai:

1/ Hai hàng rưỡi trước tụng Không hành xứ.

2/ Năm hàng rưỡi sau tụng Không gần gũi xứ. Đầu một bài tụng trên nói không hành tức nói nghĩa pháp không. “Pháp thượng trung hạ này…” có người chép: ba tánh Thiện, ác, vô ký làm ba phẩm. Nay nói tức dùng Ba thừa là ba phẩm, lại trời người là hạ, Nhị thừa là trung, Đại thừa là thượng. “Hữu vi hay vô vi”: Hữu vi vô vi cả hai đều xả. “Thiệt và chẳng thiệt pháp”: Trên diệt giáo xưa, câu nay diệt giáo nay, dùng Ba thừa làm quyền, Nhất thừa làm thật, nay đều không hành. “Cũng chẳng phân biệt là nam hay nữ”: Nửa bài tụng trên cũng không phân biệt, kệ trên nói pháp không nay nói sanh không. “Cũng chẳng đắc các pháp cũng chẳng biết chẳng thấy”: Không đắc các pháp diệt mất cảnh, không thấy không biết diệt mất quán, hai nghĩa “Không” tròn đầy cảnh trí đều bặt dứt rõ ràng lý đã cùng khắp. Nửa bài sau tổng kết Không hành xứ: “Tất cả các pháp này” là: Tụng về Không gần gũi xứ. Văn có ba: Một hàng rưỡi nói thể của Không gần gũi xứ. “Điên đảo mà phân biệt…”: hai hàng nói Không gần gũi xứ, tiền phương tiện quán. “Quán tất cả pháp v.v…” hai hàng nói từ phương tiện nhập nơi chánh quán. Ba môn thứ lớp: Trước chỉ thể quán, kế khiến tu tập, tu tập đã thành sau nói

về đắc quán. Lại ban đầu nói được, kế nói về mất, sau lại nêu được.

“Nếu có vị Tỳ-kheo v.v…”: bốn hàng rưỡi tụng an vui tức hành quả. Văn chia làm ba:

  1. Một hàng rưỡi nêu an vui.
  2. Hai hàng rưỡi giải thích an vui.
  3. Nửa hàng kết nghĩa an vui.

Hai hàngrưỡi lại chia làm hai:

  1. Một hàng nói về nhập định nghĩa là Thánh im lặng.
  2. Một bài rưỡi khởi định nói bậc Thánh nói pháp.

“Lại Văn-thù-sư-lợi…”: Kết hạnh an vui đầu. “Lại Văn-thù…”: là nói hạnh an vui thứ hai. Có người chép: Hạnh thứ hai lấy nói pháp làm thể, tức gọi nói pháp Hạnh an lạc, nhưng pháp là tánh âm thanh thuộc pháp nhập. Nay bất luận điều này chính là lấy tâm động miệng nói năng là thể của hạnh thứ hai. Có ngưới nói hạnh thứ hai miệng không có bốn lỗi làm thể, nay nói về lấy không kiêu mạn làm thể, bởi trong lòng ôm ấp sự kiêu mạn tự đề cao bức hiếp người khác vì vậy nên nói người tốt xấu hay dở…. Muốn mở mang đại đạo thì nên lìa điều đó. Lại kiêu mạn là si sử Bồ-tát không nên khởi sanh; lại chúng sanh đều có nhất thừa đồng có Phật tánh đều sẽ thành Phật không nên kiêu mạn. Như Giới kinh chép: Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành, cũng như Bồ-tát Thường bất khinh không khinh tất cả chúng sanh, thực hiện nghĩa bất khinh này tức là mở rộng Nhất thừa. Văn chia làm ba:

  1. Khuyên trú Hạnh an lạc.
  2. Nêu thể của hạnh.
  3. Nói về quả của hạnh.

“Nếu miệng giảng nói v.v…”: Là nêu thể của hạnh. Thể của hạnh có hai:

  1. Văn xuôi.
  2. Kệ tụng.

– Văn xuôi chia làm hai: Trước nêu lìa lỗi làm thể của hạnh, kế nêu tu tập đức làm thể của hạnh. “Không ưa nói lỗi của người và của kinh điển”. Nếu nói lỗi của người, người nghe khởi sân không thọ đại đạo, lại nói lỗi người ắt là tâm khinh mạn thì tự sanh phiền não. Không nói lỗi của kinh: Như lai nói pháp cạn sâu tùy căn cơ, cuối cùng cũng trở về một đạo, không được chấp đại trách tiểu chấp tiểu trách đại như Kinh Bách Dụ chép: Có hai đệ tử đấm đánh hai chân tức là việc ấy. “Cũng chẳng khinh mạn các pháp sư khác”: Mở rộng Tiểu thừa tức gọi là các pháp sư khác, nên khởi tâm thương xót không nên khinh; lại yếu kém hơn mình gọi là Pháp sư khác nên tha thứ, bỏ qua, cũng không nên khinh. “Đối với hàng Thanh văn cũng không nói lỗi xấu cũng không gọi tên khen ngợi việc tốt của người đó”: xưng riêng tên nói lỗi của người đó thì họ sanh tâm sân, còn nếu khen ngợi thì làm tăng thêm kiến chấp của người đó chỉ được dùng đại trách chung Tiểu mà thôi!

“Khéo tu như v.v….”: Tu tập đức làm thể của hạnh. “Chỉ dùng Đại thừa vì họ giải thích”: Hoặc như đáp nghĩa Tiểu thừa là phương tiện dẫn dụ giúp họ nhập đại. Cho nên Phẩm Dược Thảo chép: Thường vì Đại thừa mà làm nhân duyên. Kệ tụng hai chương trên chia làm hai: Chỉ chuyển thể nói pháp lại theo gần tụng. Trước sáu hàng rưỡi tụng tu tập đức, kế năm hàng tụng lìa lỗi. Đầu lại có ba phần:

  1. Hai hàng rưỡi nêu tịnh trong ngoài vì nói pháp phương tiện.
  2. Hai hàng chánh nêu bày phương thức nói pháp.
  3. Hai hàng chỉ năng đáp nạn vấn.

Người mở rộng pháp duy chỉ có ba việc này nên trình bày đầy đủ. “Trừ tâm lười biếng trễ v.v…: Tụng trên lìa lỗi; năm hàng có hai cặp: một hàng đầu răn bảo khiến chớ biếng trễ; kế một hàng rưỡi khuyên khiến siêng năng tinh tấn. Không chịu nói là lười biếng, thường đình chỉ là biếng trễ, lại không siêng năng đối với việc là lười biếng, không vững vàng đối với lý là biếng trễ; kế một bài là năng bảo người nói pháp chớ mong cầu ngoại tài; kế một bài rưỡi khuyên trong tâm nhớ pháp. “Sau khi ta diệt độ v.v…”: là nói quả an vui.

Văn chia làm ba:

  1. Một hàng nói thể của hạnh trước.
  2. Hai hàng nói quả lìa khổ.
  3. hai bài nêu đắc quả an vui.

“Lại Văn-thù Sư lợi…”: là nói hạnh thứ ba. Có người chép: Thứ ba gọi là hạnh lìa lỗi, chấp tâm quyết định dứt ác là thể của hạnh. Có người chép: Do ý trừ ba độc là thể của hạnh. Nay lấy lìa ganh ghét làm thể của hạnh. Trước văn xuôi kế kệ tụng. Văn xuôi có hai: Nói thể của hạnh sau biện quả của hạnh.

Thể hạnh có hai:

  1. Răn dạy.
  2. Khuyên.

Răn dạy lại có hai:

1/ Răn dạy đối với người không nên khởi lỗi.

2/ Răn dạy khiến đối với pháp không nên khởi lỗi. Tật: Là ganh kia nhiều tài của Đố: Là ghét chánh báo của họ, che dấu tự tánh, tình tà vạy mà thuận thời nghi gọi là siểm (dua nịnh), vì đối người kia mà hiện ra tướng cung phụng gọi là cuống (dối). “Lại cũng không nên hý luận các pháp”: Răn dạy khiến đối với pháp lìa lỗi. “Trong tâm vô ký mà lại ngôn luận gọi là hý luận.

Trung luận chép: Hý luận có hai thứ:

  1. Ái luận.
  2. Kiến luận.

Nay lìa hai thứ này. Có chỗ cạnh tranh: Răn dạy khiến không nên nghiêng về chấp hữu. Văn kệ của Ngài Cầu-na-bạt-ma chép: Các luận đều khác với ngay thẳng tu hành lý không hai, thiên chấp có thị phi, người thông đạt thì không còn cạnh tranh. “Phải ở nơi tất cả chúng sanh..”: Khuyên khiến tu tập thiện. Không nói nhiều, chẳng nói ít: Nói nhiều thì khởi khinh nhàm, nói ít thì văn lý chưa đủ khiến kia tâm mê muội.

“Văn-thù Sư Lợi v.v….”: Là nói về quả hạnh:

  1. Nói lìa đường ác.
  2. “Được bạn đồng học tốt v.v…”: Nêu đắc quả thiện. “Kệ văn lại có hai: năm hàng tụng thể hạnh, một bài tụng quả hạnh. Trong năm hàng: Hai bài đầu tụng răn dạy khiến lìa ác, kế ba hàng tụng trên khuyên khiến tu tập thiện.

“Lại Văn-thù Sư Lợi v.v…”: Nêu hạnh từ bi, trước văn xuôi kế kệ tụng. Văn xuôi có hai:

  1. Nêu thể hạnh.
  2. Biện quả hạnh.

Thể hạnh có hai: Trước nêu đối với người học Đại thừa nên khởi từ tâm, khiến cho kia chóng ngộ quả Phật, kế nói về đối người học Tiểu thừa nên khởi đại tâm bi muốn bạt dứt mê chấp Tiểu thừa cho họ khiến mau lìa khổ. “Phải nghĩ thế này v.v…”: Nêu việc đáng thương xót. “Chẳng nghe chẳng biết chẳng hay…”: Chấp Tiểu thừa cho là rốt ráo. Ban đầu không hề nghe Tiểu thừa là phương tiện, chẳng những không nghe, ý cũng không biết Tiểu thừa là quyền nói, chẳng những không biết cũng đều không hay. Lại nói không nghe là không có Đại thừa Văn tuệ không biết là không Tư tuệ, không hay là không Tu tuệ. “Chẳng hỏi chẳng tin chẳng hiểu”: Chẳng những chấp tiểu không nghe đối với đại, trú nơi tăng thượng mạn cũng không hỏi han một người học Đại thừa cầu quyền thật, người học Đại thừa dù là người nói cũng không tin nhận, chẳng những không thọ Tiểu thừa đã sâu thẳm mà căn lại còn độn cho nên không thể giải ngộ.

“Văn-thù Sư Lợi…”: Nêu quả hạnh, cũng chia làm hai: Trước nêu lìa cõi ác. Kế “Thường được hàng Tỳ-kheo” v.v… là nói đắc quả thiện, đối trên hai hạnh từ bi cho nên có hai quả đắc ly trong đắc quả trước nói về nhân ái, kế “hư không chư thiên”…: là nói chư Thiên ủng hộ.

Hỏi: Trên trời tự có kinh điển, vì sao lại xuống nhân gian nghe pháp ư:

Đáp: luận Trí Độ chép: Đức Phật không nói ở cõi trời có kinh điển, dù cho có cũng chỉ ở Đao-lợi, Đâu-suất, chư thiên đến vì người có ba việc hơn trời:

  1. Năng dứt dục.
  2. Tri thức mạnh.
  3. Tinh tấn.

Trời có hai việc thua người:

  1. Dục thiên đắm năm dục.
  2. Sắc Vô sắc thiên đắm thiền vị không sánh bằng người nên đến nhân gian nghe pháp. Lại Bồ-tát chư thiên muốn mở rộng pháp lợi ích cho người cho nên xuống nhân gian nghe pháp. Lại muốn trục xuất các ác quỉ để tăng ích hai lực thân tâm cho Pháp Sư vì vậy nên đến.

“Vì sao?” là đoạn lớn thứ hai, kế khen ngợi giáo. Sở dĩ khen ngợi gồm có ba nghĩa:

  1. bốn hạnh do kinh mà thành cho nên cần phải khen ngợi.
  2. Trên nêu hạnh mở rộng kinh, nay khen ngợi kinh sở mở rộng, nhưng đức Như lai ở đời khéo biết rõ căn cơ chúng sanh nên có lúc nói hay im lặng. Người mở rộng kinh cũng phải biết thời mà động, không được vì nghe kinh phước nhiều gặp người liền nói.
  3. Nối kế gần văn trên giải thích thành nghĩa: người ưa thích, trời ủng hộ, Kinh này đã được Chư Phật ba đời giữ gìn ưa nhớ.

Trời người ủng hộ đâu đủ để xưng gọi ư! Văn có ba:

  1. Cùng nêu hai nói.
  2. Cùng nêu hai dụ.
  3. Cùng kết.

Cùng nêu hai: Ban đầu nói về Chư Phật ba đời ủng hộ. “Văn-thù v.v…”: là khen ngợi giáo lý mầu nhiệm sâu xa. Ở trong vô lượng cõi cho đến danh tự còn chẳng được nghe.

1/ Trong cõi Tiểu thừa không nghe.

2/ Trong cõi vô duyên không được nghe.

3/ Không tạo tướng (văn) nghe, không tạo tướng câu, không có tướng người nghe, nghe như vậy trong vô lượng cõi rất khó đắc. “Thí như vua có sức mạnh v.v…”: Nêu hai dụ, chia làm hai riêng. Trước thí dụ xưa chưa được nghe Pháp Hoa, kế dụ nói nay mới được nghe, đều là trước thí dụ, sau hiệp. Vua Chuyển luân dụ cho Phật, Tiểu vương dụ cho bốn ma. “Đem các đạo binh”: là nói tùy căn cơ lập ra giáo khiến vật tu hành hàng phục bốn ma. “Đánh giặc có công…”: là nói về Phật thấy chúng sanh tu hành dứt hoặc gọi là có công xứng căn cơ trao pháp. “Tùy công mà ban thưởng v.v…”: Tùy chỗ tu hành dứt hoặc nhiều ít được các công đức, Trí đoạn là ruộng thiền định là nhà, Niết-bàn hữu dư là làng xóm, Niết-bàn vô dư là thành ấp, tàm quí là y phục, đạo phẩm là châu báu, voi ngựa tôi tớ dụ cho thần thông. Chỉ riêng trên đỉnh búi tóc vua có một viên ngọc này”: Chỉ Phật và Phật mới cùng tận diệu Pháp Nhất thừa. “Các quyến thuộc vua v.v…”: Nghĩa là mười phương Phật và các đại Bồ-tát kinh lạ đức Thích-ca dùng biển lớn Nhất thừa rót vào vũng nước chân trâu của người Nhị thừa, vì chưa có đại căn cơ mà trao truyền đại pháp, theo lý không nên cho, nên gọi là kinh lạ. Hiệp dụ như văn.

“Văn-thù Sư Lợi! Như vua Chuyển luân v.v…” Vì giáo này làm dụ. Công lớn: Đại chướng sắp ngã đại căn cơ sắp động nên vì họ nói Nhất thừa. Luận Pháp Hoa chép: Người thật có công nghe nói Đại thừa mà chấp chẳng phải Đại thừa, đảo chấp như vậy là vì đối trị cho nên nói đem viên ngọc trong búi tóc cho đó. Mười thứ trong vô thượng chép: Muốn thị hiện nói vô thượng nên nói rõ dụ cởi viên ngọc trong búi tóc.

“Văn Thừ Sư Lợi v.v…” là cùng kết chia làm hai: Trước tổng kết giáo lý mầu nhiệm sâu xa. Kế “Văn-thù Sư Lợi v.v…” tổng kết Chư Phật ủng hộ.

Kệ có hai:

1/ bốn hàng tụng nói về thể của hạnh.

2/ Mười hàng rưỡi tụng khen ngợi giáo, không tụng quả hạnh mà để ở đoạn lớn sau tụng. Trong tụng khen ngợi giáo có chín hàng tụng thí dụ, một bài rưỡi tụng kết cả hai, lược không tụng hai khen ngợi. Trên hai thí hai hiệp, nay tổng làm một thí một hiệp có ba hàng tụng thí dụ đầu, một bài tụng thí dụ sau ba hàng rưỡi tụng hợp thí dụ đầu, một bài rưỡi tụng hợp thí dụ sau. “Kinh này là trên hết v.v…” một bài rưỡi tụng hai kết ở trên: nửa hàng tụng khen ngợi giáo lý mầu nhiệm sâu xa, một bài tụng kết Chư Phật ủng hộ.

“Sau khi ta diệt độ v.v…” là đoạn lớn thứ ba: một bài rưỡi khuyên tu bốn hạnh. “Mà nói gần gũi bốn pháp”: Là chưa thể hành bốn pháp thì nên gần gũi. “Người đọc tụng kinh này v.v…” là đoạn lớn thứ tư, giải thích rộng an vui thân cận mà có văn khuyên tu này. Văn có ba:

  1. nêu trong tỉnh giác được lợi ích.
  2. nêu trong mộng được lợi ích.
  3. Tổng kết khen ngợi.

Hỏi: Hiện thấy người đọc tụng Pháp Hoa lo buồn tật bệnh vì sao nói người đọc kinh này thường không buồn não ư?

Đáp: Chúng sanh có năm hạng:

  1. Định báo nghiệp.
  2. Bất định báo nghiệp, bất định có thể chuyển, định không thể chuyển.
  3. Chuyển nặng thành nhẹ, cho nên người đọc kinh nhiều tai hoạ lỗi lầm.
  4. Không đúng như lời dạy mà tu hành cho nên bệnh không trừ như không theo phương thuốc.
  5. Chúng sanh có tội trong vô lượng kiếp dần dần được giảm nhẹ.

Hỏi: Vì sao nói người đọc kinh này thường không lo buồn?

Đáp: Kinh này chia hai quyền hai thật phù hợp tâm Phật nên được Phật giáo hóa và người ba căn lãnh giải đều rất vui mừng, nên người đọc thường không lo sầu.

“Lại không bị bệnh đau v.v…:” Trước khen ngợi năng trừ tâm bệnh, nay khen ngợi năng trừ thân bệnh. Phẩm Dược Vương chép: Kinh này là thuốc hay cho người bệnh ở cõi Diêm-phù-đề. Vì sao vậy: Vì kinh này từ đầu đến cuối phá ba thứ bệnh:

  1. Phàm phu.
  2. Tiểu thừa.
  3. Bồ-tát.

Thế nên người đọc tụng kinh này thì không bị bệnh đau. “Nhan sắc được trắng sạch”: Trên khen ngợi lợi ích của việc xa lìa nay khen ngợi lợi ích của việc được. “Chẳng sanh nhà nghèo cùng”: Trên khen ngợi hiện báo được lợi ích, nay khen ngợi sanh báo được lợi ích. Do Nhất thừa đầy đủ muôn đức cho nên người đọc không sanh nghèo cùng do Nhất thừa tôn quý tột cùng nên người đọc không sanh thấp hèn. Lý Nhất thừa ngay thẳng nên người đọc hình thể không xấu xa. “Chúng sanh thường ưa thấy…” ở trên nói lìa quả nay nói được quả. “Dao gậy chẳng đến được v.v…” Trước lìa ác bên trong nay lìa ác bên ngoài. “Dạo đi không sợ sệt…”: Trên lìa ác bên trong có ly có đắc nay ngoài lợi ích cũng có đắc ly, trước nêu quả lìa nay nêu quả đắc. “Nếu ở trong chiêm bao v.v…”: Nói về trong mộng được lợi ích, so với trước, đây là hậu báo lợi ích. Phàm có năm giấc chiêm bao:

  1. Một bài rưỡi mộng thấy Phật vì chúng nói pháp.
  2. Một hàng rưỡi thấy thân mình vì chúng nói pháp.
  3. Sáu hàng rưỡi mộng nghe pháp được thọ ký.
  4. Một hàng rưỡi mộng thấy tu Đạo Bồ-tát.
  5. Năm hàng mộng thấy thành Phật.

Mộng trước là trong nhân được lợi ích dùng bốn phen nói kệ tụng, mộng sau thành Phật là đắc quả đại sự, dùng năm phen nói kệ tụng. Năm giấc mộng này từ cạn đến sâu có thứ lớp: Đầu nêu hành cạn nên chỉ thấy Phật nói pháp, kế giải dần sâu thấy vì người khác nói pháp, kế thấy được thọ ký, kế thấy tu hành, kế thành quả Phật. Luận Trí Độ nói có năm mộng:

  1. Khí nóng nhiều nên mộng.
  2. Khí lạnh nhiều nên mộng.
  3. Khí phong nhiều nên mộng.
  4. Thấy nghe nhiều nên mộng.
  5. Trời thần cho (báo) mộng, nay là thứ năm.

Luật Tăng Kỳ nói về năm mộng.

  1. Thật mộng.
  2. Không thật mộng.
  3. Mộng không rõ ràng.
  4. Mộng trong mộng.
  5. Trước tưởng sau mộng, nay là thật mộng. Sau cùng một bài kệ tổng kết như văn.

PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT THỨ MƯỜI LĂM

Sở dĩ có phẩm này là do từ phẩm Hiện Bảo Tháp đến An Lạc Hạnh. Bốn phẩm nói thành trước khai sau, ba phẩm dưới đây chính nói về khai sau, nghĩa là nói thân quyền, thân thật. Phẩm này và phẩm Hiện Bảo Tháp đồng từ đất hiện lên, đều hiển bày Pháp thân Như lai, nhưng Phẩm Hiện Bảo Tháp dùng năng hóa hiển năng hóa, Phẩm Dũng Xuất dùng sở hóa hiển năng hóa. Năng hóa hiển năng hóa: là nói Đa Bảo thật bất diệt mà phương tiện thị hiện diệt để nói lên pháp thân Thích-ca vô sanh diệt, ứng thân có sanh diệt đều nhóm họp phân thân nói về Phật cõi tịnh là ứng chẳng phải chân, để hiển bày Thích-ca là Tích mà chẳng phải bổn nên gọi năng hóa để nói lên năng hóa. Nay nêu sở hóa nói lên năng hóa: Bồ-tát dũng xuất đã nhiều tức hiển rõ đức Thích-ca thành Phật đã lâu xa, nên gọi sở hóa hiển bày năng hóa.

Hỏi: Vì sao nói lên thành Phật lâu ư?

Đáp: Thứ nhất: Chân thân và ứng thân phải đủ hai nghĩa:

  1. Pháp thân vô sanh diệt, ứng thân có sanh diệt.
  2. Pháp thân chỉ một, ứng thân rất nhiều.

Phẩm trên đã nói lên hai nghĩa này, nhưng chưa biết đức Thích-ca là gần chứng pháp thân hay phải lâu chứng còn chưa nói về một nghĩa này, cho nên dũng xuất chúng nhiều nói lên đức Thích-ca chứng pháp thân đã lâu xa, đủ ba nghĩa này mới tròn đầy. Thứ hai là thế gian chúng sanh gồm có hai nghĩa: Thân và mạng. Thân thì sanh diệt, mạng có đầu cuối, phàm phu đã vậy Nhị thừa cũng.

Bậc chí nhân vượt ngoài bốn trường hợp, nêu ra biểu bách phi chỉ vì trong vô danh tướng vì chúng sanh nên mượn danh tướng nói và là để nói thân cùng mạng. Phẩm trên nói về bổn một tích nhiều, chân thường ứng vô thường tức là nói pháp thân, phẩm này trở đi nói về tuổi thọ Phật. Thân thì không sanh diệt tùy duyên sanh diệt, tuổi thọ thì vô thỉ vô chung mà phương tiện có thỉ chung, nói hai môn này thì quả đức rốt ráo. Cho nên trong luận Niết-bàn ngài Tăng Triệu chép: Sáu đường không gồm nhiếp sự sanh kia, sức gánh vác không vì sự hóa đi thể đó, đây nói về thân vô sanh diệt; theo không thấy dấu cuối, đón chẳng gặp đầu gọi là tuổi thọ vô thỉ chung. Bác bỏ thân mạng phàm phu đã như vậy phá chấp nghĩa nhị thừa cũng vậy.

Lại có Phẩm này: Do phẩm trên nói về Đa Bảo phân thân đều có ba nghĩa như trước đã nói, nay ngàn thế giới số Bồ-tát như cát bụi từ đất vọt lên là muốn truyền bá kinh này, vì sao biết như vậy? Vì Phẩm Bảo Tháp nói về Phật sai trì kinh, nay Bồ-tát ở phương dưới ứng lệnh mà xuất hiện muốn mở rộng kinh. Cho nên kệ Di-lặc nói về Bồ-tát Dũng xuất chép: vì cúng dường Phật và hộ trì kinh này; cho đến phẩm Thần lực ban đầu Bồ-tát Dũng xuất phát thệ mở rộng kinh tức kia chứng minh.

Lại có phẩm này là vì sắp nói tuổi thọ sợ chúng sinh không tin nhận nên trước nói đại chúng nhóm họp chứng minh sau nói không hư đối. Lại trong hội thấy nhiều Bồ-tát từ đất vọt lên sanh tâm ít có thêm lớn phước tuệ cho nên có phẩm này. Lại có phẩm này: là nói lên kinh Pháp Hoa có mười thứ bất tư nghì tức mười thứ diệu nghĩa. Trên đã nói về hóa chủ, cõi nước bất tư nghì rồi, nay kế nêu đồ chúng bất tư nghị. Nói phẩm Dũng xuất gồm có ba nghĩa:

1/ Từ sự đặt tên, một ngàn thế giới số Bồ-tát như cát bụi từ đất vọt lên nên lấy đó gọi tên phẩm.

2/ Gọi giáo xưa là đất, nghĩa là xưa nói cung vua là thật sanh, ở Song lâm là thật diệt tức dùng giáo có thỉ có chung như đất che lấp Phật vô thỉ vô chung, nay phế bỏ giáo thỉ nói chung lên Phật tuổi thọ vô thỉ chung như đất nứt ra vọt lên.

3/ Đức Như lai Thọ Lượng lâu dài xưa vì chúng sanh bị phiền não tâm địa che lấp nên không được nói, nay phiền não tâm địa sắp nghiêng đổ nên được nói Như lai Thọ Lượng lâu dài, nhân danh nói nghĩa nên dùng để gọi tên phẩm.

Hỏi: Có người chép: Trước bỏ ba bày một để nói về nhân, việc này rồi, nay nói bỏ gần bày xa để nói về quả là việc như thế nào?

Đáp: ở trên đã nói rồi nay sẽ nói lược. Bỏ ba bày một, khai hai thứ ba hiển hai thứ nhất. Khai hai thứ ba: Nêu xưa ba nhân ba quả đều là phương tiện. Hiển hai thứ nhất: Hiển nay một nhân một quả đều là chân thật. Nếu vậy không được nói bỏ ba bày một để nói về nhân! Lại trước chính bác bỏ quả Nhị thừa chẳng rốt ráo, khen ngợi quả Phật là rốt ráo thì đó chính là nói về nghĩa quả không nên gọi là biện nhân. Lại xét rằng muốn giải thích kinh nên xem xét đề kia, đề xưng Diệu Pháp thì lấy quả làm diệu, nhân hạnh chưa tột cùng thì chẳng phải diệu, nên cần phải chánh là nói quả không được nói về nhân.

Hỏi: Trên đã nói về quả Phật là diệu vì sao gọi là nhân ư?

Đáp: Hiển Phật thừa rốt ráo là quả tức nói lên Nhị thừa chẳng rốt ráo nên thuộc về nhân. Nhị thừa đã là nhân, trời người cũng xa thuộc về nhân, cho nên năm thừa nói trên biện Phật thừa là quả, nhiếp bốn thừa còn lại đều là nhân, do đây văn lý rõ ràng như.

Căn cứ ba phẩm này cũng chia làm bốn chương:

  1. Nói về tựa nói.
  2. Lược khai thân quyền thân thật động chấp sanh nghi.
  3. Chấp động sanh nghi bày tỏ nghi đến xin.
  4. Rộng chia ra thân quyền, thân thật, dứt nghi sanh tín.

Phần đầu kinh cách đại tựa gần nên không có tiểu tựa, cách đại truyền bá xa cho nên có tiểu truyền bá, phần sau kinh cách đại tựa xa nên có tiểu tựa, cách đại truyền bá gần nên không có tiểu lưu thông.

Căn cứ trong phần tựa lại chia ba phần:

  1. Tựa khai phát.
  2. Tựa nghi vấn.
  3. Tựa răn dạy và chấp thuận.

-Tựa khai phát: Nhân hiện lên Bồ-tát số nhiều mà khai phát nghĩa đức Thích-ca Thành Phật đã lâu.

-Tựa nghi vấn: Chưa hiểu ý Bồ-tát hiện ra cho nên hỏi Phật. Tuổi thọ đã là đại sự chúng sinh sanh nghi nên trước phải răn dạy lắng nghe sau mói cho nói. Phần tựa đầu lại có hai:

  1. Duyên do xa.
  2. Duyên do gần.

Duyên do xa: Nhân Bồ-tát phương khác phát thệ mở rộng kinh nên được nói lên Bồ-tát dưới đất hiện lên được khai tuổi thọ lâu dài của đức Thích-ca. Cho nên, lấy Bồ-tát phương khác làm lý do xa chính là nói các Bồ-tát dưới đất hiện ra làm lý do gần. Trong phần duyên xa có hai:

  1. Bồ-tát phương khác xin.
  2. Đức Phật ngăn thỉnh.

Trước nói Bồ-tát phương khác xin muốn truyền bá kinh, từ trên phẩm Tháp báu sai người trì kinh nên các Bồ-tát vâng lệnh muốn trì, mà đến phẩm này mới phát ra lời nói là muốn hiển rõ ba vị Thánh cùng khai tuổi thọ.

  1. Do Đức Thích-ca sai người trì kinh.
  2. Các Bồ-tát đợi đến phẩm này mới vâng lệnh xin trì.
  3. Đức Thích-ca ngăn thỉnh cho nên vẫn còn có Bồ-tát từ đất hiện lên để mở bày nghĩa tuổi thọ. Vì thế, phần đầu kinh có đức Thích-ca hiện điềm lành đức Di-lặc sanh nghi: Văn-thù đáp vấn, ba vị Thánh cùng khai thừa quyền, thừa thật, nay cũng ba bậc Thánh cùng khai phát thân quyền, thân thật.

“Lúc đó, Đức Phật bảo đại chúng v.v…” là nói ngăn thỉnh. Trên vâng lệnh trì kinh nay nói không cần trì, hai lời nói dường như trái ngược

mà thật là phù hợp. Do Phật sai trì các Bồ-tát xin trì, cho nên được ngăn thỉnh để thuận tiện nói lên Bồ-tát dưới đất hiện lên khai nghĩa tuổi thọ của Phật, đây chính là trước sau nương nhau mà thành chẳng chống trái nhau. Do đó, văn trước sai trì nên được mở rộng kinh, văn sau ngưng trì cho nên khai tuổi thọ lâu dài đó gọi là mở rộng kinh. Đức Phật ngăn thỉnh gồm có hai câu:

1/ Ngăn thỉnh của phương khác.

2/ Vì sao? Vì cõi này tự có Bồ-tát để giải thích vì sao dừng xin, phương khác chẳng phải đức Thích-ca hóa nên không được nói lên tuổi thọ của đức Thích-ca vì cho nên ngăn thỉnh. Bồ-tát cõi này đức Thíchca sở hóa nên được nói lên tuổi thọ của đức Thích-ca vì vậy nói để giải thích. Văn trên nói Bồ-tát ở phương khác là ý do nầy. Mà nói sáu muôn: Nói Bồ-tát sở hóa tự siêu vượt trong sáu đường, được nói lên đức Thích-ca thành Phật lâu xa. Quyến thuộc Bồ-tát có sáu muôn: là ni về sở hóa quyến thuộc cũng siêu vượt trong sáu đường nay đều thành tựu, đều được hiển Như lai thành Phật đã lâu.

Hỏi: Bồ-tát từ đất hiện lên vì khai tuổi thọ, vì sao nói hộ trì đọc tụng nói rộng kinh này ư?

Đáp: Khai hiển tuổi thọ tức là nói rộng kinh này. Lại có Bồ-tát đến có hai việc trước sau. Trước khai nghĩa tuổi thọ, sau truyền bá kinh này. Cho nên, Dũng xuất nêu sơ khai, Thần lực nói cuối cùng bảo hộ.

“Lúc Phật nói lời đó v.v…” Nêu lý do gần. Văn có hai chương:

  1. Nói chung các Bồ-tát hiện lên.
  2. Nói riêng bốn đại sĩ hỏi thăm.

Sở dĩ có hai chương này, vì trước hiện lên khai nghĩa tuổi thọ năng hóa tức là giáo môn. Bốn đại sĩ hỏi thăm nói về chúng sanh dễ độ gọi là sở hóa tín nhận, tức từ lâu đã thành Phật chúng sanh từ lâu đã tín nhận, hai loại này là duyên giáo cảm ứng nên phân hai chương. Chương đầu có mười ý đồng hiển nghĩa thành Phật đã lâu:

1/ Nói thời gian hiện lên từ đất: Tức nói thời xưa chẳng nói tuổi thọ nay chính là thời kia.

2/ “Thế giới Ta bà…”: Nói nơi hiện ra: Xưa dùng giáo gần che giáo xa như đất che Bồ-tát, nay phế bỏ gần, hiển xa dụ đất nứt mà hiện, chỉ đất cõi Ta bà nứt không nói các cõi khác nứt có hai nghĩa:

a) Muốn hiển rõ xưa giáo môn ở cõi Ta bà dùng gầnche xa, nay phế bỏ giáo xưa ở Ta bà nên từ đất này vọt lên.

b) Muốn dùng Thích-ca sở hóa được nói lên tuổi thọ cho nên lại nói về cõi nước của đức Thích-ca.

3/ “Mà ở trong đó…”: là nói người hiện ra: Chính là dùng sở hóa được khai hiển năng hóa cho nên nói về người từ đất vọt lên.

Hỏi: Phẩm Tháp báu vì sao năng hóa hiển năng hóa, nay dùng sở hóa hiển năng hóa ư?

Đáp: Phẩm Tháp báu nói về Phật quá khứ đã phương tiện thị hiện diệt mà thật không diệt, nên biết đức Thích-ca cũng vậy, hiện tại phân thân Phật chẳng phải Phật thật thì biết đức Thích-ca cũng. Cho nên, năng hóa hiển năng hóa, nay dùng Bồ-tát số nhiều và điều đã đã thành tựu thì biết đức Thích-ca thành Phật đã lâu.

4/ “Các vị Bồ-tát đó v.v…”: Khen ngợi đức của Bồ-tát: Nói về sở hóa đức cao, nói lên năng hóa thành Phật ắt lâu.

5/ “Trước đâu đều ở cõi Ta bà v.v…:” Nêu xuất Bồ-tát: Xưa do giáo sanh diệt ngăn che pháp thân hư không vô sanh diệt của Phật nên nói đều ở dưới cõi Ta bà, trú giữa hư không. Nếu không giải thích như thế văn các đại sĩ phân thân ở sáu đường mở rộng đạo lợi người, do đâu mà ở dưới cõi Ta bà này trú ở hư không, cho nên biết phải có chỗ tiêu biểu.

6/ “Các vị Bồ-tát đó…:” Nêu ý của Bồ-tát đến: Nghe phẩm Tháp báu sai người trì kinh cho nên đến, muốn khai hiển tuổi thọ và truyền bá kinh này.

7/ “Mỗi vị Bồ-tát v.v…:” là nêu số Bồ-tát. sở dĩ là nêu số nhiều ấy, bởi sở hóa số nhiều nói lên việc thành Phật đã lâu. Như thấy học sĩ tích đức số nhiều, thì biết Pháp Sư giảng nói nghĩa đã lâu. Trong đây nêu số đều từ ít đến nhiều, nhưng ban đầu dẫn chủ ít mà quyến thuộc nhiều, sau dẫn chủ nhiều quyến thuộc ít. Thí như lãnh sáu muôn người đến chỉ có một thầy, lãnh năm muôn đệ tử đến thì có hai thầy như vậy chuyển gấp bội.

8/ “Các vị Bồ-tát đó…” Nêu kế nghi thức của các Bồ-tát ấy. Đến chỗ Đức Phật Thích-ca Đa bảo: Là muốn nói lên đức Thích-ca đã lâu chứng pháp thân vô sanh diệt, ứng thân có sanh diệt. Đến chỗ phân thân Phật: là muốn nói lên đức Thích-ca đã lâu đắc bổn một tích nhiều. Phẩm Tháp báu nói về Chư Phật đến để nói lên pháp thân, nay biện Bồtát từ đất vọt lên muốn hiển rõ tuổi thọ cho nên đến chỗ hai Đức Phật.

9/ “Từ lúc các vị Bồ-tát…” Nêu thời gian hỏi thăm: Sở dĩ nói về thời gian lâu xa là muốn nói lên Bồ-tát số nhiều, do Bồ-tát số nhiều cho nên được nói lên Phật thành đạo đã lâu.

10/ “Lúc bấy giờ hàng bốn chúng v.v…”: Nói về đại chúng đều thấy: Sức Đại chúng không thể thấy hết nay nhờ uy thần của Phật cho nên có thể thấy, nêu đại chúng được thấy tiêu biểu nhờ Phật nói thân quyền thật mới được lãnh ngộ.

“Trong chúng Bồ-tát…”: là nói riêng bốnvị Bồ-tát hỏi thăm. Chia làm bốn phần:

  1. Các Bồ-tát hỏi thăm.
  2. Đức Phật đáp.
  3. Tùy hỷ.
  4. Khen ngợi.

Phần một lại có bốn:

1- Nêu danh: Ở ngoài không hữu nên gọi Thượng hạnh. Vượt qua biên tế đoạn thường gọi là Vô Biên hạnh. Vượt ngoài cấu lụy gọi là Tịnh hạnh. Đạo đầy đủ gọi là An, trí tròn đầy gọi là Lập gọi chung là Hạnh An Lập.

2- “Bốn vị Bồ-tát này v.v…”: Là khen ngợi đức: Bồ-tát hiện lên gồm có ba phẩm: Thượng phẩm có bốn người, trung phẩm có sáu muôn, hạ phẩm có vô lượng ngàn muôn ức số.

3- “Ở trước Đại chúng…”: Là nghi thức hỏi thăm, đầu tiên ngăn thỉnh giửa nói thầy và trò đều có sáu muôn.

4- “Mà hỏi thăm rằng…:” Chánh thức hỏi thăm. Trước Văn xuôi kế kệ tụng.

Trường thành có hai: Hỏi thăm năng hóa, kế “chỗ đáng độ”..: là hỏi thăm sở hóa. Ít bệnh ít não gồm có ba ý:

  1. Vô bệnh vô não.
  2. Nhiều bệnh nhiều não.
  3. ít bệnh ít não.

Trong ba câu chỉ được một câu. Sở dĩ không được vô bệnh vô não, vì chúng sanh chưa tránh khỏi tật bệnh thì Đức Phật đâu thể vô bệnh vô não? Không được nhiều bệnh nhiều não: nếu chúng sanh đều không từ Nhất thừa hóa độ thì có thể nói là bệnh não nhiều đó. Lại có thọ hóa nên không được nói nhiều chỉ được hỏi ít bệnh ít não.

Hỏi: Ít bệnh ít não có gì sai khác?

Đáp: luận Trí độ chép: Tùy pháp thế tục có hai cách hỏi thăm:

1/ Hỏi thăm tâm là ít não.

2/ Hỏi thăm thân là ít bệnh. Nếu căn cứ sở hóa giải thục chúng sanh không có cấu kiết sử nên Như lai ít bệnh, chúng sanh thoát nạn lo nguy khổ thì Như lai an vui.

“Lúc bấy giờ đức Thế tôn” v.v… Là kế đáp hai câu hỏi: Trước đáp câu đầu hỏi năng hóa, sau “các chúng sanh ấy v.v…” Là đáp câu hỏi sở hóa. Văn chia làm hai: đầu nêu Bồ-tát trực vãng dễ có thể hóa độ. Vừa mới thấy thân ta nghe ta nói pháp:” Tức hội Hoa Nghiêm các Bồ-tát v.v… nghe nói Hoa Nghiêm liền nhập tuệ Phật. “Trừ người trước đã tu tập học hạnh Tiểu thừa”: là nói về người hồi tiểu nhập đại, đại căn cơ chưa thuần thục từ hội Hoa Nghiêm xong đến trước hội Linh thứu chưa đắc hiển giáo Đại thừa cho nên lược trừ. “Người như vậy” v.v…: Nói về Bồ-tát hồi tiểu nhập đại, đại căn cơ đã thuần thục nay hóa đắc cho nên nói dễ độ, cũng gọi là nhập tuệ Phật cho nên biết Pháp Hoa tức là Hoa Nghiêm, không nên nói Hoa Nghiêm lý sâu Pháp Hoa nghĩa cạn. Nhưng người thẳng đến ban đầu thấy thân Phật liền được lãnh ngộ cho nên Đức Phật không mệt nhọc, người hồi tiểu trải qua hơn bốn mươi năm mới được nhập đạo nên có mệt nhọc, nhưng nay chọn từ đầu đến cuối đều được ngộ nhập đạo gọi chung là dễ hóa không mệt nhọc. Lại chép: mới thấy thân ta thì thấy đức Thích-ca quá khứ lâu xa đã thành Phật tức chỉ Bồ-tát từ dưới đất vọt lên. Đây là nêu bắt đầu từ quá khứ? Nói về người hồi tiểu nhập đại cũng nhập tuệ Phật, tức biện cuối đời nay, duyên từ đầu đến cuối thảy đều được ngộ cho nên nói chúng sanh dễ ngộ. “Bây giờ các vị đại sĩ” v.v…: là nói tùy hỷ: Do năng hóa hai quyền hai thật đã nói lên hai châúng sở hóa trực vãng và hồi tiểu đều ngộ, đây tức là hoài bảo của đại sĩ cho nên thuận theo mà vui mừng. “Lúc đó đức Thế tôn” v.v…: là nói xưng tán. Muốn nói lên người không ganh ghét được Phật khen ngợi.

“Bấy giờ ngài Di-lặc” v.v…: là đoạn lớn tựa nghi hỏi chia làm hai phần:

  1. Di-lặc hỏi Thích-ca.
  2. Phân thân làm thị giả hỏi Chư Phật.

Phần đầu lại làm hai:

  1. Hoài nghi.
  2. Nêu hỏi.

Hoài nghi như văn. “Lúc ấy Di-lặc” v.v…: Là nêu hỏi. Văn xuôi trình bày ý muốn hỏi. Văn kệ là chánh hỏi, chia làm ba:

  1. Một hàng nêu xin.
  2. Mười ba hàng chánh hỏi.
  3. Năm hàng rưỡi kết xin.

Trong chánh hỏi gồm năm việc hỏi chia làm hai phần: Hai hàng đầu có hai nghi vấn. Kế “là từ chốn nào đến”: Chánh hỏi có hai:

  1. Hỏi nơi đến.
  2. Hỏi thầy trò.

Đầu có hai:

  1. Trước hỏi từ đâu đến.
  2. Do nhân duyên gì nhóm.

Hỏi ý đến. “Thân lớn đại thần thông” v.v…: Khen ngợi đức Bồtát, thành hai việc hỏi trên. “Mỗi mỗi hàng Bồ-tát”..: Có ba việc hỏi: hỏi về thầy trò, văn chia làm hai: chín hàng đầu nêu số Bồ-tát nhiều, kế hai bài chánh hỏi thầy trò. Hai hàng trước là trước hỏi sau khen ngợi đức kia chứa nhóm, nay ba việc hỏi nầy trước trình bày số kia nhiều. Hoặc đức chứa nhóm mà số ít, hoặc đức ít mà số nhiều đều không được hiển rõ nghĩa thành Phật lâu xa, phải đủ hai nghĩa nầy mới được khai nghĩa tuổi thọ. Cho nên trong phần hỏi, ngài Di-lặc đã trình bày đủ.

“Các vị oai đức lớn” v.v… là: Hỏi thầy và trò: một hàng hỏi hạnh cuối cùng thành tựu. “Từ ai bắt đầu phát tâm”: Hỏi kia ban đầu hành. “Xưng vương Phật pháp nào? v.v… là ba câu hỏi hành trung gian, trong ba câu hỏi này hỏi đầy đủ thầy trò. Muốn khai nghĩa tuổi thọ ý hỏi ở thầy, cho nên mỗi mỗi câu hỏi đầu đều nêu hỏi “ai”. Do chánh hiển tuổi thọ của thầy cho nên hỏi thầy. “Các Bồ-tát như vậy”: năm hàng rưỡi kết xin. Văn có hai:

1/ Ba hàng rưỡi nêu Di-lặc chưa hiểu cho nên thỉnh hỏi. Nói: bèn không biết một người: Bồ-tát dưới đất vọt lên vì khai tướng pháp thân, pháp thân chẳng phải Thập địa hiểu rõ cho nên nói không biết một người.

2/ Hai bài nói chúng xin.

“Khi ấy các vị Phật của đức Thích-ca: v.v… là Chư Phật thị giả nêu hỏi: trước hỏi kế đáp như văn.

“Bấy giờ đức Thích-ca” v.v… là nói răn, hứa, lại chia hai:

  1. Khen ngợi hỏi.
  2. Răn hứa.

Nói việc lớn ấy: Do đây hỏi được nói lên tuổi thọ quả Phật là việc lớn, lại do đây hỏi thì chúng được mười hai thứ lợi ích lớn, lại do đây hỏi nói rộng tuổi thọ lợi ích đời vị lai vô biên chúng sanh cho nên gọi là việc lớn. Kinh Đại Phẩm chép: Bát-nhã là việc lớn cho nên khởi nghĩa là cứu giúp tất cả chúng sanh. “Các ông phải chung một lòng” v.v… nói răn hứa, trước văn xuôi kế kệ tụng. Văn xuôi trước răn, kế hứa thuận. “Mặc giáp tinh tấn:” Vì nói đại pháp phải tinh tấn cầu chứng “Phát ý bền vững”: Nay nghe nói đại pháp chớ lui sụt. “Đức Như lai nay muốn”: Là hứa chép: Văn có bốn trường hợp: Tuyên bày trí tuệ lực của Chư Phật: Khai thân quyền thân thật, theo lý đều soi thấu suốt gọi là sức trí tuệ, cho nên văn dưới chép: “Hoặc vì chúng này nên nói tuổi thọ Phật vô lượng, lâu mới thấy Phật vì nói Phật khó gặp. Trí lực của ta như vậy, trí tuệ sáng chói vô lượng cho nên biết rõ trí tuệ Phật sâu xa tức là nói về trí Phật. “Sức thần thông tự tại của Chư Phật: Pháp thân Chư Phật chẳng dài chẳng ngắn mà hiện được dài ngắn thích hóa cho nên nói là sức tự tại thần. Sức sư tử mạnh nhanh của Chư Phật. Sư tử vốn hàng phục nay khởi gọi là bước mạnh nhanh. Mạnh nhanh gồm có ba nghĩa:

  1. Muốn trừ đuổi cát bụi.
  2. Muốn bày tỏ sự tự tại.
  3. Nói lên vô uý.

Nay nói pháp thân vô sanh diệt đầu cuối, phá phàm phu thị thừa đầu cuối chấp sanh diệt dụ đồng trừ bỏ trần cảnh. Xưa dùng quyền giáo che lấp thật, thật thì không nói lên, nay khai thân quyền, thân thật thì nghĩa chân ứng nói lên như nghĩa sư tử thong thả tự tại. Xưa vì duyên không kham nổi, không nói pháp thân chân thật cho nên nói có sợ, nay đại căn cơ đã thuần thục có khả năng nghe nói cho nên vui vô uý, như Sư tử không lo sợ. “Sức uy thế mạnh lớn của Chư Phật” Đã hiển pháp thân thường trú, song thọ vô thường chẳng ai có thể dẹp phá được nên gọi là oai thế mạnh lớn. Lại nay nói pháp thân có công năng diệt hoặc sanh giải, nên gọi là sức oai thế lớn mạnh.

Văn kệ lặp lại và khuyên. “Trí Phật chẳng nghĩ bàn v.v…:” Chẳng dài chẳng ngắn năng thị hiện dài ngắn, tuy thị hiện dài ngắn mà không hề dài ngắn cho nên nói bất tư nghị. Nếu xưa ngắn nay dài sao gọi bất tư nghì! “Rất sâu khó phân biệt v.v…:” Đây nói về pháp thân bặt dứt bốn câu, vượt trăm phi nên văn dưới chép: Phi thật phi hư phi như phi dị, đâu thể lấy thường vô thường v.v… mà phân biệt!

“Khi ấy đức Thế tôn v.v…:” Là lược khai thân quyền thân thật nói động chấp, sanh nghi. Trước là văn xuôi, kế kệ tụng. Văn xuôi lại chia hai phần:

1/ Lập lại hỏi.

2/ “Chính ta ở cõi Ta bà v.v…:” Trước đáp câu hỏi về thầy trò, sở dĩ trước đáp là vì muốn khai tuổi thọ Phật. “Các vị Bồ-tát đó v.v…” là kế đáp câu hỏi từ đâu đến. “A Dật Đa!…” Đây chẳng phải đáp câu hỏi chỉ giải thích trần ý trú ở phương dưới mà thôi! Phương dưới trụ giữa hư không: Hư không tức là thật tướng pháp thân, Bồ-tát tâm thường dạo chơi nơi thật tướng mà huân tập cho nên thường ở phương dưới cõi ấy trú giữa hư không. Không giải thích như thế thì văn không thể hiểu.

Văn kệ chia làm ba:

  1. Một hàng ba câu tụng đáp thứ nhất hỏi về thầy trò.
  2. hai bài ba câu tụng đáp thứ hai hỏi từ đâu đến.
  3. “Sức chí niệm bền vững” Bốn hàng lặp lại đáp thứ một hỏi về thầy trò, lại chia làm ba phần:

-Một hàng nêu sở hóa nói về nghĩa đệ tử.

-Hai hàng chánh nêu năng hóa nói nghĩa thầy.

-Một hàng kết hai nghĩa năng hóa sở hóa tức thầy và trò.

Hỏi: Kệ trước văn chép: Ta ở thành Già-da ngồi dưới cội Bồ-đề rồi mới giáo hóa đó. Văn sau chép: Ta từ lâu xa đến nay giáo hóa các chúng đó. Văn đầu nói gần, văn sau nói về xa, hai lời trái nghịch nhau làm sao hợp ư?

Đáp: Nay dùng hai nghĩa giải thích:

1/ Có nghĩa không hai mà là hai.

2/ Có nghĩa hai mà là không hai. Đầu tiên nói thành đạo Già-da tức bởi Già-da là xưa! Vì ngày xa xưa cũng ở thành Già-da thành đạo hóa độ các chúng này tức là từ lâu xa đến ngày nay. Tức không trái với văn sau.

Hỏi: ngày xưa vì sao cũng có thành Già-da ư?

Đáp: Phẩm Tuổi thọ chép: Từ đó đến nay thường ở cõi Ta bà nói pháp giáo hóa cho nên biết xưa có Ta bà Già-da.

Lại văn dưới chép: Thường ở núi Linh Thứu, Linh Thứu tức là tịnh độ liền không hủy diệt, Già-da lại đồng nghĩa nầy. Trước văn thẳng xướng Già-da thành đạo còn chưa nói về quá khứ kia và hiện tại, sau kệ nói ta từ lâu xa đến thì giải thích trên là quá khứ Già-da. Kế nói hai mà không hai: Tức chỉ gần Già-da xếp vào xa, cũng chỉ xa quá khứ là gần Già-da muốn nói lên gần xa không hai khiến cho chúng sanh huyền ngộ chánh đạo.

Hỏi: Làm sao biết như vậy:

Đáp: Trước nêu năm mươi tiểu kiếp tức là nửa ngày đã là gần xa không hai, nay theo đây có thể biết.

Ngài Trúc Đạo Sanh chép: Nói kia dài tức là Già-da ấy tức chẳng phải Già-da, Già-da đã chẳng phải kia dài đâu riêng gì đó ư? Vậy thì dài ngắn ở đây mất dài ngắn còn tồn tại ư! Bởi vì xưa nói chớ có nghi.

“Lúc bấy giờ ngài Di-lặc v.v…” là nói chấp động, sanh nghi trình bày nghi đến xin. Di-lặc sở dĩ nghi không biết ngày xưa Già-da nên sanh nghi. Trước là văn xuôi kế là kệ tụng. Văn xuôi có hai: Nghi hỏi và xin đáp. Nghi hỏi lại có hai:

  1. Hoài nghi.
  2. “Liền bạch Phật rằng…:”

Chính là hỏi lại chia làm ba: Pháp, thí, hiệp. Pháp nói lại có hai: Phật thành đạo gần vì sao ở trong thời gian ngắn đó giáo hóa chúng sanh nhanh chóng như vậy. “Chúng đó từ lâu …:” là nói Bồ-tát tu hành lâu xa không phải mới theo Phật thọ học. “Thí như v.v…:” là nói thí nói, lại có hai: Cha tuổi nhỏ chỉ dụ Phật thành đạo gần, con lớn già dụ cho Bồ-tát tu hành lâu xa. Hiệp thí chia làm ba: Trước nêu thành đạo gần hợp thí dụ cha ít tuổi. “Các đại chúng đó v.v…:” là Hiệp thí dụ con già. “Ngày nay Thế tôn v.v…:” là Hiệp thí dụ cha con già trẻ xen lẫn chỉ dụ.

“Chúng con dầu là tin Phật v.v…:” là nói xin đáp: Lại chia làm hai:

  1. Nêu ý xin.
  2. “Kính thưa Thế tôn v.v…”: Chánh là nói về thỉnh thuyết.

Văn kệ chia làm hai:

  1. mười một bài tụng nghi vấn.
  2. ba hàng tụng xin nói.

Nghi vấn có ba phần tức tụng pháp, thí, hiệp. Tụng pháp nói có ba:

1/ Một bài tụng Đức Phật thành đạo gần.

2/ Hai bài rưỡi tụng các Bồ-tát tu hành lâu.

3/ Một bài rưỡi nêu xa gần trái nhau xin Phật vì nói. Kế hai bài tụng thí nói cũng có ba: nửa hàng tụng thí dụ cha ít tuổi tức trên là thành đạo gần, một bài tụng con già dụ trên tu hành lâu xa, nửa hàng tụng cha con trái nhau dụ trên thứ ba gần xa trái nhau. Trong hợp thí: Nửa bài đầu hiệp cha ít tuổi, kế ba hàng rưỡi hiệp con già. Trong ba hàng tụng xin chép: hai hàng tụng ý xin, một hàng tụng chánh thỉnh.

PHẨM TUỔI THỌ THỨ MƯỜI SÁU

Giải thích phẩm này có bốn môn:

  1. Ý nghĩa có phẩm này.
  2. Nghĩa được và mất.
  3. Giải thích tên phẩm.
  4. Khai hiệp.

I. Ý nghĩa: Sở dĩ có phẩm này là để nói về thân quyền thân thật có bốn chương, nay là chương thứ tư rộng khai thân quyền, thân thật, dứt nghi sanh tín, nhưng phẩm này phần lớn nói về lý giác ngộ bao trùm xưa nay. Văn căn cứ nghĩa rộng ý sâu đến xa xưa, dù chỉ là một chương kinh mà chính thông hợp ý đức Thích-ca từ đầu đến cuối một phen giáo hóa, nếu hiểu được nghĩa kia thì sanh tuệ vô tận, phước vô biên, cũng diệt được vô lượng tội nặng. Ngày xưa có một nhóm người đi trên thuyền bị gió mạnh nhận chìm thuyền, mọi người đều bị chết chìm chỉ còn sót lại một người nương vật được cứu thoát, ban đêm mộng thấy có người đến chép: chỉ mình ông được thoát chết nhờ duyên xưa nghe phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa. Lại dưới phẩm Phân Biệt Công Đức chép: Nói phẩm Thọ Lượng này thời có mười hai thứ lợi ích tám tướng tốt, các kinh khác nói về đắc đạo không hề có nhiều như thế, người giảng tuyên bày nên lưu ý tìm tông chỉ quy về đây.

Hỏi: Vì sao nhanh chóng có công dụng?

Đáp: Quả chánh báo của Chư Phật ba đời và quả y báo của Chư Phật ba đời đều vì khai nghĩa tuổi thọ mà sanh khởi, như Đa bảo vọt hiện tức Phật quá khứ vì khai tuổi thọ cho nên sanh khởi, phân thân Phật tức mười phương Phật hiện tại vì khai tuổi thọ mà nhóm họp, Bồ-tát từ đất hiện lên tức đều là Nhất sanh Bổ xứ nghĩa là Phật đương lai vì tuổi thọ mà hiện, cho nên Phật mười phương ba đời đều vì khai thọ lượng, tức biết tuổi thọ là việc lớn nên có công lực như trên.

Hỏi: Chư Phật ba đời làm sao vì khai thọ lượng?

Đáp: Như phẩm trước giải thích: Phật quá khứ vì khai pháp thân vô sanh diệt ứng thân có sanh diệt nên xuất hiện Phật, hiện tại vì khai pháp thân không hai, ứng thân không một nên đều nhóm họp. Đương lai Phật vì nói lên đức Thích-ca từ lâu đã chứng pháp thân nói về pháp thân vô thủy chung mà phương tiện thị hiện thủy chung cho nên hiện. Chư Phật ba đời vì ba việc nên nhóm họp. Lại biến thành cõi tịnh vì khai tuổi thọ ấy là do quả y báo đã khác xưa tức biết tuổi thọ lâu dài cũng lại khác nhau, đủ như trên giải thích.

Nay nói bỏ quyền bày thật: bỏ ngắn là quyền, bày dài là thật, nhưng tuổi thọ của Như lai thật không có dài ngắn. Vì sao: Vì đã gọi pháp thân thì dùng chánh pháp làm thân, chánh pháp đâu phải ngắn và dài, thường vô thường cho đến năm câu có thể chấp ư! Chỉ tùy thích nghi nên có phương tiện dài ngắn. Xưa chẳng ngắn nói ngắn nay chẳng dài nói dài, chẳng ngắn nói ngắn là muốn cho biết ngắn là ngắn của dài, chẳng dài nói dài là muốn cho ngộ dài là dài của ngắn. Nếu nghe ngắn không biết dài, thì không thành ngắn, nghe dài không biết ngắn thì cũng không thành dài, chướng ngại như thế hành tâm lầm mất ý phương tiện của Phật. Lại sở dĩ xưa nói ngắn nay nêu dài ấy là muốn cho chúng sanh nhân dài ngắn nầy mà ngộ chánh pháp không dài không ngắn! Do ngộ không dài không ngắn nên có dài ngắn phương tiện dụng. Nếu nói xưa ngắn đã chẳng đúng thì nay dài cũng chẳng đúng, nay dài đã đúng thì xưa ngắn cũng đúng. Nhưng chẳng dài chẳng ngắn mà nay do cơ duyên thích hợp khen ngợi là dài nói về nay dài là đúng xưa ngắn là sai. Như kinh Niết-bàn chép: Không thể nói Phật nhất định là hữu vi hay nhất định là vô vi. Nếu người chánh kiến nên nói Như lai nhất định là vô vi. Vì sao? Vì có thể sanh gốc lành cho chúng sanh. Phẩm này so với phẩm Dũng xuất thì dùng sáu cặp để nói:

1/ Trên là tựa nói nay là chính là nói.

2/ Trên dùng sở hóa Bồ-tát khai năng hóa thọ lượng Phật, nay năng hóa tự khai năng hóa.

3/ Trên dùng môn thần thông khai năng hóa, như số Bồ-tát như cát bụi của ngàn thế giới từ đất vọt lên nói lên Thích-ca thành Phật đã lâu gọi là môn thần thông. Phẩm này đối Di-lặc giải thích tuổi thọ của Phật là nói pháp luân hai thứ này đều là hai vật vạt áo, bàn ghế đem con ra ở phẩm Thí dụ.

4/ Trên thầm khai thành Phật đã lâu, nay hiển khai tuổi thọ do chấp gần, tình khó đổ nghĩa tuổi thọ lâu khó tin, chỉ bày ngộ vật phải dần dần nên trước mật sau hiển.

5/ Phẩm trên nói lược động chấp sanh nghi, nay nói rộng phá chấp bỏ nghi.

6/ Trên nói về sở hóa bất tư nghì nay nói về năng hóa bất tư nghì cho nên Luận Pháp Hoa có mười nghĩa vô thượng thì thứ bảy là thị hiện giáo hóa chúng sanh vô thượng cho nên trong đất vọt ra vô lượng Bồtát. Và nghĩa thứ tám là thị hiện thành đại Bồ-đề vô thượng cho nên có phẩm Thọ Lượng, tức Luận kia chứng minh.

II. Nghĩa được mất: Giải thích kinh Thọ Lượng này gồm có ba Sư:

1/ Dùng năm thời giáo nói trải qua quá khứ trần sa vị lai gấp bội số trên còn là vô thường cuối cùng trở về tận diệt cho nên trước nói cuối cùng trở về Không nên tuổi thọ Như lai có hạn lượng.

2/ Chấp bốn thời giáo nói kinh che lấp tướng nói thường tức che tướng nói thọ vô lượng.

3/ Nghĩa bán mãn nói tất cả kinh Đại thừa đều nói về Phật thường nghĩa là hiển rõ Phật thọ vô lượng, nay ban đầu chê bai kinh tội nặng làm người hạ căn, kế vì gây ra lỗi nhỏ làm người trung căn, sau đắc dụng của kinh chưa biết thể của kinh trong ba thứ làm người thượng căn. Nay nói về cần phải biết thể dụng của kinh mới thấy được ý phẩm này. Nói thể: là pháp thân siêu việt bốn câu dứt trăm phi không thể nói thường và vô thường v.v… cho nên phi lượng và vô lượng. Như kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp giới phi hữu lượng cũng phi vô lượng, đức Thíchca siêu việt hữu lượng và vô lượng, pháp giới tức pháp thân. Lại văn dưới nói phi thật phi hư phi như phi dị. Phẩm Như lai trong Trung Quán luận nói: Trong tướng vắng lặng thì bốn câu vô thường vô thường v.v…: Nói dụng: là phi thường phi vô thường, xưa vì chúng sanh nên nói là vô thường cho nên nói các chúng đệ tử Phật còn xả bỏ thân vô thường rõ ràng Phật thọ hữu lượng, nay vì phá phàm phu Nhị thừa chấp Phật thật sanh ở cung vua thật diệt ở Song lâm, cho nên phi thường phi vô thường khen ngợi là thường hiểu rõ Phật thọ vô lượng. Nếu không biết thể dụng đây thì không có mười hai hạng người ngộ đạo, vì sao? Vì chỉ hiểu thường vô thường thì trở thành hai kiến làm sao được ngộ đạo ư!

III. Giải thích tên: Nói Như lai Thọ Lượng: theo Luận Pháp Hoa có ba hạng Như lai.

  1. Hóa thân Như lai.
  2. Báo thân Như lai.
  3. Pháp thân Như lai.

Tuổi thọ cũng có ba thứ:

1/ Hóa Phật thọ lượng có đầu có cuối, cho nên làm Nhị thừa có tám tướng thành đạo, ở cung vua hiện sanh ở Song lâm thị diệt.

2/ Báo thân Phật thọ lượng có thỉ vô chung cho nên văn dưới chép: Ta xưa hành đạo Bồ-tát đã thành thọ mạng, nay còn chưa tận, do hành nhân đã mãn sơ chứng quả Phật vậy nên nói có thỉ, một phen chứng rồi sau tự nhiên bất diệt cho nên không có tận chung.

3/ Pháp thân Phật thọ mạng vốn tự tại bất sanh bất diệt vô thỉ vô chung, phẩm này nói về đầy đủ ba hạng Như lai ba thứ thọ lượng. Nói về hóa thân thọ lượng gọi là mở cửa phương tiện, nói pháp thân, Báo thân tuổi thọ gọi là hiển nghĩa chân thật cho nên nói phẩm Thọ Lượng.

Nay lại giải thích bốn trường hợp:

  1. Thật mà chẳng quyền gọi là pháp thân thọ.
  2. Quyền mà chẳng thật gọi là hóa thân thọ.
  3. Vừa quyền vừa thật gọi là báo thân thọ.

Báo thân tức là ứng thân, ứng thân có hai:

1/ Trong ứng tức tương ưng với pháp thân cho nên kinh nói có chỗ gọi là thầy có chỗ gọi là pháp, do pháp thường nên Chư Phật cũng thường.

2/ Ngoài ứng tức tương ưng với đại căn cơ tánh cho nên làm đại Bồ-tát ở cõi tịnh độ thành Phật.

3/ Trong ứng tức thật chẳng quyền, ngoài ứng tức quyền chẳng thật, cho nên nói vừa quyền vừa thật.

4/ Phi quyền phi thật. Ba thật môn trên đều là trong vô danh tướng mà mượn danh tướng nói muốn chochúng sanh nhân danh tướng nầy ngộ vô danh tướng cho nên diệt ba môn trên trở về vắng lặng.

IV. Khai hiệp: Trong các kinh luận nói Phật khai hiệp không nhất định. Tổng khai bốn trường hợp:

  1. Bổn tích đều hợp.
  2. Bổn tích đều khai.
  3. Khai bổn hiệp tích.
  4. Khai tích hiệp bổn.

Bổn tích đều hợp hoặc hợp danh một Đức Phật, nghĩa là một Phật bảo trong Ba bảo, hoặc chia làm hai thân. Cho nên nói Phật chân pháp thân cũng như hư không ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Đã chỉ có một tích một bổn cũng là bổn tích đều hợp, hoặc chia làm ba mà ba nghĩa không nhất định:

1/ Như bảy quyển Kim Quang Minh nói ba đức Phật. a) Pháp. b) Ứng. c) Hóa. Pháp thân là chân, hai thân còn lại là ứng, đây là hiệp chân làm một khai ứng làm hai.

2/ Luận Pháp Hoa nêu ba đức Phật: Pháp, báo và hóa, tức khai chân hiệp ứng. Khai chân: Khai pháp, báo thân làm hai; hiệp ứng: Lấy ứng thân làm một, ý đây nói về vốn có nghĩa là pháp thân đáp nghĩa nhân nên gọi là báo, nghĩa ứng vật gọi là ứng.

Kế khai bốn Đức Phật, nghĩa nầy cũng có hai thứ:

1) Kinh Lăng Già nói về bốn Đức Phật: a) Ứng hóa Phật. b) Công Đức Phật. c) Trí tuệ Phật. d) Như Như Phật.

Kinh kia chép: Đầu tiên là ứng ba thân là chân, đây cũng hiệp ứng khai chân. Trong ba đức Phật công đức và trí tuệ là báo thân Phật, Như Như là pháp thân.

2) Như kinh Kim Quang Minh loại bảy quyển nói bốn trường hợp:

1- Hóa mà chẳng ứng: nghĩa là Đức Phật nhập Niết-bàn rồi vì vật thị hiện rồng quỉ các thân cho nên gọi là hóa, không thị hiện thân Phật nên gọi là chẳng ứng.

2- Ứng mà chẳng hóa: Kinh chép: gọi là thân Địa tiền, giải thích rằng: Bồ-tát Địa tiền thấy thân Phật chính từ trong pháp môn Tam-muội hiện gọi là ứng thân chẳng thuộc về sáu đường chẳng phải hóa.

3- Vừa ứng vừa hóa, Kinh chép: Thân trú Niết-bàn hữu dư. Giải thích rằng: Thanh văn thấy thân Phật, kia thấy hình tướng tốt của Như lai tu thành Phật nên gọi là ứng. Thấy Phật ở trong loài người thọ sanh đồng với người nên gọi là hóa.

4- Phi ứng phi hóa gọi là pháp thân. Trong bốn trường hợp: ba câu trước là ứng một câu sau là chân, cũng là khai ứng hiệp chân.

Chân ứng đều khai: Trong chân chia làm hai: Pháp và báo thân. Trong ứng chia hai: Ứng thân và hóa thân. Theo Kinh Hoa Nghiêm nói về mười Đức Phật:

  • Phật không nhiễm trước an trú thế gian thành chánh giác.
  • Nguyện Phật y nguyện sanh ra.
  • Nghiệp báo Phật tín thành tựu nên các hành đều thành chỉ nói lược nhất tín.
  • Trú trì Phật thuận theo thế gian không dứt bặt.
  • Niết-bàn Phật chấp diệt độ.
  • Pháp giới Phật ở tất cả nơi đều hiện.
  • Tâm Phật khéo an trú.
  • Tam-muội Phật thành tựu vô lượng công đức không còn chấp trước.
  • Tánh Phật khéo quyết định.
  • Như ý Phật vì che phủ cùng khắp.

3) Đức Phật nói không nói nghĩa tùy duyên thấy thích hợp thời dụng, nghĩa có thể biết. Nói rộng thân thật có một phẩm rưỡi kinh chia làm năm:

  1. Khuyên tín.
  2. Chính là nói.
  3. Được lợi ích.
  4. Xưng tán.
  5. So sánh lượng.

Pháp sâu khó thọ, trước phải khuyên tín, khuyên tín đã xong kế vì nói rộng pháp, nói, pháp ứng căn cơ thì chúng đắc đạo nghi trừ lãnh giải cho nên gọi là tánh, người tin hiểu thì phước đức trí tuệ vô biên, cho nên so sánh lượng: khuyên tin chia làm ba:

  1. Chánh khuyên tín.
  2. Đại chúng thọ ý chỉ.
  3. Răn khuyên lắng nghe.

Khuyên tin hiểu: Khuyên người mới tu hành khiến tin, người ngộ sâu khiến hiểu, lại khiến người mới tin cuối cùng được giải. Lại nay nói pháp thân chỉ Phật chứng giải, trừ Phật trở lại đều là tin hiểu. “Lời nói chắc thật của Như lai”: là nói lời tin hiểu. Phật tâm thật gọi là thành thật. Nói tuổi thọ sự thật gọi là “chắc”. Tự có tâm thật mà sự không thật bốn trường hợp: nay là câu thứ ba cả hai đểu thật. Sở dĩ ba phen khuyên khiến tin: luận Trí Độ quyển một trăm chép: Vì tôn trọng pháp nên ân cần đến ba phen. Lại người thọ pháp có ba căn cho nên ba phen nói. Lại thường pháp của Chư Phật không quá ba, nếu quá ba không thọ nhận tức là người tội nghịch, thần Kim cương tay cầm chày đánh, kế thọ ý chỉ răn khuyên lắng nghe như văn.

“Sức bí mật thần thông của Như lai v.v…” là: Chính là nói văn:

Trước văn xuôi kế kệ tụng. Văn xuôi có hai:

1/ Nêu quá khứ vô thỉ.

2/ Biện vị lai vô chung, chỉ nói về hai thứ này để phá hàng nhị thừa gọi là bắt đầu từ cung vua cuối đến Song thọ cho nên nói về cung vua sanh chẳng phải bắt đầu, song thọ diệt chẳng phải là cuối. Đã nói về bổn thân vô thỉ chung tức nói ứng thân có thỉ chung. Bổn thân vô thỉ chung tức hiển nghĩa chân thật. Ứng thân có thỉ chung tức mở cửa phương tiện. Cho nên chỉ nêu hai thứ này. Sở dĩ trước nêu vô thỉ sau biện vô chung vì phá phàm phu Nhị thừa trước nêu có thỉ sau nói có chung.

Lại giải thích Di-lặc nghi cha ít tuổi, con nhiều tuổi, cho nên trước nói quá khứ lâu xa đã thành Phật mới hóa đắc nhiều người như thế, thì gọi là nghĩa cha già con trẻ khiến đại chúng dứt nghi. Lại nói về quá khứ lâu xa thành Phật hóa độ được một ngàn thế giới số Bồ-tát nhiều như cát bụi, vị lai vô chung mới độ tất cả chúng sanh trong pháp giới, khiến chúng thọ hóa tâm sanh vui mừng. Hai môn này đều có ba chương: môn đầu ba chương:

  1. Nêu quá khứ lâu xa thành Phật nói lên nghĩa chân thật.
  2. Giải thích nghi nghĩa mở cửa phương tiện.
  3. Tổng kết chánh đáp kia hỏi.

Cho nên trước nói quá khứ lâu xa thành Phật thì chúng do xưa gần nghi nay xa cho nên cần phải giải thích. Giải thích xong mới tổng kết lâu xa thành Phật. Lại ở đầu nói lâu xa thành nói lên nghĩa chân thật, kế giải thích nghi nghĩa là mở cửa phương tiện, hai thứ này đã rõ ràng cho nên phải lặp lại tổng kết.

Chương đầu lại có hai:

  1. Nêu chứng pháp thân lâu.
  2. Nêu thùy ứng cũng lâu; chứng pháp thân lâu là nói về tự đức đã mãn, thùy ứng lâu nói về đức hóa tha đã viên.

Lại chứng pháp thân lâu phá chấp gần, thùy ứng lâu giải thích chúng nghi. Chứng pháp thân lâu lại chia làm ba:

  1. Nói chung sức bí mật thần thông của Như lai.
  2. Nói lại chấp tình.
  3. Phá cận hiển viễn.

Nay nói thọ lượng Phật cho nên nói Như lai, xưa không hề xưng nói gọi là bí, pháp kín rất sâu nên gọi là mật. Thật dài thị hiện nhân ngắn là thần thông, khiến vật trái bổn trở về nguồn gọi là lực.

“Tất cả thế gian v.v…:” là nói tình chấp, “đều cho rằng” chính là tình chấp. “Đức Thích-ca v.v…” là nói sở chấp. “Nhưng người thiện nam v.v…:” Là phá chấp hiển xa, lại chia bốn phần riêng:

  1. Pháp nói.
  2. Nêu thí dụ hỏi Di-lặc.
  3. Di-lặc phụng đáp.
  4. Phật hợp thí chánh nêu thọ lượng lâu xa.

Ban đầu trong pháp nói chính là nói về thành Phật lâu xa.

Hỏi: Là phá cận hiển xa hay khai gần nói về viễn?

Đáp: Phàm có năm nghĩa:

1/ Khai gần hiển xa, xưa không nói về gần là phương tiện cho nên phương tiện môn đóng, nay nói về gần là phương tiện thì mở cửa phương tiện. Đã nói về gần là phương tiện thì hiển xa là chân thật.

2/ Phế gần lập xa: Xưa lập gần phế xa, nay đối xưa cho nên lập xa phế cận.

3/ Che cận khai xa: Như lai gần xa hai thứ giáo môn cũng như hai cánh chim không lìa nhau, chỉ vì duyên cho nên có nay, xưa bốn câu khai che: a) Xưa nay đều che, xưa che xa nay che cận; b) Xưa nay đều khai: Xưa khai gần nay khai xa; c) Xưa che nay khai: Xưa che xa nay khai gần. d) Nay che xưa khai: Nay che gần xưa khai gần.

4/ Chỉ cận làm xa: Đây nói gần xa không hai, như Kinh chép: Thân ta nay đây tức là pháp thân. Ngài Triệu Sư chép: Cận xả bỏ thân trượng sáu mà xa cầu pháp thân!

5/ Phá cận nói xa: bốn thứ trước là ước về giáo, một môn sau là căn cứ kia tình mê. Nếu đối ở mê tình tức là phá gần bày xa, nếu so với Phật giáo tức là bày xa bỏ gần. Cho nên Luận Pháp Hoa chép: Xuất phát từ cung họ Thích, thành Già-da thành đạo, đây nói về hóa Phật. Từ văn nầy trở đi nói về báo thân Phật.

“Thí như v.v…:” là nói về thí chép: Sở dĩ mượn thí dụ là do lý thường của Phật thậm thâm chẳng thí dụ chẳng rõ cho nên nhờ thí dụ để hiểu. “Bồ-tát Di-lặc v.v… đều bạch Phật v.v…:” Nêu Di-lặc vâng đáp, văn có ba phần: nói giải thích, tổng kết. Trước nói vô lượng, kế ba câu hiển vô lượng, kế nêu phàm phu không biết. “Tất cả Thanh văn v.v…” Nói Nhị thừa không biết. “Chúng con v.v…” Nói Bồ-tát không biết. “Thế tôn…” Là tổng kết. “Thế giới vô biên v.v…:” là nói chỉ có Phật mới biết.

Bấy giờ Đức Phật bảo v.v…: là Hiệp thí chánh hiển thành Phật đã lâu. Theo bản kinh cũ của ngài La-thập dịch ở Trường An không có câu: một trần một kiếp, đời Lương có vị Tăng soạn kinh Pháp Hoa, cảm nơi thần mộng thấy khiến để câu kinh này. Hễ nói về kiếp: Có chỗ gọi là thời, là nêu thời quá khứ lâu dài nên nói số kiếp như cát bụi. Nói A tăng tỳ kiếp: Nói lên số không thể tính, mới thành Phật còn không thể tính biết, một phen chứng vắng lặng đâu có cuối cùng diệt ư! Là muốn nói về quá khứ nói lên đương lai cho nên nói quá khứ không thể tính đếm.

Hỏi: Văn sau chép: Quá khứ vốn hành đạo Bồ-tát tức thời gian tạo thành tuổi thọ, đây thì có bắt đầu vì sao nói không thể tính số?

Đáp: Có hai nghĩa:

1/ Nói nghĩa vô thỉ mà thỉ, nhưng nghĩa thỉ lâu dài nên không thể tính số.

2/ Muốn hiển nghĩa pháp thân vô thỉ chung nên không thể tính số, nhưng thỉ mà vô thỉ là nghĩa không hai mà hai hai mà không hai. Nghĩa không hai mà hai tức bắt đầu chứng pháp thân nên có thỉ trong ba thân là ứng thân cũng gọi là báo thân cho nên có thỉ, mà chỗ chứng pháp thân nầythì vô thỉ nên gọi là nghĩa không hai mà hai, nghĩa hai mà không hai tức là chứng pháp thân đã vô thỉ chung, năng chứng cũng vô thỉ chung, dùng năng nói đã cùng tân, nghĩ đã bặt dứt chứng chứng nơi sở chứng, sở chứng đã vô thỉ chung năng chứng cũng vô thỉ chung.

“Từ đó đến nay:” ở trên là nói chứng pháp thân đã lâu, nay nói nghĩa thùy ứng lâu, do chứng pháp thân lâu gọi là tự đức mãn, thùy ứng lâu gọi là đức hóa tha viên. “Thường ở cõi Ta bà nói pháp giáo hóa…” Thường ở Ta bà là hai thân ứng, hóa. Nói pháp giáo hóa: Là hai thân nói giáo, nói về đức Thích-ca chứng pháp thân đã lâu. Từ khi chứng pháp thân đến nay thích nghi dùng ứng thân đắc ngộ thì thị hiện dùng ứng thân, phải dùng hóa thân đắc ngộ thì thị hiện dùng hóa thân. Tuy thị hiện hai thân mà thật không chỗ ứng, tuy nói tất cả giáo mà thật không hề nói, đây chính là giải thích Di-lặc nghi. Do thùy ứng đã lâu thường ở cõi Ta bà nói pháp giáo hóa nên có ngàn thế giới số Bồ-tát như cát bụi tức là cha già con trẻ chẳng phải nghĩa cha trẻ con già, tức là giải thích trên phẩm Dũng xuất chép: Ta ở thế giới Ta bà thành chánh giấc mới giáo hóa. Di-lặc nghe Phật nói trên cho là cõi Ta bà nay cho nên sanh nghi, nay đáp nói về cõi Ta bà quá khứ, cho nên giải thích nghi. “Cũng ở trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi nước làm lợi ích dẫn dắt chúng sanh”: lại trên giải thích thời gian dài nay nêu giáo hóa rộng.

“Các người thiện nam v.v…” là nói mở cửa phương tiện: Trên hiển hai thứ chân thật:

1/ Nói chứng pháp thân lâu xa nói pháp thân chân thật.

2/ Nói thùy ứng đã lâu, nói ứng thân chân thật, nay cũng mở hai thứ phương tiện:

a) Mở nhân phương tiện.

b) Mở quả phương tiện.

Nhân phương tiện: Quá khứ gặp Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký. Quả phương tiện: Thị hiện xuất gia mới được thành Phật. Bày hai thật bỏ hai quyền tất cả cùng tận nghĩa quyền thật. Trước bày hai thật, một là pháp chấp, hai là giải thích nghi. Hiển chứng pháp thân lâu xa, phá chấp gần, hiển thùy ứng lâu giải thích Di-lặc nghi Phẩm Dũng Xuất. Nay khai phương tiện lại giải thích hai nghi, căn cứ mỗi một môn đều chia hai môn: Môn đầu có hai:

  1. Lược khai phương tiện lược giải thích nghi.
  2. Rộng khai phương tiện giải thích rộng nghi.

Trên nói về chứng pháp thân lâu thùy ứng lâu, Di-lặc nghi cũ đã dứt, nay chúng lại khởi nghi mới. Nghi rằng: Nếu chứng pháp thân lâu thùy ứng lại lâu là vì sao? Xưa nói Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký kiếp hiền thành đạo, vì vậy nên giải thích rằng: Nơi thời gian giữa đó ta nói Phật Nhiên Đăng là dùng phương tiện để phân biệt, quá khứ lâu xa thành đây là nói thật. Trên tức là hiển nghĩa chân thật nay giải thích chúng nghi nên nói mở cửa phương tiện. Mà nói trung gian (giữa) ấy tức là quá khứ đã thành Phật làm đầu, nay hội Linh Sơn là sau. Trung gian nói Đức Phật Nhiên Đăng. Nhiên Đăng: luận Trí Độ chép: Thái tử khi mới sanh bốn phía đều có ánh sáng giống như đèn nên gọi là Nhiên Đăng, Thái tử về sau tu thành Phật gọi là Phật Nhiên Đăng. Các kinh khác chép: Phật Đĩnh Quang cũng gọi là Nhiên Đăng. Hữu túc gọi là Đăng vô túc gọi là Đĩnh. Lại chép: Đức Phật ấy nhập Niết-bàn, kinh Thuỵ Ứng chép: Bồ-tát hầu hạ Phật Đĩnh Quang đến ngàn Niết-bàn, tức là nói Đức Phật kia nhập Niết-bàn. Đức Nhiên Đăng nói về ở đầu, Niết-bàn nói về ở sau, nói lược hai việc đầu sau.

“Các người thiện nam, v.v…” là nói rộng khai phương tiện, giải thích rộng nghi, không chỉ nêu Nhiên Đăng một tích mà ở đời quá khứ có vô lượng phương tiện cho nên nói giải thích rộng nghi. Trên lược giải thích nghi lược mở cửa phương tiện, nay giải thích rộng nghi rộng mở cửa phương tiện. Lại trên nói thẳng giáo hóa chưa nêu nghi thức hóa cho nên nay nói, lại chia làm ba:

  1. Cảm.
  2. Ứng.
  3. Được lợi ích.

“Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta v.v…:” Căn cơ phát hợp với Phật nên nói là đến tức là cảm. “Ta dùng mắt Phật…:” Là nói ứng. Trong ứng nói về ba luân lợi ích: “Ta dùng mắt Phật quán sát:” Tín v.v… các căn gọi là tha tâm luân. “Tùy chỗ đáng độ:” Là nêu thần thông luân. “Tự nói danh tự chẳng đồng”, như phẩm Danh Hiệu trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Hoặc gọi Xá Na hoặc gọi Thích-ca. “Niên kỷ hoặc lớn hoặc nhỏ:” là nói trụ thế lâu mau khác nhau. “Cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn:” Trên nói đầu tiên là thần thông nay nói sau. Như Kinh Niết-bàn chép: Ta ở cõi Diêm Phù thường thị hiện nhập Niết-bàn. “Lại dùng các trí phương tiện:” là nêu nói pháp luân. Lại trên là thân nghiệp lợi ích chúng sinh, nay miệng nghiệp lợi ích chúng sinh. Lại ba câu này tức là thứ lớp. Danh tự khác nhau, niên kỷ lớn nhỏ gọi là sơ phương tiện, hiện nhập Niết-bàn gọi là hậu phương tiện, nay nói về nói pháp là trung gian phương tiện, giáo hóa thích ứng tuy nhiều cũng đều gồm thâu trong ba thứ này. “Năng khiến chúng sanh sanh tâm vui mừng:” Nêu được lợi ích. Do ba luân xứng duyên, người thọ nhận được lợi ích nên gọi là vui mừng.

“Các người thiện nam v.v…:” là nói việc hiện tại giải thích nghi, cũng chia làm hai phần: lược và rộng. Nghi rằng: Nếu đã lâu thành Phật vì sao xưa nói mười chín tuổi xuất gia ba mươi tuổi thành đạo. Trên đã nghe chứng pháp thân và thùy ứng lâu, thời chúng nghi đủ hai việc nhân gần, quả gần. Trên nói Nhiên đăng quá khứ tức nghi nhân gần, nay nói hiện tại thành Phật do quả gần nên sanh nghi, lại chia là m bốn ý:

  1. Thấy căn cơ.
  2. Nói giáo.
  3. Bày thật.
  4. Bỏ quyền.

Trong thấy căn cơ chép: “Đức mỏng tội nặng:” Không gieo giống Đại thừa không đắc gốc lành gọi là đức mỏng, phiền não đầy đủ nên gọi là tội nặng.

“Vì người đó chép:” là nói về giáo nói. Vì người ưa Tiểu thừa không kham nghe nói chứng pháp thân đã lâu, mà phương tiện thị hiện, nên Phật thật là phàm phu từ phàm thành Phật. “Nhưng ta thật thành Phật đã lâu v.v…: Nói về hiển thật. “Chỉ dùng phương tiện:” Biện khai quyền.

“Các người thiện nam v.v…:” là rộng khai phương tiện giải thích rộng nghi: Hỏi: Trên đã giải thích hai đời nghi xong vì sao nay lại giải thích ư? Đáp: Trên giải thích nghi xa gần, nay giải thích nghi hư thật. Chúng đương thời nghi rằng: Xưa nói gần thành Phật nay nói xa thành Phật, đều là Phật nói tức đều là thật. Xưa nói gần đã quyền nay nói xa cũng quyền, nếu xưa nói gần là quyền nay nói xa là thật thì sao biết xưa nói gần chẳng thật, nay nói xa chẳng quyền, nghi cả hai thuyết xưa nay. Nói đã trái nhau đều là luống dối, vì giải thích nghi này cho nên nói có văn này.

Lại có văn này: Đức Thích-ca đời đời hiện tại làm lợi ích chúng sanh gồm có ba thời:

  1. Mới thành đạo.
  2. Trung gian nói pháp.
  3. Cuối cùng diệt độ.

Trên nêu sơ thành đạo phương tiện đã rồi, nay nêu trung gian lợi ích, văn chia làm hai:

  1. Nói tất cả phương tiện.
  2. Nói về đều thật không luống dối.

Kinh điển của Như lai nói ra đều vì độ thoát chúng sanh: nêu đại ý Phật nói giáo. Chư Phật nói giáo có hai ý:

1) Các chúng sanh chưa vượt qua biển khổ khiến cho họ vượt qua.

2) Những chúng sanh chưa thoát tập đế khiến cho họ được thoát. Hoặc nói thân mình hoặc nói thân người: Câu trước nói nói chung pháp lợi vật, nay khai riêng hai thứ phương tiện tức là hai luân. Tự nói thân Thích-ca gọi là nói thân mình, nói thân Phật Di Đà gọi là nói thân người: Hoặc chỉ thân mình hoặc chỉ thân người: Trên là nói pháp luân, nay là thần thông luân. Như hiện phân thân Phật v.v… gọi là chỉ thân mình, chỉ Đức Phật A Súc Bệ v.v… gọi là chỉ thân người. Hoặc chỉ việc mình hoặc chỉ việc người: ba phen chỉ ở tịnh độ gọi là chỉ việc mình, chỉ cõi Hương Tích gọi là chỉ việc người. Thân đã có tự tha nói cõi cũng như vậy, so sánh với trên có thể biết. “Các lời nói đều thật chẳng dối: Chính là nói không dối, lại chia hai câu: Trước nói không dối, kế “Vì sao? v.v…” là giải thích không dối gồm có hai ý:

  1. Nói ứng lý thật nên nói không dối.
  2. Nói thấy sâu căn cơ nên nói không dối. Chứng lý thật gọi là đắc pháp thân, thấy căn cơ thật gọi là khởi ứng hóa thân, vì vậy hiện thần thông, nói pháp đều là thật.

“Đức Như lai đúng như thật thấy biết tướng của ba cõi:” Nói chung tướng thấy biết. Luận Pháp Hoa chép: Tướng ba cõi: là cõichúng sanh tức cõi Niết-bàn, không lìa cõi chúng sanh mà có Như lai tạng. “Không có sanh tử hoặc thoái hoặc xuất:” Giải thích trên như thật thấy biết đối với ba cõi, ba cõi vốn là sanh tử đều trong cõi đó nên trên nói ba cõi, nay kế nói không có sanh tử. Hoặc thoái hoặc xuất: Tử ở đây, sanh kia gọi sanh tử. Câu này chính là nói người phàm phu có đủ trói buộc, trái Đại thừa thoái nhập ba cõi gọi là thoái. Phẩm Thí Dụ chép: Các con trước nhân dạo chơi đến vào nhà này, ba xe các con cùng tranh ruổi chạy tranh nhau ra khỏi nhà lửa, câu này nói chúng sanh, Ba thừa ra vào trong ba cõi cho nên nói thoái xuất, nay trong thật tướng pháp thân đều không có việc như thế, cho nên không có từ trên đoạ xuống dưới gọi là thoái không có từ dưới lên trên gọi là xuất. Pháp Hoa luân chép: Không có sanh tử hoặc thối hoặc xuất: gọi là thường hằng trong sáng không có nghĩa trái lại. “Cũng không ở đời và diệt độ:” ba câu trên nêu không thấy chúng sanh sanh tử, hai câu này nêu không thấy Chư Phật khởi diệt. không thấy trong cung vua mới sanh cho đến tám mươi năm trú thế cho nên nói không thấy ở đời. Cũng không thấy Song lâm diệt tận cho nên nói không diệt độ. Như Kinh Hoa Nghiêm chép: Muốn cho chúng sanh sanh thiện vui mừng cho nên hiện sanh ở cung vua, muốn cho chúng sanh sanh thiện luyến mến nên thị hiện Song lâm diệt, Như lai thiệt không ra đời cũng không nhập Niết-bàn, vì sao? Vì pháp thân thường trú đồng nhập pháp tánh. Luận Pháp Hoa chép: Cũng không ở đời và diệt độ: Nghĩa là Như lai tạng thể chân như không tức cõi chúng sanh không lìa cõi chúng sanh. “Phi thật phi hư phi như phi dị:” Người mê hoặc nghe sáu việc trên đều không có liền cho pháp thân là thật hiểu quyết định là thật, cho nên nay nói về phi thật. Đã nghe phi thật là cho là hư giả đồng huyễn mộng cho nên kế biện phi hư. Đã nghe phi thật phi hư liền cho là chân như đồng pháp tánh nên nói phi như, đã nghe phi như liền cho khác với như cho nên nói phi dị, Luận Pháp Hoa chép: Phi thật, phi hư phi như phi dị: Lìa bốn thứ tướng. Có bốn thứ tướng: Là pháp vô thường. Ý đây giải thích thành nghĩa pháp thân thường. “Chẳng như ba cõi mà thấy nơi ba cõi:” Phàm phu thấy ba cõi nên không thấy ba cõi mà không như ba cõi, Như lai thấy ba cõi lại năng thấy ba cõi mà không ba cõi. Cho nên Luận Pháp Hoa chép: Không như ba cõi thấy ở ba cõi: Như lai năng thấy năng chứng pháp thân chân như. Phàm phu không thể thấy cho nên kinh chép: Như lai thấy rõ không lầm lẫn. Lại phàm phu chẳng những không thấy ba cõi mà không ba cõi cũng không thấy không ba cõi mà là ba cõi, tuy chẳng phải ba cõi mà đối chúng sanh rõ ràng là ba cõi. Cho nên Đại phẩm chép: Các pháp vô sở hữu hữu như vậy vô như vậy, việc ấy không biết gọi là vô minh. Như lai đã biết ba cõi mà không ba cõi nên ba cõi tức pháp thân, cũng biết không ba cõi mà là ba cõi: tức pháp thân ở nơi chúng sanh tức thành ba cõi. Phật biết ba cõi mà không ba cõi nên gọi là Ủ hòa Bát-nhã tức biết không ba cõi mà ba cõi nên có Bát-nhã Ủ hòa. Do đó Như lai đầy đủ hai tuệ, phàm phu không biết ba cõi mà không là ba cõi nên không có Bát-nhã, không ba cõi mà là ba cõi thì không có tuệ phương tiện nên phàm phu không có hai tuệ chỉ có đoạn, thường.

“Bởi có chúng sanh có các thứ tánh…:” là nói về thấy pháp thân lý thật cho nên nói không dối, nay nói về thấy chúng sanh căn cơ thật nên nói không dối. Lại ở trên thấy nghĩa ba cõi mà không ba cõi, nên ba cõi là pháp thân, nay thấy không ba cõi mà là ba cõi tức pháp thân nơi chúng sanh thành ba cõi vì vậy nên chúng sanh có các thứ dục. Như kinh Niết-bàn chép: một vị thuốc ấy tùy nơi chốn mà có các vị, tức chứng minh ấy. Trong nhân khó thay đổi gọi là các thứ tánh, chỗ ưa thích khác nhau gọi là các thứ dục, nghiệp hành quá khứ có khác nên gọi các thứ hạnh, suy tìm biết duyên trước khác nhau nên gọi các thứ nhớ tưởng. Đây là nói từ nặng đến nhẹ, nếu từ nhẹ đến nặng thì chúng sanh nhớ tưởng còn tập hạnh quá khứ khác nhau, lập hạnh khác nhau do dục lạc khác nhau, thật do lâu xa huân tập dục thành tánh. “Muốn làm cho chúng sanh gieo các gốc lành…:” Trên nêu biết căn cơ nay biện ứng căn cơ trao thuốc, nói rộng nên thì tám muôn bốn ngàn bệnh trao tám muôn bốn ngàn thuốc, lược trao bốn tất đàn nên dùng môn thế giới đắc đạo vì nói tất đàn thế giới, cho đến nên dùng môn đệ nhất nghĩa đắc đạo mà nói tất đàn đệ nhất nghĩa. Nhưng mỗi mỗi tất đàn có vô lượng môn, như thế giới tất đàn có vô lượng thế giới. Kinh Hoa Nghiêm chép: mười cõi nước Phật cho đến vô lượng tịnh uế khác nhau, đều là tất đàn vị nhân cũng có vô lượng, như Kinh Niết-bàn nói hơn ba mươi sự tranh luận. Trong đối trị cũng có vô lượng đối trị gọi là có môn đối trị, môn tăng trị, môn chuyển trị, môn tổng trị, đệ nhất tất đàn cũng có vô lượng. Như kinh Tịnh Danh nói hơn ba mươi Bồ-tát nói nhập pháp môn không hai. “Chỗ thành Phật sự không hề tạm bỏ v.v…:” Do căn tánh muôn vàn sai khác giáo môn vô số tổng mà luận là vì khiến chúng sanh ngộ nhập Phật đạo nên nói chỗ thành Phật sự. Từ đầu mới đắc đạo cho đến nay cuối ở núi Linh Sơn và vị lai thường giáo hóa chúng sanh không dứt cho nên nói không hề tạm bỏ. Văn nầy cũng được nói ba đức Phật đều là nghĩa thường: Đầu tiên nêu nhất chứng báo thân vắng lặng vô diệt gọi là báo thân thường, trên nói không có sanh tử cho đến phi thật phi hư mười thứ nghĩa không, tức pháp thân thường. Nay nói về chúng sanh bất tận giáo hóa lợi ích không phế bỏ gọi là hóa thân thường.

“Như vậy từ ta thành Phật đến nay thường trú bất diệt v.v…:” Trên là nói quá khứ không trước, chia làm ba riêng.

1. Nêu chứng Phật đã lâu.

2. Giải thích nghi hiển thành chứng Phật đã lâu, hai môn này đã xong. Nay là thứ ba, tổng kết nghĩa thành Phật từ lâu. Đã nói thường trú bất diệt tức là hiển rõ thường không được nói là che lấp tướng và dùng vô thường giải thích kinh này.

“Các người thiện nam ta vốn hành đạo Bồ-tát v.v…:” là nói vị lai không sau, nhất chứng pháp thân vắng lặng vô diệt, cho nên biết song lâm chẳng phải cuối cùng căn cứ văn cũng có ba:

1. Nói vị lai vô chung.

2. Giải thích nghi.

3. Nói không dối: Trong phần đầu nói hành Đạo Bồ-tát: Đã nói về quả Phật thọ lượng lâu dài phải nói nhân có lâu dài, cho nên trước nói lên quả dài nay khai nhân dài, nói nhân dài quả dài là hiển nghĩa chân thật, nói nhân ngắn quả ngắn tức mở cửa phương tiện, như trong thừa quyền thừa thật cũng nói về hai thứ này, biện ba nhân ba quả đây là phương tiện, một nhân một quả gọi là chân thật, hành Đạo Bồ-tát tức nhân dài. “Cảm thành thọ mạng:” Thành là thành tựu, tức thọ mạng thành tựu lâu dài. Cho nên kệ dưới chép: thọ mạng vô lượng kiếp lâu xa do tu nghiệp mà đắc. “Nay vẫn chưa hết:” Luận Pháp Hoa gọi là chưa mãn, do cõi chúng sanh chưa tận nên bổn nguyện Phật chưa mãn, chẳng phải là Bồ-tát chưa đầy đủ. Nay văn kinh gọi là chưa tận, y luận giải thích văn nầy vì rõ ràng độ chúng sanh chưa tận, bất luận tuổi thọ Phật chưa tận cho nên cùng với nghĩa Luận Pháp Hoa như nhau. “Lại còn hơn số trên:” Luận Pháp Hoa chép: Tạo thành thọ mạng lại gấp bội số trên, trên nêu bổn nguyện chưa mãn nên Đức Phật không đắc nhập vô dư mãi mãi diệt Niết-bàn, cho nên đem bổn nguyện chưa mãn để giải thích nghĩa thường, bác bỏ người Tiểu thừa cho rằng Phật vô thường mãi mãi nhập vô dư thì đó là trái với bổn nguyện. Nay nêu gấp bội số trên tức là nói tuổi thọ không thể tính số để giải thích thành nghĩa thường, vì nêu đủ hai nghĩa nhân quả để giải thích thường chỉ vì văn kinh vừa nói. Lại người giảng không nói về ý luận cho nên hiệp giải thích. Nói lại gấp bội trên: Trên nói quá khứ không có trước có ba không thể tính số:

a) Thế giới không thể tính số.

b) Thế giới là cát bụi không thể tính số.

c) Thành Phật lại vượt hơn số này cho nên không thể tính số. Phàm phu, Nhị thừa Bồ-tát còn không biết một số đầu huống chi có thể biết hai số còn lại ư? Nay nói lại gấp bội thì gọi là không thể tính không thể tính là muốn nói lên tuổi thọ của Như lai nên nêu số lượng tiêu biểu, cho nên gọi là thường. Như Kinh Tịnh Danh chép: Thân Phật vô vi không rơi vào các số, như Pháp Sư La-thập truyền cho Tăng Duệ giải thích rằng: Tuổi thọ quyết định chẳng có số. Lại Phổ Hiền Quán chép: Tin đạo nhất thật biết Phật bất diệt đó gọi là sám hối năm tội ghịch mười điều ác. Lại như Luận Pháp Hoa chép: Lại gấp bội số trên: Là thị hiện mạng Như lai là thường, phương tiện nói lên nhiều số, quá số lượng trên không thể tính biết nên dùng các việc suy tìm thì biết hiển rõ Phật là thường.

Hỏi: Vị lai không có sau vì sao gọi là gấp bội ư?

Đáp: Quá khứ có hai thứ:

  1. Vô thỉ.
  2. Hữu thỉ.

Căn cứ phàm phu Nhị thừa và Bồ-tát không thấy ban đầu kia nên gọi là vô thỉ mà chẳng phải không có ban đầu chứng pháp thân cho nên nói hữu thỉ. Nay nói không có sau, chẳng những phàm phu Nhị thừa Bồtát không biết kia sau, lại hễ chứng pháp thân thì rốt ráo không diệt đủ hai nghĩa này nên gọi là gấp bội.

“Nhưng nay chẳng phải thật diệt độ…”: là nói giải thích nghi. Trên đã nói bổn nguyện chưa mãn và lại gấp bội số trên rõ ràng đời vị lai không diệt thì chúng nghi chép: Nếu vậy trong phẩm Hiện Bảo Tháp vì sao xướng rằng Như lai không bao lâu sẽ nhập Niết-bàn và đáp ma vương tự hẹn ba tháng sẽ nhập Niết-bàn, vì giải thích nghi này nên có văn nầy. Trên nói về hiện đời có ba thời lợi ích nay tức thời thứ ba, lại chia làm ba:

  1. Khai bất diệt thị hiện diệt.
  2. Giải thích.
  3. Tổng kết.

Đầu tiên nêu hai môn: “Nhưng nay chẳng thật diệt độ” là nói thật bất diệt. “Mà bèn tuyên bố rằng:” Nói phương tiện thị hiện diệt, vì sao? Là môn giải thích chương. Trong giải thích trước nói không thị hiện diệt thì có tổn không có ích, kế nói thị hiện diệt thì không tổn có ích. “Người đức mỏng không gieo trồng gốc lành”: quá khứ không gieo lâu nhân thấy Phật. “nghèo cùng thấp kém”: do không gieo trồng gốc lành nên nghèo cùng thấp kém. “Tham đắm năm món dục”: Trước nói không thiện nay nói có ác, nghĩa ác tuy nhiều mà không ngoài ái kiến, tham tiếc năm dục gọi là khởi ái. “Sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến”: Nói khởi kiến. “Nếu thấy Như lai thường còn chẳng mất”: Trên trình bày tâm hạnh chúng sanh, nay nói Phật không được không diệt. “Liền sanh tâm buông lung nhàm trễ”: Nếu không tuyên bố diệt độ liền có tổn hại, nghe Phật thường còn tâm không tôn trọng là mạn, buông lung năm dục là tứ; “Lại có chúng sanh thường thấy Phật nên buông lung nhàm trễ” nên gọi là nhàn, không siêng tu đạo gọi là trễ nải “Không thể sanh ra ý nghĩ khó gặp gỡ cùng lòng cung kính”: Trước biện có tổn ích nay nói vô ích.

“Cho nên đức Như lai dùng phương tiện nói v.v…”: là nói tuyên diệt không tổn có ích, Văn có hai:

  1. Nêu tuyên bố diệt.
  2. Nói chúng sanh được lợi ích.

Trước có ba câu: trước nêu khó gặp. Vì sao? Là giải thích. Chẳng phải Phật không thường hiện mà chỉ chúng sanh chướng nặng không thấy, nên Phật đối với chúng sanh là khó gặp. “Do việc này nên v.v…”: Nói tổng kết ý khó gặp. “Các chúng sanh đó v.v…”: nói nghe tuyên bố diệt được lợi ích. “Cho nên đức Như lai…” tổng kết ý bất diệt mà thị hiện diệt.

“Lại người thiện nam v.v…”: là nói nghĩa không dối, chia làm ba phần: pháp, thí, và hiệp. Sở đĩ nói về không dối: Là bất diệt tuyên bố diệt dường luống dối gạt cho nên phải nói về nghĩa. Không dối “Pháp của Đức Phật đều như thế”: Có hai nghĩa:

1/ Như Kinh Niết-bàn đáp Thuần-đà rằng: Pháp hữu vi đã vậy, pháp Chư Phật cũng vậy. Pháp hữu vi có sanh thì có diệt, Chư Phật do vật cảm nên sanh cảm tận tức ứng diệt, bởi lý thường như vậy, cho nên nói pháp như.

2/ Đức Phật tự giải thích tuy thật bất diệ mà vì độ chúng sanh nên phương tiện thị hiện diệt để chúng sanh thật lợi ích, nên gọi là không phải dối gạt. Thí như vị thầy thuốc v.v…: là nói thí chép: Đây dụ cho đại ý nói thẳng cha thật không chết vì trị bệnh cuồng của con nên phương tiện nói chết mà không phải dối gạt.

Đức Phật cũng như vậy, thật ra không diệt vì độ chúng sanh tội nặng nên phương tiện tuyên bố diệt mà không phải dối gạt, không phiền làm thí dụ ba đời lợi ích chúng sanh. Thí dụ này từ đầu đến cuối có mười ba câu

  1. Dụ Phật như vị thầy thuốc.
  2. Dụ chúng sanh như con.
  3. Dụ trước Phật cách thế gian.
  4. Dụ chúng sanh khởi hoặc.
  5. Dụ sau Phật xuất hiện.
  6. Dụ chúng sanh cảm thấy.
  7. Dụ ứng vật nói giáo.
  8. Dụ lợi căn ngộ trước.
  9. Dụ độn căn chưa hiểu rõ
  10. Dụ Như lai thị hiện diệt.
  11. Dụ độn căn đắc giải.
  12. Dụ Như lai trở về.
  13. Dụ Phật không ối gạt.

Mười ba câu này là thứ lớp sanh khởi.

Hiệp cũng có mười ba câu chia làm ba phần:

1/ Bảy câu nói chúng sanh lợi độn căn quá khứ đồng gieo trồng gốc lành, cho đến hiện tại đồng thọ theo lời Phật dạy.

2/ Một câu nói chúng sanh lợi căn bắt đầu từ Hoa Nghiêm mới nhóm họp cho đến núi Linh Sơn hội Pháp Hoa nghe Phật nói pháp liền lãnh ngộ thì Phật không cần tuyên bố diệt.

3/ Năm câu sau nói chúng sanh độn căn trải qua nghe các giáo còn chưa ngộ giải Phật cần phải tuyên bố diệt mới đắc ngộ.

Sở dĩ chỉ chia hai thứ chúng sanh này: bởi thầy thuốc có hai hạng con:

  1. Con không thất tâm.
  2. Con mất tâm.

Con không mất tâm đưa thuốc thì uống không cần cha phải thị hiện diệt, con thất tâm tuy đưa thuốc mà không chịu uống cho nên cha thị hiện diệt, cho nên chương trước nói chung lý do hai con, sau nói riêng thọ theo giáo có khó dễ.

Thầy thuốc: lược nói ba loại:

  1. Ngoại đạo năm thông.
  2. Thanh văn Duyên giác.
  3. Chư Phật Bồ-tát.

Ngoại đạo chỉ năng trừ ba không cho chúng sanh rồi trở lại các phiền não bệnh gọi là hạ y. Nhị thừa năng trị bệnh ba cõi gọi là trung y. Chư Phật Bồ-tát năng trị khắp các bệnh trong ngoài ba cõi gọi là thượng y. Lại nữa, bệnh mà ngoại đạo chữa chắc chắn sẽ phát sanh lại cho nên gọi là hạ, Nhị thừa trị bệnh hoặc phát hoặc không phát nên gọi là trung, Chư Phật trị bệnh dứt bặt không phát sanh nên gọi là thượng.

Lại phàm phu Nhị thừa trị bệnh chúng sinh gồm có bốn câu:

  1. Bớt không thêm.
  2. Thêm không bớt.
  3. Cũng thêm cũng bớt.
  4. Không thêm không bớt.

Cho nên không gọi là thầy thuốc. Chư Phật trị bệnh chỉ có một câu là chỉ bớt không thêm nên gọi thầy thuốc. Kinh A-hàm chép: Thầy thuốc có bốn đức:

  1. Khéo biết bệnh lạnh nóng v.v…
  2. Biết bệnh phát khởi.
  3. Bệnh sanh rồi khéo biết phương pháp trị
  4. Bệnh lành rồi khiến không tái phát. Đức Phật cũng có đủ bốn đức này nên gọi thầy thuốc.

Luận Pháp Hoa chép: Vì không tu tập công đức nên nói thí dụ thầy thuốc, người này không hề tu bậc nhất thừa gốc lành, nghe nói bậc nhất thừa trong tâm không nguyện xếp vào bậc nhất, vì đối trị đây nên nói thí dụ thầy thuốc. Luận lại chép: Người này căn chưa thuần thục nên thị hiện Niết-bàn, vì vậy nên Như lai nói thí dụ đây. Lại chép: Muốn thị hiện Niết-bàn vô thượng cho nên nói thí dụ thầy thuốc.

“Trí tuệ sáng suốt”: đây là khen ngợi đức giải thích nghĩa thầy thuốc, ở tại tâm là trí tuệ, ở tai là thông minh, tại mắt là sáng suốt. Trí tuệ dụ cho nhất thiết chủng trí, thông minh dụ sáu thông, sáng suốt dụ cho năm nhãn. “Khéo luyện phương thuốc trị các bệnh”: Là biết lý do đúng bệnh mà cho thuốc. “Người có nhiều con cái:” ví chúng sanh như con, xưa đã từng thọ hóa nên gọi là con, thọ hóa rồi lại chuyển hóa, thọ sự truyền hóa kia nên gọi là con cái, nhưng chúng sanh trong sáu đường đều có Phật tánh đều là con, chỉ Phật tánh có hai:

  1. Chánh nhân.
  2. Liễu nhân.

Có đủ duyên chánh gọi là con gần nhưng người chưa thọ theo giáo hóa chưa có liễu nhân gọi là con xa.

“Hoặc mười – hai mươi cho đến số trăm”: Hàng thượng căn khó đắc là mười, trung căn hơi dễ gọi là hai mươi, hạ căn chuyển nhiều gọi là số trăm, đây không căn cứ Ba thừa làm ba căn, mà chung xét theo thọ lãnh giáo từ đầu đến cuối có ngộ và không ngộ, chính là căn cứ Bồ-tát ngộ nhập tuệ Phật để chia thành ba căn. Nếu căn cứ phẩm này ý từ đây đến cuối thì ngàn thế giới số Bồ-tát như cát bụi quá khứ đã ngộ đạo gọi là thượng căn, ở đời hiện tại bắt đầu từ Hoa Nghiêm sau cùng là Pháp Hóa người đắc ngộ đạo gọi là trung căn, nếu do tuyên bố diệt vì nói Niết-bàn mà đắc ngộ gọi là hạ căn. Nếu căn cứ hiện tại biện nơi ba căn, thì trước Pháp Hoa Bồ-tát trực vãng đã đắc ngộ gọi là thượng căn, đến hội Pháp Hoa bỏ tiểu về đại gọi là trung căn, cho nên phẩm Dũng Xuất chép: “vừa thấy thân ta nghe nói pháp liền tín nhận nhập tuệ Phật” gọi là thượng căn. “Trừ trước đã tu tập theo Tiểu thừa” nay nghe kinh này cũng nhập tuệ Phật gọi là trung căn. Từ đây trở đi còn chưa đắc đạo nghe tuyên bố diệt vì nói Niết-bàn mới đắc ngộ gọi là hạ căn. ba căn có nhiều môn nay lược chỉ ba hạng này.

“Do có sự duyên đến nước xa khác…” là: Dụ trước Phật cách đời. Chỉ thọ hóa ít không trú lâu nên gọi là đến nước khác. Như Kinh Niếtbàn chép: Nơi đáng độ đều đã độ rồi, các nơi chưa độ nên tạo nhân duyên được độ. Có sự duyên: Cõi này cảm hết các duyên khởi ở cõi khác, Phật hóa các duyên đối với cõi kia duyên gọi là gần, cõi này cảm dứt nên gọi là xa, lại dứt đây ứng kia nên gọi là xa. “Sau lúc đó các người con…”: Là thí dụ chúng sanh khởi hoặc: Lúc sau là: Cách đời sau Phật. “Uống thuốc độc khác”. Xưa tập quán đã yếu lại khởi điên đảo, chánh quán gọi là tự, điên đảo là tha. Cho nên Kinh Niết-bàn chép: Cảnh giới mình là bốn niệm xứ, cảnh giới người là năm dục. Tâm khởi điên đảo gọi là uống, làm hại tuệ mạng gọi là thuốc độc. “Thuốc phát sanh mê loạn lăn lộn trên đất”: Nhân khởi hoặc thuần thục, gọi là thuốc phát.

Hoặc có hai lực:

1/ Mê cảnh chướng trí cho nên tâm mê loạn, lại sắp chết gọi là mê loạn.

2/ Cảm sanh tử trôi lăn trong sáu đường như lăn lộn trên đất, thuận giáo đắc Niết-bàn như lên núi cao, trái hóa thọ khổ sanh tử nên gọi là đất. Lại tâm chịu khổ gọi là mê loạn, thân chịu khổ gọi là lăn lộn trên đất.

“Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà….”: là nói thí dụ sau khi Phật xuất khởi. Trước nói chúng sanh độn căn trái hóa khởi hoặc nói chung về nghĩa cả, nay nói sau khi Phật xuất khởi nói chung về nghĩa ứng.

Hỏi: Chúng sanh khởi hoặc trôi lăn trong năm đường như lăn lộn trên đất nhân đâu mà cảm Phật?

Đáp: Khổ cùng cực thì phải quay đầu. Như Kinh Thắng-man chép: Các thứ pháp khổ lạc là cầu Niết-bàn. Lại trong đây nên dùng ba phen hóa, quá khứ lợi ích chúng sinh gọi là một phen xưa hóa. Lăn lộn trên đất trong đây có tùy duyên hóa, nay lại trở về nhà tức tất cánh hóa, xưa duyên hết nên đi, nay cảm thuần thục nên đến, ứng nhập sanh tử hóa vật thì sanh tử là nhà. Như trên chép: Thí như Trưởng giả có một nhà lớn.

“Các con uống thuốc độc hoặc mất bổn tâm, hoặc không mất”: Là dụ cho chúng sanh cảm thấy: tập quán Quá khứ nếu lâu tuy khởi điên đảo mà không mất bổn giải gọi là không mất tâm, lập quán chưa lâu điên đảo mạnh thịnh mất bổn giải gọi là mất tâm. Lại từ Hoa Nghiêm đến Pháp Hoa nghe giáo đắc ngộ gọi là không mất tâm, nghe giáo không ngộ, đợi tuyên bố diệt mới hiểu gọi là mất tâm, đây cũng là khởi hoặc nặng nhẹ, thiện có mạnh yếu nên chia làm hai. “Xa thấy cha về”: chính là cảm đức Thích-ca ra đời, chỉ thấy thân trượng sáu thành đạo chưa thấy pháp thân; cách lý còn xa nên gọi là xa. “Đều rất vui mừng quì lạy thăm hỏi trở về an ổn”: Lợi là căn độn căn tuy khác mà thấy Phật ra đời, đều đồng vui mừng là ý nghiệp, cung kính quì lạy tức thân nghiệp, miệng nghiệp khen ngợi gọi là hỏi thăm. Khen ngợi Phật nghĩa là Như lai: luận Trí Độ chép: Phật từ đạo an ổn đến nên gọi là Như lai, nay gọi an ổn trở về, trở về tức là đến. “Chúng con ngu si lầm uống thuốc độc”: ở trên nói chúng sanh lợi căn độn căn đồng có căn cơ cảm thấy hình tướng Phật nay nói chúng sanh độn căn lợi căn đồng có căn cơ cảm giáo, căn cứ giải muốn phát, đồng trình bày lỗi xưa cho nên nói ngu si, khởi điên đảo phiền não chẳng phải là bổn ý nên gọi là lầm uống. “Xin cứu lành con lại ban tuổi thọ cho chúng con”: Xin Phật nói giáo diệt hoặc gọi là xin cứu con, giáo năng sanh giải gọi là tuổi thọ, xưa từng lãnh giáo đã được sanh giải, chỉ giữa đường trái hóa khởi hoặc mất bổn giải, nay lại xin nói giáo khiến được bổn giải cho nên nói xin ban cho.

Hỏi: Từ xa thấy cha về lại xin ban tuổi thọ, đó là trong cơ duyên nói hay căn cứ sự ư?

Đáp: Đủ có hai nghĩa: Trong căn cơ là nóiviệc này, nói dễ hiểu là căn cứ ở sự, khi Phật mới ra đời trời người đều được vui mừng cho đến Thích Phạm xin xoay bánh xe pháp, như nói xin cứu lành lại ban cho tuổi thọ.

“Cha thấy các con khổ não như vậy”: Là thí dụ ứng duyên nói giáo: Trước thí dụ vì duyên thành đạo, đây dụ cho thành đạo về sau xoay bánh xe pháp. Văn có hai câu: Cha thấy con đồng dụ cho Phật thấy căn cơ. “Y theo các kinh phương”: là nói về nói giáo. Y Phật giáo quá khứ gọi là y các kinh phương. “Tìm thuốc cỏ tốt”: Là giáo tiêu biểu lý, lý năng lành bệnh dụ đồng cỏ thuốc. “Mùi sắc vị ngon”: giới dụ cho sắc, định dụ cho hương, tuệ dụ cho vị ngon, ba hạnh tròn đầy gọi là đầy đủ. “Đâm nghiền hòa hiệp”: Ban đầu nói Tiểu thừa là đâm, nói trung thừa là nghiền, nói Đại thừa là hiệp. Lại pháp nói là đâm, thí nói là nghiền, hợp thí là hòa hiệp, Như lai nói pháp không ngoài ba thứ này. Lại nói chung là đâm biệt giải thích là nghiền, tổng kết là hiệp, nghi thức nói pháp không ra ngoài nêu giải thích và kết này. Lại cũng thí dụ ba phen xoay bánh xe pháp là đâm nghiền hòa hiệp. “Mà nói rằng”: Là khen ngợi giáo. “Các con nên uống”: Khuyên đúng như lời dạy mà hành.

“Trong các con những người chẳng mất bổn tâm”: là nói thí dụ người lợi căn trước ngộ: Từ Hoa Nghiêm đến Pháp Hoa lãnh giáo được ngộ tức người kia. Ngoài ra những người mất bổn tâm là thí dụ người độn căn chưa liễu ngộ, tức là thí dụ Phật không dối gạt; vì người độn căn nên Phật bất diệt mà tuyên bố diệt độ, cũng tức hiện tại trong ba thời dụ cho thời sau lợi ích chúng sinh. “Thấy cha về tuy cũng vui mừng hỏi thăm”. Nêu người hạ căn chúng sanh thấy Phật ra đời cũng khởi tâm vui kính. “Cầu xin trị bệnh”: Cũng có căn cơ cảm giáo nghe nói pháp mầu nhiệm. “Song trao thuốc cho mà không chịu uống”: người độn căn tuy lại tìm giáo mà không thể ngộ lý như con mất bổn tâm không chịu uống thuốc”. Khí độc thấm vào làm mất bổn tâm”: là giải thích không uống thuốc là vì tà hạnh thám vào làm mất chánh giải ở bổn. “Đối với thuốc thơm tốt mà cho là không ngon”: Đối với chánh giáo Phật không nhận được vị của lý. “Người cha nghĩ rằng”: Thí dụ Như lai thị hiện diệt: Văn có ba:

  1. Định muốn tuyên bố diệt.
  2. Chánh thức tuyên bố diệt.
  3. Là nói chính diệt.

Muốn tuyên bố diệt: Chúng sanh chấp thường không muốn tu đạo, nghĩ muốn cách đời muốn thị hiện vô thường khiến chúng sửa đổi mà ngộ. “Nghĩ thế rồi bảo rằng”: Nêu chánh diệt như đức Thích-ca tự hẹn ba tháng, lại như kinh Niết-bàn sớm chiều tuyên bố diệt. Lại như kinh chép: Tuổi ta đã tám mươi, hình thể như chiếc xe hư cũ phải nhập Niếtbàn thôi! “Lương dược tốt này nay để ở đây”: Đức Phật tuy cách đời mà lưu lại pháp bất diệt, cho nên mười hai bộ kinh giao phó cho A-nan và Ca-diếp. “Dạy bảo như thế rồi đến nước khác”: là nói chánh diệt. “Sai sứ về nói”: Chánh nhập Niết-bàn để lại hình Xá-lợi xây tháp thờ, tức là sai sứ.

“Bấy giờ các con…”: là nói thí dụ độn căn được hiểu: Thấy Phật Niết-bàn tâm ngộ vô thường liền đắc đạo như uống thuốc lành bệnh: “Người cha nghe các con…”: là dụ Như lai trở về nhà: Chúng sanh nghe Phật nhập Niết-bàn liền ngộ hiểu tức thấy pháp thân, biết Phật bất diệt trở lại bổn giáo hóa nên gọi là trở về. “Các người thiện nam v.v…”: là thí dụ Phật không dối gạt Phật chép: Ta cũng như vậy: là hợp thí, chỉ có ba ý: ý đầu nêu bất diệt. “Vì chúng sanh”: phương tiện thị hiện diệt, “cũng không ai có thể” là nói chẳng dối gạt.

Kệ tụng có hai mươi lăm hàng rưỡi: tụng văn xuôi hai chương. Đầu có hai hàng kệ: Tụng quá khứ vô thỉ, kế có hai mươi ba hàng rưỡi tụng vị lai vô chung. Sở dĩ tụng hai chương này là để hiểu rõ Như lai Thọ Lượng vô thỉ vô chung, bác bỏ Nhị thừa phàm phu cho là nghĩa có thỉ chung. Văn xuôi hai môn mỗi môn đều chia thành ba: Môn đầu có ba:

  1. Nói quá khứ vô thỉ.
  2. Giải thích nghi.
  3. Tổng kết.

Nhưng văn trên đã rộng nay chuyển thế nói pháp lược làm hai ý tụng: hàng kệ đầu tụng chứng pháp thân lâu, kế kệ tụng thùy ứng nói pháp lâu, tức nhiếp chung hết tất cả nghĩa của văn xuôi. “Vì độ chúng sanh v.v…”: Tức tụng chương hai: vị lai vô chung: Trong văn xuôi cũng có ba: Chính là nói vị lai vô chung, kế nêu bất diệt thị hiện diệt để giải thích nghi, kế nêu chẳng dối, nay kệ cũng chỉ chia hai:

  1. Tụng bất diệt thị diệt để giải thích nghi.
  2. Tụng nghĩa chẳng dối.

Sở dĩ tụng hai thứ này chính vì người chấp giáo cho rằng Phật vô thường, Song lâm diệt tận, nay muốn nói lên Phật thường trú cho nên nói về Phật bất diệt mà phương tiện thị hiện diệt, nhưng bất diệt thị diệt tợ đồng dối gạt, cho nên kế tụng nghĩa không dối. Hai thứ này nói nghĩa vị lai vô chung được rõ ràng nên kệ chỉ tụng hai thứ này. Văn xuôi phần bất diệt thị hiện diệt đã lược, nay chuyển thế rộng tụng, chia làm ba phần:

  1. Chín hàng kệ căn cứ Phật hai thân bổn tích nói về nghĩa diệt bất diệt.
  2. bốn hàng rưỡi căn cứ hai cõi tịnh uế nói nghĩa diệt bất diệt.
  3. Bốn hàng tổng kết thân, cõi nói về cảm thấy khác nhau. Ba thứ này tổng kết hết tất cả các nghĩa, văn xuôi nói không hết nghĩa, kệ rộng trình bày.

Phần đầu chia làm ba:

  1. Hai hàng nói diệt bất diệt.
  2. Sáu hàng rưỡi giải thích ý diệt bất diệt.
  3. Nửa hàng tổng kết nói về diệt bất diệt.

Hai hàng đầu lại chia hai:

  1. Căn cứ môn thuyết pháp nói về diệt bất diệt.
  2. Căn cứ môn thần thông nói về diệt bất diệt.

Nói pháp hiện thần thông nhiếp nghĩa đã cùng khắp cho nên chỉ nêu hai thứ này. “Chúng thấy ta diệt độ v.v…”: sáu hàng rưỡi nêu được lợi ích giải thích ý diệt bất diệt. Văn chia làm hai:

1/ Một hàng nêu thấy Phật diệt độ sanh phước được lợi.

2/ Năm hàng rưỡi nêu thấy Phật diệt độ sanh trí tuệ được lợi ích; trong năng hóa tuy có nói pháp thần thông, mà sở hóa được lợi ích không ngoài công đức và trí tuệ cho nên chỉ nêu hai nghĩa này. Nhân trên môn thần thông sanh công đức lợi ích, nhân trên môn thuyết pháp sanh trí tuệ lợi ích. Trên trước nói về nói pháp sau nói thần thông, nay phải trước nêu trí tuệ sau biện công đức, nhưng vì thế văn nối kế gần trước nói công đức sau nói trí tuệ. Căn cứ trí tuệ được lợi ích trong đó có hai: Hàng đầu nói chúng sanh cảm. Bốn hàng rưỡi sau biện Phật ứng; trong ứng có Ba bảo hiển nghĩa bất diệt: nửa hàng đầu nói hai ngôi báu Phật, Tăng đều xuất nên nói hai ngôi báu bất diệt.

“Ta nói với chúng sanh v.v…”: là nói pháp tức pháp bảo là nói về diệt bất diệt. Trong phần tụng nói pháp một bài đầu xét riêng cõi này luận nghĩa diệt bất diệt. Kế một bài rưỡi hiệp cõi kia đây luận diệt bất diệt, kế một bài rưỡi riêng xét phương khác luận diệt bất diệt, nói về diệt bất diệt tuy lại vô cùng mà ba thứ này nhiếp hết. “Sức thần thông như thế…”: là nửa bài tổng kết, nói về diệt bất diệt đây đều là thần thông thị hiện mà pháp thân Như lai phi diệt phi bất diệt. “Thường ở núi Linh Thứu v.v…”: bốn hàng rưỡi căn cứ hai cõi tịnh uế luận bất diệt. Sở dĩ có chương này vì có hai nghĩa:

1/ Giải thích nghi cho nên có. Thời chúng nghi rằng: Hiện thấy thời kiếp hỏa khởi, trời đất ắt cạn kiệt, thân Như lai đâu được thường còn! Nên nay nói cõi có tịnh uế, uế độ bị đốt cháy, tịnh độ không bị diệt, tích thân hiện diệt mà pháp thân thường tồn.

2/ Trên luận Như lai hai thân chân ứng hiện quả chánh báo đã rồi, nay kế luận hai cõi tịnh uế biện y báo cõi quả Phật chánh báo thì nghĩa là ứng thân thị hiện diệt mà pháp thân bất diệt, nghĩa y báo thì uế độ tự hủy, tịnh độ không đốt cháy cho nên thân chỉ bổn tích, cõi chỉ tịnh uế, muốn nói nghĩa nầy nên có văn này. Phẩm nầy đã có tịnh độ, nay nói, luận Pháp Hoa giải thích phẩm này có ba thân; nay đối ba thân cũng có ba cõi (độ):

1- Pháp thân dừng nghỉ nơi cõi thật tướng. Phổ Hiền Quán chép: Đức Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ Lô Giá Na biến nhất thiết xứ, Đức Phật kia trú cõi Thường tịch Quang tức pháp thân độ. Kinh Nhân Vương chép: Ba Hiền, mười Thánh trú quả báo chỉ có Đức Phật ở tịnh độ. Kinh An Lạc chép: Cũng lấy Trung đạo đệ nhất nghĩa gọi là cõi pháp thân, nhưng các pháp tướng vắng lặng không thể dùng ngôn ngữ tuyên bày, sao luận thân và không thân, cũng đâu có cõi cũng không phải cõi, chỉ là trong vô danh tướng vì chúng sanh mượn danh tướng nói cho nên nói thân cùng cõi. Tuy khai hai thật thân, cõi mà không hề có hai chỉ căn cứ nghĩa khác nhau nên chia làm hai: Nghĩa năng trụ gọi là chia sở trụ gọi là cõi. Như kinh Kim Quang Minh loại bảy quyển phẩm Tam thân nói đầy đủ có trí như như và cảnh như như, căn cứ nghĩa mà so với cảnh tức là cõi.

2- Báo thân báo độ: nhưng báo thân tức là ứng thân, ứng thân có hai thứ: a) Trong. b) Ngoài.

Trong cùng pháp thân tương ứng gọi là ứng thân, đây cũng thuộc pháp thân cùng pháp thân đồng cõi, Luận Pháp Hoa chép: Tịnh độ ta không hủy mà chúng thấy thiêu hủy tận, tức báo thân Như lai, tịnh độ chân thật thuộc về bậc nhất nghĩa, nên đây tức là cõi báo thân. Nếu ứng ngoài gọi báo thân hóa đại Bồ-tát nơi tịnh độ thành Phật, đây dùng ngọc báu làm tịnh độ, cõi này mới không bị kiếp lửa đốt cháy mà cuối cùng có tận diệt, vì sao? Vì nay khai thân có thường vô thường ba câu: 1) Pháp thân chỉ thường, phi vô thường. 2) Hóa thân chỉ vô thường phi thường.

3- Ứng thân vừa thường vừa vô thường.

Ứng thân bên trong gọi là thường, ứng ngoài gọi là vô thường, thân đã ba thứ cõi cũng theo lệ như. Cõi pháp thân chỉ thường, phi vô thường, hóa thân chỉ vô thường phi thường, cõi ứng thân cũng thường cũng vô thường. Trong cõi ứng thân đây tức là thường, ngoài cõi ứng thân tức đây vô thường. Nếu phân hai cõi tịnh uế thì pháp thân báo thân hai cõi đây là tịnh độ, nhưng cõi hóa thân đây tức bất định hoặc tịnh hoặc uế.

Hỏi: Bồ-tát cũng có ba thân ba cõi phải không?

Đáp: Tùy phần có. Kinh Hoa Nghiêm chép: Thân tướng Phổ Hiền cũng như hư không, nương vào Như như, không nương vào cõi Phật, Như như tức cõi pháp thân, hai thân còn lại có thể biết.

Hỏi: Các chúng thấy lửa đốt sạch mà tịnh độ không hủy đây là một chất thấy khác, hay là khác chất đồng một chỗ ư?

Đáp: Theo ý ngài La-thập và Luận Pháp Hoa là khác chất đồng chỗ. Nói khác chất: hai chất Tịnh uế độ. Đồng chỗ: Tịnh chất ở chỗ uế, uế chất ở chỗ tịnh, thô diệu đã khác nhau không làm chướng ngại nhau nên văn nầy nói thường ở núi Linh Thứu tức biết tịnh độ ở tại chỗ uế: Kế nêu một chất thấy khác: Nói một chất đây có nhiều môn, nếu luận theo chánh đạo thì không hề có tịnh uế, tùy hai duyên tịnh uế thấy hai cõi tịnh uế. Do đối tịnh uế hai sự thấy nên nói phi tịnh phi uế gọi là một chất nên nói một chất mà có hai sự thấy. Nếu luận theo hai duyên chính nó, một chất thấy khác, thì tự có là một tịnh chất, người phước mỏng tự thấy kia uế, tự có là một uế chất đối người phước đức tự thấy kia tịnh. Tổng luận chất và sự thấy đều có bốn trường hợp: Chất có bốn trường hợp: Tự có một chất khác chỗ, khác chất một chỗ, một chất một chỗ, các chất khác chỗ. một chất khá chỗ: là một chất phi tịnh uế ở chỗ tịnh

uế khác. Khác chất một chỗ: Tịnh uế chất khác nhau ở chung một chỗ phi tịnh uế. Sở dĩ có hai câu này là do các pháp bổn tánh vắng lặng nên gọi một chất, bổn tánh kia vắng lặng mà không lìa tịnh uế nên ở hai chỗ tịnh uế. Tuy có hai chất tịnh uế thường bổn tánh vắng lặng nên gọi hai chất một chỗ. một chất hai chỗ: Tức là chân tế bất động kiến lập các pháp; hai chất một chỗ nghĩa là không hoại, giả danh mà nói thật tướng. một chất một chỗ: Thẳng căn cứ thật tướng mà luận thật tướng. Khác chất khác chỗ: Độ có tịnh uế tại kia đây không đồng.

Sự thấy có bốn trường hợp: một chất một thấy một chất Trung đạo là hàng Bồ-tát nhân Trung đạo đắc chánh quán nên thấy cõi Trung đạo. Khác chất thấy khác. Tịnh uế khác chất tùy hai duyên tịnh uế thấy. một chất thấy khác: một chất phi tịnh uế, ở tịnh uế duyên thấy có tịnh uế. Khác chất một thấy: Hai chất tịnh uế hàng trí giả thấu đạt rõ kia không hai. Kế căn cứ dụng luận bốn trường hợp:

  1. Một chất khác chỗ như một tịnh chất thông nơi hai chỗ tịnh uế. Như Thích luận chép: Chất của hương, thành Đàm vô kiệt tức là nơi thành, hương, mà thành hương, ấy ở cõi uế Diêm-phù-đề.
  2. Hai chất tịnh uế đồng một chỗ do thô diệu không ngăn ngại nhau.
  3. Hai chất hai chỗ: Hai chất tịnh uế ở nơi hai chỗ kia đây.
  4. Một chất một chỗ: Như tịnh chất ở nơi chỗ tịnh, uế chất cũng.

Căn cứ thấy luận bốn trường hợp:

  1. Tự có một chất một thấy. Đối một chất lại khởi thấy tịnh, uế độ cũng vậy.
  2. Hai chất hai thấy, đối hai chất tịnh uế đều khởi tịnh uế hai thấy.
  3. một chất hai thấy, chỉ là tịnh chất mà đối hai duyên chỗ thấy khác nhau.
  4. Hai chất một thấy, tuy có hai chất tịnh uế mà đối với người có phước đức thì chỉ thấy tịnh, người không có phước đức chỉ thấy toàn uế.

“Thường ở núi Linh Thứu…”: Có bốn hàng rưỡi văn chia làm bốn trường hợp:

  1. Đầu nửa bài nêu thường tại núi Linh Thứu, nêu Phật cùng cõi cả hai bất diệt.
  2. Nửa hàng bỗng chúng nghi rằng: “Hiện thấy kiếp lửa thiêu đốt, người và cõi đều không, vì sao được gọi là thường” ư!
  3. Hai hàng rưỡi chính nói về cõi tịnh không bị hoại.
  4. Một bài tổng kết tịnh độ không bị hủy, chúng sanh thấy lửa.

“Chúng sanh tội đó v.v…”: bốn hàng nêu cảm thấy khác nhau cùng kết người và cõi:

1/ Hai hàng đầu nêu hai người có tội và phước cảm thấy tịnh uế khác nhau kết thành nghĩa cõi.

2/ Hai bài: vì hai duyên nói tuổi thọ Phật dài ngắn thành nghĩa Phật diệt bất diệt. Hai bài kệ này có ba ý: một đầu chính nêu tùy duyên nói dài ngắn, kế nửa hàng khen ngợi trí Phật. Sau nửa hàng nêu nhân xa để giải thích quả dài.

“Các ông người có trí v.v….”: Kế tụng văn xuôi nói không dối, văn xuôi có ba: Pháp, thí, hiệp, nay tụng đủ. Kệ đầu tụng pháp nói kế kệ tụng thí nói, bốn hàng kệ sau tụng hợp thí. bốn hàng kệ chia làm bốn:

  1. Kệ chánh hợp thí nói về bất diệt thị hiện diệt.
  2. Kệ giải thích ý bất diệt thị hiện diệt.
  3. Kệ trình bày chung Phật tùy duyên nói tất cả giáo.
  4. Kệ nói giáo tiêu biểu lý, tông chỉ trở về thành Phật.

PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI BẢY

Phẩm này rộng khai thân quyền thân thật, là phần thứ ba nói về lãnh thọ giáo được lợi ích. Nói phân biệt công đức: Có hai nghĩa:

1/ Nghe nói tuổi thọ được lợi ích, Đức Phật đối Di-lặc phân biệt người đắc ngộ công đức cạn sâu có mười hai vị đặt tên theo phẩm đầu.

2/ Cuối phẩm này có đoạn lớn truyền bá, rộng phân biệt người trì kinh được công đức nên đặt tên theo đoạn sau, hiệp lại đều từ hai chỗ đặt tên cho nên dùng gọi tên phẩm. Nhưng tên công đức có chung và riêng: Nói riêng là đối trí tuệ để nói công đức, như năm độ có hành là công đức, Bát-nhã chiếu không là trí tuệ, tự có ngộ sâu là trí tuệ, hiểu cạn là công đức. Như kinh Niết-bàn Phẩm Sư Tử Hống chép: Địa tiền là công đức, đăng Địa là trí tuệ. Nói chung là do công tu đắc đều gọi là công đức. Nếu vậy công đức trí tuệ đều là do công tu đắc, đều gọi là công đức.

Nay phẩm này gọi công đức tức là nói chung tên công đức. Văn chia làm hai:

  1. Nói được lợi ích.
  2. Nói cảm điềm lành, được lợi ích có hai:

a) Người dịch kinh trình bày chung được lợi ích.

b) “Khi đó đức Thế tôn v.v…:” Là trình bày riêng được lợi ích. Sở dĩ nói riêng được lợi ích là vì các công đức nầy chẳng phải Đức Phật không phân biệt, mà do đại chúng không biết cho nên phải phân biệt. Văn nầy lại chia làm hai:

  1. Nêu Đăng địa trở lên thánh Đại thừa được lợi ích.
  2. Nói Địa tiền phát tâm Bồ-đề được lợi ích.

Luận Pháp Hoa chép: Phát tâm Bồ-đề lợi ích là địa vị Thập tín, được lợi ích tuy nhiều mà đều thâu nhiếp trong hai thứ này; căn cứ Thánh được lợi ích có mười một vị. Có người chép: sáu vị đầu tức là Bồ-tát lục địa dứt phần đoạn sanh tử của giới nội, năm vị sau là Thất địa trở lên đồng dứt phản dịch sanh tử của ngoại giới, giới nội cách Phật xa chưa nói số lần sanh, giới ngoại cách Phật gần nên nói số sanh. Nay nói việc này khó biết, chỉ dựa theo văn chia làm hai: sáu vị đầu nêu tăng đạo lợi ích, kế năm vị nói tổn sanh lợi ích, tuy có tăng đạo tổn sanh khác nhau đều là từ kém đến hơn xếp vào thứ lớp.

1/ Đắc vô sanh pháp nhẫn lợi ích, do nghe tuổi thọ Phật sơ chứng vô sanh, vô sanh là Thánh vị căn bản cho nên nêu trước, theo luận Pháp Hoa lấy Sơ địa làm vô sanh pháp nhẫn.

2/ Đắc nghe, trì lợi ích đây là đắc vô sanh pháp nhẫn lại nghe pháp cao quý trì mà không mất, vô sanh tức là phương tiện thật tuệ, nghe trì là thật phương tiện tuệ, thật phương tiện tuệ đã là khéo dụng thì cao quý hơn vô sanh cho nên nêu thứ hai.

3/“Đắc nhạo nói vô ngại biện tài”, nghe trì là tự giải, nhạo nói là hóa tha, nghĩa kia chuyển cao quý hơn ở vị thứ ba.

4/ Đắc vô lượng triền Đà-la-ni, đối trong pháp môn tròn đầy đầy đủ ẩn hiện vô ngại hơn nhạo nói trước nên thứ tư.

5/ Chuyển bất thoái pháp luân, trước tuy đắc triền trì chưa đắc bất thoái, nay đăng bất thoái cho nên hơn trước.

6/ Năng chuyển Pháp luân thanh tịnh, trước tuy bất thối còn chưa thanh tịnh nay chứng thanh tịnh nên hơn trước.

Hỏi: Trước một thế giới Phật, sau nói Tam thiên đại thiên thế giới, đây có gì khác nhau?

Đáp: Đại luận Trí Độ chép: mười phương đều như hằng sa Tam thiên đại thiên thế giới gọi là một thế giới. Phật, vì vậy nên ba ngàn cùng một thế giới Phật khác nhau.

Kế nêu “tám đời sẽ đắc Bồ-đề v.v…:” Là nói tổn sanh lợi ích. Có người chép: Từ Thất địa đến Kim cương Tâm thành nghĩa tổn sanh. Vô minh trú địa phiền não chia làm chín phẩm, một phẩm làm duyên một đời nghĩa là kế dứt một phẩm tức tổn một đời, nay Thất địa hạ nhẫn nghe kinh làm duyên đăng Thất địa thượng nhẫn, dứt một phẩm hoặc tổn ở một đời nên nói tám đời sẽ đắc Bồ-đề. Thất địa thượng nhẫn nghe kinh làm duyên, đăng Bát địa hạ nhẫn dứt một phẩm hoặc tốn một đời, bảy đời còn lại tại Bát địa hạ nhẫn nghe kinh làm duyên, tiến đăng Bát địa thượng nhẫn, lại dứt một phẩm hoặc tổn nơi một đời, sáu đời còn lại tại Bát địa thượng nhẫn nghe kinh làm duyên đăng Cửu địa hạ nhẫn, tiến dứt một phẩm lại tổn một đời; còn lại năm đời tại Cửu địa hạ nhẫn nghe kinh làm duyên đăng Cửu địa thượng nhẫn, lại dứt một phẩm tổn một đời, còn lại bốn đời tại trong văn. Từ tám đời cho đến bốn đời, văn kinh còn lược như vậy nên biết, bốn đời tức là Cửu địa thượng nhẫn nghe kinh làm duyên đăng Thập địa hạ nhẫn, dứt một phẩm lại tổn một đời còn lại ba đời; Từ Thập địa hạ nhẫn nghe kinh làm duyên đăng

Thập địa thượng nhẫn dứt một phẩm lại tổn một đời còn lại hai đời; Từ Thập địa thượng nhẫn nghe kinh làm duyên đăng Kim cương Tâm dứt một phẩm lại tổn một đời, một đời còn lại đến quả Phật mới dứt hết. Nay cho rằng đây giải thích nghĩa khó rõ không thể trình bày đầy đủ nghĩa được mất. Nay trong kinh luận nói về có hai thứ sanh:

  1. Ứng sanh.
  2. Thật sanh.

Như luận Trí Độ giải thích phẩm Vãng sanh nêu một đời Bồ-tát và ba đời Bồ-tát đều là ứng sanh, vì sao biết như vậy? Vì Bồ-tát trú Thập địa không nên thọ sanh trời người, mà nay thọ sanh trời người đây là ứng sanh. Nay nói tám đời cho đến một đời, tám đời trải qua thọ sanh trời người cho nên đắc Bồ-đề cho đến thọ sanh cõi Đâu suốt một đời sẽ đắc Bồ-đề vì thế gọi là ứng sanh. Nhưng ứng sanh có nhiều ít tùy duyên nên như vậy và cũng được nói do ngộ lý sâu cạn dứt hoặc nhẹ nặng cho nên ứng sanh có nhiều ít.

Kế nói thật sanh: Như Kinh Nhân Vương khen ngợi công đức Bồtát ba mươi đời, một địa có ba đời nghĩa là nhập phần làm sơ sanh, trú phần làm trung sanh, mãn phần làm chung sanh (cuối đời). Nhiếp Đại thừa luận Địa luận đều có ba vị, nếu theo nghĩa nầy nói tám đời, thì vốn là Thất địa cuối đời nghe kinh nên đăng Bát địa mới sanh cho nên còn lại tám đời. Vốn là người Bát địa mới sanh nên đắc nhập Bát địa trú phần bảy đời còn lại, vốn là hàng Bát địa trú phần nghe kinh đắc mãn phần còn lại sáu đời, vốn là Bát địa mãn phần nghe kinh đắc nhập Cửu địa sơ phần còn lại năm đời, vốn là Cửu địa sơ phần nghe kinh đắc nhập trú phần còn lại bốn đời, vốn là trú phần nghe kinh đắc nhập mãn phần còn lại ba đời, vốn là Cửu địa mãn phần nghe kinh đắc nhập Thập địa sơ phần còn lại hai đời, vốn là Thập địa sơ phần nghe kinh đắc nhập trú phần còn lại một đời, vốn là trú phần nghe kinh cho nên đắc nhập Thập địa mãn phần liền ngồi đạo tràng được thành Phật. Vì đây là một cách nói theo thứ lớp ngộ, nếu vượt ngộ thì thời gian giữa không nhất định mà hai đời quyền thật chính là căn cứ thật sanh, do nghe kinh đắc thật lợi ích. Theo luận Pháp Hoa chép: Tám đời cho đến một đời đắc Bồ-đề, đây do Sơ địa lìa phần đoạn sanh tử ba cõi tùy phần năng thấy chân như Phật tánh gọi là đắc Bồ-đề, không phải rốt ráo vô thượng Bồ-đề. Ý nầy là nói vốn là người Địa tiền do sức nghe kinh nên tùy phần sâu cạn, trải qua tám đời thọ phần đoạn sanh tử cho đến một đời thọ phần đoạn sanh tử liền chứng Sơ địa Bồ-đề.

Hỏi: Nghe kinh nói tuổi thọ vì sao đắc vô sanh nhẫn cho đến phát tâm Bồ-đề ư!

Đáp: Nếu y xưa nêu kinh này nói Phật vô thường, không nên đắc vô sanh nhẫn, vì sao? Vì nói vô thường làm sao khiến người ngộ thật tướng ư! Lại Đức Phật đã vô thường chung qui diệt đâu đủ an vui mà phát tâm cầu. Nếu nói kinh này là che lấp tướng thường, đã là che lấp tướng liền phi liễu nghĩa, làm sao được lợi ích liễu nghĩa ư! Nếu nói kinh này nói về Phật quyết định thường tức là thường kiến, làm sao khiến người đắc vô sanh nhẫn ư! Nay nêu phẩm này nói pháp thân Phật bặt bốn câu siêu bách phi, cho nên trước chép: không có sanh tử hoặc thoái hoặc xuất cho đến phi thật phi hư phi như phi dị tức biết phi thường phi vô thường không dài không ngắn mà dài ngắn hợp duyên thường vô thường khéo léo, chúng đương thời nghe đây nên đắc vô sanh và phát tâm Bồ-đề.

Hỏi: Phật thọ vô lượng mà chúng sanh thọ hữu lượng tự nhiên, đây chính là chúng sanh và Phật có hai kiến, người có hai kiến không có đạo, không có quả làm sao được lợi ích ư?

Đáp: Nếu người hai kiến tức không được lợi ích nay đã ngộ tuổi thọ Phật vô thỉ vô chung bất sanh bất diệt bặt bốn câu siêu bách phi tức rõ thân mình cũng vậy, đây tức ngộ chúng sanh Phật không hai vì vậy nên được lợi ích.

Hỏi: Kinh này chỉ nêu tuổi thọ Phật vô sanh diệt thỉ chung, chỗ nào nói tuổi thọ của chúng sanh cũng vô sanh diệt thỉ chung ư?

Đáp: đây hỏi mà không đọc phẩm Thọ Lượng Kinh Pháp Hoa, Phẩm Tuổi thọ nói Như lai như thật thấy biết, ba cõi không có sanh diệt cho đến phi thật phi hư cho nên biết ba cõi tức là pháp thân, cũng khiến chúng sanh ngộ như thế.

Hỏi: Các kinh khác nói người ngộ đạo ít, giáo nầy vì sao được lợi ích nhiều ư?

Đáp: Kinh này kết hợp đầu đuôi chia hai quyền hai thật tức giáo chẳng chỗ nào không cùng khắp lý đều đầy đủ, người sở ứng đắc đạo hiểu tận kinh này vì vậy nên người ngộ đạo nhiều. Lại Như lai một phen hóa gồm có ba môn:

  1. Môn gom tà về chánh.
  2. Môn gom khác qui đồng.
  3. Môn gom nhân qui quả.

Trước Pháp Hoa chỉ có một môn, kinh đây phần đầu gọi là môn gom khác về đồng, phần sau kinh là nhiếp nhân về quả. Lại kinh này kết hợp đầu đuôi thì đầy đủ ba môn, ba môn gom giáo lý đã khắp nghe thảy đều ngộ đạo. Kế sở hóa của đức Thích-ca gồm có hai loại Phật tử:

  1. Người thất tâm.
  2. Người không thất tâm.

Người không thất tâm bắt đầu từ Hoa Nghiêm cuối đến Pháp Hoa nghe giáo đều ngộ, những người thất tâm thì đợi Phật tuyên bố diệt đến khi nói Niết-bàn mới đắc ngộ, nay nói người không thất tâm ứng ngộ đều đã đắc ngộ cho nên người nhập đạo nhiều. Người không thất tâm gồm có hai hạng.

  1. Bồ-tát Trực vãng.
  2. Hổi tiểu nhập đại, hai hạng người này nghe kinh Pháp Hoa đều được ngộ đạo do đó nhiều.

“Lại có tám thế giới cát bụi v.v…:” là nói người Địa tiền được lợi ích phát tâm Bồ-đề. “Đức Phật nói pháp này…”: là nói tướng lành tức hiển lý đã rõ người ngộ đạo chẳng phải một cho nên cảm điềm lành, gồm có tám điềm lành, như văn có nêu.

Hỏi: Trước bỏ ba bày một vì sao không có điềm lành?

Đáp: đầu tiên nói nghĩa một quyền một thật chưa rốt ráo, và ba căn Thanh văn sanh tín còn nông cạn cho nên chưa hiện điềm lành nay khai đủ hai thứ quyền thật người ngộ đạo nhiều cho nên hiện điềm lành. “Khi ấy ngài Di-lặc…”: là nói Di-lặc nghi trừ lãnh giải nói kệ khen ngợi.

Kệ có mười chín hàng chia làm bốn phần:

  1. Một bài tụng giáo Phật nói.
  2. Mười hàng tụng người được lợi ích.
  3. Sáu hàng tụng điềm lành.
  4. Hai bài khen ngợi Phật.

Trong phần hai lại chia làm ba:

  1. Một hàng nói chung được lợi ích.
  2. Tám hàng tụng riêng được lợi ích.
  3. Một hàng tổng kết khen ngợi.

Tám hàng kệ ấy lại chia hai:

  1. Bảy hàng tụng lợi ích đắc Thánh.
  2. Một hàng tụng phàm phu phát tâm lợi ích. Trong bảy hàng có ba hàng tụng tăng đạo, ba hàng tụng tổn sanh, một bài tổng kết tụng hai thứ này.

“Lúc bấy giờ, Phật báo” v.v…: là nói so sánh lượng khen ngợi, căn cứ văn có hai:

  1. Trường hàng.
  2. Kệ tụng.

Văn xuôi có ba:

  1. Chính nói về công đức.
  2. Chính là so sánh lượng.
  3. Tổng kết khen ngợi.

“Nếu có người thiện nam v.v…”: là nói so sánh lượng, chỉ nói năm độ không nói Bát-nhã, người tin hiểu tuổi thọ lâu dài, tâm này tức là Bát-nhã không thể lại đem Bát-nhã so sánh Bát-nhã. Lại Bát-nhã tức là nghĩa tuổi thọ Phật chiếu cảnh gọi là bình đẳng đại tuệ. Dụng đại tuệ làm mạng nên gọi là tuệ mạng, tức đây là đại tuệ dùng pháp làm thân nên gọi Pháp thân. Nên biết Bát-nhã tức là tuổi thọ Phật không thể dùng tuổi thọ so sánh tuổi thọ. Kinh Thắng-man nêu đủ sáu độ so sánh đây tức là vô phương tiện Bát-nhã. “Nếu thiện nam tử v.v…”: nêu tổng kết khen ngợi, kệ văn chỉ tụng hai chương sau.

Kệ mười bốn hàng tụng so sánh lượng, năm hàng rưỡi tụng tổng kết khen ngợi công đức. Mười bốn hàng đầu chia làm hai:

  1. Mười hai hàng tụng riêng năm độ.
  2. Hai hàng tụng so sánh lượng.

Mười hai hàng đầu lại chia hai: trước nêu thời gian dài tu hành sâu rộng nói chung năm độ, kế tụng năm độ.

“Lại nữa A Dật Đa…”: đoạn lớn thứ ba của kinh kế nói truyền bá, gồm có mười một phẩm rưỡi kinh chia làm hai phần:

  1. Bốn phẩm rưỡi nêu khen ngợi truyền bá,
  2. Từ phẩm Chúc lụy đến hết kinh là bảy phẩm nói về phó chúc truyền bá, chủ yếu cần phải khen ngợi pháp tốt đẹp người phước tuệ sâu rộng mới được nương tựa khiến thọ hóa mở rộng cho nên chia hai loại này.

Căn cứ phần đầu văn lại có hai chương:

  1. Từ văn nầy đến phẩm Bất Khinh ba phẩm rưỡi kinh chính nói về khen ngợi pháp, khen ngợi người.
  2. Một phẩm Như lai Thần Lực, Phật thấy chúng sanh hai đời nghe kinh được lợi ích tâm sanh vui mừng hiện thần lực lớn.

Chương đầu lại có hai:

  1. Từ đây đến hết phẩm là lược khen ngợi truyền bá.
  2. Ba phẩm rộng khen ngợi truyền bá.

Từ đây đến hết phẩm lại chia làm hai:

  1. Khen ngợi, công đức của người mở rộng kinh khi Phật tại thế.
  2. Khen ngợi công đức của người mở rộng kinh sau khi Phật diệt độ.

Căn cứ đầu lại có ba:

  1. Nói công đức Văn tuệ.
  2. “Huống chi rộng nghe v.v…”: là nói công đức Tư tuệ.
  3. “A Dật Đa v.v…”: là nói công đức tu tuệ.

“Và lại sau khi đức Như lai diệt độ… “: là nói công đức của người trì kinh sau khi đức Như lai diệt độ. Trước là văn xuôi sau kệ tụng. Văn xuôi nói về bốn hạng người:

  1. Người hạ phẩm có Văn tuệ.
  2. Người trung phẩm Tư tuệ.
  3. Người thượng phẩm là Tu tuệ.
  4. Người thượng thượng phẩm là từ thượng phẩm tách ra thêm một phẩm.

“Huống là người đọc tụng…”: là nói người thứ hai gồm có hai câu:

  1. Khen ngợi người trì kinh là người đầu đội Như lai.
  2. “A Dật Đa…”: khen ngợi người trì kinh thau nhiếp các công đức.

Văn có bốn trường hợp:

  1. Nói chung khen ngợi người trì kinh làm công đức xây tháp tạo chùa.
  2. “Tức đem Xá-lợi Phật xây tháp bảy báu…”: là nói riêng công đức xây tháp,v.v… của người trì kinh.
  3. “A Dật Đa…”: là nói riêng cáccông đức của người trì kinh. “Cho nên ta nói…”: Tổng kết người trì kinh đầy đủ hai thứ công đức đủ cả xây tháp làm chùa.

“Huống lại có người…”: là nói người thượng phẩm Tu tuệ. “Nếu người đọc tụng…”: là nói người thượng thượng phẩm. Kệ văn chỉ tụng ba hạng người không tụng người Văn tuệ thứ nhất.

Kệ có mười một hàng rưỡi tụng về người Tư tuệ, kế ba câu tụng người tu tuệ thượng phẩm. “Chẳng sân chẳng ác miệng…”: là tụng người thượng thượng phẩm tu tuệ.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12