PHÁP HOA NGHĨA SỚ

SỐ 1721

QUYỂN 12

Đời Tùy, Sa môn Cát Tạng soạn

PHẨM DIỆU ÂM BỒ-TÁT THỨ HAI MƯƠI BỐN

Khổ hạnh mở rộng kinh gồm có hai phẩm, nay là phẩm thứ hai, trên nói nghe kinh được lợi ích, dùng thân mạng và tài vật để cúng dường báo ân, nay nói phân thân khắp sáu đường để truyền bá pháp Nhất thừa. Trước là nghiệp công đức, nay là nghiệp trí tuệ, trước chính là tự thực hành, nay thường nói giáo hóa bên ngoài, trên là nói việc quá khứ mở rộng kinh lợi ích chúng sanh, nay nói Bồ-tát hiện đức, truyền bá pháp thêm duyên. Từ phẩm này về sau thường là theo thứ lớp căn duyên, không cần y theo nghĩa sanh khởi.

Nói Diệu Âm: vị Bồ-tát này ở quá khứ đã dùng mười muôn thứ kỹ nhạc để cúng dường Phật, cho nên được âm thanh hay, do đó mà đặt tên. Kinh xưa gọi là Bồ-tát Sư Tử Hống, nay có thể hợp cả hai âm, tức dùng Diệu Âm làm sư tử hống. Lại, chúng sanh ưa nghe gọi là Diệu Âm, âm có thể nói lên lý, hàng phục chúng sanh nên gọi là sư tử hống, phẩm này gồm sáu chương:

  1. Phật phát ra ánh sáng gọi Bồ-tát Diệu Âm.
  2. Ngài Diệu Âm vâng lời mà đến.
  3. Ngài Diệu Âm mở rộng kinh làm khuôn phép.
  4. Nói lợi ích của phẩm này.
  5. Việc xong ngài Diệu Âm trở về cõi nước mình.
  6. Nói lại lợi ích của việc Ngài đến.

Phần Phật phát ra ánh sáng chia làm ba phần:

  1. Phật phát ra ánh sáng chiếu khắp người có duyên.
  2. Chiếu khắp cõi nước Tịnh Quang.
  3. Chiếu soi thân ngài Diệu Âm.Phần đầu lại chia làm hai ý:
  4. Phát ra ánh sáng từ nhục kế.
  5. Phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày.

Sở dĩ phóng hai ánh sáng này, là vì diệu lý của Nhất thừa vượt trên đảnh có và không, cho nên phát ra ánh sáng từ nhục kế. Trí tột cùng không nghiêng lệch có thể phát chiếu Trung đạo, cho nên lại phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày. Lại nữa, ánh sáng trên đảnh tiêu biểu Nhất thừa là chỗ mà Thánh chúng tôn trọng ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày là nói Nhất thừa không nghiêng lệch lý Trung đạo viên chánh. Phật muốn đem pháp này phó chúc cho ngài Diệu Âm, cho nên phóng hai thứ ánh sáng này để triệu tập. Phẩm trước có nói rằng Pháp Hoa là bậc nhất nên người trì kinh cũng là bậc nhất, nay biểu hiện ngài Diệu Âm có đức hạnh cao nên Phật phát ra ánh sáng trên đảnh; biểu hiện ngài có sự hiểu biết chân chánh cho nên phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày.

Sở dĩ phát ra hai ánh sáng để biểu hiện ngoài Diệu Âm, là muốn đại chúng khởi tâm cung kính sâu xa với vị Bồ-tát này, lãnh thọ giáo pháp mà được lợi ích.

“Qua khỏi số cõi nước có thế giới tên Tịnh Quang v.v…”, đây là nói chiếu khắp cõi nước Tịnh Quang.

“Lúc ấy trong cõi nước đó có vị Bồ-tát tên là Diệu Âm”, đoạn này nói chiếu soi thân ngài Diệu Âm, chia làm ba phần:

  1. Nêu tên.
  2. Khen ngợi đức hạnh, là nói vị này từ lâu đã gieo trồng các cội công đức, do có đức cao quý này nên được Phật phát ra ánh sáng gọi đến, phần khen ngợi đức có hai:

a) Khen ngợi nhân quá khứ.

b) Khen ngợi đức hiện tại.

Phần khen ngợi nhân quá khứ lại chia làm hai: a.1. Trồng các cội công đức. a.2. Cúng dường gần gũi vô lượng Đức Phật. Phần khen ngợi đức hiện tại cũng chia hai phần: b.1. Thành tựu trí tuệ sâu xa b.2. Chứng đắc các Tam-muội.

Trong phần Tam-muội chia ra hai ý:

  1. Nói riêng từng Tam-muội.
  2. Tổng kết môn Tam-muội.

“Đắc Tam-muội diệu tràng tướng”, nhập Tam-muội này là tối tôn bậc nhất trong các Tam-muội, thí như tướng quân được lá cờ là biểu hiện đại tướng.

“Pháp Hoa Tam-muội”, kinh Tam-muội Pháp Hoa chép: Như cây nở hoa khiến cây đẹp đẽ, đắc Tam-muội này là nở hoa công đức trong các Tam-muội để tự trang nghiêm. Theo ý kinh này giải thích thì đối với Ba thừa, Nhất thừa đều tự tại, dài ngắn cũng vô ngại, nên gọi là Tam-muội Pháp Hoa.

“Tam-muội Tịnh đức”, là khiến các Tam-muội được thanh tịnh, như nấu quặng luyện vàng để được vàng ròng.

“Tam-muội Vô duyên”, tức là định diệt tận, đắc Tam-muội này thì đối với ba thọ không khởi duyên ba độc.

“Tam-muội Tú Vương hý”, đối với các Tam-muội thông đạt tự tại nên gọi là hý. Chẳng phải hý do ái kết.

“Tam-muội Trí ấn”: Bát-nhã là trí, tương ứng Tam-muội gọi là ấn, lại như người vào nước an ổn, có ấn mới được vào, không ấn thì không được vào, Bồ-tát đắc Tam-muội này thì sẽ nhập thật tướng.

“Tam-muội Giải nhứt thiết ngữ ngôn”, đắc Tam-muội này thì hiểu tiếng của chúng sanh mà vì đó nói pháp.

“Tập nhất thiết trí công đức Tam-muội”, Bồ-tát đắc Tam-muội này thì công đức đã đầy đủ.

“Tam-muội Thanh tịnh”, như có hạt ngọc báu Như ý làm sạch bụi bám, Tam-muội này làm sạch bụi bám các Tam-muội, bụi phiền não dễ trừ mà bụi Tam-muội khó dứt.

“Tam-muội Thần thông du hý”, nhập Tam-muội này có khả năng hiện tám tướng thành đạo.

“Tam-muội Tuệ cự”, như cầm đuốc đi đêm không rơi vào chỗ nguy hiểm.

“Tam-muội Trang nghiêm vương”, như Hằng hà sa cõi nước đều dùng bảy báu trang nghiêm mà Phật ở trong ấy, đắc Tam-muội này thì nhất thời có thể trang nghiêm các công đức. Lại quán sát trang nghiêm này là “không”, chẳng có gì, ở nơi hai trang nghiêm không và có đều được tự tại nên gọi là vương.

“Tam-muội Tịnh quang minh vương”, nhập Tam-muội này thì có thể phát ra ánh sáng khiến tâm các chúng sanh được thanh tịnh.

“Tam-muội Tịnh tạng”, nhập Tam-muội này có công năng làm thanh tịnh các tạng công đức.

“Tam-muội Bất cộng”, đây không thể phân biệt hai thừa.

“Tam-muội Nhật triền”, như Thiên tử mặt trời nương vào cung điện mặt trời mà chiếu khắp chúng sanh rồi trở lại như cũ. Xưa gọi Tam-muội Nhật luân.

Tổng kết môn Tam-muội; tức câu: “Được trăm ngàn muôn ức

Hằng hà sa các đại Tam-muội như thế.”

Nói ánh sáng chiếu trên thân ngài Diệu Âm, tức câu: “Ánh sáng của đức Thích-ca soi đến thân vị Bồ-tát đó”.

“Ngài Diệu Âm bạch đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí đây là nói ngài Diệu Âm vâng lời mà đến, lại chia hai ý:

  1. Nói ý muốn đến.
  2. Nói Ngài từ cõi nước kia đến.

Ý đầu có 10 câu:

1/ Nói ngài Diệu Âm hỏi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí ý muốn đến cõi Ta bà.

2/ Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí căn dặn, lại chia làm ba:

  1. Nói chung lời căn dặn chớ xem thường nước Ta bà.
  2. Giải thích lời căn dặn, tức nói cõi Ta bà thân hình kém nhỏ mà thân ông cao lớn, đó là sự cao quý của cõi tịnh.
  3. Tổng kết lời căn dặn, lời nói chớ sanh tâm thấp kém.

Hỏi: Trước có nói phần đầu kinh là nói ở cõi uế, phần sau kinh là nói ở cõi tịnh, lúc ngài Diệu Âm đến chính là dạo đi nơi cõi tịnh, vì sao phải căn dặn?

Đáp: Kinh này trước sau nói về cõi có ba điều khác nhau: a. Phần đầu kinh là nói ở cõi uế.

  1. Phần sau kinh là nói ởcõi tịnh.
  2. Từ phẩm Dược vương trở đi là nói tại cõi uế. Làm sao biết? Do khi triệu tập phân thân thì biến thành cõi tịnh, phân thân đã trở về bổn quốc thì cõi tịnh biến trở lại thành uế, lúc ngài Diệu Âm đến chính là dạo đi nơi cõi năm trược cho nên Phật căn dặn.

3/ Ngài Diệu Âm vâng lời, tức câu: “Bồ-tát Diệu Âm bạch Phật rằng”, ngài Diệu Âm đã nương Phật lực cho nên đến để mở rộng kinh lợi ích chúng sanh, há lại sanh ý tưởng thấp kém, cho nên vâng lời Phật dạy.

4/ “Lúc ấy ngài Diệu Âm v.v…”, đây là nói trước hiện điềm lành là muốn khai phát điều sau. Sở dĩ hiện điềm lành ở cõi này là muốn chúng sanh cõi này sanh tâm tôn kính.

“Hóa thành hoa sen”, tức muốn dùng hoa sen làm tòa ngồi và biểu hiện ngài Diệu âm mở rộng kinh Diệu pháp liên hoa.

“Hóa thành tám muôn bốn nghìn hoa sen báu”, là muốn biểu hiện tám muôn bốn nghìn tòa của Bồ-tát, cũng là biểu hiện tám muôn bốn ngàn pháp tạng đều nhập Nhất thừa diệu pháp hoa.

“Lá bằng bạc trắng”, tức nói lên kinh này có tựa đề là bạch Liên

Hoa, mở ra hai phương tiện, hai chân thật, tức ý nghĩa của tám muôn bốn ngàn pháp tạng đều được minh bạch.

“Đài bằng báu Chân thúc ca”, Hán dịch là anh vũ, báu này giống như mỏ của chim Anh vũ mà có màu đỏ.

5/ Ngài Văn-thù hỏi lý do điềm lành.

6/ Đức Phật trả lời ý hiện điều lành.

7/ Ngài Văn-thù hỏi về đức hạnh của Bồ-tát Diệu Âm, ở đây gồm có ba câu hỏi:

  1. Hỏi Bồ-tát ấy gieo trồng cội lành gì.
  2. Hỏi ngài tu công đức gì, hai câu hỏi này thuộc về nhân quá khứ.
  3. Hỏi ngài thực hành Tam-muội gì, câu hỏi này thuộc quả chứng đắc ở hiện tại.

“Cúi xin Đức Thế tôn v.v…”, đây là xin Phật cho thấy ngài Diệu Âm.

8/ Phật Thích-ca suy cử Phật Đa Bảo nhận lời xin cầu mà chưa trả lời ba câu hỏi trước, đọan sau có Bồ-tát Hoa Đức hỏi lại ba câu ấy Phật mới giải thích. Sở dĩ suy cử Phật Đa Bảo đó là thuận theo việc của thế gian, lễ nghi ở thế gian thì suy tôn người hiền, kính bậc trưởng lão, Đa Bảo là vị Phật thành Phật đã lâu, cho nên Đức Thích-ca suy cử, cũng muốn nói lên đức Đa Bảo không diệt nên có thể hiện hình Diệu Âm.

9/ Phật Đa Bảo gọi ngài Diệu Âm đến tức đáp lời xin của ngài Văn-thù.

10. Nói ngài Diệu Âm đến.

Lại chia thành 10 chương:

1/ Lúc ấy ngài Diệu Âm ẩn mật ở cõi nước kia.

2/ Cùng với tám muôn bốn ngàn Bồ-tát đến cõi Ta bà, tức là cùng quyến thuộc đến.

3/ Các nước trải qua điệu rung chuyển, đây là hiện điềm lành.

4/ Diện mạo ngài tốt đẹp, tức là khen ngợi ngài Diệu Âm.

“Thân Na La Diên” ngài Chân-đế chép: Na la dịch là người, chữ Diên là sanh bổn. Phạm Vương là tổ phụ của chúng sanh nên gọi là sanh bổn.

Ngài La-thập chép: Lực sĩ cõi trời gọi là na la diên, thân khôi ngô mạnh mẽ, luận Câu xá chép: nắm giữ phong luân của thế giới đại thiên gọi là Na-la-diên, cũng gọi là đại lực.

5/ Ngài vào trong đài bảy báu, đây là nói ngài Diệu Âm bay lên hư không mà đến.

“cách đất bằng bảy cây đa la”, cây đa la giống như cây Tôn lư ở nước Trung hoa, một cây đa la cách đất bằng bảy thước.

6/ Đến rồi cúng dường hỏi thăm Đức Phật, tức là hiện phép tắc của Phật.

7/ Bạch Phật rằng Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí hỏi thăm Thế tôn v.v…”, tức là nói phụng tuyên Thánh chỉ, đây có ba phần:

  1. Hỏi thăm đức Thích-ca.
  2. Hỏi chúng sanh có dễ độ chăng.
  3. Hỏi đức Đa bảo diệt độ từ lâu có đến nghe pháp chăng. .

8/ Ngài Diệu Âm bạch Phật rằng muốn thấy Phật đa Bảo.

9/ Đức Thích-ca nói với Phật Đa Bảo rằng Diệu Âm muốn ra mắt Phật.

10. Phật Đa Bảo khen ngợi ngài Diệu Âm.

Từ chỗ hỏi thăm Đức Phật, đều là nói lên Phật Đa Bảo không diệt độ, bác bỏ sự chấp vô thường của phàm phu Nhị thừa.

“Bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật rằng v.v…”, đoạn này nói ngài Diệu Âm mở rộng kinh, chương trước là nói người mở rộng kinh đã rồi, tức là một cặp về người và pháp. Trên là nói quả báo của ngài Diệu Âm, nay là nói nhân đời trước của ngài, tức là một cặp về nhân và quả, đây là nói lên đức hạnh của Ngài Diệu Âm trong hai đời, lại chia làm hai phần:

  1. Hỏi đáp về sức thần thông của Ngài Diệu Âm.
  2. Hỏi đáp về Tam-muội của Ngài Diệu Âm.

Thần lực là trí tuệ, Tam-muội là định, đây là nói lược về định tuệ của Bồ-tát. Lại nữa, thần lực là quả, Tam-muội là nhân, do nhân Tammuội nên có thể hiện thần lực. Sở dĩ trước nói quả sau nói nhân, là do ngài Diệu Âm hiện thần lực mà đến nên trước hỏi về thần lực. Hai câu hỏi này của Bồ-tát Hoa Đức là trùng với ba câu hỏi trước của ngài Vănthù, do ở trên đức Thích-ca chưa trả lời nên nay lặp lại mà hỏi, câu hỏi đầu có hai ý:

1/ Hỏi về nhân của thần lực.

2/ Hỏi về quả của thần lực, tức nói ngài có thần lực này. Gốc lành và công đức có khác nhau, gốc lành là trước, công đức là sau, cho nên câu hỏi chia làm hai: Trong phần đáp cũng chia làm hai:

  1. Trả lời câu hỏi về nhân
  2. Trả lời câu hỏi về quả của thần lực.

Trong phần trả lời về nhân lại chia làm hai ý:

1. Trả lời câu hỏi ngài Diệu Âm gieo trồng gốc lành gì, đây chia ra sáu phần khác nhau.

  1. Nói Đức Phật mà ngài Diệu Âm gieo trồng gốc lành.
  2. Nói tên nước là nơi để gieo trồng gốc lành
  3. Nói tên của kiếp là thời gian gieo trồng gốc lành.
  4. Nói ngài Diệu Âm gieo trồng gốc lành.
  5. Do nhân duyên này mà đắc quả như thế. Là kết phần trả lời.
  6. Kết hợp việc xưa và nay là một người.

2. Trả lời câu hỏi ngài tu công đức gì, tức nói Ngài Diệu Âm đã từng gần gũi cúng dường vô lượng Đức Phật.

“Hoa Đức! Ông chỉ thấy Bồ-tát Diệu Âm thân hình ở tại đây

v.v…”, đây là trả lời câu hỏi về quả của thần lực, gồm có hai phần:

  1. Khen ngợi ngài Diệu Âm mở rộng kinh ở cõi này.
  2. Khen ngợi ngài Diệu Âm truyền bá pháp khắp mười phương.

Phần đầu lại có ba nghĩa:

  1. Nêu chung mở rộng kinh.
  2. Giải thích rộng.
  3. Kết lời khen ngợi

“Hoặc hiện thân Phạm Vương v.v…? đây là phần giải thích rộng, chia làm năm loại.

  1. Hiện thân trời
  2. Hiện thân người
  3. Hiện thân tám bộ chúng
  4. Cứu độ tám nạ
  5. Ở hậu cung biến thành người nữ mà nói kinh này.

Trong phần hiện thân trời có hai cặp đối nhau, Phạm vương và Đế-thích là thuộc ở đầu cõi Dục, cõi Sắc; Tự tại và Đại tự Tại là thuộc ở sau hai cõi trời, bốn vị này là vua, hai vị sau là thần: Thiên đại tướng quân là thần của Phạm Vương ở cõi trời Phạm Phụ, Tỳ-sa-môn là thần của Đế-thích.

Trong phần hiện thân người cũng có hai cặp đối nhau, hai vị đầu là vua tức vua Chuyển luân và Tiểu vương. Hai vị kế là người bề tôi, tức Trưởng giả và cư sĩ. Lại chia làm bốn loại:

  1. Bốn loại đầu thuộc thân cao sang
  2. Bốn loại kế là người thọ giới Phật.
  3. Bốn loại là hiện thân phụ nữ.
  4. Hai loại hiện thân đồng chân và sau là hiện thân tám bộ chúng.

“Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v…”, đây là khen ngợi

ngài cứu độ tám nạn. Không nói pháp là bởi tám nạn này có khổ nặng và chướng sâu dày nên chỉ nói cứu vớt.

“Cho đến ở hậu cung biến thành người nữ v.v…” đây là nói cứu độ loại thứ năm.

“Bồ-tát Diệu Âm này có khả năng cứu độ chúng sanh v.v…”, đây là tổng kết lời khen ngợi, lại chia hai phần:

  1. Khen ngợi chúng giáo hóa có lợi ích.
  2. Khen ngợi người có khả năng giáo hóa không có tổn giảm.

“Vị Bồ-tát này dùng trí tuệ soi sáng cõi Ta bà”, đây là khen ngợi ngài Diệu Âm mở rộng kinh khắp mười phương, gồm có ba phần:

  1. Khen ngợi chung.
  2. Khen ngợi riêng.
  3. Kết thúc khen ngợi

Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Khen ngợi có lợi ích cho chúng sanh ở một cõi.
  2. Khen ngợi mở rộng kinh có ích khắp mười phương

Phần khen ngợi riêng cũng chia làm hai: tức từ câu: “Nếu đáng dùng thân…”

  1. Hiện các thân hình để độ chúng sanh.
  2. Hiện thân diệt độ để độ chúng sanh.

“Bồ-tát Hoa Đức, Diệu Âm trọn nên sức thần thông trí tue”, đây là tổng kết lời khen ngợi, thần thông là hiện các thân hình, trí tuệ là nói pháp.

Trong một cõi mà hiện rộng các thân phàm phu, trong mười phương lược hiện thân Thánh, đây muốn nói phàm bậc Thánh, rộng lược đều hiện. Trước nói hiện thân phàm phu có năm loại, nay hiện thân Thánh cũng có năm thân: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật và thân diệt độ.

Hỏi: Trước nói hiện năm loại thân phàm là nói kinh Pháp Hoa, nay sao chỉ gọi là nói pháp?

Đáp: Chữ nói pháp là dùng chung, ở đây muốn dùng cả riêng và chung nên nói như vậy. Trên chính là nói mở rộng kinh Pháp Hoa nên nói Nhất thừa, nếu có chúng sanh không tin pháp Nhứt thừa thì nói pháp năm thừa, cũng như trong phẩm Chúc Lụy Phật khiến Bồ-tát biết căn cơ lớn nhỏ.

Phẩm này nói từ phàm đến Thánh cho nên trước hiện thân phàm, sau hiện thân Thánh, trong phẩm Quán Âm thì trước nói thân Thánh, sau nói thân phàm, tức là từ cao đến thấp. Lại nữa, phẩm Diệu Âm trước một sau ba, phẩm Quan Âm thì trước ba sau một.

“Bấy giờ Bồ-tátHoa Đức bạch Phật rằng v.v…”, đây là hỏi về Tam-muội của ngài Diệu Âm, cũng có trước hỏi sau đáp:

“Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát v.v…”, đây là nói đại chúng ở hai cõi đều được lợi ích

“Khi ngài Diệu Âm cúng dường Phật Thích-ca và tháp Phật Đa bảo rồi v.v…”, đây là nói việc làm đã rồi, ngài Diệu Âm trở về cõi nước của mình. Đây là cõi uế nên Phật Tịnh Hoa Tú vương Trí có hỏi thăm Phật Thích-ca, kia là cõi tịnh nên Phật Thích-ca không hỏi thăm.

“Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát lai vãng này v.v…”, đây là nói lại việc lợi ích lúc Ngài đến.

Hỏi: Thấy Bồ-tát lai vãng, nhưng lấy gì để đắc pháp vô sanh nhẫn?

Đáp: Người lợi căn thì ngộ Bồ-tát không đến mà đến, cho nên đến mà không có chỗ đến, không đi mà đi cho nên đi mà không có chỗ đi, tức nhập thật tướng, cho nên đắc vô sanh.

Hỏi: Vô sanh pháp nhẫn, khắp hiện sắc thân và Pháp Hoa Ba Muội có gì khác nhau?

Đáp: Tâm không chỗ nương giống như hư không, không sanh tâm động niệm nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Tuy không mà có, tùy ý tự tại hiện thân nơi nơi tức là Tam-muội phổ hiện sắc thân, ba thừa Nhất thừa khai và hợp không có sự mê đắm tức là Tam-muội Pháp Hoa.

PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM

Hai phẩm trên là nói về khổ hạnh mở rộng kinh có nghiệp công đức và nghiệp trí tuệ, có phẩm Dược vương và phẩm Diệu Âm. Nay nói phần hộ nạn mở rộng kinh. Ban đầu nói người hộ nạn mở rộng kinh, sau nói pháp hộ nạn mở rộng kinh cũng gồm có hai phẩm. Lại theo thứ lớp căn duyên, trên hội Linh Sơn có tám muôn bốn ngàn người hợp nghe phẩm Quan Âm mà phát tâm Bồ-đề cho nên nói phẩm này, cõi nước mười phương và chúng sanh có duyên ở đời sau được lợi ích nên nói phẩm này. Phẩm này chia chương đoạn không đều nhau, nay phân thành bốn cặp: nêu lên, giải thích, khen ngợi và lợi ích.

  1. Nói về, Quán Âm lấy danh, Phổ môn làm đức, vì thế cùng nêu danh và đức, người cao quý lấy lý có danh có đức, cho nên nêu tên là phẩm Quán Âm Phổ môn.
  2. Giải thích, ban đầu hỏi đáp là giải thích tên Quán Thế Âm, sau hỏi đáp là giải thích đức của Quán Thế Âm.
  3. Khen ngợi, Bồ-tát Trì Địa khen ngợi rằng nếu nghe danh đức này thì công đức vô biên.
  4. Lợi ích, tám muôn bốn ngàn người nghe danh đức này đều phát đạo tâm.

Bốn điều này là theo thứ lớp, trước nói lược sau giải thích rộng, nói và giải thích đã xong thì danh và đức đều hiển sáng cho nên Bồ-tát khen ngợi, khen ngợi xong thì người nghe kính ngưỡng cho nên đều phát đạo tâm. Phần nói rõ gồm có mười cặp ý đối nhau:

1/ Nêu người và pháp, Quán Âm là người, Phổ môn là pháp, người và pháp là ý nghĩa nhân duyên, không có người thì không ai điều khiển pháp,,chẳng có pháp thì không thể thành tựu người, cho nên trước nói người điều khiển pháp, sau nói pháp thành tựu người, đây là một cặp về người và pháp.

2/ Quán Thế âm tức là pháp thân, khổ môn là ứng thân, trước dùng pháp thân quán xét căn cơ, sau hiện ứng thân để độ sanh, đây là một cặp về chân thân và ứng thân.

3/ Quán Âm là ý nghiệp của Bồ-tát, Phổ môn là thân nghiệp và miệng nghiệp, trước dùng ý nghiệp quán xét, sau dùng thân nghiệp hiện thần thông, miệng nghiệp nói pháp, đây là một cặp trong và ngoài.

4/  Quán Âm là đại bi cứu khổ, Phổ môn là đại từ ban vui, cho nên phần sau giải thích Quán Âm nghĩa là cứu khổ, Phổ môn là nói lên công đức ban vui. Chúng sanh sở hóa chỉ có khổ không có vui, Bồ-tát năng hóa có đại từ đại bi, đây là một cặp về từ và bi.

5/ Bồ-tát có hai thứ thân, thân Dược Thọ Vương và thân Như ý châu vương, thân Dược Thọ Vương thì gốc rễ, cành, lá, đều trị lành các bệnh, Bồ-tát cũng như vậy, ba nghiệp đều có thể cứu chúng sanh. Thân Như ý châu vương thì như báu ma ni, có thể ban tất cả điều vui, Bồ-tát cũng như vậy, hễ ai thấy nghe đều được lợi ích. Giải thích danh hiệu Quán Thế Âm là khen ngợi thân Dược Thọ Vương, giải thích tên Phổ Môn là nói thân Như ý châu vương, đây là một cặp về hai thân.

6/ Giải thích danh hiệu Quán Âm là nói lên nghĩa chúng sanh có cảm, nêu Phổ môn là nói Bồ-tát có ứng, ban đầu cảm chẳng phải không ứng, sau ứng chẳng phải không cảm. Nhưng ban đầu nói ứng để thành cảm, sau nói cảm để thành ứng, đây là một cặp về cảm và ứng.

7/ Nêu danh hiệu Quán Âm là khen ngợi Bồ-tát có thể ban sự vui cho chúng sanh ở thế gian, nêu tên Phổ môn là nói lên nghĩa Bồ-tát có thể ban cho chúng sanh sự vui ra đời gian, cho nên đoạn văn trước nói tiêu trừ bảy nạn, tròn đầy hai cầu nguyện, tức ban sự vui thế gian. Sau nói ba mươi ba thân, mười chín lần nói pháp đều được độ, tức ban sự vui xuất thế gian, đây đều là nói chung, chẳng phải nói riêng. Trước ban vui thế gian, sau ban vui xuất thế gian, đây là thứ lớp của pháp môn, tức là một cặp về thế gian, xuất thế gian.

8/ Nêu Quán Âm là nói về thần thông, do quán xét âm thanh của chúng sanh tức là thiên nhĩ thông, nói Phổ môn tức thị hiện. Trong sáu thần thông thì có ba thứ là thần thông chẳng phải là thị hiện, đó là thiên nhĩ, thiên nhãn và túc mạng. Ba thứ vừa là thần thông, vừa là thị hiện, đó là tha tâm, thần túc và lậu tận. Lậu tận thì nói pháp, thần túc thì chuyển biến, tha tâm thì biết căn cơ, tức dùng sự khiến người tin nghiệm nên gọi là thị hiện, đây là một cặp về thần thông và thị hiện.

9/  Nêu danh hiệu Quán Âm là nói lợi ích thầm, nêu Phổ môn là nói lợi ích hiển, sau hiện thân nói pháp nên gọi là hiển, trước không hiện thân nói pháp mà có thể khiến chúng sanh khỏi ách nạn nên gọi là lợi ích thầm. Bồ-tát cứu chúng sanh không ngoài hai nghĩa hiển và mật, tức là một cặp về mật và hiển.

10/ Nêu Quán Âm là nói danh hiệu của Bồ-tát, nói Phổ môn là nói lên đức của Bồ-tát, đây là một cặp về tên và đức.

Phẩm này tuy ý nghĩa có đủ mười cặp mà nay dùng tên và đức làm chính, như kinh Đại Phẩm cũng dùng hai môn để nói Bà-nhã là nói ý nghĩa danh hiệu Bồ-tát và nói chỗ thực hành của Bồ-tát. Ý nghĩa danh

hiệu Bồ-tát là giải thích chữ Bồ-tát Ma-ha-tát, chữ này có Vô Lượng Nghĩa, cho nên lấy đây nói Bà-nhã. Nói chỗ thực hành của Bồ-tát là giải thích khen ngợi Đại thừa, nên lấy đây nói Bà-nhã.

Văn nầy cũng như vây, khen ngợi giải thích ý nghĩa chữ Quán Âm tức là nói Pháp Hoa, khen ngợi giải thích đức của Quán Âm cũng là nói Pháp Hoa.

Hỏi: Đây so với Bà-nhã có gì khác?

Đáp: Bà-nhã giải thích chung ý nghĩa tên và chỗ thực hành. Bồtát Ma-ha-tát là chữ chung cho nên giải thích chung tên. Kinh này giải thích chữ Quán Âm là giải thích tên riêng, Bà-nhã giải thích chung chỗ thực hành của các Bồ-tát, kinh này giải thích riêng đức ba mật của Quán Âm. Lại, Bà-nhã là giải thích chung về lợi mình lợi tha, nay chỉ giải thích môn hóa tha. Bà-nhã có đủ hai môn tue để giải thích, nay chỉ nói môn phương tiện để giải thích.

Nói danh hiệu Quán Âm, nước ngoài gọi là A-lê-gia-bà-lâu-cátđể-thuế, Hán dịch là Quán Thế Âm, Bồ-tát thì có nhiều tên, nay theo phẩm này trong phần Phật trả lời lần nói lược ba tên; Quán Thế Âm, Quán Thế Ý và Quán Thế Thân. Bậc Thánh thì không có tên, nhưng vì chúng sanh mà đặt tên, là muốn chúng sanh phát sanh ba nghiệp thiện. Đặt tên Quán Thế Âm là khiến chúng sanh xưng tên sanh miệng nghiệp thiện, đặt tên Quán Thế Ý là khiến chúng sanh nhớ nghĩ sanh ý nghiệp thiện, đặt tên Quán Thế Thân là khiến chúng sanh lễ bái cung kính sanh thân nghiệp thiện, do phát sanh đầy đủ ba nghiệp thiện nên đặt ba tên này.

Hỏi: Đã đủ ba tên, sao chỉ gọi là Quán Thế Âm?

Đáp: Ba tên thì đề không thể ghi đầy đủ, cho nên chỉ nêu một tên. Tên Quán Thế ý chỉ sanh ý nghiệp thiện, tên Quán thế thân là sanh thân nghiệp và ý nghiệp thiện, do ý nghĩa sanh thiện bị hạn cục nên không nêu. Nếu miệng nghiệp xưng danh thì phải đầy đủ ba nghiệp, do sanh thiện nhiều cho nên đặt tên Quán Thế âm. Ý nghiệp là nhớ nghĩ, thân nghiệp thì lễ bái, chỉ là lợi mình mà chưa được lợi tha cho nên không đặt hai tên về thân và ý. Miệng xưng Quán Âm thì có đủ cả lợi mình lợi tha cho nên đặt tên Quán Thế âm. Cõi nước Ta bà dùng âm thanh thành Phật sự, ý nghĩa đã hiển rõ nên đặt tên Quán Thế Âm. Các nghĩa khác không đúng nên không gọi. Tên Quán Âm là có hạnh nguyện. Thuở quá khứ gặp Phật Không Vương Quán Thế âm phát nguyện lấy tên Quán Thế Âm, nay y theo nguyện mà đặt tên. Lại nữa, thuở quá khứ Quán Âm ở cõi này thực hành đạo Bồ-tát, do đó được tên gọi Quán Âm, hai tên kia thiếu hai ý nghĩa này cho nên không nêu. Lại có kinh chép: Bồtát Quán Thế Tự Tại, tên này đầy đủ cả ba nghiệp, đối với danh nghĩa là tối thắng. Lại có kinh chép: Bồ-tát Quán Thế Âm, hoặc có thể dịch là không đúng. Kinh Hoa Nghiêm chép: Bồ-tát này trụ trong hành quang minh của pháp môn đại từ, do đó mà đặt tên là Quán Thế Âm. Lại, Bồtát này trụ trong Tam-muội Phổ môn quang minh, từ pháp môn sở trụ mà đặt tên. Sau lại chép: Ban sự vô úy, tên này là bao gồm chung, từ công dụng mà xưng tên.

Gọi là Quán Thế Âm: Quán là trí năng quán, Thế âm là cảnh sở quán, hợp trí và cảnh nên đề tên là Quán Thế âm. Quán đủ ba quán, cảnh đủ ba cảnh, đủ ba cảnh tức là chúng sanh phát ra tiếng là ở cổ, lưỡi, răng hòa hợp mà có tiếng, nghĩa là nhân duyên thanh, gọi là thế đế. Nhân duyên sanh pháp tức là tánh vắng lặng gọi là Chân-đế; cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa Trung đạo, tức là phi tục phi chân, Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Một âm thanh mà đầy đủ ba đế, Bồ-tát quán ba đế này tức là ba thứ quán.

Quán là ứng của Bồ-tát, Thế Âm là chiêu cảm của miệng nghiệp chúng sanh, cảm ứng đầy đủ nên đặt tên là Quán Thế Âm.

Hỏi: Vì sao gọi là Thế âm?

Đáp: Vì trong ba thứ thế gian thuộc chúng sanh thế gian.

Sách ngoài chép: Dùng tiếng thành văn gọi đó là âm, Phật pháp không phân biệt âm và thanh, như Tạp Tâm chép: Thanh có ba loại:

  1. Do thọ âm thanh bốn đại, gọi là âm thanh chúng sanh
  2. Do không thọ âm thanh bốn đại, gọi là âm thanh phi chúng sanh.
  3. Do đầy đủ âm thanh, như người hợp với vật bên ngoài cùng phát ra tiếng, như là đánh chuông v.v… Nghĩa Thế âm có thể chung hai loại còn lại trong ba loại thanh này.

Gọi là Phổ môn, Phổ dùng biến khắp làm nghĩa, môn là khai thông không ngưng trệ. Lại môn là pháp môn, như kinh Hoa Nghiêm chép: Quán Âm trụ ở pháp môn đại từ, lại có thể thông đạo khiến chúng sanh ngộ nhập nên gọi là môn. Ý nghĩa chữ Phổ có ba:

  1. Tha tâm phổ, nghĩa là không suy nghĩ mà biết cùng tận pháp giới.
  2. Thần thông phổ, nghĩa là không động mà thích ứng mười phương hiện tiền.
  3. Nói pháp phổ, không lời mà có thể trình bày, tiếng giáo pháp vang khắp tám hướng.

“Bấy giờ ngài Vô Tận Ý,v.v…”, đây là giải thích cả hai, trước hỏi đáp về tên ngài Quán Âm, sau là hỏi đáp giải thích đức của Quán Âm.

Phần hỏi đáp đầu gồm có hai phần. Phần hỏi có ba câu:

  1. Người năng hỏi.
  2. Phép tắc hỏi.
  3. Chánh hỏi.

Phần đáp cũng có ba câu, người năng hỏi tức là ý nghiệp, phép tắc hỏi là thân nghiệp, chánh hỏi là miệng nghiệp, ba chương hợp lại gồm có mười câu.

“Lúc bấy giờ”, đây là nói về thời gian, do trong chúng có tám muôn bốn ngàn người thích ứng được phát tâm, cho nên ứng thời mà hỏi.

“Bồ- Vô tận ý tát”, đây là người năng hỏi, gồm có tên riêng và tên chung. Nước ngoài gọi là A Sai mạt, Hán dịch là Vô Tận ý. Kinh Đại Tập chép: Lúc ban đầu phát tâm đã không thể cùng tận, huống chi là trí tuệ, thần thông, từ bi, nói pháp, mà có thể cùng tận hay sao?

Chánh ý mà nói thì chúng sanh vô tận nên lòng đại bi vô cùng, vì thế nói Bồ-tát Vô Tận Ý là tên chung. Kinh Đại Tập chép: Người ấy là Phổ hiền Như lai, Đại sĩ nhất sanh bổ xứ ở thế giới phương Đông, nếu nói theo nguồn gốc thì chính là thầy của Chư Phật mười phương, những người được Ngài hóa độ đều đã thành Phật.

“Liền từ chỗ ngồi đứng dậy v.v…” đây là phép tắc để hỏi, gồm có ba câu:

1- Nói từ chỗ ngồi dưng dậy, Hiếu kinh chép: Tăng tử rời khỏi chỗ ngồi làm lễ thưa rằng; thưa hỏi thì đứng dậy.

2- Vén áo bày vai phải: Sách ngoài chép: lao nhọc mà không vén y, trong giáo pháp khi hỏi đạo thì vén y bày vai, đây là do phong tục không giống nhau. Các nước khác để đầu trần mà làm lễ, Trung hoa thì đội mũ là cung kính.

3- Chắp tay hướng vì Phật, bày vai là biểu hiện thân cung kính, chắp tay là biểu hiện tâm chuyên nhất, như bàn tay vốn là ở hai chỗ nay hợp thành một, tâm vốn theo các duyên nay kiềm chế mà không tán loạn, tâm đã vắng lặng khó thấy, cho nên mượn việc bên ngoài để nói lên tâm bên trong.

“Mà bạch Phật rằng v.v…” đây là phần chánh hỏi, gồm có bốn câu; ban đầu thưa là kiểm soát miệng nghiệp, bạch Thế tôn là chánh thức nói, gồm có ba:

1/ “Thế tôn”, đây là nêu tôn hiệu, tức là biểu hiện đức của người năng đáp, nếu không phải đức Thế tôn thì không ai có thể giải thích sự nghi ngờ này, sắp trình bày điều nghi cho nên nêu người chủ giải nghi.

2/ “Bồ-tát Quán Thế âm”, đây là chỗ nghi về người.

3/ “Vì sao?”, đây là lời nghi, nhân là nguyên nhân, duyên là dựa vào, vì sao có tên này. Tên gồm có hai thứ là có nhân duyên và không có nhân duyên. Như ngài Xá-lợi-phất do mẹ mà có tên, Ngài Mục-liên do dòng họ, đây là có nhân duyên. Đề La Bà Di thật không ăn dầu mà ép gọi tên là ăn Dầu, đây là không có nhân duyên. Nay là chưa biết tên Quán Thế âm chẳng biết có nhân duyên hay không cho nên hỏi. Có nhân duyên mà đặt tên gồm có bốn thứ:

  1. Từ chỗ đến mà đặt tên, như sanh về cõi trời nên gọi là trời.
  2. Từ hình tướng mà đặt tên, như thân có tướng lạ, do đó mà đặt tên.
  3. Từ lỗi mà đặt tên, như trộm cướp v.v…
  4. Từ đức mà đặt tên, như các Hiền Thánh.

Nay chưa biết do vì sao có tên Quán Thế Âm.

Hỏi: Vì sao Vô Tận ý hỏi tên Bồ-tát Quán Thế âm?

Đáp: Ba nghiệp của Bồ-tát đều là lợi duyên, do trong chúng có tám muôn bốn ngàn người thích ứng nghe tên được lợi ích, cho nên ngài Vô Tận Ý hỏi. Cũng muốn chúng sanh khổ não ở đời vị lai nghe tên được thoát khổ cho nên hỏi, cũng muốn nói lên đức của Bồ-tát Quán Thế âm, tức là nói kinh Pháp Hoa, Quán Thế Âm là người năng thừa, đức của ba luân là pháp sở thừa. Hỏi về danh và đức tức đầy đủ cả năng thừa và sở thừa, vì thế nói pháp Nhất thừa.

Hạng người kiêu mạn thường cậy mình mà lăng nhục người khác, nay muốn nói lên ngài Vô Tận Ý không ỷ tôn quý cho nên hỏi về đức hạnh của người. Lại chúng sanh ganh ghét thường che giấu đức của người khác mà lại hay phơi bày chỗ xấu của người khác, pháp của Bồtát thì che giấu lỗi và nói lên đức của người khác, đây là khiến chúng sanh bắt chước học theo cho nên hỏi. Lại chỉ bày có điều nghi chưa rõ, tất cả Bồ-tát đều quán xét âm thanh ở thế gian, nay do nhân duyên gì mà chỉ riêng ngài tên Quán Thế âm. Lại Chư Phật ba đời là phát lời nói có hai cách:

  1. Tự khai mở, như phẩm đầu Phật từ Tam-muội ra không ai hỏi mà tự nói.
  2. Do người khác, tức đợi ngài Vô tận Ý hỏi rồi mới nói.

Phật trả lời có bốn trường hợp:

  1. Giải thích danh hiệu Quán Thế âm
  2. Khuyên trì danh hiệu.
  3. Nói so sánh về công đức trì danh.
  4. Tổng kết khen ngợi.

Do hỏi về tên cho nên trước phải giải thích tên, giải thích tên có lợi ích rộng nên khuyên trì danh hiệu. Trì danh hiệu một vị Bồ-tát này có phước đức bằng trì danh hiệu nhiều Bồ-tát cho nên khuyên trì.

Phần đầu lại chia làm ba:

  1. Giải thích danh hiệu Quán Thế Âm
  2. Giải thích danh hiệu Quán Thế ý
  3. Giải thích danh hiệu Quán Thế Thân

Trong mỗi câu đều giải thích trước, sau kết lời khen ngợi, tức ba lần giải thích, ba lần khen ngợi.Vô Tận Ý chỉ hỏi một tên mà Đức Phật trả lời nhiều, tức là hỏi lược mà đáp rộng như trên đã giải thích. Giải thích đầy đủ ba tên là muốn nói lên cảnh sở quán tròn đầy, quán năng chiếu đầy đủ. Cảnh không ngoài ba nghiệp nên chỉ quán ba nghiệp, vì thế lập ba tên, cảnh sở quán có đủ ba nghiệp, mà Bồ-tát năng quán chỉ có ý nghiệp.

Lại lập ba tên là để có chúng sanh xưng danh mà được độ, có chúng sanh riêng không thế nói, nhưng có tâm năng niệm, tự có chúng sinh miệng không thể nói tâm lại tán loạn không thể nhớ nghĩ nhưng dùng thân lễ bái. Chúng sanh thì kiêng cữ khác nhau cho nên phải đặt nhiều tên.

Trong phần giải thích danh hiệu Quán Thế âm thì có hai phần là đáp lược và đáp rộng, trước lược sau rộng là vì giải nghĩa. Trước gọi là đáp chung, sau gọi là đáp riêng; đáp chung tức gọi là cứu hết khổ của chúng sanh trong ba đường sáu đường, đáp riêng tức nói chỉ cứu khổ ở cõi Dục, trong cõi Dục thì thường là cứu loài người bị khổ, trong loài người khổ thì thường là cứu khổ ở Diêm-phù-đề, các phương khác thì không có những nạn vua quan, cướp bóc v.v… Trước đáp chung, sau đáp riêng là muốn nói lên nghĩa cảm ứng đã chu toàn, vì thế chia làm hai.

“Người thiện nam”, kinh Hoa Nghiêm gọi là Phật tử, các kinh khác thường gọi là người thiện nam, do có ý nghĩa nối kế nên gọi là tử, có tài năng gánh vác nên gọi là nam, thực hành có lợi cho người, phù hợp với lý, cảm được điều vui nên gọi là thiện.

“Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh”, đây là chánh đáp lời hỏi, gồm có bốn câu phân thành hai cặp.

1/ Chúng sanh chịu các khổ não, đây là duyên cảm. Tức là ý của xưng danh.

2/ Nghe Bồ-tát Quán Thế âm này một lòng xưng danh: đây là thể của cảm.

3/ Bồ-tát Quán Thế âm tức thời xem xét âm thanh kia.

4/ Đều được giải thoát, tức nói ý nghĩa của ứng. Hai điều trước là cảm, hai câu sau là ứng, tức là một cặp cảm và ứng. Hai câu trước là cảm, tức m thanh thế gian, hai câu sau là ứng, tức giải thích ý nghĩa quán. Đủ hai cặp này gọi là Quán Thế âm, để đáp lời hỏi của Vô Tận ý.

“Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh”, đây là nói chúng sanh chịu khổ rất nhiều. Nói chữ ức, Trung hoa dùng muôn muôn làm một ức. Luận Trí Độ chép: ngàn muôn làm một ức, đây do phong tục khác nhau.

“Chịu các khổ, não”, đây là nói về sự khổ chẳng phải một loại, khổ là tám khổ, cũng có vô lượng khổ, não là chín não, cũng có vô lượng não.

“Nghe Bồ-tát Quán Thế âm này”, đây là nói về xưng danh, tức là thể của cảm, nghĩa là lúc chưa chịu khổ đã từng nghe danh hiệu Bồ-tát, hoặc nghe từ kinh quyển, hoặc từ người truyền lại.

“Nhất tâm xưng danh”, nghĩa là ngày nay đang chịu khổ mà cầu cứu xưng danh. Nói nhất tâm là vì giải thích sự nghi vậy, nếu có xưng danh mà không được giải thoát là do không nhất tâm.

“Quán Bồ-tát Thế Âm tức thời xem xét âm thanh kia”, đây là nói quán xét căn cơ, tức là ứng duyên. Có người chấp văn này là thuộc ở trên, mà pháp sư Hưng Hoàng lại bổ túc thêm một chữ Bồ-tát Quán Thế Âm. Nay cũng là đủ không mất, nhưng văn này thuộc phần dưới. Làm sao biết? Bởi trên đã nói nghe danh hiệu Quán Thế âm này, lại nói nhất tâm xưng danh, đã nói tên rồi, cho nên câu sau là thuộc phần dưới, nói về ứng của Quán Âm.

“Đều được giải thoát”, đây chính là nói về ứng, tức là thoát khỏi khổ.

Hỏi: Vì sao xưng danh có người thoát khổ, có người không thoát khổ?

Đáp: Như trên đã nói, do có nhất tâm và không nhất tâm nên có thoát khổ và không thoát khổ. Có người thoát khổ được lợi ích thì ngài cứu độ, có người thoát khổ không được lợi ích thì Ngài không cứu. Cùng kết duyên với Bồ-tát Quán Âm thì có nhiều ít, duyên mỏng thiện ít nên không thoát khổ, duyên dày thiện nhiều thì được thoát khổ. Nghiệp của chúng sanh thì có nhất định và bất định, bất định thì có thể cứu, nhưng nhất định thì không thể cứu. Nói chữ định gồm có bốn ý:

  1. Tâm gây ra tội nặng, gây ra rồi tâm không hổ thẹn.
  2. Che giấu
  3. Làm rồi lại làm nữa.
  4. Khởi nguyện giúp đỡ.

Vì thế nhất định có quả báo, không thể cứu giúp.

Hỏi: Nếu không thể cứu giúp thì xưng danh không có lợi ích hay sao?

Đáp: Nay tuy không có lợi ích nhưng làm nhân cho đời sau.

“Nếu có người trì tụng danh hiệu”, đây là nói riêng cứu nạn để giải thích danh hiệu Quán Âm, gồm có bảy nạn:

  1. Cứu tai nạn về lửa.
  2. Cứu tai nạn về nước.
  3. Cứu tai nạn về gió bão.
  4. Cứu tai nạn về bị hình phạt giết hại
  5. Cứu tai nạn La-sát
  6. Cứu tai nạn bị giam cầm.
  7. Cứu tai nạn về cướp bóc.

Đây đều là điều nguy cấp trong các tai nạn, cho nên trình bày sơ lược, ngoài ra còn có tật bịnh, cọp sói, sấm sét, lạc vào đường hiểm, xin xem trong kinh Quán Âm đều có chép đủ. Bảy nạn nầy chia hai ý:

  1. Ba loại đầu là nạn về vô tình.
  2. Bốn loại sau là nạn về hữu tình.

Hai ý này là bao gồm hết tất cả nạn. Nạn về vô tình thường không thể cứu được cho nên khó tránh khỏi, đoạn sau có nói. Lại nữa, nạn vô tình là ba tai nạn lớn, vừa rộng vừa dài, dài nên có thể đến cõi Tam thiền, rộng nên cả thế giới đại thiên đều hư hoại, vì thế trước nói nạn hữu tình không đúng. Quỷ nạn là: Giả sử đầy cả tam thiên không đến cõi trên. Nạn hữu tình thì ngắn lại hẹp, đoạn sau có nói đến, trong hai nạn này mỗi nạn lại có ba nạn, ba nạn vô tình là lửa, gió, nước, ba nạn hữu tình là mạng, thân, tài vật.

Nạn vô tình có hai thứ theo thứ lớp là:

Từ nhanh đến chậm; theo ba tai thì từ nhỏ đến lớn.

Nạn hữu tình thì từ nặng đến nhẹ cho nên trước nói mạng, sau nói tài vật. Và từ khó đến dễ, tức nạn về mạng khó thoát, nạn tài vật thì dễ thoát. Phần nói về nạn vô tình chia làm hai:

  1. Nói cứu ba nạn.
  2. Lời kết về danh hiệu Quán Âm.

Trong mỗi nạn ứng có bốn phần:

  1. Gặp nạn
  2. Xưng danh hiệu
  3. Quán xét căn cơ
  4. Thoát khỏi tai nạn

Hai câu đầu là giải thích nghĩa Thế âm để nói về cảnh, hai câu sau là giải thích nghĩa quán để nói về trí. Lại hai câu đầu là nói về cảm, hai câu sau nói về ứng, nhưng trước sau cùng hiện khác nhau, nay ăn chia làm bốn:

  1. Trì danh hiệu
  2. Gặp tai nạn
  3. Thoát khỏi nạn
  4. Kết thần lực

Hỏi: Trên nói trước gặp nạn sau xưng danh, nay vì sao nói trước trì danh sau gặp nạn?

Đáp: Việc lửa là gấp, nếu thân ở trong lửa mới xưng danh hiệu thì thân đã bị tan rồi, cho nên trước nói trì danh, sau nói gặp nạn. Những việc ứng nghiệm chẳng phải một, như chuyện Hội Khể, Cao Sĩ, Tạ Thuần tự Khánh Chữ. Ngô Quận, Trường Ảnh, Huyền Lăng Đăng v.v… đều chép trong sách Quán Âm Nghiệm Ký, đều nói về việc lửa cháy.

Xưa có người Tây Vực ở trong mái nhà tranh, bỗng gặp người hàng xóm bị cháy nhà. Người Tây Vực này lại ở dưới gió, liền tụng niệm Quán Âm khiến những ngôi nhà ở xung quanh cháy hết mà nhà tranh đó không bị cháy. Bấy giờ có những người trẻ tuổi không tin việc này, mấy đêm liền ném đuốc lửa lên nhà người ấy, ba lần ném thì ba lần đều tắt.

Hỏi: Xưng danh vì sao được thoát nạn lửa?

Đáp: Do thần lực của Bồ-tát khiến lửa tự tắt, hoặc hồi chuyển thế gió khiến lửa không thiêu đốt, hoặc dẫn người nạn ra khỏi chỗ lửa, hoặc rưới mưa khiến lửa tắt, hoặc lửa tự nhiên không thiêu đốt, hoặc dùng vật khác để ngăn lửa, hoặc khiến đắc thiền định, không, Tam-muội tùy theo căn cơ thích hợp.

Hỏi: Vì sao nói dầu nhảy vào lửa lớn, lửa không thể thiêu?

Đáp: Nếu chưa nhảy vào lửa mà xưng danh được thoát, hoặc sẽ cho rằng không có thần lực của Quán Âm, nay nhảy vào lửa mà không đốt cháy thì biết đó là năng lực của Bồ-tát.

Hỏi: Lửa nhỏ cũng có thể thiêu người, vì sao phải nói là lửa lớn?

Đáp: Hoặc có người cho rằng lửa nhỏ không thể thiêu, hoặc cho rằng do năng lực của cấm chú nên khiến lửa nhỏ không thiêu, nay nói vào lửa lớn không bị thiêu tức biết đó là năng lực của Bồ-tát.

Kế nói về nạn nước có ba ý là gặp nạn, xưng danh hiệu và được chỗ cạn. Hai ý trước là nói về âm thanh ở thế gian để nói về cảm, ý sau là giải thích nghĩa quán để nói về ứng. Nước lớn mới có thể làm hại, nhỏ thì không thể hại, cho nên trước nói lửa gấp, sau nói nước chậm.

Hỏi: Nói nạn lửa thì trước trì danh sau gặp nạn, sao nạn nước thì trước gặp nạn sau trì danh.

Đáp: Chạm lửa thì hại người cho nên trước phải trì danh, nước thì không đúng. Có người trước trì danh sau gặp nạn, có người trước gặp nạn sau xưng danh, cả hai đều được cứu.

“Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh”, đây là nói về nạn gió bão. Sở dĩ biết gió đây là nạn bởi y theo thứ lớp ba tai là lửa, nước, gió. Do gió thổi ghe thuyền trôi tấp vào cõi nước quỷ La-sát, cho nên lửa có thể đốt là nạn, nước có thể làm chìm là nạn, gió có thể thổi là nạn, văn nầy chia hai phần:

  1. Nói âm thanh ở thế gian để nói về cảm.
  2. Giải thích ý nghĩa chữ Quán để nói về ứng.

Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Gặp nạn
  2. Xưng danh

Gặp nạn lại chia làm hai phần:

  1. Nói chuyện gặp nạn
  2. Chánh gặp nạn

“Nếu có vô lượng”, tức nói người gặp nạn chẳng phải một người.

“Vì tìm bảy thứ báu”, đây là nói nguyên nhân gặp nạn, bảy thứ báu có nhiều chỗ nói khác nhau. Kinh Niết-bàn nói bảy báu là: voi trắng, xe vàng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, cư sĩ, chủ binh, đây là bảy thứ báu của vua Chuyển Luân, những người khác không có.

Kinh Hằng Thủy nói thế gian có bảy báu là: Vàng, Bạc, San hô, Ngọc trắng, Xa cừ, Minh nguyệt, ma ni.

Phật pháp cũng có bảy báu là: Bốn quả vị La-hán, Bồ-tát, Bích chi và Phật.

Luận Trí Độ quyển 1 nói về bảy báu là: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, ânhâu.

Kinh này nói vật báu thứ bảy là hổ phách, chân châu chẳng phải nằm trong số bảy báu nên nói câu: các thứ báu.

Phẩm Hiện Tháp báu chép: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, mai khôi. Có kinh chép: chánh báu có bảy thứ, tạp báu có một trăm hai mươi thứ.

“Giả sử gió đen thổi ghe thuyền kia”, đây chính là nói gặp nạn. Theo kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ gió, theo kinh Nhân vương nói có năm màu gió, là gió xanh, gió đỏ, gió đen v.v… Luận Thành Thật nói gió không màu sắc, lại nói trong gió hoặc có nhiều xúc mà không hương, hoặc có hương, xúc mà không có sắc vị.

Có người nói sắc gió đen, việc này không đúng, gió nầy làm nhân cho sắc đen, chẳng phải sắc đen. Nay nói gió đen là do truớc khi khởi gió thì có mây đen nên nói gió đen nên nói gió đen. Lại nói rằng lúc gió này sắp khởi thì trên biển có khí đen, vì thế lấy đây làm tên. Lại chép: Thổi cát đen trên bờ biển nên gọi là gió đen.

“Thổi ghe thuyền kia”, sách chép rằng: từ đất này trở về Tây gọi chữ thuyền, từ đây trở về Đông gọi là ghe.

“Thổi trôi tấp vào nước quỷ La-sát”, do sức gió khiến trôi vào nước quỷ, chẳng phải nạn quỷ.

“Trong ấy nếu có người xưng danh hiệu”, đây là nói phần xưng danh, như người cùng thuyền vui buồn thì nên đều xưng danh, nhưng nói mỗi người xưng danh là nói lên tâm đồng nhau, nói một người xưng danh mà mọi người thoát nạn, là nói lên Bồ-tát có thần lực lớn.

“Thời các người đó đều được thoát nạn”, đây là giải thích nghĩa quán xét để nói về ứng.

“Do nhân duyên này”, đây nói về nạn vô tình xong nên tổng kết để đáp lời hỏi trên.

“Nếu lại có người”, đây là nói về nạn hữu tình, so với trước là nạn lớn trên đất liền. Sở dĩ trong ba tai nạn không có địa tai mà có địa nạn, đất do chế ngự mà thành nạn, không chế ngự thì chẳng có nạn. Tai thì tùy ý mà khởi, không cần người chế ngự cho nên không có địa tai. Lại cõi Tứ thiền không có tai họa bên trong cho nên bên ngoài không có địa tai, nay có người chế ngự cho nên có địa nạn, so với ở sau là nạn hữu tình. Hợp bốn nạn làm ba phần, như trên đã giải thích. Hai loại đầu nói nạn về thân mạng, do mạng là quan trọng cho nên nói trước, nước, lửa, gió đều là hại mạng, đây kế với văn trên cho nên trước nói nạn về mạng. Trong phần nạn về mạng thì trước là người sau là quỷ, bởi nạn về người thì thấy rõ, nạn về quỷ thì ẩn kín, cho nên nói từ hiển đến ẩn. Lại kế phần nạn lửa, nước, gió, kế nói đến đất, cho nên trước nói người sau nói quỷ.

“Dầu là có người hoặc có tội”, đây là nói về thân nạn, xiềng xích

trói buộc thân nên gọi là thân nạn. Bàn nói về ba đời thì đều có tội, mà trong kinh nói hoặc không tội, là do hiện tại không làm nên nói không mà thôi. Kinh chép: Có chín thứ đại hoạnh, cũng do hiện tại không làm nên nói hoạnh. Nếu không tội mà chịu khổ là không nhân mà có quả, thì việc này không đúng.

“Nếu trong cõi Tam thiên đại thiên đầy kẻ cướp bóc”, đây là nói về tài vật nạn. Trong kinh nói mang theo nhiều của báu cho nên biết là tài vật nạn, trước giải thích nghĩa Thế Âm để nói về cảm, sau giải thích nghĩa quán để nói về ứng. Phần đầu chia làm hai là gặp nạn và xưng danh hiệu.

“Trong ấy có một người xướng rằng”, đây là nói phần xưng danh hiệu, ban đầu là khuyên xưng danh, sau là mọi người vâng lời mà xưng danh. Phần khuyên xưng danh chia làm bốn:

  1. Dặn dò
  2. Khuyên bảo
  3. Giải thích lời dặn
  4. Giải thích lời khuyên.

“Các vị phải nhất tâm xưng danh”, đây là khuyên bảo

“Vị Bồ-tát đó hay thí pháp vô úy cho chúng sanh”, đây là giải thích lời dặn chớ nên sợ sệt. “Nếu các vị xưng danh…” là giải thích lời khuyên.

“Các người buôn nghe rồi”, đây là nói vâng lời mà xưng danh.

“Vì xưng danh hiệu ấy”, đây là giải thích nghĩa quán xét để nói về ứng.

“Vô tận ý v.v…” trước đã giải thích tên nay là khen ngợi danh đức.

“Nếu có chúng sanh nặng về dâm dục v.v…”, đây giải thích về Quán Thế ý.

Trong tâm thường niệm danh hiệu, do quán sát ý nghĩa nên được lìa ba độc, cho nên đây là giải thích Quán Thế Ý,

Hỏi: Vì sao giải thích tên Quán thế Ý mà nói dứt ba độc?

Đáp: Dứt hoặc thì thân miệng cần có ý.

Trên là nói cứu quả khổ nay là cứu nhân khổ, trên là cứu thân nạn, nay là cứu tâm nạn, trên là cứu nạn nhục thân, nay là cứu nạn pháp thân, trên là cứu nạn thế gian, nay là cứu nạn xuất thế gian, trên là cứu nghiệp chướng báo chướng, nay là cứu giúp chướng phiền não, trên là cứu nạn một đời, nay là cứu nạn ba đời, trên là cứu nạn trong loài người, nay là cứu nạn trong ba cõi, trên là người thực hành cạn, nay là người thực hành sâu, trên là tạm cứu nạn, nay là cứu nạn lâu dài. Văn nầy chia làm hai:

  1. Giải thích tên Quán Thế Ý
  2. Khen ngợi danh hiệu và khuyên chúng nghĩ rằng nhớ.

Nói cứu ba độc chia làm ba thứ khác nhau là tham, sân, si, trong mỗi câu đều trước giải thích nghĩa thế ý để nói về cảm, sau giải thích nghĩa quán để nói về ứng, như câu: liền được lìa dục.

Hỏi: Niệm Quán Thế âm vì sao lìa được ba độc?

Đáp: Do thường niệm khiến ba độc không khởi lên, thường niệm về thật tướng và pháp thân của Quán Âm tức sanh quán như thật, cho nên được diệt ba độc.

Lại, đây là Tam-muội niệm Phật, Tam-muội niệm Phật thì có thể đối trị tất cả chướng. Lại do thường niệm nên Quán Âm hiện thân vì họ nói pháp khiến ba độc không khởi. Lại do thường niệm nên Quán Âm có thể chuyển cảnh hiện tiền, như cõi trời Tịnh cư che khắp các thể nữ vì là bất tịnh.

“Nếu có người nữ muốn cầu con trai”, đây là giải thích tên Quán Thế Thân. Lại trên là cứu nạn có bảy nạn là thân nạn, ba độc là tâm nạn, nay là cứu nạn Vô. Cứu nạn vô gồm có hai thứ, là không có con trai và không có con gái. Trên là đại bi cứu khổ, nay là đại từ ban vui, trên là cùng chúng sanh thực hành quả, nay có thể làm tròn đầy nguyện quả của chúng sanh. Hành có hai hạnh, nguyện cũng có hai nguyện.

Hỏi: Giải thích ba tên có thứ lớp gì?

Đáp: Bảy nạn là khổ nặng cho nên nêu trước, kế nói ba độc làm tâm phiền não, không có con trai con gái là việc cầu mong không gấp nên nói sau cùng.

Hỏi: Vì sao gặp bảy nạn thì xưng danh, có ba độc thì thường niệm, không con trai con gái thì cúng dường lễ bái.

Đáp: bảy nạn là việc gấp, thời gian ngắn không rãnh để lễ bái cúng dường, cũng không kịp để tỉnh tâm nhiếp niệm nên chỉ xưng danh hiệu. Ba độc thì thời gian dài lại khó dứt, phải có đạo đối trị nên thường niệm danh hiệu. Không con trai con gái mà cầu nguyện là khác với hai loại trên nên lễ bái cúng dường. Lại nữa, danh hiệu Quán Âm đầy đủ hạnh nguyện nên ban đầu khiến xưng danh, hai tên khác có hạnh mà không nguyện tức nêu ở sau, trong hai tên này thì ý là gốc, thân là ngọn, lại có thứ lớp, trước là giải thích danh hiệu, sau là khen ngợi danh hiệu.

Hỏi: Không có con trai con gái gá thác sanh làm người cho nên

hiện thân đồng nam đồng nữ, lại nghiệp của mẹ và con tuy là có duyên đời trước mà không quyết định, nay có sức tu phước nên khiến người tốt gá sanh.

Hỏi: Vì sao nói con trai có phước đức trí tuệ, con gái có tướng xinh đẹp?

Đáp: Người nam có một trăm hạnh mà trí là đầu, người nữ có bảy đức thì dung nhan đứng đầu.

Văn này trước nói nghĩa thân thế gian để nói về cảm, sau giải thích nghĩa Quán để nói về ứng.

“Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì”, đây giải thích ba danh hiệu đã xong nên kết lời khuyên thọ trì.

“Nếu có người thọ trì danh tự”, đây là nói phần công đức trì danh, chia làm bốn phần:

  1. Nói sự thực hành trì danh nhiều và hỏi Vô Tận Ý về công đức
  2. Đáp lời Thế tôn hỏi
  3. Chính là nói về so sánh công đức. Kết lời khen ngợi trì danh hiệu.

Sở dĩ có phần này vì lúc ấy đại chúng nghi ngờ rằng:

Thọ trì danh hiệu Quán Thế âm có công đức này, nhưng thọ trì danh hiệu khác có được như vậy không?

Vì thế nói so sánh công đức hơn kém, thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng sa Bồ-tát có công đức bằng với thọ trì một danh hiệu Quán Âm, nhưng trì nhiều danh hiệu thì khó, trì một danh hiệu là dễ, đây muốn giải thích khuyên trì danh hiệu nên so sánh nói công đức. Phật hỏi gồm ba ý:

  1. Nói trì nhiều danh hiệu
  2. Nói trọn đời cúng dường là thời gian lâu dài.
  3. Nói các thứ cúng dường tức cúng dường rộng.

“Phật dạy: nếu có người thọ trì”, đây chính là nói về so sánh công đức, lại có hai phần:

  1. Nói ba việc về thọ trì danh hiệu Quán Âm là trì danh ít, thời gian ngắn và cúng dường hẹp.
  2. Nói về so sánh công đức tức câu: “thời phước của hai người…”

Hỏi: So sánh có bảy loại:

  1. Phàm không bằng Thánh, như kinh Đại Phẩm chép: Dạy một người đắc Sơ quả thì hơn dạy người ở cả Diêm-phù-đề thực hành mười điều lành.
  2. Ít không bằng nhiều, như người Nhị thừa không bằng Bồ-tát.
  3. Cạn không bằng sâu, như thực hành cạn không bằng sâu
  4. Nhân không bằng quả, như Bồ-tát không bằng Phật
  5. Có sở đắc chẳng bằng không có sở đắc, như sáu độ thế gian không bằng sáu độ xuất thế gian.
  6. Ngọn không bằng gốc, như năm độ tuy là không có sở đắc mà cuối cùng không bằng Bà-nhã, bởi Bà-nhã là gốc.
  7. Vô duyên không bằng có duyên, như Phật giáo hóa Tu-bạt-đàla không bằng ngài A nan.

Ở đây thuộc loại so sánh nào?

Đáp: Có người chép: sáu mươi hai ức Bồ-tát là nhân. Quán Âm vị là cổ Phật, tức là nhân không bằng quả. Thử hỏi tất cả nhân đã không bằng quả, chẳng lẽ mươi hai ức Bồ-tát bằng các quả sao?

Có người nói sáu mươi hai ức Bồ-tát là thực hành cạn, Quán Âm là thực hành sâu, thử hỏi: kinh không nói sáu mươi hai ức Bồ-tát là thực hành cạn, Quán Âm là thực hành sâu lại hành cạn không thể bằng sâu thì sao sáu mươi hai ức Bồ-tát lại bằng Quán Âm như văn kinh.

Có người chép: Quán Âm là giáo chủ, sáu mươi hai ức Bồ-tát là Thánh chúng, vì là thính chúng nên không bằng giáo chủ. Nạn rằng: vì là thính chúng nên không bằng, không phải chỉ sáu mươi hai ức không bằng mà tất cả thính chúng cũng không bằng. Nay nói sáu mươi hai ức Bồ-tát và Quán Âm là ngang bằng về địa vị và chỗ thực hành, nhưng nói chỗ không bằng, thì các kinh nói có hai thứ:

1/ Bình đẳng, như ngài Diệu Âm được Tam-muội phổ hiện sắc thân, tám muôn bốn ngàn Bồ-tát cũng được như vậy, tức ngài Diệu Âm và Bồ-tát là bình đẳng, cúng dường và trì danh đều bình đẳng không khác.

2/ Không bình đẳng, sáu mươi hai ức Bồ-tát thật là ngang bằng với Quán Âm, nay muốn mọi người tôn trọng ngài Quán Âm, nên ở chỗ bình đẳng mà nói không bình đẳng. Cũng như khen ngợi Chư Phật nói kinh, lễ bái Phật Bảo Quang Minh chỉ diệt được tội trong sáu mươi mốt kiếp sanh tử, lễ Phật Câu-lưu Tôn diệt được tội trong vô lượng kiếp.

Kinh Thiên Phật Nhân Duyên chép: Lễ Phật Thường Bảo Tràng Ứng Ni Quang diệt được tội trong bảy trăm muôn a tăng kỳ kiếp, lễ Phật Hoan Hỷ Trang Nghiêm Bảo Vương diệt dược tội trong năm trăm muôn a tăng kỳ kiếp. Đây là chỉ bày môn không bình đẳng cho nên khiến chúng sanh tâm cao thấp, nếu thật bình đẳng mà nói bình đẳng thì chúng sanh không khởi tâm tôn trọng nghiêng về ngài Quán Âm.

Luận Pháp Hoa chép: Thọ trì danh hiệu Quán Âm và thọ trì sáu

mươi hai ức Hằng sa danh hiệu Chư Phật.

Luận chép: Phật đều là Bồ-tát địa Đẳng giác, đã gọi là Đẳng giác, tức là Đẳng giác Phật.

Luận chép: Phước đức bình đẳng có hai nghĩa:

  1. Tín lực
  2. Biết rốt ráo

Tín lực có hai loại:

  1. Cầu thân mình như Quán Âm tự tại không khác, do tin rốt ráo.
  2. Sanh tâm cung kính Quán Âm, như Ngài có công đức, ở đây cũng như vậy, rốt ráo mà được.

Biết rốt ráo tức là quyết định biết pháp giới, Pháp giới gọi là pháp tánh, pháp tánh kia nhập Sơ địa, Bồ-tát có khả năng chứng nhập. Tất cả Chư Phật và Bồ-tát đều là bình đẳng thân, bình đẳng thân là pháp thân chân như, cho nên công đức thọ trì danh hiệu sáu mươi hai ức hằng hà sa Phật cũng bằng thọ trì danh hiệu ngài Quán Âm. Đại ý luận này nói bình đẳng không hai, nói về môn vô sai khác, ban đầu là tín không hai, sau là ngộ không hai, cùng với sự giải thích trước là không trái nhau.

“Vô tận ý, thọ trì danh hiệu v.v…”, đây là kết lời khen ngợi.

“Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng”, đây là giải thích Phổ môn, nói về đức của Quán Âm. Trên tuy là khen ngợi ngài Quán Âm có khả năng cứu khổ ban vui, nhưng không biết lấy gì để cứu độ, vì thế nay giải thích rằng: Mỗi nạn hoặc dùng thân nghiệp thần thông mà cứu độ, hoặc dùng miệng nghiệp nói pháp để cứu độ, hoặc dùng ý nghiệp thầm cứu độ, đây cũng có trước hỏi sau đáp, hỏi có ba ý:

  1. Nêu người hỏi
  2. Chánh hỏi tức bạch Phật
  3. Nói Bồ-tát Quán Thế Âm tức là người để hỏi, cũng có ba câu:
  4. Dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào, đây là hỏi về thân nghiệp.
  5. Vì chúng sanh nói pháp ra sao, đây là hỏi về miệng nghiệp.
  6. Năng lực phương tiện như thế nào, đây hỏi về ý nghiệp, “Phật bảo Vô tận Ý v.v…” đây là lời đáp có ba câu:

1. Chánh đáp, nói về đức của ba luân 2. Khuyến khích cúng dường 3. Tổng kết lời khen ngợi.

Ban đầu chính là đáp ba câu hỏi nên nói về đức của ba luân, đã có đức cao quý tức là ruộng phước cho nên phải cúng dường. Nói đức của ba luân tức là thí chủ, nói về cúng dường là nói lên ruộng phước, ruộng phước, thí chủ đã rõ ràng cho nên tổng kết lời khen ngợi.

Phần đầu lại chia làm hai:

  1. Nói riêng về thị hiện ba mươi ba thân và mười chín lần nói pháp
  2. Tổng kết tất cả thân giáo và phương tiện.Phần một lại chia làm ba:
  3. Phương tiện hiện thân bậc Thánh
  4. Phương tiện hiện thân phàm
  5. Phương tiện hiện thân phi phàm phu, phi Thánh.

Hiện thân bậc Thánh là nói bậc Thánh Ba thừa, tức ba thân khác nhau, trong mỗi lần đều đáp đủ ba câu hỏi. Vì đó nói pháp tức trả lời về miệng nghiệp, đáng dùng thân gì tức trả lời về ý nghiệp, tức hiện thân ấy đó là trả lời về thân nghiệp. Trên là từ hiển đến ẩn nên nói thân, miệng, ý, nay là từ gốc đến ngọn nên nói ý, thân, miệng, trước là ý nghiệp biết căn cơ, kế là hiện thân và sau là nói pháp.

Hỏi: Kinh này gom ba thừa về một, sao một lại chỉ bày ba thừa?

Đáp: Tuy nói gom ba về một mà không mất ý chia một làm ba, từ đầu kinh đến đây là nói phần chính là nói, nghĩa là gom dụng về thể, cho nên nói gom ba về một. Nay nói về phần truyền bá là từ thể khởi dụng, cho nên ở một nói ba.

Hỏi: Phẩm Diệu Âm có thân Bồ-tát, nay sao không có?

Đáp: Kia không nói nghĩa ba thừa cho nên có thân Bồ-tát, nay muốn nói về ba thừa, thân Bồ-tát là nhiếp nhập Phật thừa cho nên không nói.

Hỏi: Quán Âm là Phật hiện thân hay chẳng phải Phật?

Đáp: Kinh nói khác nhau nhau, kinh Quán Âm Tam-muội chép: Quán Âm thành Phật trước Ta, tên là Chánh Pháp Minh Như lai, ta là đệ tử tu khổ hạnh. Lại chép: Ta và Quán Âm đồng thời thành chánh giác. Kinh Quán Âm Thọ Ký chép: Quán Âm ở chỗ Phật Kim Quang Du Hý mới phát đạo tâm, vua nước ấy tên là Oai đức Vương. Oai đức vương nhập thiền định bỗng có hai đồng tử xuất hiện ở hai bên, vua xuất định hỏi tên họ, hai đồng tử nói bài kệ để đáp. Ban đầu nói đệ nhất nghĩa đáp là không tên, sau nói về thế đế là đáp có tên. Sau khi Phật Di-đà diệt độ, thế giới mãi vang pháp âm không dứt, đêm Đức Phật nhập diệt thì ngài Quán Âm bổ xứ, thế giới đổi tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, Phật hiệu là Phổ Quang Công đức Sơn Vương. Đại Thế chí cùng Bổ xứ với Quán Âm, Phật hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương. Phật Kim Quang Sư tử và Phật Di đà đều có ba thừa, hai Phật sau chỉ có thừa Bồ-tát, người nào nghe được danh hiệu hai vị Phật này thì được chuyển thân nữ, tiêu hết tội sanh tử trong bốn mươi kiếp.

Hỏi: Ngài Quán Âm vì sao lại có duyên ở cõi này?

Đáp: Kinh Hoằng Mãnh Hải Tue chép: Xưa ở cõi Diêm-phù-đề có vị vua tên là Thiện Thủ, có năm trăm người con, người thứ nhất tên là Thiện Quang gặp Phật Không Vương Quán Âm mà phát mười nguyện lớn:

  1. Nguyện đắc tất cả pháp
  2. Nguyện được thuyền Bà-nhã
  3. Nguyện gặp gió trí tuệ
  4. Nguyện được phương tiện khéo léo
  5. Nguyện độ tất cả mọi người
  6. Nguyện khiến tất cả vượt khỏi biển khổ.
  7. Nguyện được đầy đủ giới định.
  8.  Nguyện lên núi Niết-bàn.
  9. Nguyện gặp nhà vô vi
  10. Nguyện đồng tánh thân pháp, đều tôn Quán Âm đại bi làm đầu.

Quán Thế Âm phát nguyện rằng: Nguyện tôi đời sau thành Phật danh hiệu là Quán Thế Âm, nếu người nào xưng danh hiệu tôi ba lần mà tôi không đến cứu thì không được thân sắc mầu nhiệm, người trì nguyện này là thanh tịnh, trang nghiêm, do ngài thực hành đạo Bồ-tát ởcõi này nên gọi là có duyên với ở đây.

Hỏi Trong văn kinh chép: mà vì đó nói pháp, đây là pháp gì?

Đáp: Nói pháp thì không nhất định, gồm có bốn loại:

  1. Một thân nói một pháp môn.
  2. Một thân nói tất cả pháp môn
  3. Tất cả thân nói một pháp môn. Tất cả thân nói tất cả pháp môn.

Trong kinh Hoa Nghiêm thiện tri thức chỉ nói một pháp môn, nay ngài Quán Thế Âm hiện tất cả thân nói tất cả pháp môn.

“Người đáng dùng thân Phạm Vương”, đây là nói phương tiện hiện thân phàm phu, lại chia làm ba phần đó là trời, người và các loại.

Trời gồm có ba cặp:

  1. Hai vị trời đầu ở cõi Dục và cõi Sắc.
  2. Hai vị trời sau cùng ở cõi Dục và cõi Sắc.
  3. Hai vị thần ở cõi Dục và cõi Sắc.

Tuy có ba cặp mà không ngoài địa vị vua và bề tôi. Có người chép: Thiên đại tướng quân là lực sĩ cõi trời, như loại Kiền-Thát-Bà, Na-la-diên.

Có người nói loại quỷ thần, như đại tướng Kim Quang Minh, Tán chỉ, đại tướng Tán chỉ thuộc Tỳ-sa-môn, ý này xuất xứ từ kinh Đại Tập.

Có người nói là trời Vi-đà, trời Tỳ Nữu. Trời Tỳ-sa-môn là thiên vương ở phương Bắc, Hán dịch là Đa Văn, thường hộ trì đạo tràng của Phật và thường nghe nói pháp nên gọi là Đa Văn.

“Người đáng dùng thân Tiểu Vương v.v…” đây là nói phương tiện hiện thân người, cũng chia hai phần:

  1. Thị hiện thân vua
  2. Thị hiện thân bề tôi

Trong phần bề tôi có bốn hạng:

  1. Thị hiện thân tài giỏi
  2. Thị hiện thân bốn chúng3. Thị hiện thân phụ nữ . Thị hiện thân đồng chân.

Cư sĩ có hai hạng là cư sĩ ở nhà và cư sĩ có tiền tài, như trong văn kinh chép.

Bà-la-môn, Hán dịch là Ngoại ý, cũng dịch là Tịnh Hạnh. Kế đến là thị hiện thân tám bộ chúng.

Hỏi: Vì sao thọ thân rồng, v.v… mà không đắc đạo?

Đáp: Có bốn câu về thừa nhanh giới chậm

  1. Thừa chậm giới gấp, sanh ở cõi trời không đắc đạo.
  2. Thừa gấp giới chậm, sanh cõi quỷ, rồng mà được đắc đạo.
  3. Thừa và giới đều gấp, sanh cõi trời, người, mà được đắc đạo.
  4. Thừa và giới đều chậm, sanh ở các cõi không được đắc đạo

“Đáng dùng thân thần Kim cương”, đây là thị hiện thân phi phàm phi thánh. Đã là quỷ thần thuộc bốn cõi trời nên gọi là phi thánh, thật là Phật Lâu Chí nên gọi là thân phi phàm. Lâu Chí Hán dịch là Phật Đề khốc, riêng trong nửa kiếp hiền độ chúng sanh.

“Vô Tận Ý v.v…”, đây là tổng kết khen ngợi

“Cho nên các ông phải một lòng cúng dường”, đây là nói phần khuyên cúng dường, gồm có sáu phần:

  1. Khuyến khích cúng dường.
  2. Vâng theo lời dạy.
  3. Quán Âm không nhận vật cúng dường.
  4. Ngài Vô Tận ý lại xin cầu.
  5. Phật dạy Quán Âm nhận vật cúng dường.
  6. Quán Âm nhận xong lại dâng lên hai Đức Thế tôn.

Hỏi: Vô Tận Ý là Bồ-tát xuất gia, vì sao có chuỗi ngọc anh lạc?

Đáp: Tuy là người xuất gia mà không câu chấp Tiểu thừa, cũng nói rằng đây là Bồ-tát tại gia. Kinh Niết-bàn chép: Nhập chỗ vô cúng, đây là Bồ-tát tại gia ở phương khác, vốn chẳng phải ở cõi Ta ba nên không đem đến cúng. Mà nói pháp thí, tức là bố thí đúng pháp, vì pháp mà bố thí, lại thông đạt tài và pháp chẳng hai.

Quán Âm không thọ nhận là có ba ý:

  1. Muốn thí chủ sanh tâm ân cần tôn trọng.
  2. Muốn nhường lên hai đức Thế tôn.
  3. Chỉ bày hạnh ít muốn biết đủ.

Sau nói Quán Âm thọ nhận là trên để thuận ý chỉ của Phật, dưới thương xót tất cả chúng sanh.

Quán Âm chia vật cúng dường làm hai phần là muốn cho thí chủ được thêm phước đức. Nêu hai đức Thế tôn là chỉ bày sanh diệt bình đẳng không hai, đức Thích-ca hiện tại là trí, Phật Đa Bảo Niết-bàn là đoạn, nói trí và đoạn là ruộng phước. “Vô Tận Ý! Quán Thế Âm có sức thần như thế, trước nói về thí chủ và ruộng phước đã rồi, nay là tổng kết khen ngợi.

“Bấy giờ Bồ-tát Trì Địa”, đây là nói phần cùng khen ngợi, văn chia ba phần:

  1. Nói người khen ngợi: Trì Địa tức là địa năng trì, nên gọi là Trì Địa, do vị này được Tam-muội nên lấy đó làm tên.
  2. Phép tắc khen ngợi, tức từ chỗ ngồi đứng dậy.
  3. Chánh khen ngợi, “tức đến trước Phật bạch rằng”, ngài Trì Địa ngồi cách xa Phật, nay đến gần trước Phật nên nói là trước Phật bạch rằng.

“Phẩm Bồ-tát Quán Thế Âm nghiệp tự tại”, tức trùng với tên ban đầu đã nêu, do ba nghiệp tự tại nên gọi là nghiệp tự tại.

“Phổ môn thị hiện sức thần thông”, tức trùng với đức của ba luân phổ môn.

“Phải biết công đức người này chẳng ít”, đây là chánh khen ngợi.

“Phật nói phẩm Phổ môn này rồi”, đây nói phần lợi ích, đầu tiên nói người được lợi ích.

“Đều phát tâm vô đẳng đẳng”, đây chính là nói được lợi ích. Phật đạo thì không gì so sánh bằng, chỉ có Phật và hật là ngang nhau nên gọi đạo này là vô đẳng đẳng, vì thế gọi Phật là vô đẳng đẳng. Lại nói rằng: vô đẳng đẳng, Phật có hai nghĩa: dưới có chỗ khác, trên có chỗ bằng nhau, dưới có chỗ khác gọi là vô đẳng, trên có chỗ bằng nhau gọi là vô đẳng đẳng. Do Phật gọi là vô đẳng đẳng, nay phát tâm Phật nên nói rằng: phát tâm Vô đẳng đẳng.

PHẨM ĐÀ-LA-NI THỨ HAI MƯƠI SÁU

Hai phẩm Hộ nạn mở rộng kinh, một là người hộ nạn, như phẩm Quán Âm đã nói, nay muốn nói thần chú là pháp hộ nạn nên có phẩm này, ở trên nói mỗi Bồ-tát đều có mở rộng đạo lợi sanh riêng, phẩm này nói mọi người nói thần chú, nghĩa là có nhiều người cùng mở rộng kinh lợi ích chúng sanh. Nói Pháp Hoa có đủ loại môn, hoặc pháp hoặc người, hoặc hiển, hoặc mật. Như trên nói nhân quả tức đúng theo nói pháp kinh Pháp Hoa, nói đức hạnh của các Bồ-tát tức theo người nói Pháp Hoa, đây đủ cả người và pháp tức là hiển hiện môn nói Pháp Hoa, nay nói thần chú tức là môn bí mật nói Pháp Hoa.

Hỏi: Vì sao biết thần chú là Pháp Hoa?

Đáp: Cuối phẩm chép: Nghe thần chú này đắc Vô sanh nhẫn, há chẳng phải Nhất thừa ư!

Hỏi: Chỉ là một Pháp Hoa sao nói nhiều loại danh tự?

Đáp: Tuy là một kinh Pháp Hoa, mà tùy theo chúng sanh có chỗ ngộ khác nhau, cho nên nói nhiều tên. Như Luận chép: Bà-nhã là một pháp, Phật nói nhiêu thứ tên. Lại chép: Bà-nhã ở tâm Thanh văn gọi là Đạo Phẩm, ở tâm Bồ-tát gọi là Đà-la-ni, ở tâm Phật gọi là Tát-bà nhã, cho nên biết Đà-la-ni tức Bà-nhã, Bà-nhã tức nhất thừa.

Hỏi: Ởtâm Thanh văn sao gọi là Đạo Phẩm? Ở tâm Bồ-tát sao gọi là Đà-la-ni?

Đáp: Luận chép: Đạo Phẩm chỉ là hướng đến Niết-bàn, Thanh văn chỉ chán ghét sanh tử, ưa thích Niết-bàn, cho nên ở tâm Thanh văn gọi là Đạo phẩm, trong pháp Thanh văn không nói Đà-la-ni.

Bồ-tát muốn trì khắp tất cả hạnh, khiến thân không mất, muôn kiếp dạo đi, cho nên ở tâm Bồ-tát gọi là Đà-la-ni. Đà-la-ni thì có vô lượng môn, nay là chú Đà-la-ni, cho nên nêu chung để lấy riêng.

Hỏi: Chú là vật gì?

Đáp: Chư Phật và Bồ-tát nói pháp có hai thứ là hiển rõ và bí mật, chú là pháp bí mật. Như người thế gian có hai thứ pháp là hiển hiện theo tục nên cũng có hai thứ pháp.

Có người chép: Nói về chú không ngoài ba nghĩa:

  1. Nói quả cùng cực, đức cao quý, hoặc là nhân muôn hạnh, cho nên khiến người nghe phát tâm.
  2. Nói danh tự Ba bảo, hoặc là tên riêng của Chư Phật và Bồ-tát, hoặc tên của quỷ thần có sức mạnh, kêu gọi các tên này khiến Ma-da nghe liền kinh sợ lui sụt.
  3. Nói các pháp lý sâu xa vô tướng, khiến người nghe ngộ đạo đắc Vô sanh nhẫn.

Hỏi: Trong các kinh sao không dịch thần chú?

Đáp: Chú là bao gồmhiều lời, ở Trung quốc không có vật nào phỏng theo để ịch, nếu dịch thì không hết nghĩa, lại mất đi lực dụng. Như pháp cấm chú thì ở Trung quốc phải y theo lời chú mà đọc, thì sẽ có thần nghiệm, không được dịch ra tiếng bản xứ mà nói.

Hỏi: Vì sao đắc Đà-la-ni khiến người không quên?

Đáp: Ở đây có sáu ý:

  1. Do quá khứ tu tập đã được.
  2. Do chú thuật mà được.
  3. Do uống thuốc mà được, như là chư tiên.
  4. Nhân hiện tại tu tập mà được.
  5. Do thiền định mà được.
  6. Do thâm nhập thật tướng mà được.

Hỏi: Đà-la-ni và Tam-muội có gì khác nhau?

Đáp: Tam-muội thường dùng định đứng đầu, Đà-la-ni dùng niệm làm chính. Tam-muội chỉ có tâm tương ưng, Đà-la-ni thì hoặc tâm tương ưng, hoặc tâm không tương ưng. Mới tu gọi là Tam-muội, Tu-lâu gọi là tổng trì Đà-la-ni, như tu tập không đổi gọi là tánh. Tam-muội là gốc, Tam-muội hợp với thật tướng, phát sanh công đức gọi là tổng trì, như bình đất dùng lửa nung mới đựng nước được. Tam-muội lúc chuyển thân hoặc có thoái mất, trì chú Đà-la-ni thì không mất.

Hỏi: Tu tập nhân gì mà được trì Đà-la-ni?

Đáp: Có bốn thứ nhân để được trì:

  1. Không có ái dục.
  2. Không ganh ghét.
  3. Bố thí không hối hận.
  4. Ưa thích pháp.

Hỏi: Vì sao trì chú trừ được tai họa?

Đáp: Trong tất cả pháp mỗi pháp đều có tăng thượng, như lực nước tăng thượng diệt được lửa, lửa tăng thượng thì khô nước. Nay năng lực thần chú có thể trừ cácđiều ác cũng vậy. Ác có hai loại:

  1. Ác hữu tình, như ác quỷ v.v…
  2. Ác vô tình, như gió bão, mưa lũ v.v…, các nạn trong nạn ngoài đều được gọi là ác.

Luận Địa trì nói có bốn thứ trì:

  1. Pháp trì, là Văn tuệ.
  2. Nghĩa trì, là Tư tue.
  3. Chú trì, do thiền khởi chú là Tu tuệ.
  4. Nhẫn trì, là nhập chứng là Hành tuệ.

Về bốn địa vị trí này Luận Địa trì chép: Nghe nghĩa chú người ở ba địa trước thành tựu, chắc chắn bất thoái, đắc trước lúc ấy thì bất định, nhẫn trì khởi tức tự hiểu hành địa, thành tựu Sơ địa. Phẩm này chia làm ba phần:

  1. Đối với ngài Dược Vương mà nói kinh có phước đức nhiều.
  2. Mọi người nói chú ủng hộ người trì kinh.
  3. Đại chúng được lợi ích.

Phần đầu lại chia làm hai, trước hỏi và sau đáp:

Sở dĩ nói kinh có phước đức nhiều là gồm có hai nghĩa.

  1. Khiến người ưa thích phước mà trì kinh.
  2. Nói trì kinh phước nhiều cho nên kế nói chú để ủng hộ.

“Lúc bấy giờ, Bồ-tát Dược Vương”, đoạn này nói về năm người nói chú, Dược Vương và Dõng Thí là hai Bồ-tát, thiên vương Tỳ-samôn và thiên vương Trì Quốc là hai vị cõi trời, sau là quỷ thần.

Dược Vương nói chú gồm năm phần:

  1. Xin Phật cho nói.
  2. Chính là nói chú.
  3. Kể về người nói chú này, tức là sáu mươi hai ức hằng sa Phật.
  4. Nói lực dụng của chú.
  5. Đức Thích-ca khen ngợi.

“Án nhĩ”, chú này không thể dịch như trước đã nói, nhưng người đọc tụng nghe chú sẽ hoang mang không hiểu rồi không lưu tâm, nay y theo kinh chánh Pháp Hoa mà dịch nghĩa tương tự, thường là nói vềhật tướng của pháp bí mật.

“Án nhĩ”, Hán dịch là Kỳ Dị. “Mạn nhĩ”, Hán dịch là Sở Tư. “Ma Nễ”, Hán dịch là Ý Niệm. “Ma ma nễ”, Hán dịch là Vô Ý. “Chỉ Lệ”, dịch là Vĩnh cửu. “Già lê đệ”, dịch là sở hành phụng tu. “Xa mế”, dịch là tịch nhiên. “Xa lý đa vĩ”, dịch là đạm bạc. “Chuyên đế”, dịch là Chí mặc. “Mục đế”, dịch là giải thoát. Mục đa lý dịch là tế độ. Sa lý dịch là bình đẳng. A vĩ sa lý dịch là vô gia. Tang lý dịch là an hòa. Sa lý dịch là Phổ bình. Xoa duệ dịch là tận. A xoa duệ dịch là vô tận. A kỳ nhị dịch là mạc thoát. Chuyên đế dịch là Huyền mặc, Xa lý dịch là đạm nhiên. Đà-la-ni dịch là tổng trì. A lư dà Bà-sa ky đá tỳ xoa nhị, dịch là quán sát. Nễ tỳ thế dịch là quang diệu. A tiện đa la nễ lý thế, dịch là có chỗ nương dựa bên trong. A đàn dá ba lệ thâu địa, dịch là rốt ráo thanh tịnh. Âu cứu

lệ dịch là không có hầm hố. Mâu cứu lệ dịch là không có cao thấp. A la lệ, dịch là không có hồi chuyển. Ba la đệ dịch là chỗ châu toàn. Thủ ca sai dịch là mắt thanh tịnh. A ba ma ba lý dịch là Đẳng vô sở đẳng.

Phật đà tỳ kiết lợi diệt đế, dịch là giác đã vượt qua. Đạt-ma-balợi-sai-đế, dịch là quán sát pháp. Tăng-già-niết-cù-sa-ni, dịch là hợp chúng. Bà-xá-bà-xá thâu địa dịch là vô âm. Mạn-đá-lã-dịch là sự nói về ràng. Mạn-đá-la-xoa-dạ-đa, dịch là mà nhớ dừng đủ. Bưu-lâu-đa dịch là tận trừ tiết hạn. Bưu-lâu-đa-kiêu-xá lược dịch là tuyên dương âm hưởng. Ác-xoa-lã-dịch là hiểu rõ các tiếng. Ác-xoa-dã-đa-dã dịch là hiểu văn tự. A-ma-lư dịch là không có cùng tận. A-ma-nhã dịch là mãi không có thế lực. Na đa dạ dịch là không hề nhớ nghĩ gì.

Kế nói ngài Dõng Thí Nói chú chia làm ba phần:

  1. Nói ý nghĩa nói chú.
  2. Chính là nói chú.
  3. Nói về người nói chú, là hằng sa Đức Phật. “La-sát”, Hán dịch là đáng sợ. Kiết giá dịch là quỷ khởi thi. Cưu-bàn-trà, dịch là quỷ chán ghét cũng gọi là quỷ Đông qua (quả dưa), Phú-đơn-na dịch là quỷ khởi bịnh.

“Tọa lệ”, dịch là sáng chói. Ma ha tọa lệ dịch là ánh sáng lớn. Ức chỉ dịch là sáng rực. Mục chỉ dịch là giảng nói. A lê dịch là thuận đến. A la bà đệ dịch là phú chương. Niết lệ đệ dịch là vui vẻ. Niết lệ đa bà đệ, dịch là thích thú. Y trí nĩ dịch là dừng lại. Vị trí nĩ dịch là lập chế. Chỉ trí nĩ dịch là mãi trụ. Niết lệ trì nĩ dịch là không hợp. Niết lệ đa bà đệ dịch là không nhóm hợp.

Kế nói Tỳ-sa-môn nói chú cũng có ba phần:

  1. Nói ý nói chú.
  2. Chính là nói chú.
  3. Kết luận ý nói chú, lại phát thệ nguyện ủng hộ.

“A lê”, dịch là phú hữu. Na lê dịch là điều hý. Nâu na lê dịch là vô lý. A na lư dịch là vô lượng. Na lý dịch là vô phú. Câu na lý dịch là hà phú.

Thiên Vương Trì Quốc nói chú cũng có ba phần:

1/ Nói ý nói chú.

2/ Chính là nói chú.

3/ Nói về người nói chú, tức bốn mươi hai ức Đức Phật. “A-dànễ-dà-nễ”, dịch là vô số. Cù-lợi dịch là hữu số. Càn-đà-lợi dịch là diệu hắc. Chiên-đà-lệ dịch là trì hương. Ma-đăng-kỳ dịch là hung chú thường cầu lê dịch là đại thể. Phù lâu sa nỉ dịch là thiên khí thuận thuật. Át-để dịch là bạo ngôn chí hữu.

La-sát nữ nói chú gồm bốn phần:

  1. Nói ý nói chú.
  2. Chính là nói chú.
  3. Phát thệ ủng hộ người trì chú.
  4. Đức Phật khen ngợi.

Các La-sát tên là: Lam-Bà, Hán dịch là trói buộc. Tỳ-Lam-Bà dịch là lìa trói buộc. Khúc-xỉ dịch là thí tích. Hoa-Xỉ dịch là thí hoa. Hắc-Xỉ dịch là thí hắc. Đa Phát. Dịch là bị phát. Vô-Yếm-Túc dịch là vô trước. Trì-anh-lạc dịch là Trì-hoa. Cao Đế dịch là Hà-sở. Đoạt nhất thiết chúng sanh tinh khí, trong tâm chúng sanh có bảy giọt nước lớn, lấy một giọt hai giọt khiến người đau đầu, lấy ba giọt khiến tâm người mê loạn, lấy bốn, năm giọt thì chết.

La-sát nữ nói chú rằng: “Y đề lý”, Hán dịch là ư thị. Y đề dẫn dịch là ở kia. Y đề lý dịch là ở đó. A đề lý dịch là ở dân. Y đề lý dịch là cùng cực. Nê-lý dịch là vô ngã. Nê-lý dịch là không có tôi. Nê-lý dịch là vô thân. Nê-lý dịch là không có chỗ. Nê-lý dịch là đều đồng. Lâu hê dịch là đã sanh khởi. Lâu hê dịch là đã sanh. Lâu hê dịch là dã thành. Lâu hê dịch là không trụ. Đa hê dịch là nhi lập. Đa hê dịch là cũng trụ. Đa hê dịch là than thở. Đâu hê dịch là cũng không. Đâu hê dịch là tiêu trừ bịnh đầu không được hại thêm.

“Tỳ đà la” Hán dịch là quỷ sắc xanh, Kiền Đà dịch là quỷ sắc đỏ. Ô ma lặc già dịch là quỷ ăn tinh khí của người, cũng gọi là đại sát. A bạt ma la dịch là quỷ hình ảnh không áo giáp, kinh chú thích là quỷ chuyển gân.

“Như nhánh cây A-lê”, nhánh cây này rơi xuống đất thì gẫy thành bảy đoạn, dụ cho ai làm não loạn người nói pháp thì đầu vỡ thành bảy phần. Chánh Pháp Hoa dịch là “gãy cây hoa lê”.

PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ THỨ HAI MƯƠI BẢY

Theo luận là phần thứ ba nói về năng lực công đức tốt đẹp thời quá khứ, có thể xoay chuyển tà kiến của cha khiến cha phát tâm mà được thọ ký, tức là năng lực thiện tri thức mở rộng kinh Pháp Hoa; ngoài ra còn thuật lại ngài Dược Vương mở rộng kinh ở phẩm này. Trong phần truyền bá của kinh Pháp Hoa có bốn chỗ nói về ngài Dược Vương.

1/ Phẩm Pháp Sư, Phật nhân nói với Dược Vương để bảo tám muôn đại sĩ, nói đệ tử trong hai đời, pháp sư trong hai đời là khen người, khen pháp. Chỉ bày phương pháp Mở rộng kinh.

2/ Phẩm Dược Vương, nói về duyên quá khứ của ngài Dược Vương, do kinh Pháp Hoa mà được ngộ sau đó dùng thân mạng và tài vật để cúng dường báo ân, đây là nói hoằng pháp lợi người.

3/ Phẩm Đà-la-ni, nói về công đức trì kinh, ngài Dược Vương nói chú ủng hộ pháp sư.

4/ Phẩm này khen ngợi Dược Vương là thiện tri thức của chúng sanh, có khả năng làm cho vua cha bỏ tà về chánh, được thọ ký thành Phật.

Phần thứ hai và thứ tư là nói về việc quá khứ của ngài Dược Vương, phần thứ nhất và thứ ba là nói việc hiện tại của ngài Dược Vương.

Sở dĩ nói riêng việc trong hai đời của ngài Dược Vương, là do ngài có nhân duyên nhiều đối với kinh Pháp Hoa, cho nên chủ trì nói về truyền bá cũng là thích hợp căn duyên. Đúng ra là nói phẩm Dược Vương bổn sự, nhưng tránh trùng tên phẩm trên nên đặt tên theo người được giáo hóa cho nên nói là phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự, Sở dĩ vua Diệu Trang Nghiêm và Tịnh Tạng Tịnh Nhãn làm cha con với nhau, do đời quá khứ có bốn người đồng học vào trong núi tu đạo. Một người vào thành thị khất thực để cung cấp cho ba người, giữa đường gặp vị vua vinh hoa giàu sang bèn nghĩ rằng: Trong lúc chưa đắc đạo nên hưởng sự vui hấp dẫn này không phải là sung sướng sao? Sau đó ba người đắc đạo còn một người làm vua, ba người muốn độ thoát vị vua mà tự nghĩ rằng: Sự thân ái trong thiên hạ không gì bằng vợ con, vì thế một người làm vợ, hai người làm con để cùng giáo hóa nàh vua, do nhân duyên ấy mà đời nay quyến thuộc với nhau, phẩm chia hai phần:

  1. Nói về lý do.
  2. Chính là nói việc quá khứ.

Phần đầu lại chia làm năm đoạn:

  1. Nói thời gian quá khứ, tức vô lượng A Tăng kỳ kiếp.
  2. Nói về hóa chủ, tức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí.
  3. Nói về cõi nước, tức tên Quang Minh Trang Nghiêm.
  4. Nói tên kiếp ấy, tức là Hỷ Kiến.
  5. Nói tên cha và con, như trong văn dễ biết.

“Lúc bấy giờ, Đức Phật kia”, đây chính là nói việc quá khứ, gồm có hai phần:

  1. Hai con giáo hóa cha khiến bỏ tà về chánh, phát sanh tâm tin.
  2. Hai con giáo hóa cha khiến thấy Phật nghe pháp, được sự ngộ giải.

Thiện tri thức chỉ có hai năng lực này, nhờ hai năng lực này mà sanh hai luân. Ban đầu con dùng thần thông luân giáo hóa cha khiến sanh tín, sau là Phật dùng nói pháp luân giáo hóa nhà vua khiến được ngộ. Lại nữa, giáo hóa cha sanh tín là Bồ-tát làm thiện tri thức cho chúng sanh, giáo hóa hàn vua khiến được ngộ là Phật làm thiện tri thức chân thật của chúng sinh.

Chương đầu gồm có mười câu:

1/ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói kinh.

2/ Hai người con khuyên mẹ đến gặp Phật.

3/ Mẹ khuyên hai con giáo hóa vua cha.

4/Hai con tự than chốn mình sanh.

5/ Mẹ khiến các con nên nghĩ thương ha.

6/ Hai con giáo hóa cha.

7/ Vua cha nhận sự giáo hóa.

8/ Vua cha bằng lòng đi đến chỗ Phật.

9/ Hai con cầu xin xuất gia.

10. Mẹ bằng lòng cho con xuất gia, đọc văn kinh sẽ biết.

“Bấy giờ hai người con thưa cha mẹ rằng v.v…”, đây là nói giáo hóa vua cha khiến được ngộ giải, chia làm mười chương:

1/ Khuyên cha mẹ cùng đến chỗ Phật.

2/ Cha mẹ nhận lời đến chỗ Phật, tức vua Diệu Trang Nghiêm cùng các quan, phu nhân Tịnh Đức cùng các thể nữ đồng đến chỗ Phật.

3/ Đức Phật nói pháp cho vua nghe, chỉ dạy cho được lợi ích.

4/ Vua nghe pháp được ngộ giải.

5/ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí thọ ký cho nhà vua.

6/ Vua cùng quyến thuộc xuất gia được lợi ích, và vua khen ngợi hai người con là thiện tri thức.

7/ Đức Phật thuật lại lời khen ngợi hai người con.

8/ Vua Diệu Trang Nghiêm khen Phật xong làm lễ mà ra, đây chia làm bốn trường hợp:

  1. Khen Phật.
  2. Khen pháp.
  3. Phát nguyện không sanh tâm ác.
  4. Lạy Phật mà ra.

9/ Kết hợp việc xưa và nay, tức nhà vua là Bồ-tát Hoa Đức, phu nhân là Bồ-tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, hai người con là Bồtát Dược Vương, Dược Thượng, tất cả đều đang ở trước Phật.

10/ Đại chúng nghe phẩm nầy rồi liền đắc đạo, tức “pháp nhãn thanh tịnh”

Pháp nhãn thanh tịnh có hai thứ:

  1. Tiểu thừa là Sơ quả.
  2. Đại thừa là Sơ địa.

Đây là khó biết, nhưng các kinh thường nói pháp nhãn thanh tịnh là Tiểu thừa, mà nghe Đại thừa ngộ quả Tiểu thừa, là do người độn căn tuy nghe pháp Đại thừa mà không có phương tiện khéo léo cho nên chỉ chứng quả Tiểu thừa.

Chứng quả Tiểu thừa gồm có hai dạng:

  1. Vốn là người học Đại thừa, nhưng nghe nói Đại thừa lại thoái tâm nên chứng quả Tiểu thừa, như sáu mươi Bồ-tát trong kinh Đại phẩm.
  2. Vốn là người học Tiểu thừa, khi nghe nói Đại thừa thì chứng quả Tiểu thừa.

PHẨM PHỔ HIỀN KHUYẾN PHÁT THỨ HAI MƯƠI TÁM

Luận Pháp Hoa chép: Phẩm này là phần thứ tư nói về hộ pháp truyền bá, cho nên đoạn văn sau chép: “Con nay dùng sức thần thông giữ gìn kinh này sau khi Như lai diệt độ, làm cho lưu thông rộng khắp chẳng để ứt mất”, câu này đủ làm chứng. Lại nữa, lúc ấy đại chúng đáng nghe nói việc ngài Phổ Hiền đắc đạo nên có phẩm này. Lại, thực hành Nhất thừa tức thực hành hạnh Phổ Hiền, cho nên ngài Phổ Hiền đến khuyến phát. Người trì tụng kinh này đã là thực hành hạnh Phố Hiền, hạnh tương ưng với Phổ Hiền, tức cảm được ngài Phổ Hiền đến dạy cách sám hối sáu căn thanh tịnh, thấy được Chư Phật mười phương và diệt năm tội nghịch, mười điều ác…, như kinh Phổ Hiền có nói.

Kinh Hoa Nghiêm có bảy chỗ tám hội thì ngài Phổ Hiền, Văn-thù là thiện ở trước, trong phần truyền bá ở phẩm Nhập Pháp Giới thì hai vị Bồ-tát này là thiện ở sau. Sở dĩ hai vị Bồ-tát là thiện trước sau của kinh ấy, bởi hạnh Phổ Hiền là rốt ráo, nguyện Văn-thù là đầy đủ, cho nên Phổ Hiền nói lên hạnh đầy đủ, Văn-thù là nói lên nguyện tròn đầy. Vì thế đối với các Bồ-tát là rốt ráo đầy đủ, nói lên Hoa Nghiêm là pháp môn tròn đầy. Nay nói kinh Pháp Hoa cũng nói ngài Văn-thù khai mở ở đầu, ngài Phổ Hiền truyền bá ở sau, cũng nói lên Pháp Hoa là pháp môn rốt ráo.

Sở dĩ hai kinh đều nói hai vị Bồ-tát này, là muốn nói lên Hoa Nghiêm tức là Pháp Hoa, vì Bồ-tát trực vãng nói khiến nhập tuệ Phật nên gọi là Hoa Nghiêm; vì bỏ tiểu nhập đại Bồ-tát nói khiến nhập tuệ Phật nên gọi là Pháp Hoa. Nhưng con người thì căn tánh có lợi độn, thời gian thì có trước sau, cho nên tên của hai giáo có khác biệt, nhưng nói về bình đẳng đại tuệ thanh tịnh thì một đạo không có khác nhau, vì thế hai kinh đều nói về hai vị Bồ-tát này.

Phổ Hiền, tiếng Phạm là Ba mạn đa bát đà la. Ba mạn đa, Hán dịch là Phổ, bát đà la dịch là Hiền, cũng gọi là Biến Cát. Biến là Phổ, Cát là Hiền. Sở dĩ nói Phổ Hiền, bởi vị này có các pháp môn, như Quán Âm gọi tên chung là pháp môn từ bi. Nay gọi là pháp môn phổ biến, chữ Phổ có hai nghĩa.

1/ Pháp thân phổ biến tất cả nơi, cho nên gồmchung pháp thân Phật trong ba đời đều là pháp thân Phổ Hiền, như kinh Hoa Nghiêm chép: Thân tướng Phổ Hiền cũng như hư không, y theo như như mà không y theo cõi Phật.

2/ Ứng thân phổ, phổ ứng khắp mười phương mà làm tất cả phương tiện, cho nên ứng thân mười phương Chư Phật ba đời đều là Phổ Hiền ứng thân đều là Phổ Hiền ứng dụng, cho nên luận Trí Độ chép: không thể nói trú xứ của Phổ Hiền, nếu muốn nói tức là trụ trong tất cả thế giới.

Chú thích kinh rằng: Giáo hóa cùng khắp nên gọi là Phổ, kề cận sát bậc Thánh nên gọi là Hiền, khuyến là khích lệ, phát là phát khởi. Dùng các việc cao quý để khuyến khích người phát khởi tâm trì kinh gọi là khuyến phát. Theo đoạn văn sau thì Phổ Hiền dùng bảy việc khuyến phát:

  1. Hỏi bốn pháp để khuyến phát.
  2. Hiện tướng lành để khuyến phát.
  3. Nói thần chú để khuyến phát.
  4. Dùng thần lực truyền bá kinh để khuyến phát
  5. Khen ngợi trì kinh để khuyến phát.
  6. Nói quả báo trì kinh để khuyến phát.
  7. Ủng hộ pháp để khuyến phát.

Phẩm này chia làm năm đoạn:

  1. Ngài Phổ Hiển đến hỏi Phật sau khi Như lai diệt độ làm thế nào có thể được kinh Pháp Hoa.
  2. Đức Phật trả lời phải thành tựu bốn pháp.
  3. Phổ Hiền phát nguyện ủng hộ người trì kinh, giữ gìn Pháp Hoa.
  4. Đức Phật khen ngợi.
  5. Chúng lúc ấy được ngộ đạo. Đoạn đầu lại chia năm phần:
  1. Nói ngài Phổ Hiền từ phương khác đến.
  2. Hiện thần lực.
  3. Quyến thuộc hiện thần lực.
  4. Đến Ta bà rồi tôn trọng cung kính Phật.
  5. Chính thức hỏi Phật.

Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm chép: Thân tướng Phổ Hiền cũng như hư không, y theo như như mà không y theo cõi Phật, nay vì sao nói từ phương Đông đến?

Đáp: Kinh Tịnh Danh khen thân Phật rằng: không ở một phương, cũng không lìa một phương nào, do lìa ba cõi nên nói không ở tại phương, chẳng có cảm nào không ứng nên nói không lìa phương. Nay do cảm ở phương Đông nên thấy ở phương Đông, nếu cảm ở phương Tây thì thấy ở phương Tây. Sở dĩ có đến đi, là do Hoa Nghiêm nói về pháp thân, kinh này nói về thị hiện, cho nên không trái nhau.

Kinh Phổ Hiền Quán chép: Thân Phổ Hiền vô lượng vô biên, muốn đến cõi này thì nhập thần thông tự tại rút thân khiến nhỏ lại, cho nên từ phương Đông mà đến phương Tây.

“Các nước đi qua khắp đều rung chuyển”, đây là hiển bày năng lực thần thông.

“Lại cùng vô số các đại chúng”, đây là cùng quyến thuộc đều hiện thần thông.

“Đến núi Kỳ Xà quật ở cõi Ta bà”, đây là đến rồi tu pháp cung kính.

“Bạch Phật rằng”, đây là hỏi Phật. Ban đầu nói lý do đến, nói cúi mong đức Thế tôn là ý xin hỏi, làm sao được kinh Pháp Hoa này, đây là nói giải ngộ tức là được.

“Phật bảo Bồ-tát Phổ Hiền”, đây là Phật trả lời, gồm có ba câu, đó là nêu lên, giải thích và kết ý. Trong phần giải thích là giải thích là nói về bốn pháp:

  1. Bên ngoài được các Đức Phật hộ niệm: hộ là khiến điều ác không xâm hại, niệm là khiến gốc lành thành tựu.
  2. Bên trong trồng các cội công đức: ban đầu phát khởi một niệm không hai, chánh quán là cội của các điều thiện, do đắc quán hạnh này tương ưng với Phật nên được Phật hộ niệm.
  3. Vào trong nhóm chánh định, nhóm có ba thứ:
  4. Nhóm tà định là sẽ vào địa ngục.
  5. Nhóm chánh định, là sẽ được giải thoát.
  6. Trung gian giữa hai nhóm gọi là nhóm bất định. Nói về địa vị thì xưa giải thích là nội phàm phu tánh chủng Bồ-tát đắc sanh không giải, gọi là nhóm định, nay là tâm thứ sáu trong Thập tín tức Bất thoái, cũng gọi là nhập nhóm định.
  7. Phát tâm cứu tất cả chúng sanh, như Kim Cáng Bát-nhã nói về bốn thứ tâm:
  1. Tâm rộng lớn:do độ khắp chúng sanh.
  2. Tâm bậc nhất: do cùng chúng sanh vui đại Niết-bàn.
  3. Tâm thường: do thường không lìa tâm này.
  4. Tâm không điên đảo: do biết chúng sanh xưa nay thường vắng lặng.

Phật trả lời bốn pháp là có thứ lớp, ban đầu là duyên bên ngoài, kế là nhân bên trong, nghĩa là một cặp về nhân và duyên. Pháp thứ ba nói về địa vị, thứ tư về thực hành, nghĩa là một cặp về địa vị và thực hành.

“Bấy giờ ngài Phổ Hiền”, đây nói ngài Phổ Hiền phát nguyện giữ gìn, văn gồm hai phần:

  1. Ngài Phổ Hiền che chở người để khuyến phát.
  2. Giữ gìn pháp để khuyến phát.

Trong phần che chở người lại chia làm hai:

  1. Nói rộng các việc khuyến phát.
  2. Kết thúc lời khuyên trì kinh.

Phần đầu lại chia làm bốn đoạn:

  1. Che chở nạn khuyến phát.
  2. Hiện thân sanh thiện khuyến phát.
  3. Khen ngợi tự thực hành khuyến phát.
  4. Nêu quả báo khuyến phát.

Bốn phần này là nói lược nhân thực hành diệt ác sanh thiện được quả báo để khuyến phát.

Ban đầu nói che chở nạn như trừ các tai họa khiến được an ổn, người trì kinh hoặc đi hoặc đứng v.v…, ngài Phổ Hiền đều cỡi voi trắng đến đó hiện thân để an ủi và cúng dường, tức là hiện thân sanh thiện khuyến phát.

Trong đây gồm có ba cảm ba ứng:

  1. Do đọc tụng Pháp Hoa nên cảm được ngài Phổ Hiền hiện thân đến an ủi tâm người đó và cúng dường kinh pháp.
  2. Do suy nghĩ kinh này mà cảm được ngài Phổ Hiền đến trao cho văn cú, khiến được lợi ích tổng trì.
  3. Dạy người ấy thực hành pháp, tức giải thích nghĩa cảm được thấy ngài Phổ Hiền nói ở trên.

Ban đầu do nhân đọc tụng kinh Pháp Hoa nên thấy ngài Phổ Hiền đến. Luận Trí Độ chép: Có vị Tỳ-kheo đọc kinh Pháp Hoa, một vị vua thấy một người sắc vàng cỡi voi trắng đến đứng trước người ấy mà nghe kinh Pháp Hoa.

Sở dĩ cỡi voi trắng ngà là có hai nghĩa:

1/ Nói nghi thức của Bồ-tát.

2/ Muốn dùng thú linh thiêng để hàng phục ma độc. Kinh Phổ Hiền Quán chép: Sáu ngà là biểu hiện sáu độ, bốn chân là biểu hiện bốn như ý túc, bảy chi vững trên đất là biểu hiện bảy chi.

Kinh chép: Người cõi Diêm-phù-đề có ba chướng sâu nặng nên Bồ-tát dùng năng lực trí tuệ hóa cưỡi voi trắng, voi có sáu ngà, bảy chi vững trên đất, dưới bảy chi sanh ra bảy hoa sen, sắc voi trắng tinh, pha lê hay núi tuyết cũng không sánh bằng, thân voi dài bốn trăm năm mươi do tuần, cao bốn trăm do tuần, trên đầu sáu ngà có sáu ao nước, trong mỗi ao có bốn hoa sen, trong mỗi hoa sen có một ngọc nữ, trong tay hóa ra năm thứ không hầu, có năm trăm thứ nhạc khí cùng làm quyến thuộc với không hầu. Trước mũi voi có hoa, trong hoa có hóa Phật và hóa Bồ-tát, phát ra ánh sáng sắc vàng chiếu trên đảnh voi và hóa thành đài vàng. Trên đầu voi có ba người hóa hiện, một người cầm kim luân, một người cầm hạt châu ma ni và một người cầm chày Kim cương. Khi đưa chày lên thì voi nổi lên giữa hư không cách đất bảy thước và hiện ra ấn văn, trong ấn văn có ngàn căm, đầy đủ cả vành, trục, trong mỗi vành xe có một hoa sen, trên hoa sen lại có một voi hóa hiện, như vậy đưa chân lên bỏ chân xuống sanh ra bảy ngàn voi để làm quyến thuộc. Tùy theo voi lớn đi mà hóa Phật phát ra ánh sáng cho đến trên lưng voi hóa thành cái yên bằng vàng, bốn mặt có bảy cột báu làm thành đài vàng, trong đài có hoa bảy báu, trăm thứ báu làm tua, có ngọc ma ni lớn làm đài, ngài Phổ Hiền ngồi trên ấy, thân màu ngọc trắng có năm mươi thứ ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có năm mươi màu sắc làm thành ánh sáng trên đảnh, các lỗ chân lông nơi thân đều phát ra ánh sáng vàng, trên đầu ánh sáng vàng có vô lượng hóa Phật và hóa Bồ-tát, trời mưa hoa báu trước chân voi đi, voi liền mở miệng có các ngọc nữ đàn ca múa hát, âm thanh ấy thanh tao ca ngợi đạo nhất thừa, mọi người thấy rồi liền vui mừng đảnh lễ, như trong kinh phổ Hiền Quán nói rộng.

“Nếu người ấy ngồi”, đây nói lúc ngồi suy nghĩ kinh nầy thì ngài Phổ Hiền đến.

“Triền Đà-la-ni”, được tổng trì này nên biết hết pháp của Chư Phật và Bồ-tát trong mười phương nói, đều có thể nhớ nghĩ, do hiểu một pháp môn là hiểu tất cả nên gọi là triền.

“Pháp âm phương tiện Đà-la-ni”, là hiểu tất cả môn phương tiện của Chư Phật, như người thừa.

“Thế tôn! Nếu đời sau trong năm trăm năm đời vẩn đục”, đây là chỉ bày pháp thực hành, theo kinh Phổ Hiền Quán thì pháp thực hành có năm bậc:

1/ Trong hai mươi mốt ngày thì thấy ngài Phổ Hiền đến.

2/ Trong bốn mươi chín ngày thấy ngài Phổ Hiền đến.

3/ Trong một đời được thấy.

4/ Trong hai đời được thấy.

5. Trong ba đời mới được thấy.

Nay chỉ nói bậc đầu tiên tức hai mươi mốt ngày là có thể thấy.

Hỏi: Tu phương pháp gì?

Đáp: Nay theo kinh Phổ Hiền Quán nói lược sáu pháp:

1/ Tại chỗ tĩnh lặng, trang nghiêm đạo tràng, đốt hương, rải hoa v.v…

2/ Tắm gội trong thân mặc áo sạch sẽ.

3/ Sáu thời lễ bái Phật mười phương, pháp thân Phật trùm khắp mọi nơi chốn, ứng thân Phật ở cõi tịnh, hóa thân Phật ở cõi uế. Sáu thời dốc lòng lễ bái, đối trước Phật mười phương và ngài Phổ Hiền mà sám hối tội lỗi sáu căn, tử vô thỉ đến nay trong mỗi căn đều sanh ra sáuthứ phiền não, thấy sắc đẹp mà sanh tham, thấy sắc xấu mà nỗi sân, thấy sắc không đẹp không xấu mà khởi si, thấy sắc khởi đoạn, thường, thành các tà kiến ngoại đạo, thấy có và không rơi vào nhị thừa, thấy sắc mà khởi tâm có sở đắc thành ra chướng phiền não. Do khởi sáu thứ phiền não này mà khởi nghiệp kết, không thể ra khỏi sanh, già, bịnh, chết, ưu bi khổ não, chướng ngại tâm Bồ-đề, chướng ngại đạo Bồ-tát và cả quả Phật. Một căn đã như vậy, năm căn kia cũng như vậy, do đây mà tự quở trách khởi tâm xấu hổ sâu xa, đối với mỗi căn và ba lỗi nên tự trình bày trước Phật mười phương và ngài Phổ Hiền, xin Chư Phật Bồ-tát từ bi kế nhận lời sám hối, và xin tất cả chúng sanh trong sáu đường nhận lời sám hối này.

4/ Ở chỗ yên tĩnh mà xin Phật Thích-ca làm hòa thượng, ngài Văn-thù làm A Xà-lê, ngài Di-lặc làm giáo thọ sư, ba vị này là Phật ba đời, Thích-ca là Phật hiện tại, Văn-thù là Phật quá khứ, Di-lặc là Phật vị lai, cho nên xin ba vị thầy. Kế đến xin Phật mười phương làm chứng, Bồ-tát mười phương làm bạn lành, xin ngài Phổ Hiền làm vị sám hối chủ. Ở trước sáu vị thầy này mà tự thọ ba pháp quy y, thọ xong tự thọ ba giới: Từ thân này cho đến đời vị lai thề dứt tất cả việc ác, từ thân này cho đến hết đời vị lai thề tu tất cả thiện, từ thân này cho đến hết đời vị lai thề độ tất cả chúng sanh. Ba pháp quy y và ba giới này là bao gồm hết tất cả pháp.

5/ Ngày đêm đọc tụng kinh điển Đại thừa.

6/ Ngồi ngay thẳng suy nghĩ pháp bậc nhất nghĩa không sâu xa, thấu hiểu sáu căn như huyễn như mộng từ nhân duyên mà sanh, nhân duyên sanh tức là tướng vắng lặng, tướng vắng lặng tức là thật tướng, thật tướng tức là pháp thân. Lúc quán như vậy thì niệm niệm thấy pháp thân Phật mười phương và Bồ-tát Phổ Hiền, trong khoảng búng ngón tay mà có thể diệt tội sanh tử trongtrăm muôn ức A tăng kỳ kiếp.

Hỏi: Trước nói rằng sau năm trăm năm, nay nói rằng đời sau, sau năm trăm năm thì có gì khác?

Đáp: Thời chánh pháp có năm trăm năm, thời tượng pháp có một ngàn năm, vậy đoạn văn trước là nói khi chánh pháp diệt bắt đầu vào năm trăm năm thời tượng pháp. Đoạn văn ở đây là năm trăm năm sau trong thời tượng pháp, tức là hai lần sau cho nên nói đời sau, sau năm trăm năm.

Ngài Phổ Hiền nói thần chú để khuyến phát: “A đàn địa”, Hán dịch là vô ngã. Đàn đà bà địa, dịch là trừ ngã. Đàn đà bà đế, dịch là phương tiện. Đàn đà cưu xá lệ, dịch là tân nhân hòa trừ. Đàn đà tu đà lệ, dịch là rất mềm mại. Tu đà lệ dịch là mềm yếu. Tu đà la bà để dịch là cú kiến. Phật đà ba châuyên nể, dịch là Chư Phật hồi. Tát-bà Đà-la-ni a bà đa ni, dịch là chư tổng trì. Tát-bà Bà-sa a bà đa ni, dịch là hành chúng nói. Tu a bà đa ni, dịch là cái hồi chuyển. Tăng già bà lý xoa ni, dịch là tận tập hội. Tăng già niết Già-đà ni, dịch là trừ các đường. A tăng kỳ dịch là vô ương số. Tăng già bà dà địa, dịch là kế chư cú. Đế lệ A noạ tăng già đâu lược, dịch là thế. A la đế ba la đế dịch là số lượng ba đời. Tát-bà tăng già tam ma địa già-lan địa, dịch là vượt hữu vi. Tát-bà đạt ma tu ba lợi sát đế, dịch là học các pháp. Tát-bà tát đoả lâu đà kiêu xá lược nâu già địa, dịch là hiểu âm thanh chúng sanh. Tân a tỳ kiết lợi địa đế, dịch là sư tử vui đùa.

“Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành”, đây là nói tự thực hành khuyến phát.

“Nếu chỉ biên chép”, đây nêu quả báo tốt để khuyến phát.

“Cho nên người trí phải một lòng”, đây là lời kết thúc khuyến phát.

“Bấy giờ đức Thích-ca”, đây là nói đức Thích-ca khen ngợi, gồm có hai đoạn:

  1. Khen ngợi người che chở giữ gìn kinh.
  2. Khen ngợi người thọ trì đọc tụng.

Đầu tiên khen ngợi người che chở có hai việc:

  1. Khen ngợi giữ gìn người đọc tụng.
  2. Khen ngợi giữ gìn pháp, tức có thể thực hành nguyện thần thông để giữ gìn kinh này.

“Phổ Hiền, nếu có người thọ trì đọc tụng”, đây là khen ngợi người được giữ gìn, gồm có năm phần:

  1. Được Phật hộ niệm.
  2. Xa lìa các việc ác.
  3. Đời sau có quả báo gặp Phật.
  4. Hiện tại có quả báo.
  5. Kết lời khen ngợi.

“Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền khuyến phát này”.

Phần này nói đại chúng được lợi ích gồm hai đoạn:

  1. Nói được lợi ích.
  2. Đại chúng vui mừng làm lễ mà lui ra.

Từ niên hiệu Vĩnh Nhân năm đầu, cho đến năm thứ ba, trước sau gồm ba năm mà in xong tập Pháp Hoa nghĩa sớ mười hai quyển.

Theo lời giảng của tông sư Trừng Thiền mà trộm thảo luận, do đây nhóm hợp các sớ cũ khắp hai miền Nam Bắc, san định lại để lựa chọn, lượt bớt những lời mới hoặc văn chữ lộn xộn, cũng như văn từ lầm lẫn, giả như có bản đời Tống, thì đâu có lời văn thêm thắt điểm tô như vậy? Còn e rằng trí ngu muội tầm thường mà toan xét văn của bậc anh hiền, nghe tiếng ngài Mã Minh, Long Thọ mở rộng kinh điển ở Ngũ Thiên, quán tám bất chánh riêng sáng rỡ ở Chấn Lãnh, Đề Bà, La-hầu tuôn mưa pháp ở ba quốc, mà nay đợi hoa pháp mầu hưng thạnh ở Kim Lăng, từ đó để hàng phục Nho gia mà chuyên mở rộng tông này. Những miền xa xôi tuy là quen với giáo pháp này nhưng thời đại thuộc Mạt pháp, mong cầu không có người, muốn biên chép không có chỗ.

Than ôi! Từ thuở xưa Thiên Hoàng chế ngự vũ trụ cho đến thời đại ngày nay là hơn bảy trăm năm nối nhau, chỉ truyền cương yếu của tông mà sắp lẫn lộn trong ba luận, chương sớ không khắc in một bản.

Tố Khánh tôi may mắn gặp nạn, gặp Đại thừa, hổ thẹn nghe điều khó, nghe mở rộng tông phong tợ như trên đảnh núi tuyết. Kẻ sĩ vì nửa bài kệ mà quên thân, cũng như Hương thành Tát đỏa cầu Bát-nhã, chảy máu mà mong được kết duyên sớm, đồng chí huynh đệ đạo, tục sớm cỡi xe mầu nhiệm Đại thừa chẳng phải một chẳng phải ba, mau đến nơi thành báu chẳng gần chẳng xa. Quyển này là do nữ đàn việt Thanh Nguyên phát tâm. Lại nghịch tu mà hiển như, diệu lý mà thông đạt đến ân bảy đời, mình và người, cùng chúng sanh trong ba cõi đâu có khác nhau! Khai phát sự phá tà hiển chánh, mà siêu phàm nhập Thánh.

Sa môn Đô Can Duyên

Tố Khánh kính ghi ghi lời bạt.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12