PHÁP HOA KINH NGHĨA KÝ

SỐ 1715

QUYỂN 08

Đời Lương, Pháp Vân soạn

PHẨM AN LẠC (Tiếp Theo)

Kế đến nêu lên hạnh an lạc thứ ba. Hạnh này lấy sự lìa ác làm thể và có hai đoạn tức là Trường hàng và kệ tụng.

Trong Văn Trường hàng tự có ba đoạn: 1. Nêu lên sự xa lìa ác; 2. “Phải đối với tất cả chúng sanh” trở xuống tức nêu lên việc tu thiện. Nếu không tu thiện thì không do đâu xa lìa tội ác; 3. “Văn Thù Sư Lợi” trở xuống tức nêu lên tướng đạt được quả an lạc. Nay nêu lên sự lìa ác gồm có sáu loại: 1. Ganh ghét; 2. Nịnh hót. Hạng người này thật sự có khả năng tu thiện chỉ vì mình có làm cho vui lòng người khác; 3. Luống dối tức chỉ cho nội tâm và thực hành của người này không có thực; . Cũng chớ có khinh mắng người học Phật đạo; . “Nếu có vị Tỳ-kheo, cùng với Tỳ-kheo ni” trở xuống có năm hàng tức nêu lên sự việc không nên khinh khi người học Tiểu thừa; . Lại cũng chẳng nên tranh cãi với các pháp lý luận.

“Phải ở nơi tất cả chúng sanh” trở xuống là đoạn thứ hai nêu lên việc tu thiện tự có bốn loại thiện: 1. Ở nơi tất cả chúng sanh khởi tưởng đại bi; 2. “Đối với các đức Như-Lai” trở xuống; 3. “Đối với các Bồ-tát” trở xuống . “Ở nơi tất cả chúng sanh” trở xuống.

“Văn Thù Sư Lợi” trở xuống là đoạn thứ ba trong Văn Trường hàng nêu được tướng quả an vui. “Mà nói kệ rằng” trở xuống có sáu hàng là phần kệ tụng thứ hai. Tuy nhiên trong Văn Trường hàng ở trên vốn có ba đoạn và nay trong sáu hàng kệ tụng này cũng phân làm ba đoạn: 1. Có hai hàng tụng đoạn thứ nhất trong Văn Trường hàng ở trên tức nói rõ sự xa lìa sáu loại xấu ác; 2. “Phật tử đó nói pháp” trở xuống có ba hàng thông tụng đoạn thứ hai trong Văn Trường hàng ở trên tức tu tập bốn loại thiện; 3. “pháp thứ ba như thế” trở xuống có một hàng kệ tụng đoạn thứ ba trong Văn Trường hàng ở trên tức tuớng an vui.

Kế đó, giải thích hạnh an lạc thứ tư. Hạnh này nêu ra việc lấy từ bi làm thể. Căn cứ trong đây cũng có hai đoạn tức Văn Trường hàng và kệ tụng. Trong Văn Trường hàng vốn có hai đoạn: 1. Nêu ra thể của hạnh; 2. “Văn Thù Sư Lợi” trở xuống tức nêu ra tướng đạt được quả an vui. Lại xét trong hai đoạn này mỗi đoạn có hai phần. Trong đoạn đầu có hai phần tức là: 1. Lược nêu ra thể đại bi; 2. Từ “ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát” trở xuống tức rộng trình bày thể đại bi. “Chẳng nghe” tức nêu ra xưa kia “văn tuệ” không thành tựu. “Chẳng biết” tức nêu ra tu tuệ xưa kia không thành tựu. “Chẳng hay” tức nêu ra xưa kia không thành tựu “tu tuệ”. Làm sao biết được? Vì ba câu dưới đây sẽ giải thích điều đó. “Chẳng hỏi” tức giải thích câu chẳng nghe ở trên. Nếu xưa kia có khả năng nghe được giáo ba thừa này thì nghĩa “nghe” được thành tựu. Do vì xưa kia chẳng nghe cho nên không kể thành tựu nghĩa nghe. “Chẳng tin” tức giải thích câu “chẳng biết” ở trên. Do vì xưa kia chẳng tin lời nói “ở trong một Phật thừa phân biệt nói thành ba. “ Do vậy, nên chẳng biết lý đồng quy. “Chẳng hiểu” tức là giải thích câu “chẳng hay” ở trên. Nếu xưa kia hiểu nghĩa đồng quy thì liền sau biết không có nghĩa của ba thừa.

“Văn Thù Sư Lợi” trở xuống là đoạn thứ hai nêu ra tướng an lạc, cũng có hai phần: 1. Nêu ra tướng an lạc; 2. Giải thích. Nêu ra tướng an lạc tự có hai phần: 1. Trước hết nêu ra được người yêu thích; 2. Từ “hàng chư thiên” trở xuống tức nêu ra sự hộ trì của chư thiên. Điều này muốn nói lên kinh pháp của Như Lai chính là hoài bão của người này muốn lưu truyền cho nên trời người thường vì pháp mà thích đến hộ trì người ấy. “Vì sao” trở xuống là phần giải thích tướng an lạc và cũng có hai đoạn: 1. Dùng pháp để thuyết; 2. Dùng thí dụ để thuyết. Lại xét trong hai đoạn này, mỗi đoạn có hai phần. Trong đoạn dùng pháp để thuyết có hai phần tức là: 1. Nêu lên kinh này là tạng bí yếu thuộc chỗ hộ trì của chư Phật; 2. “Văn Thù Sư Lợi” trở xuống tức nêu lên việc khó có thể được nghe để nói rõ kinh này nên đáng được tôn trọng. “Văn Thù Sư Lợi thí như vua chuyển Luân Thánh Vương sức lực mạnh mẽ” trở xuống là đoạn thứ hai tức dùng thí dụ để thuyết nhằm giải thích tướng an lạc. Trong đoạn này cũng có hai phần tức là hai thí dụ phân làm hai đoạn tức vì hai loại pháp thuyết ở trên mà làm thí dụ. Nhưng trong thí dụ ban đầu tự có phần khai và hợp. “Văn Thù Sư Lợi, như Chuyển Luân Thánh Vương thấy các binh chúng” trở xuống là đoạn thứ hai tức dùng thí dụ để thuyết cũng có hai phần nghĩa là khai dụ và hợp dụ. Nhưng xét trong phần hợp dụ vốn có ba phần: 1. Chánh hợp; 2. “Văn Thù Sư Lợi” trở xuống tức nêu lên thí dụ bên ngoài để bổ sung; 3. Cũng từ “Văn Thù Sư Lợi” trở xuống là nêu ra phần kết hợp.

“Mà nói kệ rằng” trở xuống là phần kệ tụng thứ hai. Trong Văn Trường hàng ở trên vốn có hai phần: 1. Nêu lên thể của hạnh; 2. Nêu ra tướng an lạc. Nay trong mười bốn hàng rưỡi kệ cũng được phân làm hai; 1. Có bốn hàng tụng về thể của hạnh ở trên; 2. Có mười hàng rưỡi kệ tụng về tướng an lạc. Trong văn nêu ra thể của hạnh ở trên vốn có hai phần: 1. Lược nêu ra đại bi; 2. Rộng nêu ra đại bi. Nay bốn hàng kệ này chỉ tụng thông suốt mà không có phân ra.

“Như người có sức mạnh” trở xuống có mười hàng rưỡi kệ là phần tụng về tướng an lạc. Trong văn trên vốn có hai phần. Thứ nhất nêu ra sự an lạc và trong đây cũng có hai mục: người yêu thích, chư thiên ủng hộ nhưng nay không tụng. Thứ hai tức giải thích rõ nghĩa an lạc, cũng có hai phần. Thứ nhất là dùng pháp để thuyết và trong đó cũng có hai mục: Tạng bí yếu của chư Phật và nêu ra người đắc pháp nhưng nay cũng không tụng mà chỉ tụng phần thí dụ để thuyết. Tuy nhiên, hai thí dụ ở trên mỗi thí dụ có khai và hợp. Nay mười hai hàng rưỡi kệ chỉ thích nghi phần hai:

  1. Có bốn hàng trước hết tụng lại hai thí dụ bên ngoài.
  2. “Như Lai cũng như thế” trở xuống có sáu hàng rưỡi kệ tụng lại hai thứ nội hợp.

Trong bốn hàng kệ đầu thì có ba hàng tụng về thí dụ bên ngoài. Thứ nhất “như có người mạnh mẽ” trở xuống một hàng tụng về thí dụ bên ngoài thứ hai. Trong sáu hàng rưỡi kệ sau thì ban đầu “Như Lai cũng như thế” trở xuống có ba hàng tụng nội hợp thí dụ thứ nhất. “Đã biết loài chúng sanh, đặng sức mạnh kia rồi” tức có ba hàng nêu ra nội hợp thí dụ thứ hai. “Sau khi ta diệt độ” tức chỉ cho lời đáp của Phật có bốn đoạn. Từ đây trở xuống có một hàng rưỡi kệ tụng đoạn phần tổng kết thứ ba nhằm khuyến khích tu tập bốn hạnh an lạc này.

“Người đọc tụng kinh này” trở xuống có hai mươi mốt hàng rưỡi kệ là đoạn thứ tư trong lời đáp của Phật tức thông suốt nêu ra tướng được quả an lạc. Tuy nhiên trong đây chính là nêu lên tướng an lạc của ba quả báo. Xét trong hai mươi mốt hàng rưỡi kệ tự có bốn đoạn:

  1. Có một hàng trước hết tụng về hiện báo được an vui.
  2. “Chẳng sang nhà bần cùng” trở xuống có ba hàng rưỡi kệ tụng “sanh báo” được an lạc.
  3. “Nếu ở trong chiêm bao” trở xuống có mười sáu hàng tụng được an vui trong “hậu báo”.
  4. Có một hàng tổng kết việc giải thích ba điều trên.

Lại trong phần thứ ba căn cứ vào mộng thuộc tướng “hậu báo” có năm loại:

  1. Có một hàng rưỡi kệ trước tiên tụng về việc nghe Phật thuyết pháp.
  2. “Từ ngó thấy thân mình, mà vì chúng nói pháp” cũng có một hàng rưỡi kệ.
  3. “Lại thấy các đức Phật” trở xuống có sáu hàng rưỡi kệ tụng được Phật nói pháp thọ ký.
  4. “Lại ngó thấy tự thân” trở xuống có một hàng rưỡi kệ tụng về thực hành nhân của quả vị Phật.
  5. “Các Phật thân sắc vàng trăm phước tướng trang nghiêm” trở xuống có năm hàng tụng về chứng đắc Phật quả.

Nhưng trong phần chứng đạt Phật quả này vốn có hai ý. Ban đầu có một hàng trước hết nêu lại bốn thứ mộng ở trước. Sau đó có bốn hàng nói lên sự chứng đạt Phật quả. Phần nêu tên bốn thứ mộng thì hai câu đầu cho đến “nghe pháp” tức nêu ra mộng thứ nhất ở trên. “Vì người nói” tức chỉ có ba chữ nêu ra mộng thứ hai ở trên. “Thường có mộng tốt đó” tức tổng quát nêu ra mộng thứ ba và thứ tư. “Lại mộng làm quốc vương” trở xuống có bốn hàng là phần thứ hai nêu lên sự chứng đắc Phật quả. “Nếu trong đời ác sau” trở xuống có một hàng là phần thứ tư “tổng kết báo nghiệp ở ba đời”.

 

PHẨM THỨ MƯỜI BỐN: “TÙNG ĐỊA DÕNG XUẤT”

Tên của phẩm này chưa phải được xếp đặt ở đây mà hình thành nên sau một phần hỏi đáp. Do câu văn không nhiều cho nên mới quyết định ở đoạn đầu của phẩm. Do theo sau mà gọi tên cho nên nói là “dõng xuất. “Tất cả bao gồm mười bốn phẩm rưỡi kinh tức là phần Chánh thuyết tự phân làm hai đoạn”. Đoạn trước có mười hai phẩm kinh khai mở ba thừa và hiển bày một thừa để nói rõ nghĩa của nhân. Từ đây trở xuống nửa phẩm “Phân biệt Công đức” có hai phẩm rưỡi kinh là đoạn thứ hai trong phần chánh thuyết tức khai mở gần mà hiển thị xa để biện minh rõ nghĩa của quả. Trong hai đoạn nêu ra nhân và biện rõ quả mỗi đoạn khai mở bốn phần. Nay trong đây cũng có bốn phần:

1. Từ ban đầu phẩm này đến câu kệ “phải một lòng tinh tấn” là nêu ra phần tựa riêng biệt về thọ lượng.

2. Từ “khi đức Thế Tôn nói kệ đó” trở xuống đến phần kệ: “Ta từ lâu xa lại, giáo hóa các chúng đó” tức lược nêu ra việc khai mở gần và hiển thị xa khiến chúng động chấp mà sanh nghi.

3. “Bấy giờ ngài Di-lặc… lòng sanh nghi hoặc lấy làm lạ chưa từng có” trở xuống đến phẩm là nêu ra đại chúng hoài nghi mà đến thỉnh hỏi.

4. Từ phẩm Thọ Lượng đến nửa phẩm Phân biệt Công đức gồm một phẩm rưỡi rộng nêu ra sự thọ mạng dài lâu để đoạn nghi sanh tín.

Nay căn cứ trong bốn đoạn này mỗi đoạn trước sau đều mở làm ba phần còn hai đoạn giữa chỉ mở làm hai phần. Nay trong phần tự riêng biệt có ba mục: 1. Khai phát tựa; 2. “Di-lặc Bồ-tát” trở xuống tức nêu ra phần tựa nghi vấn; 3. “Phật bảo Di-lặc” trở xuống là tựa thuật lại để khuyến khích.

Nay trước hết nêu lên phần tựa khai phát gồm có hai phần: 1. Nguyên do khai phát; 2. “Lúc Phật nói lời đó” trở xuống tức nêu ra sự khai phát. Sở dĩ nói nguyên do khai phát là vì các Bồ-tát thị giả của Phật phân thân ở phương khác muốn thỉnh cầu lưu thông kinh. Đức Phật chỉ nói “cõi Ta-bà của ta tự có Bồ-tát có thể lưu thông kinh này nên không cần các ông nữa”. Nhân đây làm lý do cho các Bồ-tát từ đất vọt hiện lên. Lại trong hai đoạn này mỗi đoạn có hai phần. Căn cứ trong đoạn phát nguyên do có hai phần tức là. 1. Trước hết nêu ra Bồ-tát ở phương khác thỉnh cầu lưu thông kinh; 2. Phật trả lời.

“Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta-bà” trở xuống là phần thứ hai nêu lên sự khai phát. Xét trong đây cũng có hai phần: 1. Nêu ra tướng của Bồtát từ dưới đất vọt lên; 2. “Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị đạo sư” trở xuống tức nêu ra các Bồ-tát từ dưới đất vọt lên đến cùng Phật hỏi đáp. Nay trong phần kinh gia trình bày tướng từ dưới đất vọt lên tự có tám tướng: 1. Liệt kê tướng vọt hiện ra; 2. “Thân của các Bồ-tát đó đều có sắc vàng” trở xuống tức nêu lên hình tướng của Bồ-tát; 3. “Trước đây đều ở cõi Ta-bà này” trở xuống tức nêu ra nơi chốn Bồ-tát đi đến; 4. Các vị Bồ-tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni nên từ dưới đất mà đến” trở xuống là nêu ra nguyên do Bồ-tát xuất hiện. “Do đức Thích Ca nói với các Bồ-tát ở phương khác rằng: không cần các ông vì ở cõi Ta-bà của ta tự có Bồ-tát có khả năng lưu thông kinh này” tức là nêu lên đã nghe lời nói này nên mới xuất hiện đến; 5. “Mỗi vị Bồ-tát” trở xuống là nêu lên quyến thuộc của các Bồ-tát xuất hiện; 6. “Từ dưới đất vọt lên rồi trụ giữa hư không” trở xuống tức nêu ra sau khi Bồ-tát xuất hiện đều dùng ba nghiệp để cúng dường; 7. “Từ lúc các vị Bồ-tát đó từ dướt đất vọt lên” trở xuống là nêu ra thời gian xuất hiện trải qua nhiều kiếp; 8. “Bấy giờ hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật” trở xuống tức kinh gia nêu lên bốn chúng đều thấy các Bồ-tát hiện khắp nơi. “Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị đạo sư” trở xuống chính là phần thứ hai nêu ra Bồ-tát từ dưới đất vọt lên cùng Phật vấn đáp. Trong phần này có bốn mục tức thành bốn đoạn mà chúng ta có thể hiểu.

“Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát” trở xuống là nêu lên đoạn tựa “nghi vấn” thứ hai. Trong đoạn này cũng có hai phần: 1. Nêu lên Di-lặc Bồ-tát tự hỏi Phật Thích Ca; 2. Hỏi phân thân Phật ở các phương khác Bồ-tát Di-lặc tự hỏi có hai phần: 1. Kinh gia nêu ra ý Di-lặc muốn hỏi; 2. Chính dùng kệ để hỏi. Căn cứ trong mười chín hàng rưỡi kệ tự có ba đoạn: 1. Có một hàng kệ đầu chưa phải là câu hỏi mà chỉ trước hết nêu ra cảnh trái nghịch để thỉnh Phật đáp; 2. “Là từ chốn nào đến” trở xuống có mười ba hàng kệ tức nêu ra câu hỏi; 3. Phần còn lại có năm hàng rưỡi kệ nêu ra sự tổng kết thỉnh hỏi. Lại nữa, trong mười ba hàng nêu ra câu hỏi tự có hai phần: 1. Có hai hàng nêu lên việc hỏi thân người của Bồ-tát xuất hiện; 2. Có mười một hàng kệ nêu ra câu hỏi về đạo sư của Bồ-tát xuất hiện. Trong hai hàng kệ hỏi về thân người gồm có bốn phần văn thuộc hai ý: 1. “Là từ chốn nào đến”: gồm một câu nêu ra câu hỏi về nơi chốn nào mà các Bồ-tát xuất hiện đến đây; 2. “Do nhân duyên gì nhóm” tức có một câu nêu ra câu hỏi tại sao tụ tập lại một chỗ và đồng thời xuất hiện; 3. “Thân lớn đại thần thông” trở xuống có một hàng một câu tức khen ngợi Bồ-tát đó để tổng kết câu hỏi thứ hai; . “Là từ chốn nào đến” tức có một câu dùng để tổng kết câu hỏi thứ nhất. “Mỗi mỗi hàng Bồ-tát” trở xuống có mười một hàng nêu lên câu hỏi đạo sư của Bồ-tát này là ai. Căn cứ trong đây cũng có hai phần: 1. Trước hết có chín hàng kệ tụng rõ về quyến thuộc của Bồ-tát có nhiều hoặt ít tức từ sáu muôn hàng sa cho đến không có quyến thuộc nào; 2. “Các vị oai đức lớn” trở xuống có hai hàng chính là hỏi để tìm ra đạo sư của Bồ-tát xuất hiện. “Các Bồ-tát như thế, thần thông sức trí lớn” trở xuống có năm hàng rưỡi kệ là phần thứ ba tổng kết sự thỉnh trong phần hỏi.

“Khi ấy các vị Phật của đức Thích Ca phân thân” trở xuống là phần hỏi thứ hai. Từ “phân thân của Phật” trở xuống là Bồ-tát tự hỏi phân thân. Trong đây tức nêu ra hai đoạn đối đáp và hỏi.

Trong phần tựa lược thuật khuyến khích thứ ba cũng có hai phần: 1. “Đức Thích Ca bảo Di-lặc: Hay thay” trở xuống chính là thuật lại ngài Di-lặc có khả năng hỏi; 2. Trong việc khuyến khích tin tưởng có hai đoạn tức trường hàng và kệ tụng. Mỗi đoạn này được phân làm hai phần. Trong Văn Trường hàng lại có ba phần tức là: Một là “các ông phải chung một lòng” trở xuống chính là khuyến khích tin tưởng, không nhận lãnh tà giáo mà phải mặc giáp tinh tấn. Do giữ lấy thiện đạo cho nên gọi là phát ý bền vững. Hai và ba là: Trong việc nêu ra lý đã tin tưởng tự có hai phần. Ban đầu có hai câu muốn nêu ra nghĩa “mở gần và hiển thị xa” kế đến có ba câu muốn nêu ra việc hiển bày thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong ba đời. “Nay đức Như Lai muốn hiển phát” tức nêu ra việc khai mở gần nhằm nói rõ Phật sống tám mươi năm ấy chẳng phải là Phật chân thật “Tuyên bày trí tuệ của các đức Phật” tức nêu lên nghĩa hiển thị xa có nghĩa là số lượng tuổi thọ gấp bội ở trên. Ba câu sau: “Sức thần Thông tự tại của các đức Phật” trở xuống là nêu lên thần lực làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ của Như Lai. “Sức sư tử mạnh nhanh…” câu này nói thần lực lợi ích chúng sanh của Phật đời hiện tại. “Sức oai thế mạnh lớn của các đức Phật” chính là nêu ra thần lực làm lợi ích cho chúng sanh của đức Phật trong tương lai. Trong ba câu này chỉ ngầm nói ba loại nghĩa mà là đầu mối dẫn đến phẩm Thọ lượng mới hiển bày nghĩa này. “Bấy giờ, thế Tôn” trở xuống tức nêu ra phần kệ tụng thứ hai trong đoạn khuyến khích tin tưởng. Phần này có bốn hàng được chia làm bốn ý: 1. Khuyến khích nên cố gắng siêng năng; 2. Khuyến khích tin tưởng; 3. Chỉ bảo chớ có sanh tâm nghi ngờ; . Chỉ bảo phải nên nhất tâm lắng nghe.

“Bấy giờ, Thế tôn nói kệ đó rồi” tức phần thứ hai trong đoạn nói rõ quả của phẩm này, lược nói về thọ mạng lâu dài” khi nếu động chấp sanh nghi. Trong phần này có hai tức là Văn Trường hàng và kệ tụng. Trong hai phần này mỗi phần được chia làm hai đoạn. Xét trong Văn Trường hàng có hai đoạn, ở trên Bồ-tát Di-lặc hỏi có ba phần: 1. Có một kệ nêu ra sự trái nghịch mà thỉnh Phật nói; 2. Có mười ba hàng nêu ra sự thỉnh hỏi; 3. Có năm hàng rưỡi kệ dùng để tổng kết sự thỉnh hỏi… Nay chỉ đáp lại phần thứ hai chính thỉnh hỏi. Trong phần nêu ra câu hỏi cũng có hai phần: 1. Có hai hàng kệ hỏi về thân người của Bồ-tát từ đất vọt lên; 2. Có mười một hàng hỏi về bậc đạo sư của các Bồ-tát ấy là ai. Tuy nhiên nay chỉ đáp lại câu hỏi thứ hai. Trong câu hỏi này cũng có hai phần: Hỏi về quyến thuộc có nhiều hay ít và hỏi về bậc đạo sư. Nay không đáp câu hỏi thứ nhất mà chỉ đáp câu hỏi thứ hai tức bậc đạo sư là ai. Đức Phật đáp rằng: “Ta là thầy của họ” “Các vị Bồ-tát đó đều ở phía dưới cõi Ta-bà” trở xuống tức nêu ra việc trả lời câu hỏi thứ nhất. Trong việc hỏi về thân người của các Bồ-tát ở trên vốn có bốn đoạn văn thuộc hai ý. Nay không đáp lại hai văn sau. “Ở phía dưới cõi Ta-bà” trở xuống là nêu ra việc đáp lại câu hỏi thứ nhất tương ưng với ở trên nói “từ chốn nào đến”. “A dật đa” trở xuống tức đáp lại câu hỏi thứ hai tương ưng với câu hỏi ở trên nói “các Bồ-tát này do nhân duyên gì nhóm họp lại một chỗ rồi cùng lúc xuất hiện”.

“Mà nói kệ rằng” trở xuống là phần thứ hai tức kệ tụng. Tuy nhiên trong Văn Trường hàng ở trên vốn có hai đoạn và nay tám hàng rưỡi kệ cũng nêu ra hai đoạn ở trên nhưng lời văn kết thành ba đoạn: 1. Có một hàng ba câu nêu ra đoạn thứ nhất tức “Ta là Thầy của họ”; 2. Có hai hàng ba câu nêu ra lời đáp câu hỏi về thân người thứ hai; 3. “Chí niệm kia bền vững” trở xuống có bốn hàng thông suốt nêu lên hai đoạn trước. Căn cứ trong đoạn thứ hai tức có hai hàng ba câu vốn có bốn phần tương ưng với câu hỏi Di-lặc “Y chỉ thế giới này” gồm một câu đáp lại câu hỏi thứ nhất “là từ chốn nào đến. “Thường tu hạnh đầu đà” trở xuống có một hàng nêu ra việc đáp lại câu hỏi thứ hai “do nhân duyên gì…”. “Các vị đó như thế” trở xuống có một hàng đáp lại phần thứ ba “khen ngợi các Bồ-tát”. “Ở phương nước Ta-bà” trở xuống có nửa hàng kệ nêu lên việc đáp lại câu hỏi thứ tư “là từ chỗ nào đến”.

“Lúc bấy giờ, ngài Di-lặc Đại Bồ-tát v.v… lòng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra đại chúng hoài nghi mà đến thỉnh hỏi. Căn cứ trong đoạn này có hai phần: 1. Kinh gia trình bày đại chúng có nghi ngờ; 2. “Liền bạch Phật rằng” trở xuống là nêu ra việc thỉnh hỏi và tự có hai phần tức Văn Trường hàng và kệ tụng. Trong Văn Trường hàng cũng có hai phần: nêu ra sự nghi ngờ và sự thỉnh hỏi.

Lại trong hai đoạn này, mỗi đoạn được phân làm làm hai. Trong đoạn nêu ra sự nghi ngờ có hai phần: 1. “Liền bạch Phật rằng: Thế Tôn, đức Như Lai lúc làm Thái tử” trở xuống tức trước hết nêu ra việc dùng pháp thuyết để nói rõ nghi ngờ; 2. “Thí như cha trẻ con già” tức là dùng thí dụ để thuyết nêu lên sự nghi ngờ. “Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp” trở xuống là đoạn thứ hai “thỉnh cầu”. Đoạn này cũng có hai phần: 1. Di-lặc tự thuật lại sự hiểu biết của mình; 2. “Nhưng các Bồ-tát mới phát tâm” trở xuống là nêu ra việc vì người chưa tin hiểu mà cầu xin giải đáp.

“Mà nói kệ rằng”: trở xuống có mười bốn hàng kệ nêu ra việc hoài nghi mà thỉnh hỏi. Trong đoạn trên vốn có hai phần: 1. Tức là nêu ra sự nghi ngờ và nêu lên việc thỉnh hỏi. Nay trong mười bốn hàng kệ này cũng được phân làm hai: 1. Có mười một hàng kệ nêu ra sự nghi ngờ ở trên: 2. “Chúng con từ Phật nghe” trở xuống có ba hàng nêu lên sự thỉnh hỏi ở trên.

Tuy nhiên trong sự nghi ngờ ở trên cũng có hai phần: 1. Dùng pháp thuyết để nêu lên sự nghi ngờ; 2. Dùng thí dụ thuyết để nêu ra sự sự nghi ngờ.

Nay trong mười một hàng kệ cũng được phân làm hai phần. Ban đầu có năm hàng nêu lên việc dùng pháp để thuyết và sau đó có sáu hàng nêu ra viêc dùng thí dụ để thuyết. “Chúng con từ Phật nghe” trở xuống có ba hàng thì hàng thứ hai trong kệ tụng nêu lại phần thứ hai “thỉnh cầu” trong Văn Trường hàng ở trên. Nhưng trong việc thỉnh cầu vốn có hai mục 1. Nêu lên ngài Di-lặc tự thuật lại sự hiểu biết của mình; 2. Vì người chưa hiểu mà thỉnh hỏi.

Nay ba hàng này cũng được phân làm hai phần: 1. Có nửa hàng kệ nêu ra phần thứ nhất tức nói lên ngài Di-lặc tự thuật lại sự hiểu biết của mình; 2. Có hai hàng rưỡi kệ còn lại nêu lên phần thứ hai “vì người chưa hiểu mà thỉnh hỏi”.

 

PHẨM THỨ MƯỜI LĂM: NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

Phẩm này chính là nêu lên thọ mạng của Như Lai. Vì lấy “trần sa” làm lượng cho nên nói là “Thọ lượng. “ Từ đây trở xuống nửa phẩm “Phân biệt Công đức” tức là đoạn thứ tư rộng nêu lên thọ mạng lâu dài để đoạn nghi sanh tín. Xét trong đoạn thứ tư này cũng có ba đoạn: 1. Một phẩm này chính là rộng nêu lên thọ mạng lâu dài; 2. Một đoạn Văn Trường hàng ban đầu của phẩm Phân biệt Công đức tổng nêu lên sự việc vì đại chúng bấy giờ mà thọ ký; 3. Di-lặc nói kệ tụng và phần Văn Trường hàng của Phật thuyết chỉ ra sự việc đồng lãnh ngộ hiểu biết. Lại xét trong ba đoạn này tăng thêm một phần để nói rõ nghĩa. Trong đoạn thứ nhất có hai phần, đoạn thứ hai có ba phần và đoạn thứ ba có bốn phần. Nay căn cứ trong đoạn thứ nhất có hai phần tức là nêu lên duyên khởi và rộng thuyết. Phần duyên khởi cũng có ba phần: 1. “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như lai” trở xuống là nêu lên Như lai Ba-lần dặn bảo; 2. “Lúc đó, đại chúng Bồ-tát” trở xuống là nói lên Di-lặc v.v… bốn phen phụng hành thọ nhận sự chỉ giáo của Như Lai và “cúi xin nói đó”; 3. “Bấy giờ đức Thế Tôn” trở xuống là nêu lên đức Như Lai lại nêu ra lời chỉ giáo.

“Tất cả thế gian” trở xuống đến phẩm là đoạn thứ hai “rộng nói lên thọ mạng lâu dài. “ Trong đoạn này tự có hai phần tức trường hàng và kệ tụng. Trong phần Văn Trường hàng lại có hai mục: 1. Dùng pháp để thuyết nhằm nêu ra tướng lâu dài làm lợi ích cho chúng sanh; 2. “thí như vị lương y” trở xuống đến phần Văn Trường hàng là dùng thí dụ để thuyết. Nay trong phần dùng pháp để thuyết lẽ ra có bốn đoạn nhưng do văn giản lược mà chỉ có ba đoạn. Tuy nhiên nay nêu lên đoạn thứ ba được phân định làm hai phần nên thành bốn đoạn. Làm sao biết được điều đó? Do trong thí dụ ở dưới và trong kệ có phân định cho nên mới biết. Vả lại trong phần Văn Trường hàng cũng có đoạn thứ ba này. Danh tự của bốn đoạn được trình bày như sau: 1. Nêu ra đức Thích Ca trong đời quá khứ đã dùng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh. Điều này tức tương hợp với trong phần tựa thuật lại sự khuyến khích nói “Lực thần thông của chư Phật thường tự tại”; 2. Từ “các thiện nam tử, Như Lai thấy những chúng sánh ưa nói pháp Tiểu thừa” trở xuống là nêu lên thần thông của Phật trong hiện tại làm lợi ích cho chúng sanh. Điều này tương hợp với trên nói lực sư tử mạnh nhanh của chư Phật; 3. Nêu ra thần thông làm lợi ích chúng sanh của Phật trong đời vị lai. Điều này tương ưng với ở trên nói “sức oai thế mạnh lớn của các đức Phật”. Nên biết, sự việc này trong phần dùng pháp để thuyết không có nêu ra nhưng nay trong việc dùng thí dụ để thuyết và trong kệ thấy có xuất hiện; . “Lại Thiện nam tử! Pháp của các đức Phật Như lai đều như thế” trở xuống là nêu ra sự ẩn và hiện thông suốt cả ba đời nhằm nói rõ sự làm lợi ích cho chúng không có hư dối, để ngăn chặn chúng sanh khởi tâm hủy báng. Căn cứ trong bốn đoạn này mỗi đoạn đều có ba phần văn. Nay trong phần nói lên thần thông làm lợi ích cho chúng sanh của Phật trong qúa khứ có ba phần được trình bày như sau: 1. Nêu ra ứng thân thành tựu thọ mạng lâu dài của Phật nhưng người mê hoặc cho đó là gần tức khai mở nghĩa gần; 2. “Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây đã vô lượng vô biên” trở xuống tức nêu lên tướng thọ mạng lâu dài của Phật bổn nghĩa là hiển bày nghĩa lâu xa; 3. “Từ đó đến nay” trở xuống chính là nêu lên thần thông làm lợi ích cho chúng sanh của Phật trong quá khứ. Xét trong ba đoạn này tăng thêm một phần để làm rõ nghĩa: thứ nhất có một phần, thứ hai có hai phần và thứ ba có ba phần. Nay nói “tất cả thế gian đều cho rằng đức Thích ca Mâu Ni ra khỏi cung họ Thích” trở xuống là đoạn thứ nhất nêu ra đức Như Lai thật sự đã thành Phật từ lâu xa nhưng người mê hoặc nói là gần đây. Đoạn thứ nhất này chỉ nêu ra một phần mà không khai mở thêm “Nhưng thiện nam tử” trở xuống là đoạn thứ hai nêu ra căn bản của ứng hiện là đã thành Phật từ lâu xa đến nay. Trong đoạn thhứ hai này tự có hai phần: 1. Trước hết dùng pháp để thuyết nói rõ thọ mạng lâu dài: 2. “Ví như năm trăm nghìn vạn ức Na-do-tha” trở xuống là nêu ra thọ mạng lâu dài làm thí dụ. Trong thí dụ này có ba phần: 1. Trước hết khai mở thí dụ lâu dài để hỏi Di-lặc; 2. Di-lặc đáp lời Phật lâu dài; 3. Đức Phật kết hợp thí dụ lâu dài. “Từ đó nhẫn lại Ta thường ở cõi Ta-bà này” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh của Phật trong quá khư. Trong đoạn thứ ba này vốn có ba phần: 1. Nêu ra nơi chốn làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ; 2. “Nơi chặng giữa đó” trở xuống là nêu tên gọi bất đồng về việc làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ; 3. “Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta” trở xuống là nêu ra sự làm lợi ích cho chúng sanh. Lại căn cứ trong ba phần trên mỗi phần có ba đoạn. Trong phần nêu ra nơi chốn làm lợi ích cho chúng sanh có hai đoạn tức là: 1. Nói “từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà” tức là riêng biệt nêu ra nơi chốn của sự lợi ích; 2. Nói “cũng ở trong trăm nghìn muôn ức nado-tha” trở xuống “dắt dẫn lợi ích cho chúng sanh” tức tổng quát nêu ra việc làm lợi ích cho chúng sanh ở nơi khác. Trong phần nêu ra tên gọi bất đồng của việc làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ cũng có hai: 1. Nói “nơi chặng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng v.v… và lại có các đức Phật nhật Niết-bàn” chính là nêu tên gọi bất đồng của việc làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ. Điều này muốn nói lên đức Phật Nhiên Đăng và Định Quang là chỉ cho quá khứ của đức Thích Ca; 2. Nói “Như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt” là giải thích lý do có danh tự bất đồng. Vì dùng phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh cho nên mới có danh tự bất đồng. Từ “các thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra sự lợi ích cho chúng sanh. Trong đoạn này có hai phần tức là có bốn ý hợp làm hai cặp tức tạo ra hai phần; ban đầu nêu lên sự tương quan của cảm và ứng sau nêu ra hình và giáo làm lợi ích cho chúng sanh. Nay trong cặp ban đầu tức “nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta” là nêu lên căn cơ cảm ứng. “Ta dùng pháp nhãn quan sát: tín v.v… và các căn lợi độn của chúng” là nêu ra trí tuệ chiếu soi căn cơ. Cặp thứ hai tức “tùy theo chỗ đáng độ nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng” trở xuống là trước hết nêu ra thân giáo làm lợi ích cho chúng sanh. Điều này nói rõ hiện đời làm lợi ích chúng sanh. “Cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn “tức nêu lên việc hiện tướng diệt độ làm lợi ích cho chúng sanh. “Lại dùng các phương tiện trí nói pháp” trở xuống tức nêu ra giáo làm lợi ích cho chúng sanh. Ban đầu chính là nêu ra sự thuyết pháp bất đồng và kế đến nói “có thể làm cho chúng sanh phát lòng vui mừng” tức nêu ra việc đạt được lợi ích.

“Các thiện nam tử! Như lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp Tiểu thừa” trở xuống là đoan thứ hai nêu lên thần thông của Như Lai làm lợi ích cho chúng sanh trong đời hiện tại. Xét trong đoạn này cũng có ba phần: 1. Giảm bốn hành động tức trước hết nêu ra không sanh mà hiện sanh ở vương cung; 2. “Nhưng thiệt từ ta thành Phật nhẫn lại lâu xa dường ấy” trở xuống là nêu lên sự việc: không diệt mà hiện diệt ở rừng cây Sa-la; 3. “Các thiện nam tử! Kinh điển của Như Lai nói ra” trở xuống là nêu ra sau khi hiện sanh và trước khi ứng diệt đều dùng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh. Lại căn cứ trong ba phần này, mỗi phần có bốn thứ trùng nghĩa. Trong phần nêu ra không sanh mà hiện sanh có bốn trùng nghĩa tức là: 1. Thấy có chúng sanh có căn cơ chiêu cảm sanh ra; 2. Nêu lên Như lai hiện tại sanh; 3. Nêu lên có sanh mà thật chẳng sanh; . Giải thích ý “sở dĩ không sanh mà hiện sanh”.

Nay “Các thiện nam tử ! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nói pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội nặng” là trùng nghĩa thứ nhất nêu lên sự thấy căn cơ chiêu cảm sanh của chúng sanh. Chỉ do căn cơ ưa pháp Tiểu thừa và đức mỏng tội nặng cho nên chúng sanh mơi chiêu cảm 9 được Phật xuất thế. Từ “Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” là trùng nghĩa thứ hai nêu ra Như Lai hiện sanh. “Nhưng thiệt từ ta thành Phật nhẫn lại lâu xa dường ấy” là trùng nghĩa thứ ba nêu ra thật có sanh mà chẳng sanh. Từ “chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo” trở xuống là trùng nghĩa thứ tư, giải thích lý do sở dĩ không sanh mà hiện sanh là vì giáo hóa chúng sanh.

“Các thiện nam tử, kinh điển của Như Lai nói ra” trở xuống là phần thứ hai nêu ra đức Thích Ca sau khi hiện sanh và trước khi ứng diệt, ở khoảng giữa đó đều dùng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh.

Căn cứ trong phần này cũng có bốn trùng nghĩa:

1. Có một hàng rưỡi kệ nêu lên giáo làm lợi ích cho chúng sanh.

2. “Hoặc chỉ thân mình” trở xuống tức nêu ra hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh.

3. “Các lời nói” trở xuống có một câu dùng để tổng kết giáo làm lợi ích cho chúng sanh không có hư dối.

4. “Vì sao” trở xuống là thông suốt giải thích cả hình tướng và giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh.

Lại xét trong bốn phần này thì phần thứ nhất, thứ hai và phần thứ tư có hai mục còn phần thứ ba thì không có mở rộng. Trong việc dùng giáo làm lợi ích cho chúng sanh có hai phần: 1. Nói “kinh điển của Như Lai nói ra đều vì độ thoát chúng sanh” là tổng pháp môn nêu lên giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh, hễ nói ra, bày tỏ giáo đều làm lợi ích cho vạn hữu; 2. Nói “hoặc nói thân mình” trở xuống có hai câu tức căn cứ vào biệt môn để nêu lên giáo làm lợi ích cho chúng sanh. “Hoặc nói thân mình” tức là nêu ra thân mình làm thân người khác. “Hoặc nói thân người” tức là nêu ra thân người khác làm thân mình. Vì sao nay nói “hoặc nói thân mình”? Vì tức là nói thân mình là người khác cho nên biết thể của thân trượng sáu của Phật Thích Ca là phân thân của Phật Nhiên Đăng vì thế thân này chẳng phải Ta có. “Hoặc nói thân người tức là nói thân người khác là thân mình. Cho nên biết được trong phẩm “Hiện Bảo Tháp” có nói phân thân của mười phương chư Phật tức đều là sở hữu của Thích Ca.

Trong việc nêu ra hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh vốn có hai phần: 1. “Hoặc chỉ thân mình v.v…” gồm có hai câu nên ra thân thể tức là chánh báo; 2. “Hoặc chỉ việc mình v.v…” gồm có hai câu nêu ra sự việc của thân tức là y báo. Nay nói “hoặc chỉ thân mình” là hoặc chỉ ra tự thân mình làm thân người khác, Do vậy biết được người và vật, tám bộ chúng của cõi nước này đều là chỗ giáo hóa chúng sanh của Thích Ca. Pháp chủ ứng hiện chính là đức Thích Ca. Nhưng người ngồi trên pháp tòa là Phật Vô Lượng Thọ đây chính là chỉ ra thân mình làm thân người khác. “Hoặc chỉ thân người” tức là chỉ ra thân người khác làm thân mình… Do đó nên nói “như người và vật cùng bốn chúng của cõi Tây Phương đểu là chúng sở hóa của Phật Vô Thượng Thọ. Tuy sự ứng hiện trên pháp tòa là Phật Vô Lượng Thọ nhưng người ngồi trên pháp toà chính là hình dung của đức Thích Ca. Đây tức là chỉ ra thân người khác làm thân mình nhằm nói rõ biến thân người khác làm thân mình và biến thân mình làm thân người khác. “Hoặc chỉ việc mình” trở xuống có hai câu thuộc đoạn thứ tư trong việc dùng hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh nêu lên sự việc tự thân… “Hoặc chỉ việc mình” là chỉ ra sự việc của mình làm hình ảnh sự việc của người khác chẳng hạn như sự ứng hiện của Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương có tám bộ chúng đến nghe pháp như trời, rồng thuộc Tây phương nhưng quyến thuộc của Phật kia đều là quyến thuộc đệ tử của Phật Thích Ca. “Hoặc chỉ việc người” là đức Thích Ca ứng hiện có quyến thuộc nhưng quyến thuộc ấy đều là quyến thuộc của Phật Vô Lượng Thọ. Đây chính là chỉ ra sự việc của người khác làm sự việc của mình. “Các lời nói đều thiệt chẳng dối” là phần thứ ba: riêng biệt tổng kết để nêu ra giáo nghĩa làm lợi ích chúng sanh không có hư dối và phần thứ ba này không có khai mở thêm.

“Vì sao” trở xuống là phần thứ tư giải thích thông suốt hình tướng lẫn giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh. Trong phần giải thích này tự có hai phần: 1. Trước hết giải thích hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh; 2. “Chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi” trở xuống là giải thích giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh. Trong việc dùng hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh tự có ba phần: 1. Nói lên Như Lai thấy chúng sanh có căn cơ chiêu cảm hình tướng; 2. Tụng ý “nguyên do thấy rõ căn cơ”; 3. Giải thích hình tướng làm lợi ích chúng sanh không có hư dối. Nói “vì đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của ba cõi” là trước hết nêu ra Như Lai thấy chúng sanh trong ba cõi có tướng căn cơ chiêu cảm hình tướng. Từ “không có sanh tử” trở xuống gồm có hai câu là phần thứ hai nêu ra ý “nguyên do Như Lai có thể thấy căn cơ”. Vì không có lỗi lầm về nhơn và pháp cho nên mới phân làm hai câu. Trước hết có một câu nêu lên pháp sanh diệt thuộc người cũng không thể nắm bắt được và một câu sau nêu lên người thuộc pháp sanh diệt cũng không thể nắm bắt. “Không có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất” là phần thứ nhất nêu ra Như Lai đã từ kiếp lâu xa đoạn sạch nhân của sanh. Sao gọi là có sanh? Nếu có sanh ắt phải có tử nhưng đã không có sanh thì sao gọi là có tử? Điều này chính là căn cứ vào một đời mà luận “Hoặc thoái, hoặc xuất” nghĩa là tử tức thoái và sanh tức “xuất”. Đã không có tử sao còn có sanh! Hai câu này tức căn cứ vào sự xa cách đời mà bàn luận. Trước hết có một câu “không có” đều mở đầu cho bốn chữ ở trên. “Cũng không ở đời và diệt độ” gồm một câu nêu ra người thuộc sanh diệt cũng không thể nắm bắt được tức chỉ cho người thực hành. “Chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị” gồm có bốn câu thuộc phần thứ ba chính là giải thích hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh không có hư dối. “Chẳng phải thật” túc là đã có sanh diệt thì sao gọi là thật! “Chẳng phải hư” tức là vì chúng sanh sanh diệt mà làm lợi ích thì sao gọi là hư! “Chẳng phải như” tức thật tế có sanh diệt thì sao gọi là như! “Chẳng phải dị” tức do sanh diệt mà được lợi ích thì sao gọi là dị!

“Chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi” là phần thứ hai, giải thích việc dùng giáo làm lợi ích cho chúng sanh không có hư vọng. Đây cũng có ba phần: 1. Có hai câu nêu ra đức Như Lai thấy có căn cơ cảm ứng giáo nghĩa; 2. Nêu ra căn cơ của chúng sanh bất đồng 3. Nêu ra sự thuyết giáo làm lợi ích cho chúng sanh cũng có khác. Trong đây có hai câu” chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi” tức nêu lên Như Lai thấy căn cơ chúng sanh không khác nhưng vì chúng sanh trong ba cõi không thấy không cơ duyên và hình tướng của Như Lai. Nói “các việc như thế Như Lai thấy rõ, không có sai lầm” chính là nêu lên Như Lai có khả năng thấy được căn cơ của chúng sanh. “Bởi các chúng sanh có các món tánh” trở xuống là phần thứ hai nêu ra căn cơ của chúng sanh có tánh, có dục, có hạnh, có nhớ tưởng đều là cơ duyên chiêu cảm giáo nghĩa bất đồng. Từ “muốn làm cho sanh các căn lành nên dùng bao nhiêu nhơn duyên, thí dụ, ngôn từ, các cách nói pháp” trở xuống là phần thứ ba nêu ra sự thuyết giáo làm lợi ích cho chúng sanh cũng có sai khác.

“Như thế từ ta thành Phật nhẫn lại, thật là xâu xa” tức nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh của Như Lai trong hiện tại vốn có ba phần. Từ đây trở xuống là phần thứ ba nêu ra sự việc không diệt mà hiện diệt. Phần này cũng có bốn thứ trùng nghĩa: 1. Nói”như thế từ ta thành Phật nhẫn lại” trở xuống”thường còn chẳng mất” là nêu ra sự việc sanh vào Vương cung nhưng chẳng phải thật sanh. Đa thành Phật lâu xa đến nay sao gọi là thật sanh; 2. Từ “các thiện nam tử, ta xưa tu hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ mạng, nay vẫn chứa hết” trở xuống là nêu lên sự bất diệt; 3. Nói “nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ mà bèn xướng nói” trở xuống “dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sanh” chính là nói lên sự diệt độ trong hiện tại; . “Vì sao? Vì nếu Phật ở đời lâu” trở xuống là giải thích ý sở dĩ không diệt độ mà hiện diệt độ để làm lợi ích cho chúng sanh. Xét trong việc giải thích này tự có bốn phần: 1. Giải ý vì sao hiện diệt độ. Do chúng sanh thấy Như Lai trụ lâu ở đời mà không gieo trồng thiện căn, tham đắm năm trần sáu món dục, không thể sanh tưởng khó gặp và tâm cung kính. Vì nghĩa này cho nên Như Lai sở dĩ phải hiện diệt độ; 2. “Cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng” trở xuống “đức Như lai khó có thể đặng thấy” là nêu ra ý khen ngợi khó có thể gặp Phật xuất thế; 3. “Các chúng sanh đó nghe lời như thế” trở xuống là nêu ra tướng hiện diệt độ để làm lợi ích cho chúng sanh; . Từ “cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt” trở xuống là tổng kết ý hiện diệt độ. Căn cứ trong bốn phần này thì phần thứ nhất có hai trùng nghĩa, phần thứ hai có ba trùng nghĩa, phần thứ ba có bốn trùng nghĩa và phần thứ tư lại không khai mở thêm. Phần thứ nhất có hai trùng nghĩa tức là: 1. “Vì sao” trở xuống có hai hàng nêu ra việc nếu Như Lai trụ lâu ở đời thì chúng sanh không sanh khởi làm thiện mà làm ác; 2. “Nếu thấy Như Lai thường trụ bất diệt” trở xuống là nêu lên chúng sanh tâm ngã mạn mà không có cung kính. Xét trong phần thứ hai tức khen ngợi Phật khó mà gặp được cũng có ba thứ trùng nghĩa: 1. “Cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng” trở xuống có một hàng chính là nêu ra sự việc rất khó gặp Phật xuất thế; 2. “Vì sao” trở xuống có một hàng rưỡi nêu ra người ác không gặp được Phật để giải thích nghĩa “khó gặp” 3. “Do việc này” trở xuống là tổng kết ý “khó gặp. “ Hai phần dưới tuy không khai triển nhưng cũng có thể hiểu được.

Nói “Nếu Phật ở lâu nơi đời thời người đức mỏng chẳng trồng cội lành” từ đây trở xuống lẽ ra nói thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong đời vị lai của Phật, nhưng do câu văn lược không có. Nay tạm đưa ra một đoạn vị lai thuộc phần thứ ba để làm căn bản cho thí dụ ở dưới.

“Lại thiện nam tử! Phương pháp của các đức Phật Như Lai đều như thế “trở xuống là phần thuyết pháp thứ tư nói lên Như lai ẩn hiện thông suốt cả ba đời làm lợi ích cho chúng sanh không có hư dối. Sự việc này cũng phân ra làm ba đoạn: 1. “Phương pháp của các đức Phật đều như thế” là trước hết gom nói đạo của chư Phật đều giống nhau; 2. “Vì độ chúng sanh” gồm có một câu nói lên ý thiết lập giáo của chư Phật chính là nói rõ nghĩa “ba đời chư Phật đều thuyết giáo là vì độ thoát chúng sanh”; 3. Nói “đều thật chẳng dối” gồm có một câu nêu ra 00 sự việc không hư dối.

“Ví như vị lương y” trở xuống là phần thứ hai tức dùng thí dụ để thuyết. Trong đây tự có hai phần: khai dụ và hợp dụ. Nay trước hết nêu ra việc khai mở thí dụ có bốn phần tức là lấy bốn đoạn dùng pháp để thuyết ở trên mà tạo ra thí dụ. Tuy nhiên do câu văn giảm lược nên không hợp nêu rõ mà thôi. Bốn đoạn ấy được trình bày như sau: 1. Có hai hàng rưỡi nêu ra thần thông làm lợi ích chúng sanh trong quá khứ làm thí dụ; 2. “Các người con sau lúc đó” trở xuống có hai mươi mốt hàng nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong hiện tại làm thí dụ; 3. “Người cha nghe các con” trở xuống có một hàng nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong đời vị lai làm thí dụ; . “Các thiện nam tử, ý ông nghĩ sao?” Trở xuống có một hàng rưỡi nêu ra việc làm lợi ích cho chúng sanh trong ba đời không có hư dối làm thí dụ.

Việc dùng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ vốn có ba phần nhưng nay không chọn hai phần trước làm thí dụ mà chỉ lấy phần thứ ba làm thí dụ. Trong phần thứ ba ở trên tự có ba thứ trùng nghĩa, nay không làm thí dụ ở hai trùng nghĩa trước mà chỉ nêu ra trùng nghĩa thứ ba làm thí dụ. Thứ nhất nói lên “từ ta thành Phật thật lâu xa mà người mê hoặc cho là gần đây” nhưng nay không lấy đó làm thí dụ. Thứ hai là nêu ra sự chân thật thành Phật đã lâu xa gồm có hai phần: dùng pháp để thuyết và dùng thí dụ để thuyết. Trong việc nói lên sự thành Phật đã lâu xa vốn có ba phần: 1. Tạo ra thí dụ để hỏi Di-lặc; 2. Di-lặc trả lời; 3. Đức Như Lai đáp lời để tổng kết. Nay cũng không chọn hai phần đầu làm thí dụ mà chỉ lấy lấy phần thứ ba “nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ” làm thí dụ. Trong phần này ở văn trên tự có ba đoạn: 1. “Từ đó đến nay” trước hết nêu ra nơi chốn làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ. Trong đoạn này cũng có hai phần: riêng biệt và tổng quát nhưng nay cũng không nêu ra làm thí dụ; 2. Nêu ra danh tự làm lợi ích cho chúng sanh trong quá khứ có sự bất đồng.

Trong đoạn này tự có hai phần:

  1. Nêu ra tên làm lợi ích cho chúng sanh.
  2. Giải thích nguyên do có danh tự bất đồng trong việc làm lợi ích cho chúng sanh.

Hai phần này nay cũng không lấy làm thí dụ cho nên hai thứ trùng nghĩa trước cũng không nêu ra làm thí dụ; 3. Từ “nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta” trở xuống là nêu ra sư việc làm lợi ích cho chúng sanh. Nay có hai hàng nêu ra sự hứa khả để lấy đó làm thí dụ. Lại nữa trong phần văn ở trên vốn có bốn ý hợp làm hai cặp nghĩa. Nay cũng tạo ra bốn đoạn làm thí dụ. “Ví như vị lương y, trí tuệ, sáng suốt” là đoạn thứ hai nêu ra trí tuệ chiếu soi rõ căn cơ làm thí dụ tương ưng với ở trên nói” ta dùng Phật nhãn quán sát các căn lợi độn như tín v. v… của chúng sanh ấy. “Khéo luyện phương thuốc trị các bịnh” tức là đoạn thứ tư nêu ra giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh làm thí dụ tương ưng với ở trên nói “lại dùng các phương tiện trí nói pháp vi diệu có thể làm cho chúng sanh phát tâm hoan hỷ”. Nay nói “khéo luyện phương thuốc” là nêu ra Như Lai khéo thấu suốt mười hai bộ kinh văn tức là nghĩa “khéo luyện phương thuốc. Nếu biết thông suốt lý của mười hai bộ binh thì chính là “khéo luyện phương thuốc”. “Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm” là đoạn thứ nhất nêu lên cơ duyên cảm ứng làm thí dụ, tương ưng với ở trên nói “nếu có chúng sanh nào đến chỗ của ta”. “Do có duyên sự đến nước xa khác” là đoạn thứ ba nêu lên việc dùng hình tướng đem lại lợi ích cho chúng sanh làm thí dụ tương ưng với hai câu ở trên nói: “Nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng niên kỷ hoặc lớn hoặc nhỏ” nhằm nói rõ việc làm lợi ích trong hiện tại nhưng nay không lấy đó làm thí dụ; câu thứ hai nói “cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn” tức nêu ra hiện tại diệt độ để làm lợi ích cho chúng sanh. Nay nói”do có duyên sự đến nước xa khác” tức lấy đó làm thí dụ. Sau lúc đó, các người con uống thuốc độc khác là đoạn thứ hai nên ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong hiện tại làm thí dụ. Đoạn này ở trên vốn có ba phần. Ban đầu nêu ra sự việc chẳng sanh mà hiện sanh. Kế đến nói “nơi chặng giữa đó” tức nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh, và nói rõ không diệt mà hiện. Nay lấy cả ba phần làm thí dụ: 1. Có một hàng rưỡi làm thí dụ thứ nhất; 2. “Các con uống thuốc độc” trở xuống là thí dụ thứ hai; 3. “Ngoài ra, những người thất tâm” trở xuống là thí dụ thứ ba. Trong đoạn nêu ra việc không sanh mà hiện sanh vốn có bốn nghĩa: 1. Nêu ra việc thấy chúng sanh có căn cơ chiêu cảm; 2. Nêu ra Như Lai hiện sanh; 3. Nói lên sanh mà thật chẳng phải sanh; 4. Giải thích ý chẳng sanh mà hiện sanh. Tuy nhiên nay chỉ nêu lên hai phần ở trước làm thí dụ. Nay nói “sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác”, là thí dụ có căn cơ chiêu cảm. Ở văn trên nói: “Như Lai thấy các chúng sanh ưa nơi pháp Tiểu thừa, đức mỏng, cấu nặng…” Nay nói: “Các con sau đó uống thuốc khác… thuốc phát muộn loạn, lăn lộn trên đất” là nói lên chúng sanh xưa kia đã từng thọ nhận lời giáo hóa chánh đáng của Như Lai nhưng sau đó lại bỏ đi mà gặp ác tri thức thọ nhận lời dạy tà kiến và mỗi người tự uống thuốc độc khác, rộng khởi nghiệp phiền não giống như thuốc độc đã phát khởi. Do vậy sau đó trôi lăn trong ba cõi như lăn lộn trên đất. “Bấy giờ người cha từ nước xa trở về” là phần thứ hai ở trên nêu ra việc hiện sanh làm thí dụ tương ưng với văn trên nói “Phật vì người” mà nói “Ta lúc trẻ xuất gia đặng Vô thượng Chánh đẳng chánh giác” nên biết trong đây không lấy phần thứ ba và thứ tư làm thí dụ.

“Các người con uống thuốc độc, hoặc người mất bản tâm” trở xuống là phần thứ hai nêu ra sau khi hiện sanh, trước khi ứng hiện diệt độ và khoảng trung gian dùng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh làm thí dụ. Trong phần ở trên vốn có bốn đoạn: 1. Nói lên giáo nghĩa làm lợi ích chúng sanh; 2. Nêu ra hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh; 3. Tổng kết nêu ra giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh không có hư dối; . Giải thích cả hình tướng lẫn giáo nghĩa làm lợi ích cho chúng sanh. Tuy nhiên nay chỉ nêu ra ba đoạn trước làm thí dụ mà không lấy đạon thứ tư tức nêu ra hình tướng lẫn giáo nghĩa đem lại lợi ích làm thí dụ. Và trong đây không có sắp xếp theo thứ tự. Ban đầu có hai hàng rưỡi là đoạn thứ hai nêu ra việc dùng hình tướng đem lại lợi ích cho chúng sanh làm thí dụ. Từ “cha thấy các con khổ não như thế” trở xuống là đoạn thứ nhất nêu ra việc dùng giáo nghĩa đem lại lợi ích cho chúng sanh làm thí dụ. Từ “trong các con, những người chẳng thất tâm” trở xuống là đoạn thứ ba “tổng kết giáo đem lại lợi ích cho chúng sanh không có hư dối làm thí dụ. Nay trước tiên nêu ra đoạn thứ hai: Nói lên hình tướng đem lại lợi ích làm thí dụ. Nhưng trong đoạn này ở trên vốn có hai phần:

1. Nêu ra hai câu “hoặc chỉ thân mình v.v…” để nói rõ thân mình, “hoặc chỉ việc mình v.v… là nêu ra sự việc thuộc thân mình. Nay trong phần này có ba đoạn văn:

a) “Các con uống thuốc độc hoặc người mất bản tâm” trở xuống là nêu ra ý nghiệp được hoan hỷ.

b) “Quỳ lạy hỏi thăm” trở xuống là nêu lên sự cung kính của thân nghiệp.

c) “Chúng con ngu si” trở xuống là nêu ra sự thỉnh cầu thuộc khẩu nghiệp. Tuy nhiên nay lấy chung hai đoạn trên làm thí dụ.

2. “Cha thấy các con khổ não như thế” là nói lên giáo nghĩa đem lại lợi ích làm thí dụ. Nhưng trong phần này ở trên vốn có hai mục. Ban đầu nói “kinh điển của đức Như Lai nói ra đều vì độ thoát chúng sanh” tức tổng quát nêu ra viêc dùng giáo nghĩa làm lợi ích. Nay trước tiên lấy đó làm thí dụ tức đều đầy đủ. Tuy nhiên, pháp tướng được xem là như “sắc” và thể tướng giống như “hương”. Điều này có nghĩa lý giống như “vị ngon”. Do vậy tên gọi của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, chính là “danh”, ba khổ là nghiệp Khổ, phiền não là Tập, chỗ diệt của ba tâm gọi là Diệt giới, định, tuệ gọi là Đạo. Tất cả những thứ như vậy gọi là thể. Do sự bức não nên gọi là khổ. Do chiêu tập nên gọi là tập. Do vốn có pháp mà không có nên gọi là diệt. Do thông suốt các vật nên gọi là đạo. Tất cả những điều như thế gọi là nghĩa. “Đâm nghiền hoà hợp” trở xuống tức là phần thứ hai trong việc nêu ra giáo nghĩa đem lại lợi ích làm thí dụ tương ưng với ở trên nói “hoặc nói thân mình hoặc nói thân người” tức là Khổ, Tập v.v… là “đâm”. Nên biết khổ v.v… ở đây giống như “giã”. “Khổ này v.v… ta đã biết” là nghĩa “hòa hợp”. “Trong các con, những người chẳng thất tâm” trở xuống là phần thứ ba “tổng kết giáo đem lại sự lợi ích không có hư dối” làm thí dụ tương ưng với ở trên nói “các lời nói đều thiệt chẳng đối”.

“Ngoài ra, những người thất tâm” trở xuống là phần thứ ba trong việc nêu ra hiện tại làm lợi ích tức “không diệt độ mà hiện diệt độ”. Trong đoạn này ở trên vốn có bốn phần: 1. Nêu ra ở tại vương cung sanh mà không sanh; 2. Nêu ra diệt mà không diệt; 3. Nêu ra sự việc không diệt mà hiện diệt; . Giải thích ý sở dĩ “không diệt mà hiện diệt. “Tuy nhiên nay không lấy ba phần trước làm thí dụ mà chỉ lấy phần thứ tư làm thí dụ. Trong phần thứ tư này ở trên lại có bốn đoạn: 1. “Nếu thấy đức Phật thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông lung nhàm trễ, chẳng có thể sinh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính”; 2. Khen ngợi đức Phật thật khó có thể gặp được; 3. Nói lên hiện tại diệt độ để làm lợi ích khiến chúng sanh phát khởi cung kính mà gieo trồng căn lành; . Tổng kết ý hiện tại diệt độ. Nay đoạn thứ nhất chỉ có ba hàng nêu ra thí dụ thứ nhất. Từ “người cha nghĩ rằng” trở xuống có năm hàng là đoạn thứ hai “khen ngợi Phật ra đời thật khó gặp” làm thí dụ. “Bấy giờ, các con nghe cha chết” trở xuống có bốn hàng là đoạn thứ ba nêu ra sự cung kính mà gieo trồng căn lành làm thí dụ. Tuy nhiên nay tăng thêm một phần để nói rõ nghĩa. Đoạn thứ nhất có hai phần, đoạn thứ hai có ba phần, đoạn thứ ba có bốn phần. Thí dụ thứ nhất có hai phần tức là 1. “Ngoài ra những người thất tâm, thấy cha về” trở xuống có một hàng rưỡi chính là nêu lên chúng sanh thấy Phật trụ ở đời lâu nên không sanh tâm cung kính gieo trồng căn lành làm thí dụ; 2. “Vì sao” trở xuống có một hàng dùng để giải thích ý không sanh khởi thiện căn. Thí dụ thứ hai có ba phần được trình bày như sau: 1. “Người cha nghĩ rằng: người con này đáng thương” trở xuống có hai hàng nêu ra sự việc khó gặp được Phật ra đời làm thí dụ; 2. “Liền bảo rằng” trở xuống có hai hàng nêu ra “vì dùng phương tiện mà nói lên sự diệt độ” làm thí dụ; 3. Bảo thế, rồi lại đến nước khác” trở xuống có một hàng nêu lên sự việc ở tại rừng SaLa nhập Niết-bàn làm thí dụ. Nên biết, “các người con thấy cha đi đến nước khác mà sanh tưởng cha chưa chết” chính là nêu ra các đệ tử do chưa quyết định sanh khởi tưởng Niết-bàn. “Cũng đến nghe sứ giả mà mới sanh tưởng đã chết” tức không khác gì các đệ tử sau khi thấy Phật được trà-tỳ phân thân xá lợi bèn quyết định khởi tưởng Niết-bàn. Theo tương truyền thì câu “sai sứ giả trở về” được hiểu rằng: nêu ra sự việc sau khi Phật diệt độ, xá lợi của ngài được phân ra làm “tám hộc bốn đấu” tức là nghĩa “sứ giả”. Trong thí dụ thứ ba nêu ra sự phát khởi cung kính mà gieo trồng thiện căn tự có bốn phần và được trình bày như sau: 1. “Bấy giờ, các người con nghe cha chết” trở xuống có một câu tổng nêu lên sự khổ não; 2. “Mà nghĩ rằng: nếu cha ta còn sống” trở xuống có một hàng nêu ra sự lợi ích của cha khi còn sống. Ý của hai phần này có thể hiểu rõ; 3. “Hôm nay, bỏ ta xa chết ở nước khác” trở xuống có một hàng, riêng biệt nêu ra các người con đã mất cha nên sanh khởi ưu não; 4. “Tâm bèn tỉnh ngộ” trở xuống có một hàng chính là nêu ra việc sanh khởi thiện căn làm thí dụ.

“Người cha nghe các con đều đã lành mạnh” trở xuống là nghĩa thứ ba: nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong đời vị lai làm thí dụ nhưng văn trên không có nêu ra. Trong đây cũng có ba đoạn: 1. Trước hết nêu lên đức Phật thấy chúng sanh trong đời vị lai có cơ duyên chiêu cảm Phật xuất thế; 2. Nêu ra sự ứng sanh của Như Lai tức nói “liền trở về”; 3. “Cho các con đều thấy” tức nêu ra hình tướng làm lợi ích cho chúng sanh trong tương lai của Phật làm thí dụ.

“Các thiện nam tử! y ông nghĩ sao?” Trở xuống là đoạn thứ tư nêu ra sự ẩn hiện làm lợi ích cho chúng sanh của Phật trong ba đời không có hư dối làm thí dụ. “Phật nói: Ta cũng như thế” là phần hợp dụ thứ hai. Trong đây lược mà không nêu ra hợp dụ thứ ba mà chỉ hợp ba đoạn còn lại. Nay, trước hết hợp dụ nêu ra thí dụ thứ nhất. Trong việc khai mở, thí dụ ở trên gồm có bốn phần. “Ta cũng như thế” gồm một câu hợp thí dụ thứ nhất: ví như vị lương y có trí tuệ sáng suốt “Từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên” trở xuống là hợp thí dụ thứ tư vì cơ duyên sự mà đến nước xa khác, và không hợp nêu ra thí dụ thứ hai và thứ ba, tức là: “khéo luyện phương thuốc trị các bệnh” và nói “người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm” ở văn trên.

“Vì chúng sanh” trở xuống là hợp phần thứ hai “thần thông làm lợi ích cho chúng sanh trong hiện tại”. Trong văn ở trên vốn có ba phần nhưng nay không hợp phần thí dụ thứ nhất và thứ hai mà chỉ hợp phần thí dụ thứ ba: không diệt độ mà hiện diệt độ. Văn trên thí dụ thứ ba này có ba phần: 1. Nêu ra chúng sanh thấy Phật trụ lâu ở đời mà không sinh lòng cung kính; 2. Nêu lên việc khó gặp đức Phật xuất thế; 3. Nêu ra sự việc hiện diệt độ khiến chúng sanh tâm cung kính. Tuy nhiên, nay chỉ hợp phần thí dụ thứ hai: khó gặp đức Phật xuất thế. Ở văn trên, trong thí dụ này tự có ba phần: 1. “Người cha suy nghĩ” trở xuống là tụng sự việc khó gặp đức Phật xuất thế; 2. “Liền bảo rằng” trở xuống là nói lên sự diệt độ; 3. “Chỉ bảo rồi” trở xuống là nêu ra sự việc nhập Niết-bàn. Tuy nhiên, nay chỉ hợp phần thí dụ thứ hai: nói sẽ nhập Niết-bàn mà không hợp phần thứ nhất và phần thứ ba. “Cũng không ai có thể” trở xuống là hợp nêu ra thí dụ thứ tư: đem lại lợi ích không có hư dối.

“Mà nói kệ rằng” trở xuống có hai mươi lăm hàng rưỡi kệ là phần kệ tụng thứ hai cũng được phân làm hai đoạn. Ban đầu có hai mươi hàng rưỡi kệ tụng phần pháp thuyết ở trên. Kế đến, nói “thí như vị lương y” trở xuống có năm hàng tụng phần thí dụ thuyết. Ở văn pháp thuyết bên trên vốn có hai đoạn mà theo nghĩa thì tạo thành bốn đoạn. Nay, hai mươi hàng rưỡi kệ cũng được phân làm bốn đoạn: 1. Có hai hàng tụng sự việc làm lợi ích cho chúng sanh trong đời quá khứ; 2. Có ba hàng tụng sự việc làm lợi ích cho chúng sanh trong đời hiện tại; 3. Có mười bốn hàng rưỡi kệ với nghĩa nêu ra sự việc làm lợi ích cho chúng sanh trong đời vị lai; 4. Có một hàng tụng sự việc làm lợi ích cho chúng sanh thông suốt cả ba đời không có hư dối. Văn trên nêu ra lợi ích cho chúng sanh ở quá khứ có ba phần nhưng nay không tụng phần thứ nhất: người mê hoặc cho đó là gần. Nay một hàng đầu tụng “tướng thành Phật lâu xa. Một hàng kế tiếp tụng phần thứ ba ở văn trên nêu ra thần thông làm lợi ích cho chúng sanh. Nhưng văn trên nêu ra tướng thành Phật lâu xa vốn có hai phần: pháp thuyết và thí dụ thuyết. Nay một hàng này chỉ tụng phần pháp thuyết. Tiếp đến một hàng tụng phần thứ ba: thần thông làm lợi ích cho chúng sanh ở văn trên vốn có ba mục: 1. Nói lên nơi chốn giáo hóa chúng sanh; 2. Danh tự bất đồng; 3. Nêu ra sự việc làm lợi ích cho chúng sanh. Tuy nhiên nay trong kệ không tụng mục thứ nhất và thứ hai mà chỉ tụng mục thứ ba. Trong mục thứ ba vốn có hai phần: cảm ứng tương quan và hình giáo lợi ích. Nhưng nay không tụng phần thứ nhất mà chỉ tụng phần thứ hai. Trong phần thứ hai cũng có hai mục: dùng hình tướng và giáo môn làm lợi ích. Nhưng nay trong kệ không tụng mục thứ nhất mà chỉ tụng mục thứ hai tức nói giáo để làm lợi ích. Trong việc nói giáo để làm lợi ích vốn có hai phần: 1. Nêu ra việc nói giáo làm lợi ích tương ưng với văn kinh nói “lại dùng nhiều thứ phương tiện nói pháp vi diệu. “Và có nửa hàng kệ nêu ra điều này; 2. Nêu ra giáo nghĩa xứng hợp với chúng sanh tương ưng với văn kinh nói “hay khiến chúng sanh phát tâm vui mừng. “Và nay trong kệ tụng cũng có nửa hàng nêu ra điều này.

“Vì độ chúng sanh vậy” trở xuống có ba hàng tụng việc làm lợi ích trong đời hiện tại. Phần này văn trên cũng có ba đoạn nhưng nay không tụng đoạn thứ nhất: “không sanh mà hiện sanh” và đoạn thứ hai “tướng thần thông làm lợi ích cho chúng sanh” mà chỉ tụng đoạn thứ ba “không diệt độ nhưng hiện diệt độ. “Văn đoạn này ở trên vốn có bốn phần: 1. Nêu lên việc sanh vào vương cung nhưng thật sự chẳng sanh; 2. Nêu lên sự diệt độ nhưng thật chẳng phải diệt độ; 3. Nêu ra hiện tại nói lên lời diệt độ; . Giải thích ý sở dĩ không diệt độ mà hiện diệt độ. Nay trong kệ không tụng phần thứ nhất và thứ hai mà chỉ tụng hai phần sau. “Vì độ chúng sanh vậy” trở xuống có hai hàng tụng phần thứ ba: hiện nói lên lời diệt độ. Từ “chúng thấy ta diệt độ” trở xuống có một hàng tụng phần giải thích thứ tư. Trong phần này ở văn trên có bốn đoạn nhưng nay chỉ tụng đoạn thứ ba: chúng sanh thấy diệt độ cho đến mà sanh lòng cung kính.

“Chúng sanh đã tin phục” trở xuống có mười bốn hàng rưỡi kệ tụng nghĩa nêu ra sự việc trong đời vị lai. Nay cũng phân định có bốn đoạn: 1. Năm hàng rưỡi kệ trước hết nêu ra Ba-lần xuất thế trong đời vị lai của Phật; 2. Tiếp một hàng tụng nơi chốn làm lợi ích cho loài người ở trong đời vị lai; 3. Tiếp bảy hàng tụng để giải thích sự nghi ngờ; . Một hàng sau tụng thọ mạng lâu dài của Như Lai để tổng kết. Thứ nhất tụng ba lần xuất thế tức có hai hàng rưỡi kệ là một lần xuất thế. “Nước khác có chúng sanh” trở xuống có một hàng rưỡi kệ lại tụng một lần xuất thế. Từ “ta thấy các chúng sanh” trở xuống có một hàng rưỡi kệ lại nêu ra một lần xuất thế nữa. “Sức thần thông như thế, ở trong vô số kiếp, thường tại núi Linh Thứu” trở xuống có một hàng tụng đoạn thứ hai tức nơi chốn làm lợi ích cho loài người trong đời vị lai. “Chúng sanh thấy tận kiếp, lúc lửa lớn thiêu đốt” trở xuống có bảy hàng là đoạn thứ ba: giải thích sự nghi ngờ. Trong sự nghi ngờ không có Tịnh độ vốn có bốn phần: 1. Có hai hàng tụng kiếp số tận mà Tịnh độ không diệt; 2. “Các trời đánh trống trời” trở xuống có một hàng tụng Tam bảo luôn luôn tồn tại; 3. “Tịnh độ ta chẳng hư” trở xuống có hai hàng tụng người có tội thì không thấy (Tịnh độ); . “Có tu các công đức” trở xuống có hai hàng tụng người có phước thì thường thấy (tịnh độ). “Trí lực ta như thế” trở xuống có một hàng là đoạn thứ tư: tụng về thọ mạng lâu dài của Như lai để tổng kết.

“Các ông người có trí” trở xuống có một hàng là tụng phần thứ tư ở trên không có hư vọng.

“Như lương y chước khéo” trở xuống có năm hàng tụng phần thí dụ thuyết. Kế thí dụ thuyết tự có hai phần. Một hàng ban đầu tụng phần khai mở thí dụ và bốn hàng kế tiếp tụng phần hợp dụ. Phần khai dụ ở văn trên có bốn thí dụ nhưng nay trong kệ lược mà không tụng thí dụ thứ ba. Nay có một hàng thì câu đầu tụng thí dụ thứ nhất trong văn trên. “Vì để trị cuồng tử” trở xuống có hai câu tụng thí dụ thứ hai. “Không thể nói hư dối” trở xuống có một câu là tụng thí dụ thứ tư không có hư dối. “Ta là cha trong đời” trở xuống có bốn hàng tụng phần hợp dụ và nay trong kệ cũng lược mà không tụng phần hợp dụ thứ ba. Ban đầu có nửa hàng tụng hợp thí dụ thứ nhất “vì phàm phu điên đảo” trở xuống có hai hàng rưỡi kệ tụng hợp dụ thứ hai. “Hằng tự nghĩ thế này” trở xuống có một hàng tụng hợp dụ thứ tư: không có hư dối.

 

PHẨM THỨ MƯỜI SÁU: “PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC”

Trong phẩm này, do phân biệt công đức được nhiều, ít khi nghe kinh Pháp Hoa nên mới lấy đó làm đề mục của phẩm… Phẩm này chính là tụng đoạn thứ tư “rộng nói thọ mạng lâu dài” thuộc về phần biện minh về quả để đoạn nghi sanh tin. Trong đây cũng tự có ba đoạn: 1. Nêu ra sự lâu dài; 2. Thọ ký tổng quát; 3. “Di-lặc nói kệ” trở xuống là nêu ra sự liễu ngộ hiểu biết đồng nhau. Nay, căn cứ đoạn thọ ký cũng tự có ba đoạn: 1. Trước hết kinh gia trình bày tướng trạng hiểu biết của đại chúng khi nghe nói về thọ mạng; 2. Thọ ký; 3. Kinh gia thuật lại sự cúng dường của chư thiên.

“Khi đó, đức Thế Tôn” trở xuống là chính đoạn thứ hai: thọ ký. Trong đoạn thọ ký này tự có ba hạng người nhận lãnh sự thọ ký: 1. Thọ ký nhân địa tu hành cho hàng “tăng đạo”; 2. Thọ ký quả địa cho hàng “tổn sanh”; 3. Thọ ký cho hạng ngoài phàm phu phát tâm. Trong đoạn thứ nhất gồm có sáu loại thọ ký tức là thọ ký cho sáu ngôi địa: 1. “Được vô sanh pháp nhẫn” là nêu ra hàng Bồ-tát hiện tiền nghe nói kinh Pháp Hoa và tướng thọ mạng lâu dài của Phật tiến tới chứng đắc sơ địa thoát ra khỏi sự tối tăm của cảnh giới phàm phu hội nhập lý vô sanh. Do mới đạt được cho nên gọi là “vô sanh”. Do vậy kinh Thập Địa khen ngợi sơ địa Bồ-tát rằng: sanh vào nhà Phật, chủng tánh không còn chê trách” tức kết luận nói vì pháp bất động; 2. “Văn trì đà-la-ni” tức nói rõ hàng sơ địa Bồ-tát nghe nói về thọ lượng mà bước lên ngôi Nhị địa. Đà-lani là phiên âm tiếng Ấn Độ, còn Trung Hoa dịch là Tổng trì; 3. “Được Nhạo-thuyết vô ngại biện tài” là nêu ra hàng Nhị địa Bồ-tát nghe nói về thọ lượng mà bước lên ngôi Tam địa; 4. “Vô Lượng môn Đà-la-ni” tức nêu lên hàng Tam địa Bồ-tát nghe nói thọ lượng mà chứng đạt Tứ địa. “Triền-đà-la-ni” tức là pháp môn “tổng trì” biến khắp; . “Chuyển được pháp luân bất thối” tức nêu lên Tứ địa Bồ-tát nghe nói thọ mạng liền chứng đạt Ngũ địa và Ngũ minh không thối chuyển; 5. “Chuyển được pháp luân thanh tịnh” tức nêu ra hàng Bồ-tát ngũ địa nghe nói thọ mạng mà chứng đạt Lục địa. Lục địa Bồ-tát có ánh sáng trí tuệ Bát-nhã chiếu soi hiện ở trước mặt. Như vậy, phân loại pháp môn bất đồng là vì y cứ vào từng cấp bực mà suy xét. Mỗi cấp bực chứng đắc đều nêu ra một loại pháp môn mà phối hợp thành sáu địa.

“Lại có tiểu thiên quốc độ” trở xuống là đoạn thứ hai thọ ký cho hàng tổn sanh quả địa. Nói thọ ký cho quả địa chính là trong đây đều nêu lên quả để nói rõ nghĩa tổn sanh. Giải thích nghĩa tổn sanh có nhiều luận giải bất đồng, tạm đưa ra một luận giả giải thích: Từ thất địa đến tâm Kim Cang gồm có chín phẩm làm nghĩa tổn sanh. Nhưng phiền não là nhân sanh và từ thất địa trở lên là quả báo không có kỳ hạn và khó có thể phán quyết, và nếu chỉ dựa theo việc đoạn trừ phiền não cũng có ngàn vạn loại. Nay dựa theo một loại làm nghĩa. Từ Thất địa đến tâm Kim Cang đoạn trừ phiền não gồm có chín phẩm: thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Thất địa đoạn hai phẩm thượng thượng và thượng trung. Bát địa đoạn hai phẩm: thượng hạ và trung thượng. Cửu địa đoạn hai phẩm trung trung và trung hạ. Thập địa đoạn hai phẩm: hạ thượng và hạ trung. Tâm Kim Cang đoạn một phẩm: hạ hạ. Chín phẩm phiền não này được sanh cho nên gọi là chín lần sanh. Nếu nương vào mười địa mà giải thích “nhẫn” thì trong mỗi địa đều có ba thứ “nhẫn”. Nay muốn hiểu rõ kinh văn này cho nên nói Thất địa trở lên, mỗi địa đều có ba thứ nhẫn. Lục địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng mà chứng đạt nhẫn hạ của Thất địa tức đoạn một phẩm phiền não. Tám phẩm còn lại làm nhân cho tám lần sanh cho nên nói “tám đời sẽ đặng Bồ-đề. Từ hạ nhẫn của Thất địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng tiến tới được “thượng nhẫn” của Thất địa. Khi ấy tức đoạn trừ một phẩm phiền não là giảm hai phẩm sanh, tương ưng kinh nói “bảy đời sẽ đặng Bồ-đề”. Lại từ thượng nhẫn của Thất địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng liền chứng được hạ nhẫn của Bát địa. Khi ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não nên giảm ba phẩm sanh. Do còn có sáu phẩm phiền não nên mới nói “sáu đời sẽ đặng Bồđề”. Từ hạ nhẫn của Bát địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng mà chứng đạt Thượng nhẫn của Bát-địa. Khi ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não rồi nên giảm bốn phẩm sanh. Do còn năm phẩm phiền não cho nên nói “năm đời sẽ đặng Bồ-đề”. Từ thượng nhẫn của Bát địa Bồ-tát nghe nói về sự thọ mạng thì chứng đạt Hạ nhẫn của Cửu địa. Khi ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não rồi nên giảm năm phẩm sanh. Do còn bốn phẩm phiền não nên nói “bốn đời sẽ đặng Bồ-đề”. Từ hạ nhẫn của Cửu địa Bồ -tát nghe nói về thọ mạng thì chứng đạt thượng nhẫn của Cửu địa. Lúc ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não rồi nên giảm sáu phẩm sanh.. Do còn ba phẩm phiền não cho nên nói “ba đời sẽ đặng Bồ-đề”. Từ thượng nhẫn của Cửu địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng thì chứng đạt Hạ nhẫn của Thập địa. Khi ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não rồi giảm bảy phẩm sanh. Do còn hai phẩm phiền não cho nên nói “hai đời sẽ đặng Bồ-đề”. Từ hạ nhẫn của Thập địa Bồ-tát nghe nói về thọ mạng thì chứng đạt Thượng nhẫn của Thập địa. Khi ấy liền đoạn trừ một phẩm phiền não rồi và giảm tám phẩm sanh. Một phẩm phiền não còn lại của Tâm kim cang sẽ đoạn cho nên nói “một đời sẽ đặng Bồ-đề. “ Tuy nhiên câu văn giản lược cho nên từ tám đời mà nói vương lên còn bốn đời vậy.

“Lại có tám thế giới” trở xuống là đoạn thứ ba thọ ký cho hàng ngoại phàm phát tâm và nhiếp phục người thoái lui…. “Lúc đức Phật nói các vị Bồ-tát đó đặng pháp lợi lớn” trở xuống đến phần Văn Trường hàng là đoạn thứ ba trong đoạn thọ ký. Đây là phần kinh gia trình bày tướng trạng của chúng trời đem mọi thứ để cúng dường vào lúc ấy.

“Khi ấy, ngài Di-lặc liền nói kệ rằng” trở xuống có mười chín hàng kệ là đoạn thứ ba (của phẩm) “Di-lặc nói kệ để khen ngợi phẩn Văn Trường hàng của Phật đã thuyết” tức nêu ra nghĩa lãnh ngộ hiểu biết. Trong phần lãnh ngộ hiểu biết này tự có bốn đoạn: 1. Có hai hàng trước hết xưng tán đại chúng lúc ấy hiểu được sự thọ mạng cho nên sanh tâm vui mừng; 2. “Hoặc trụ bực bất thối” trở xuống có chín hàng ca ngợi phần Văn Trường hàng của Phật thuyết tức nói lên nghĩa lãnh ngộ hiểu biết; 3. “Rước hoa mạn-đà-la” trở xuống có bảy hàng nói lên Di-lặc tự thuật sự việc lúc bấy giờ mà không nêu lại phần Văn Trường hàng ở trên. Có người cho rằng “Bảy hàng kệ này là tụng lại Văn Trường hàng ở trên tức nêu ra kinh gia trình bày tướng trạng của chư Thiên cúng dường lúc bấy giờ”. Nhưng khi ấy đức Phật không nói một lời nào thì cũng không thể chấp nhận Bồ-tát Di-lặc dùng kệ tụng lại lời của nhà kết tập kinh; . “Phật tiếng đồn mười phương” chỉ có một hàng là đoạn tụng “khen ngợi Phật để tổng kết sự lãnh ngộ hiểu biết”.

“Hoặc trụ bực bất thối” trở xuống có chín hàng là đoạn thứ hai nêu ra Văn Trường hàng của Phật đã thuyết, cũng chính là ý lãnh ngộ hiểu biết. Trong việc thọ ký ở văn trên vốn có ba phần: 1. Thọ ký cho nhân địa; 2. Thọ ký cho quả địa; 3. Thọ ký cho ngoại phàm.

Nay trong chín hàng kệ này tự phân làm bốn đoạn: 1. “Hoặc trụ bậc bất thối” trở xuống có ba hàng tụng việc “thọ ký cho nhơn địa”; 2. “Lại có tiểu thiên giới, số vi trần Bồ-tát” trở xuống có bốn hàng tụng việc “thọ ký cho quả địa”; 3. “Lại có tám thế giới số vi trần chúng sanh” trở xuống có một hàng tụng việc thọ ký cho ngoại phàm phát tâm; . Nói “Thế Tôn nói vô lượng” trở xuống có một hàng tụng tổng kết sự thọ ký, tức không tụng phần văn trên. “Rưới hoa mạn-đà-la” trở xuống có bảy hàng là đoạn thứ ba “Di-lặc tự trình bày sự việc lúc bấy giờ”. “Phật tiếng đồn mười phương” gồm có một hàng là đoạn thứ tư “khen ngợi Phật để tổng kết sự lãnh ngộ hiểu biết”.

“Lúc bấy giờ, Phật bảo Di-lặc đại Bồ-tát” trở xuống có mười một phẩm rưỡi là đoạn lớn thứ ba nói về “lưu thông kinh”. Trong đoạn thuyết lưu Thông tự có hai phần. Từ đây trở xuống đến phẩm Diệu Trang Nghiêm gồm có mười phẩm rưỡi là phần thứ nhất “lưu thông hóa tha”. Thứ hai là phẩm Phổ hiền khuyến phát tức nêu ra “tự hành lưu thông”. Trước đó lại giải thích rằng trong hai phần lưu thông này mỗi phần khai mở làm ba đoạn. Nay xét trong phần lưu thông hóa tha có ba đoạn tức là: 1. Từ đây trở xuống đến phẩm Thường Bất Khinh có ba phẩm rưỡi khen ngợi người có khả năng lưu thông có công sâu được quả báo lớn và để tìm người lưu thông kinh. Phần này mới chỉ bảo các hàng Bồ-tát ở phương dưới mà chưa nhận lịnh ở trước; 2. Trong phẩm Như Lai Thần Lực ban đầu có một Văn Trường hàng gồm năm hàng nêu ra đồ chúng ở phương dưới thọ nhận sứ mạng lưu thông kinh; 3. Từ đoạn Phật đối trước Văn Thù Sư Lợi và đại chúng hiển bày tướng lưỡi rộng dài” giữa phẩm Thần Lực trở xuống đến phẩm Diệu Trang nghiêm gồm có sáu phẩm rưỡi chính là văn phó chúc. Lại trong ba đoạn này thì đoạn thứ nhất và thứ ba mỗi đoạn được khai mở làm ba phần còn đoạn thứ hai thì không có khai mở.

Trong đoạn thứ nhất có ba phần tức là: 1. Nửa phẩm này nêu ra nhân để khiến tìm người lưu thông kinh; 2. Phẩm Tùy Hỷ nêu ra nhân quả để khiến tìm người lưu thông kinh; 3. Phẩm pháp Sư Công Đức và Thường Bất Khinh tức riêng biệt nêu ra quả để khiến tìm người lưu thông kinh. Làm sao biết được? Vì trong phẩm này nêu ra công đức nghe kinh. Công đức nghe kinh tức là nhân. Hai phẩm sau nói được sáu căn thanh tịnh tức là quả. Phẩm Tùy hỷ là so sánh lượng công đức khi nghe kinh đồng thời cũng nêu ra việc được tướng người đầy đủ cho nên mới biết cùng nêu lên cả nhân và quả. Lại căn cứ trong đoạn nói về ba đời thì mỗi đoạn có hai phần. Vả lại đoạn thứ nhất có hai phần tức là: 1. Nêu ra Phật còn ở đời để nói rõ công đức nghe kinh của bốn hạng người; 2. Nêu ra sau khi Phật diệt độ để nói rõ công đức nghe kinh của năm hạng người. Nay xét trong phần thứ nhất trước hết nêu ra bốn hạng người khi Phật còn tại thế tức tạo thành bốn đoạn. Hạng người thứ nhất theo như trong kinh nêu ra thì có hai phần nói là Văn Trường hàng và kệ tụng. Ba hạng người sau thì không có phần kệ tụng mà chỉ có văn: “Lại A-Dật-Đa! Nếu có người nghe nói đức Phật thọ mạng dài lâu” là hạng người thứ hai. “Huống là nguời rộng nghe kinh này” trở xuống là nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ ba. “A-Dật-Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe ta nói thọ mạng dài lâu sanh lòng tin hiểu chắc thời chính là đức Phật thường ở nước Kỳ-xà-quật” tức nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ tư khi Phật còn tại thế.

Lại “sau khi đức Như Lai diệt độ” trở xuống đến phẩm là đoạn thứ hai nêu ra công đức nghe kinh của năm hạng người sau khi Phật diệt độ. Trong đó có hai phần: Văn Trường hàng và kệ tụng, mỗi phần được phân làm hai. Căn cứ trong năm hạng người nêu ra trong Văn Trường hàng thì chỉ có hạng người thứ nhất nghe kinh rồi phát tâm tùy hỷ, không sanh hủy báng mà thôi. “Công đức của người này kém nhất không dùng so sánh lượng, chỉ được trình bày trong Văn Trường hàng mà trong kệ không có. Nêu lên và chọn lấy hạng người thứ nhất này để dẫn vào phẩm Tùy Hỷ Công Đức và so sánh với lượng bố thí cả quốc thành cho đến giáo hóa tất cả chúng sanh chứng đạt bốn quả, cũng không bằng công đức hạng người thứ nhất này, nghe kinh Pháp Hoa mà khởi tâm tùy hỷ. Nghĩa này cho đến phẩm Tùy Hỷ Công Đức sẽ nói rõ. “Huống là người đọc tụng thọ trì kinh này tức người này đầu đã đội đức Như Lai” là nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ hai. Đây không phải dẫn ra sự việc dùng đầu để đội đức Như Lai mà ý muốn nói tôn trọng Như Lai không khác gì dùng đầu mình đội Như Lai mà đi. “A Dật Đa, nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này “trở xuống tức là nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ ba. “Huống lại có người hay thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí” trở xuống là nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ tư. “Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này” trở xuống là nêu ra công đức nghe kinh của hạng người thứ năm.

Phần kệ tụng thứ hai có tụng lại Văn Trường hàng mà không tụng hạng người thứ nhất. Từ đây trở xuống có mười chín hàng rưỡi kệ được phân làm bốn đoạn: 1. Có năm hàng kệ rưỡi tụng hạng người thứ hai; 2. “Người hay trì kinh này” trở xuống có ba hàng tụng hạng người thứ ba; 3. “Nếu có lòng tin hiểu” trở xuống có ba hàng tụng hạng người thứ năm; 4. “Huống lại trì kinh này, gồm bố thí trì giới” trở xuống có tám hàng tụng hạng người thứ tư. (Do lời kệ trước sau không có thứ tự nên mới trình bày hạng người thứ tư sau hạng người thứ năm).

 

PHẨM “TÙY HỶ CÔNG ĐỨC” THỨ MƯỜI BẢY

Do phẩm này nói lên sự so sánh lượng công đức nghe kinh Pháp Hoa mà sanh tâm tùy hỷ, có đuợc ít nhiều công đức cho nên mới lấy đó làm đề mục của phẩm. Trong phần bảo người lưu thông kinh vốn có ba đoạn: Đoạn một là nửa phẩm trước nêu ra nhân khiến tìm người lưu thông kinh phẩm này là đoạn thứ hai nêu ra cả nhân lẫn quả song song để khiến tìm người lưu thông kinh. Đoạn thứ ba là hai phẩm còn lại tức pháp Sư Công Đức và phẩm Thường Bất Khinh, riêng biệt nêu ra quả nhằm nói rõ do việc lưu thông kinh mà đạt được quả báo sáu căn thanh tịnh để khiến tìm người lưu thông kinh. Như trên nói ba đoạn thì mỗi đoạn được phân làm hai, nên phẩm này cũng phân làm hai: 1. Di-lặc hỏi; 2. Như lai đáp. Nay nêu ra sự hỏi của Di-lặc tức là hỏi về phẩm Phân biệt Công đức bên trên có nói rõ về hạng người kém nhất trong năm hạng người nghe kinh sau khi Phật diệt độ tức tương ưng với văn kinh nói: “Lại sau khi Như lai diệt độ nếu có người nghe kinh này không hủy báng mà sanh tâm tùy hỷ và đã không so sánh lượng công đức người này, chính là nguyên nhân để hỏi của Di-lặc. Cho nên phẩm này đem hạng người này ra mà so lường công đức. Di-lặc hôm nay hỏi chính là hỏi Phật về hạng người này. Lại trong hai đoạn trên mỗi đoạn có hai phần. Đoạn Di-lặc hỏi có hai phần tức là Văn Trường hàng và kệ tụng, có thể hiểu. Trong đoạn Phật đáp cũng có hai phần tức Văn Trường hàng và kệ tụng. Nhưng trong Văn Trường hàng thuộc đoạn Phật đáp so lượng công đức của năm hạng người tức phân làm năm đoạn: 1. Ban đầu trở xuống có ba mươi hai hàng rưỡi nêu ra người đầu tiên nhằm nói rõ năm mươi người lần lượt dạy cho nhau cho đến người cuối cùng thứ năm mươi nghe kinh Pháp Hoa đã có công đức vô lượng huống gì là công đức của người ban đầu; 2. Nêu ra hạng người qua đến tăng phường nghe kinh cũng có công đức vô lượng; 3. Nêu ra người ngồi trong chỗ giảng pháp mà khuyên người khác cũng ngồi nghe pháp thì được chuyển tứơng quả báo tốt; 4. Nêu lên hạng người ở bên ngoài hội giảng pháp mà khuyên người khác đến nghe; 5. Nêu ra hạng người chuyên tâm nghe pháp rồi lại giảng nói cho người khác nghe.

Xét trong hạng người thứ nhất tự có sáu phần: 1. Trước hết so sánh thứ tự và chọn lấy công đức của người thứ năm mươi; 2. Chỉ bảo khiến lắng nghe kỹ; 3. Nêu ra năm mươi người để hỏi Di-lặc; 4. Di-lặc đáp; 5. Phật chung thâu tóm nói; 6. Tổng kết lời đáp. “Huống là công đức của người này” chỉ vì dừng lại số ở năm mươi người mà thôi. Năm mươi người cùng lần lượt chỉ bảo nhau có sự bất đồng được phân làm ba hạng: chuyển mạnh, bình đẳng và chuyển không như nhau. Trong ba hạng này đều có khó và có dễ. Hạng chuyển mạnh thì rất khó được; hạng bình đẳng thì hiếm có; chỉ có hạng không giống nhau mới có nhiều. Nay từ nhiều mà luận bàn trong năm mươi người nghe pháp thì nguời cuối cùng không bằng. Công đức của người cuối này đã vô lượng vô biên không thể nói, không thể đếm huống gì là công đức của người đầu tiên nghe pháp mà sanh tâm tùy hỷ. Ý này chính là đáp lại câu hỏi của Di-lặc. Từ “A-Dật-Đa người thứ năm mươi đó” trở xuống là phần thứ hai muốn nêu ra người thứ năm mươi người để so sánh lượng công đức với người ban đầu và căn dặn Di-lặc khiến lắng nghe kỹ. Từ “nếu bốn trăm muôn ức” trở xuống là phần thứ ba nêu ra công đức đạt được nhờ vào pháp thí và tài thí để hỏi Di-lặc nhằm nói rõ vị thí chủ đem vàng bạc trân báu đầy khắp cõi Diên phù đề để bố thí cho mỗi mỗi chúng sanh trong bốn loài: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh. Hơn nữa, lại giáo hóa tất cả chúng sanh đạt đuợc bốn quả vi. Tuy nhiên công đức người thí chủ này cũng không bằng công đức của người thứ năm mươi nghe một bài kệ của kinh Pháp Hoa. Có người hỏi: Bốn loài sanh như rắn v.v… sao gọi là có tướng tóc bạc và mặt nhăn? Lại nữa sao lại goi là nay nhận lấy xe và ngọc anh lạc? Các cựu luận sư giải thích rằng: giả sử các chúng sanh này một lúc biến thành người, sau đó dùng trân bảo để bố thí thì sau khi đã bố thí tồi lại có khả năng giáo hóa khiến chứng đắc bốn quả. Nếu làm được như vậy cũng không bằng người nghe kinh Pháp Hoa mà khởi một niệm tâm tùy hỷ. Tuy nhiên ở đây giải thích rằng: người này tuy xả bỏ quốc thành lại khiến người đạt được bốn quả vị nhưng đó chỉ là quả báo của thế gian chứ chẳng phải lìa khỏi sanh tử. Nay người này đã nghe Pháp Hoa trình bày về quả Phật vi diệu cách năm trăm do tuần được vượt qua để đến, người này lúc ấy nếu khởi một niệm quyết định nhất tâm lìa khỏi sanh tử cầu quả Phật kia nên công đức thật là rộng lớn. Bồ-tát vốn vì tự hành làm chủ yếu, giáo hóa ngưới khác làm đầu, phát tâm vượt qua năm trăm do tuần để xa cầu Phật quả. Nhưng với tâm giáo hóa người khác khiến lục đạo chúng sanh lìa con đường hiểm năm trăm do tuần mà cùng đạt quả vi diệu tột bực cho nên tâm ấy thật sâu rộng chứ chẳng phải như bố thí quốc thành và bốn quả vị mà có thể so sánh được. Lại do nghe kinh Pháp Hoa mà gieo trồng phước đức nên sáu căn đầy đủ thanh tịnh, quả báo thắng diệu không thể tính toán được.

Hỏi: Xưa kia ở trong ba thừa, Bồ-tát tự phát tâm rộng giáo hóa để khởi ý xa cầu Phật đạo. Như vậy nay và xưa có gì khác nhau chăng?

Người giải thích nói: xưa kia Bồ-tát chỉ nói đoạn trừ chánh sử và tập khí mới đạt đuợc cứu cánh. Nhưng ngày này nói là phương tiện lại nói đó là hiểm nạn nên bỏ và vượt qua. Đây là nêu ra tự hành và hóa tha xưa kia không thành tựu mà hôm nay đã thành tựu, cho nên không thể lấy sự hẹp hòi xưa kia để so sánh với sự rộng lớn của hôm nay. Từ “Di-lặc bạch rằng” trở xuống là phần thứ tư nêu ra Như Lai hiểu rõ công đức của người này. Từ “Phật bảo Di-lặc, ta nay rành rẽ nói cùng ông” trở xuống là phần thứ năm. Từ “A-Dật-Đa, người thứ năm mươi như thế” trở xuống là phần thứ sáu nêu ra lời Phật đáp để tổng kết. “Huống hồ công đức của người này.

“Lại nữa, A Dật Đa, nếu có người vì kinh này mà qua đến tăng phườở xuống là nêu lên công đức của người thứ hai. Từ đây trở xuống có bốn hạng ngươi đều rộng nêu ra. “Nếu có người ngồi trong chỗ giảng pháp” trở xuống là nêu ra hạng người thứ ba. “A Dật Đa, nếu lại có người nói với người khác” trở xuống là nêu lên hạng người thứ tư nhằm nói rõ người ở bên ngoài hội pháp nghe thuyết Pháp Hoa mà khuyến khích đến nghe. “A Dật Đa, ngươi hãy xem” trở xuống là nêu ra hạng người thứ năm.

“Mà nói kệ rằng” trở xuống có mười tám hàng kệ là phần thứ hai tụng lời Phật đáp, tụng lại năm hạng người trong Văn Trường hàng ở trên. Ban đầu có chín hàng tụng về hạng người thứ nhất. Kế đến có năm hàng tụng về hạng người thứ tư. Kế đến có hai hàng tụng về hạng người thứ hai. Kế tiếp đó có một hàng tụng về hạng người thứ ba. Kế tiếp nữa có một hàng tụng về hạng người thứ năm. Tuy nhiên nói về hạng người thứ nhất trong văn truờng hàng ở trên vốn có sáu phần nhưng nay trong chín hàng kệ không nêu lên phần thứ tư. Nay ban đầu có một hàng rưỡi kệ trước hết nêu ra phần thứ nhất: so sánh và kế đó nêu ra hạng người thứ năm mươi. “Người rốt sau đặng phước” gồm nửa hàng nêu ra phần thứ hai: căn dặn lắng nghe kỹ. “Như có đại thí chủ” trở xuống có năm hàng là phần thứ ba nêu ra tài thí và pháp thí để hỏi Di-lặc. Do đã không tụng phần thứ tư: Di-lặc trả lời Phật. Cho nên từ “người năm mươi rốt sau” trở xuống gồm một hàng tụng phần thứ năm: Như Lai tổng kết. “Xoay vần nghe như thế” trở xuống có một hàng tụng về phần thứ sáu: tổng kết lời đáp. “Nếu có khuyên một người” trở xuống có năm hàng tụng về hạng người thứ tư. “Nếu có đến tăng phường”trở xuống có hai hàng tụng hạng người thứ hai. “Nếu trong chỗ giảng pháp” trở xuống có một hàng tụng hạng người thứ ba. “Huống là một lòng nghe” trở xuống có một hàng tụng về hạng người thứ năm.

 

PHẨM THỨ MƯỜI TÁM “PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC”

Trong phẩm này nêu ra công đức của năm hạng Pháp sư: thọ trì, đọc tụng, hiểu, nói và ghi chép cho nên mới lấy đó làm đề mục của phẩm. Từ đây trở xuống có hai phẩm là đoạn thứ ba riêng biệt căn cứ vào quả để khiến tìm người lưu thông kinh. Trong đây cũng có hai đoạn:

  1. Phẩm này chính là nêu ra việc căn cứ vào quả để khiến tìm người lưu thông kinh.
  2. Phẩm Thường Bất Khinh chứng minh quả báo này vốn không có hư dối.

Nay xét trong phẩm này tự có hai đoạn: 1. Trước hết tổng nêu ra do nghe kinh mà đạt được quả báo với sáu căn thanh tịnh; 2. Rộng nêu ra tướng sáu căn thanh tịnh. Từ “thiện nam tử, thiện nữ nhơn được cha mẹ sinh ra” trở xuống “mắt đuợc tám trăm công đức, mũi được tám trăm công đức và thân được tám trăm công đức sẽ đạt được khi nghe kinh Pháp Hoa. Như vậy nếu lấy tám trăm nhân cho ba căn thì chúng ta sẽ được hai nghìn bốn trăm công đức. Kế đến tai được một nghìn hai trăm công đức, lưỡi được một nghìn hai trăm công đức và ý được một nghìn hai trăm công đức tức tổng cộng thành ba nghìn sáu trăm công đức. Như vậy, nếu cộng tất cả công đức của sáu căn lại thì chúng ta được sáu nghìn công đức. Sáu nghìn công đức này đều là nêu ra nhân để làm rõ quả. Nên biết, chúng sanh khởi pháp thiện thì không vượt ra ngoài mười pháp thiện thuộc ba nghiệp. Mười pháp thiện này có hai phần: chỉ thiện và hành thiện. Nay chỉ căn cứ vào việc “chỉ thiện” mà luận. Pháp tu tập của mười nghiệp thiện này đều hỗ tương trợ giúp nhau mà hiển bày. Vì sao? Vì chẳng hạn như phải giữ gìn giới không sát sinh làm đầu rồi mới tu chín nghiệp thiện còn lại mới thành tựu. Cho đến trì giữ chánh kiến làm đầu để hổ trợ cho chín giới khác thành tựu. Như vậy các giới phải hỗ tương nhau để hình thành nên trăm pháp thiện. Nhưng trăm pháp thiện này thiết lập nên ý của Bồ-tát có bốn trăm thiện pháp. Vì sao? Vì tự làm là một trăm pháp thiện, dạy người làm một trăm pháp thiện là hai trăm, tùy hỷ người làm một trăm pháp thiện là ba trăm và khen ngợi người làm một trăm pháp thiện là thành bốn trăm. Tuy nhiên, bốn trăm thiện pháp này dựa vào sự tạo tác của năm hạng pháp sư ở trên. Nhưng căn cứ trong pháp sư thọ trì cũng có bốn trăm pháp thiện, vì sao? Vì vị pháp sư này tự mình thọ trì, dạy người thọ trì, tùy hỷ người thọ trì, khen ngợi người thọ trì và mỗi việc làm như vậy đều có một trăm pháp thiện nên cộng tất cả lại thành bốn trăm pháp thiện. Khi đọc kinh cũng có bốn trăm công đức thiện, khi tụng kinh cũng có bốn trăm công đức thiện, khi hiểu nói và ghi chép mỗi thứ cũng có bốn trăm công đức thiện. Nếu lấy bốn trăm công đức thiện nhân cho năm loại lưu thông kinh thì chúng ta được hai ngàn công đức thiện. Tuy nhiên, tâm Bồ-tát muốn khiến vạn hạnh đều tinh tấn: cả hai ngàn công đức ở hạ phẩm, tu hai ngàn công đức ở trung phẩm, tu hai ngàn công đức ở thượng phẩm. Như vậy tổng cộng là có sáu ngàn công đức. Sáu ngàn công đức này cũng được chiêu cảm với một căn tương tợ như cùng giữ gìn năm giới ở một thân người. Nhưng muốn chỉ ra công dụng của tự hành và hóa tha và có tỏ mờ nên phối hợp với sáu căn. Công dụng tự hành và hóa tha của ba căn này không bằng với công dụng tự hành và hóa tha của ba căn kia cho nên ba căn này mỗi căn chỉ được tám trăm công đức mà ba căn kia mỗi căn có một nghìn hai trăm công đức. Luận cho rằng: vàng bạc không có hương, kim cang không có vị, vậy tại sao nay nói đối với vàng bạc, các trân báu nghe mùi đều biết được?

Đáp: Vì chỉ nghe hương ẩn chứa thì liền biết có vàng bạc. Nay quả báo trì kinh này không thể suy nghĩ đo lường được, tương tợ như sáu căn của tất cả mọi người nương vào các trần mà đều biết rõ.

 

PHẨM THỨ MƯỜI CHÍN “THƯỜNG BẤT KHINH”

Trong phẩm này nêu ra Như Lai xưa kia khi còn làm Bồ-tát vì bốn chúng mà nói nghĩa đồng quy, thọ ký cho bốn chúng đều thành Phật nên thường nói lời “bất khinh”. Bốn chúng thường gọi danh hiệu của vị Bồtát này là Thường Bất Khinh cho nên mới lấy đó làm đề mục cho phẩm. Trong phần đơn cử quả tìm người lưu thông kinh có hai đoạn. Và phẩm này là đoạn thứ hai nêu ra “Bất khinh” hiện đạt được quả báo không có hư dối. Nay xét trong phẩm này đại khái phân làm hai đoạn: trường hàng và kệ tụng. Trong Văn Trường hàng lại phân thành năm đoạn:

  1. Nên ra hình tướng đúng, sai để khiến tìm người lưu thông kinh.
  2. Trước hết nói về căn nguyên của sự việc.
  3. Nêu ra sự việc xưa kia.
  4. Khen ngợi kinh.
  5. Nhân đây mà khuyên người thọ trì.

Nay nêu ra sự đúng sai tức là nếu có người khinh chê kinh này thì nhận lấy quả báo ác, tương tự như ở phần kệ cuối trong thí dụ về nhà lửa đã thuật, và nếu có người có khả năng lưu thông kinh thì được quả báo sáu căn thông suốt như phẩm pháp Sư Công Đức đã trình bày. “Đắc Đại Thế, về thuở xưa” trở xuống là đoạn thứ hai của phẩm, truớc hết nêu ra căn nguyên của sự việc. “Có hai muôn ức đức Phật đều đồng một hiệu Oai Âm Vương… bấy giờ có một vị Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ ba nêu lên sự việc xưa kia. Nay căn cứ trong hai đoạn này tự có hai phần 1. Trước hết nêu ra hai nhân hành thiện và ác; 2. “Vị Tỳ kheo đó lúc sắp chết” trở xuống là nêu ra sự đạt được hai quả báo thiện và ác. Nay xét trong phần nêu ra hành nhân thiện ác tự có sáu phần: 1. Trước hết nêu lên Thường Bất Khinh lễ bái và thọ ký cho người sẽ đạt được quả tức là hành nhân thiện; 2. Nêu ra người hành nhân ác tức từ “trong bốn chúng” trở xuống; 3. Nêu ra vị Bồ-tát này hành nhân thiện tức từ “như vậy trải qua nhiều năm” trở xuống; . Nêu ra người xấu hành nhân ác, tức từ “khi nói lời nói ấy” trở xuống; . Lại nêu ra vị Bồ-tát này hành nhân thiện tức từ “liền chạy tránh đứng xa” trở xuống; . Lại nêu ra người xấu hành nhân ác tức từ “bởi thường nói lời đó” trở xuống.

“Vị Tỳ-kheo đó lúc sắp chết” trở xuống là phần thứ hai nêu ra sự đạt được quả báo thiện và ác. Trong đoạn này có hai phần: 1. Trước hết nêu ra người hành thiện đạt được quả báo thiện tức là Thường Bất Khinh; 2. Nêu ra người hành ác thì nhận quả báo ác. Căn cứ trong hai phần này mỗi phần có hai đoạn. Trong phần thứ nhất: nêu ra sự đạt đuợc quả báo thiện có hai đoạn tức là: 1. Nêu ra sự đạt đuợc quả 2. Hiểu thông suốt xưa và nay. Căn cứ trong đoạn nêu ra sự đạt đuợc quả tự có sáu phần: 1. Trước hết nêu ra việc nghe nói đầy đủ về hai mươi ngàn vạn ức kệ của đức Phật Oai Âm Vương nên liền đạt được quả báo của sáu căn; 2. “Đặng sáu căn thanh tịnh đó rồi” trở xuống là nêu ra sự đạt đuợc quả báo tăng tuổi thọ để giáo hóa chúng sanh; 3. “Sau khi mạng chung” trở xuống là nêu ra sự việc Bồ-tát gặp Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh; . “Do nhân duyên đó” trở xuông là nêu ra Bồ-tát gặp Phật Vân Tự Tại Vương . “Đắc Đại Thế! Thường Bất Khinh Bồ-tát đó” trở xuống là nêu ra Bồ-tát lại gặp một nghìn vạn ức Phật nói kinh Pháp Hoa; . Từ “công đức thành tựu sẽ đặng thành Phật” trở xuống là nêu lên sự việc đuợc làm Phật “Đắc Đại Thế, ý ông nghĩ sao” trở xuống là đoạn thứ hai “hiểu thông suốt” trong phần nêu ra quả báo thiện.

“Đắc Đại Thế! Thuở đó bốn chúng” trở xuống là phần thứ hai nêu ra ngưới ác nhận phải quả báo ác. Trong đây cũng có hai phần: 1. Ba nghĩa nối tiếp để nêu lên quả báo ác; 2. Hiểu thông suốt.

Ba nghĩa trong phần thứ nhất được trình bày như sau: 1. Nói lên không gặp Tam bảo; 2. Từ “ngàn kiếp” trở xuống là nêu ra sự mắc phải quả báo ác; 3. Từ “hết tội đó rồi” trở xuống tức nêu lên việc đạt đuợc quả vi diệu. Đây tức là hiển bày Bồ-tát không vì chúng sanh mà tạo ra nhân duyên phiền não mà chính là do Bồ-tát Thường Bất Khinh lấy đó làm ngoại duyên giáo hóa. “Đắc Đại Thế, ý ông nghĩ sao” trở xuống là phần thứ hai hiểu thông suốt xưa và nay”. “Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này” trở xuống là đoạn thứ tư: khen ngợi kinh thuộc trong phần Văn Trường hàng. “Cho nên các vị Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ năm “khuyên người thọ trì kinh”.

“Mà nói kệ rằng” trở xuống có mười chín hàng rưỡi kệ là đoạn thứ hai trong phẩm tuyên lại phần Văn Trường hàng. Trong Văn Trường hàng ở trên có năm đoạn nhưng nay trong kệ không tụng đoạn thứ nhất “đơn cử việc đúng sai”. Nay một hàng rưỡi kệ đầu, tụng đoạn thứ hai: nguồn gốc của sự việc. Từ “sau khi Phật diệt độ” trở xuống có mười bốn hàng tụng lại đoạn thứ ba ở trên: thuật lại việc xưa. Tiếp có hai hàng tụng lại đoạn thứ tư ở trên khen ngợi kinh. Tiếp có hai hàng tụng đoạn thứ năm khuyên người thọ trì kinh. Đoạn thứ ba ở Văn Trường hàng vốn có hai phần: truớc hết nêu ra hai nhân hành thiện và ác, kế đó nêu ra đạt được hai quả thiện và ác nhưng nay trong mười bốn hàng kệ thì có bốn hàng tụng lại hành nhân và mười hàng còn lại tụng sự đắc quả. Trong hành nhân ở trên gồm có sáu phần nhưng nay chỉ tụng lại ba phần. Ban đầu có ba hàng tụng lại hành nhân thiện. “Nhưng người đó nghe rồi” gồm có nửa hàng tụng lại hành nhân ác. “Thường Bất Khinh Bồ-tát” trở xống có nửa hàng tụng về nhân thiện. “Tội người đó hết rồi” trở xuống có mười hàng tụng về sự chứng đắc quả vị, cũng đuợc phân làm hai phần: ban đầu có năm hàng tụng về sự chứng đắc quả thiện và kế đến có năm hàng tụng sự nhận lấy quả ác. Trong phần nêu ra sự chứng đạt quả thiện ở văn trên vốn có hai phần: nêu ra quả thiện và hiểu thông suốt. Nay có bốn hàng rưỡi kệ tụng sự chứng đạt quả thiện và có nửa hàng tụng sự hiểu biết thông suốt. Tuy nhiên trong việc nêu ra quả thuộc Văn Trường hàng ở trên vốn có sáu phần nhưng nay trong kệ chỉ tụng ba phần tức phần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. “Bốn kệ chúng khi ấy” trở xuống là tụng về người ác nhận lấy quả. Trong Văn Trường hàng ở trên vốn có hai phần: nêu ra sự chứng đạt quả và hiểu thông suốt và nay có một hàng rưỡi kệ tụng sự chứng đạt quả và ba hàng rưỡi kệ nêu ra hiểu biết thông suốt. Nói đến sự đạt quả thì trong văn truờng hàng ở trên vốn có ba phần nhưng nay trong kệ chỉ tụng đoạn thứ tư. “Trải ức ức muôn kiếp” trở xuống có hai hàng tụng đoạn thứ tư: khen ngợi kinh trong Văn Trường hàng ở trên. “Cho nên người tu hành” trở xuống có hai hàng tụng đoạn thứ năm: khuyên người thọ trì thuộc Văn Trường hàng ở trên.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI “THẦN LỰC”

Trong phẩm này nói rõ Như Lai có tám thứ thần lực, do vậy mới lấy đó làm đề mục của phẩm. Xét trong phần “lưu thông hóa tha” vốn có ba đoạn. Đoạn thứ nhất là ba phẩm rưỡi trên. Từ bắt đầu năm hàng của phẩm này là đoạn thứ hai: “người có khả năng lưu thông kinh” lãnh lấy sứ mệnh lưu thông kinh. Từ “Lúc đó, Thế tôn” ở trong phẩm này trở xuống có sáu phẩm rưỡi là đoạn thứ ba nêu ra Như lai đem kinh mà phó chúc. Theo như giải thích trước đã nói: trong ba đoạn này thì đoạn trước và sau mỗi đoạn lại phân làm ba đoạn nữa. Còn đoạn giữa thì không có khai triển thêm. Nay trong đây có ba phần tức là: 1. Nửa phẩm này trước hết nêu ra duyên khởi phó chúc; 2. Phẩm Chúc Lụu nói lên sự phó chúc; 3. Năm phẩm kinh tiếp theo chỉ rõ cho chúng sanh quy tắc lưu thông kinh. Nay căn cứ phần nêu ra duyên khởi có trường hàng và kệ tụng. Trong trường hàng tự có hai đoạn: 1. Trước hết nêu ra thần lực; 2. Nhân đó mà khen ngợi kinh và khuyến khích hành trì. Đoạn nói về thần lực cũng có hai phần: 1. Trước hết nêu ra mục đích của đại chúng lúc ấy; 2. Nêu ra thần lực của Phật gồm có tám loại. Tuy nhiên theo văn cú kết thành sáu đoạn: Thứ nhất nêu ra sự hiển bày tướng lưỡi rộng dài cùng phóng hào quang là đoạn thứ nhất. “Đồng thời” trở xuống là đoạn thứ hai nêu ra hai loại thần lực tức là “tằng hắng” và “khảy móng tay”. “Đất vang động” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra thần lực thứ năm tức muốn khiến sáu đường chúng sanh phát động ý lưu thông kinh. “Chúng sanh trong đó” trở xuống là đoạn thứ tư nêu ra thần lực thứ sáu nhằm nói rõ thần lực của Như lai khiến cho đại chúng thấy suốt khắp mười phương. “Tức thời chư Thiên” trở xuống là đoạn thứ năm nêu ra thần lực thứ bảy nhằm nói rõ chư thiên xướng bảo khiến chúng sanh cúng dường “Các vật rãi đó” trở xuống là đoạn thứ sáu nêu ra thần lực thứ tám biểu hiện sự tu tập các pháp thiện sẽ chiêu cảm Phật quả trong tương lai.

“Khi đó, Phật bảo đại chúng bậc thượng hạnh Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ hai trong phần văn truờng hàng “nhân đó mà khen ngợi kinh và khuyên người hành trì”. “Mà nói kệ rằng” trở xuống có mười bảy hàng kệ là đoạn thứ hai tụng lại Văn Trường hàng ở trên. Đoạn này cũng được phân làm hai phần: 1. Có bốn hàng tụng lại phần thứ nhất ở trên”trước hết nói về tám loại thần lực”; 2. “Vì chúc lụy kinh này” trở xuống có mười ba hàng tụng lại phần thứ hai trong Văn Trường hàng ở trên: khen ngợi kinh và khuyến khích người hành trì.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT “CHÚC LỤY”

Phẩm này chính là đoạn thứ hai, nêu ra Như Lai đem kinh phó chúc cho đại chúng lúc ấy nên mới lấy đó làm đề mục của phẩm. Trong phẩm này, đại khái được phân làm ba đoạn:

  1. Nêu ra Như Lai đem kinh để phó chúc.
  2. Nói lên đại chúng lúc ấy nhận lãnh lời phó chúc.
  3. Nêu ra Như Lai chỉ rõ tướng của sự việc phó chúc hoàn tất.

Lại xét trong ba đoạn này, mỗi đoạn có ba phần tức là:

  1. Nêu ra việc đem kinh để phó chúc.
  2. Giải thích ý phó chúc tức từ “vì sao?” Trở xuống.
  3. Tổng kết sự phó chúc tức từ “các ông cũng nên” trở xuống.

“Lúc đó, các vị Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ hai: phó chúc. Trong đoạn này cũng có ba phần:

  1. Trước hết nêu ra nội tâm vui mừng.
  2. Từ “càng thêm cung kính”.
  3. Từ “đồng lên tiếng bạch rằng” trở xuống là nêu ra sự nhận lãnh lời phó chúc.

“Khi đó đức Thích Ca” trở xuống là đạon thứ ba chỉ ra tướng của sự phó chúc hoàn tất. Đoạn này cũng có ba phần:

  1. Trước hết nói lên các phân thân của Phật đều tùy theo an định trở về.
  2. Nêu ra Tháp của Phật Đa Bảo đóng lại tức từ “Đa Bảo” trở xuống.
  3. Nêu ra sự vui mừng của đại chúng tức từ “khi Phật nói lòi đó” trở xuống.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI“DƯỢC VƯƠNG BỔN SỰ”

Do phẩm này nêu lên Dược Vương Bồ-tát xưa kia tu khổ hạnh để lưu thông kinh cho nên mới lấy đó làm đề mục của phẩm. Từ đây trở xuống có năm phẩm là đoạn thứ ba: chỉ cho mọi người qui tắc lưu thông kinh. Nhưng trong phần nêu ra nhân ở trên có nói đến qui tắc ấy và nay trong đoạn này lại nêu lên. Trước có nói “vào nhà Như Lai v.v…” là nói rõ dùng pháp làm quy tắc lưu thông. Trong phẩm này chính dùng Dược Vương v.v… tức là người làm quy tắc lưu thông kinh. Nay trong năm phẩm lại phân làm ba đoạn:

1. Có ba phẩm: Dược Vương, Diệu Âm, Quán Âm chính là chỉ ra quy tắc lưu thông kinh.

2. Phẩm “Đà La Ni” là nêu ra sự khuyên bảo đại chúng. Nếu có người thối mất nên vì nói thần chú để hộ trì nguời lưu thông kinh này. Do vậy không thể không hoằng truyền kinh.

3. Phẩm “Diệu Trang nghiêm Bổn Sự” là hiển bày sự lưu thông kinh có lợi ích: chuyển tà kiến của người cha trở về với chánh kiến.

Nay căn cứ trong đoạn thứ nhất tự có hai đoạn nữa: 1. Phẩm Dược Vương này trước hết nêu ra sự khổ hạnh khi lưu thông kinh làm quy tắc; 2. Hai phẩm Diệu Âm và Quán Âm nêu lên sắc thân hiện khắp để hoằng truyền kinh điển làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu nói Dược Vương hành khổ hạnh thì hai vị Bồ-tát sau cũng vậy, nếu nói hai vị sau với sắc thân hiện khắp để hoằng truyền kinh làm lợi ích cho chúng sanh, thì Dược Vương cũng như vậy. Do đó trước và sau đều hổ tương ảnh hưởng lẫn nhau cùng rõ nghĩa. Tuy nhiên, Dược Vương là vị Bồ-tát của nước này còn Diệu Âm và Quán Âm là hai vị đại sĩ của nước khác. Diệu Âm là Bồ-tát ở phương Đông, Quán Âm là Bồ-tát ở phương Tây. Tuy phương Đông và phương Tây có khác nhau nhưng đều tập hợp lại một chỗ. Điều này muốn nói lên lý đồng quy để chứng minh rằng “lời nói không hai”.

Nay xét trong phẩm này đại khái được chia làm bốn đoạn: 1. Tú Vương Hoa nêu ra câu hỏi; 2. Phật trả lời; 3. Kinh gia trình bày khi thuyết phẩm này được lợi ích; 4. Nêu ra đức Đa Bảo khen ngợi Tú Vương Hoa có thể nêu ra câu hỏi trong đại chúng lúc bấy giờ. Trong đây có ba phần: 1. Hỏi Dược Vương về sự khổ hạnh khó làm; 2. “Hay thay Thế Tôn, nguyện giải nói một ít” gồm có một câu nêu ra sự thỉnh giảng; 3. Các hàng trời, rồng, thần” trở xuống là nêu ra đồ chúng đến nghe pháp.

“Lúc đó, Phật bảo” trở xuống là đoạn thứ hai trong phẩm: Phật trả lời. Nay xét trong đoạn trả lời này có sáu đoạn: 1. Trước hết nêu ra nguồn gốc của sự việc; 2. “Bấy giờ, đức Phật đó” trở xuống là nêu lên Phật ở quá khứ vì Bồ-tát này mà nói kinh Pháp Hoa; 3. “Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống chính là nêu ra sự việc xưa kia tu khổ hạnh mà lưu thông kinh này; . “Phật bảo Tú Vương Hoa” trở xuống là nêu ra sự thông hiểu cả xưa và nay; . “Tú VươngHoa! nếu người phát tâm” trở xuống là khuyến khích người lưu thông kinh; . “Tú Vương Hoa! Thí như” trở xuống là rộng khen ngợi kinh tức nói rõ sự lưu thông.

Từ “Bấy giờ Phật bảo Tú Vương Hoa” trở xuống có mười một hàng là đoạn thứ nhất nêu ra nguồn gốc của sự việc. “Bấy giờ, đức Phật đó” trở xuống là đoạn thứ hai: Nêu ra đức Phật xưa kia vì Bồ-tát này mà nói kinh Pháp Hoa. “Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ-tát đó” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra sự việc xưa kia. Nay xét trong đoạn này tự có bốn đoạn nữa: 1. “Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ-tát đó” trở xuống là nêu ra việc nghe kinh mà tu hành; 2. Từ “mãn một muôn hai nghìn năm đã được” hiện nhứt thiết sắc thân Tam muội” trở xuống là nêu ra sự chứng đạt quả hiện tại; 3. “Liền nghĩ rằng” trở xuống là nêu ra sự biết ơn để nhớ nghĩ báo đáp ơn; 4. “Tức thời nhập Tam muội đó” trở xuống là cúng dường báo ơn. Lại xét trong đoạn thứ tư này cũng có hai phần: 1. Nêu ra hiện thân cúng dường; 2. Thân sau cúng dường. Trong việc hiện thân để cúng dường cũng được phân làm hai: 1. “Tức thời nhập Tam muội đó” trở xuống, trước hết nêu ra sự cúng dường tài vật; 2. “Từ Tam muội dậy mà tự nghĩ rằng” trở xuống chính là nêu lên việc đốt thân để cúng dường tự có năm phần: 1. Trước hết nêu sự nhớ nghĩ muốn đốt thân; 2. “Liền uống các chất thơm” trở xuống là nêu ra sự uống các chất hương thơm; 3. Từ “mãn một nghìn hai trăm năm” trở xuống chính là nói lên việc đốt thân; 4. “Các đức Phật trong đó” trở xuống là nêu ra sự khen ngợi của chư Phật; 5. “Thân của Bồ-tát, lửa cháy” trở xuống là nêu ra thời gian trải qua. Từ “ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống là đoạn thứ hai nói thân sau cúng dường. Trong đoạn này tự có hai phần: 1. Trước hết nêu ra duyên khởi cúng dường; 2. Từ “Bấy giờ, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến “trở xuống là nêu ra việc hành khổ hạnh để lưu thông kinh. Nay xét theo nghĩa ra duyên khởi tự có chín phần: 1. Trước hết nêu ra việc hiện sanh vào nhà của vua; 2. “Liền vì vua cha” trở xuống tức nêu ra sự việc vì vua mà nói lên nhân duyên xưa kia; 3. “Đại Vương, tôi nay nên trở lại cúng dường đức Phật đó” trở xuống là nêu ra sự việc với vua: Mình muốn cúng dường cho đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật; . “Thưa xong” trở xuống là nêu ra sự việc bay lên giữa hư không mà đi; . “Qua đến chỗ Phật” trở xuống là nêu ra việv đến chỗ Phật để cung thỉnh; . “Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống là nêu ra việc bạch Phật “Đức Thế tôn vẫn còn ở đời ư?. “Tuy nhiên nay không căn cứ vào đây để hiểu mà chỉ là mừng nói “con vẫn còn nên Thế Tôn vẫn còn ở đời”; 7. Nêu ra lời đáp của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật: giờ ta nhập Niết-bàn đã đến; 8. Từ “lại bảo” trở xuống là nêu ra đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức đem pháp giao phó cho Bồ-tát này; 9. “Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo như thế” trở xuống là nêu ra đức Phật đó đã nhập Niết-bàn. Như vậy đến đây là đã trình bày xong phần duyên khởi.

“Bấy giờ, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống là phần thứ hai nêu ra thân sau hành khổ hạnh lưu thông kinh. Trong phần này tự có bốn đoạn: 1. Trước hết nêu ra sự việc thấy Phật diệt độ mà sanh tâm luyến mộ; 2. “Liền dùng hải thử ngạn, chiên đàn” trở xuống là nêu lên việc đốt thân để cúng dường; 3. “Sau khi lửa tắt” trở xuống là nêu lên sự cúng dường xá lợi; . “Bấy giờ ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống là nêu ra việc xả bỏ cánh tay để cúng dường. Xét trong đoạn thứ tư này tự có bảy phần: 1. Từ đây trở xuống “bảo với đại chúng muốn đốt cánh tay”; 2. “Nói xong” trở xuống chính là nêu ra sự việc đốt cánh tay; 3. “Khiến vô số chúng cầu Thanh-văn” trở xuống là nêu ra đại chúng lúc ấy được nhiều lợi ích; . “Lúc đó các Bồ-tát” trở xuống là nêu ra sự sầu khổ buồn thương của đại chúng lúc bấy giờ; . “Lúc ấy, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến” trở xuống là nêu ra việc phát lời thệ nguyện; . “Nói lời thệ nguyện” trở xuống là nêu ra sự việc cánh tay hoàn lại như cũ; 7. “Đương lúc đó” trở xuống là nêu ra tướng cảm động.

“Đức Phật bảo Tú Vương Hoa: ý ông nghĩ sao” trở xuống là đoạn thứ tư nói lên sự hiểu biết thông suốt cả xưa, nay. “Tú Vương Hoa, nếu có người phát tâm” trở xuống là đoạn thứ năm khuyên người hành khổ hạnh để lưu thông kinh. “Tú Vương Hoa! Thí như trong các dòng nước: sông ngòi” trở xuống là đoạn thứ sáu: rộng khen ngợi kinh tức chính là nêu ra sự lưu thông. Căn cứ trong đoạn này lại có hai đoạn nữa: 1. Khen ngợi kinh; 2. “Cho nên Tú Vương Hoa” trở xuống là nêu ra sự lưu thông. Trong hai đoạn này mỗi đoạn có hai phần. Trong đoạn khen ngợi kinh có hai phần tức là ban đầu tổng khen ngợi một bộ kinh này và kế đó nói “Tú Vương Hoa nếu có người nghe” trở xuống là riêng biệt khen ngợi. Hai phần này, mỗi phần gồm có ba nghĩa quan trọng. Phần khen tổng có ba nghĩa: 1. “Thí như trong các dòng nước” trở xuống có mười thí dụ nêu ra để khen ngợi; 2. “Tú Vương Hoa, kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh “trở xuống là nêu ra “đương thể” để khen ngợi; 3. “Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này” trở xuống là nêu ra công dụng để khen ngợi. “Tú Vương Hoa” nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bổn Sư này” trở xuống là phần thứ hai: riêng biệt khen ngợi. Trong phần này cũng có ba nghĩa: 1. Từ đây trở xuống là nêu ra trong đời hiện tại được khen ngợi; 2. “Sau khi Như Lai diệt độ” trở xuống là nêu ra đời vị lai đuợc khen ngợi; 3. “Tú Vương Hoa, vị Bồ-tát đó thành tựu công đức trí tuệ như vậy” trở xuống là tổng kết sự khen ngợi.

Trong việc nêu ra sư lưu thông kinh cũng có hai phần: 1. “Cho nên Tú Vương Hoa” trở xuống là đem một phẩm này nêu ra sự phó chúc lưu thông kinh; 2. “Tú Vương Hoa, ông phải dùng sức thần thông” trở xuống là đem bộ kinh này phó chúc tức nêu ra sự lưu thông, trong đó tức có chánh văn và có sự giải thích.

“Lúc đức Phật nói phẩm Dược Vương Bổn Sư này” trở xuống là đoạn thứ ba trong phẩm tức là kinh gia trình bày sự lợi ích của chúng khi nghe phẩm này. “Đức Đa Bảo Như Lai” trở xuống là đoạn thứ tư nêu ra đức Phật Đa Bảo khen ngợi Tú Vương Hoa có khả năng nêu ra câu hỏi đó.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA “DIỆU ÂM”

Trong phẩm này thuât lại sự việc sắc thân và thần lực của Bồ-tát này biến khắp nên mới lấy tên vị Bồ-tát ấy đặt tựa đề cho phẩm. Từ đây trở xuống có hai phẩm là đoạn thứ hai trong phần chỉ ra quy tắc lưu thông kinh tức nêu ra sắc thân biến khắp của hai vị đại sĩ này để hoằng truyền kinh này làm lợi ích cho chúng sanh. Ý này thì giống như trước đã thuật rõ. Nay xét trong phẩm này đại khái được phân làm sáu đoạn:

1. Trước hết nêu ra Như Lai phóng hào quang để khiến Diệu Âm đến.

2. “Liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật” trở xuống là nêu ra Bồ-tát kia nhận đuợc sứ mạng nên từ phương Đông mà đi đền cõi này.

3. “Bấy giờ, Hoa Đức Bồ-tát bạch Phật” trở xuống là nêu ra sắc thân của đức Diệu Âm biến khắp tức thuộc quy tắc lưu thông kinh;

4. “Lúc nói phẩm Diệu Âm này” trở xuống trời người ở phương Đông và phương Tây đều có lợi ích.

5. “Khi ngài Diệu Âm Bồ-tát cúng dường đức Thích Ca” trở xuống là nêu ra vị Bồ-tát này thấy sắc thân biến khắp đã hoàn mãn nên trở về phương Đông mà thưa lại vơi đức Phật kia.

6. “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát lai vãng” trở xuống là phần kinh gia thuật lại chúng sanh lúc ấy nghe Phật thuyết phẩm này mà thu hoạch được nhiều lợi ích.

Trong đoạn thứ nhất “Như lai phóng ánh sáng chiếu khắp” tự có ba phần: 1. Trước hết nêu ra ánh sáng này chiếu soi đến nước khác; 2. “Qua khỏi số cõi đó” trở xuống là nêu ra ánh sáng ấy chiếu soi đến cõi nước của vị Bồ-tát này đang ở; 3. “Lúc đó, trong nước Nhứt Thiết Tịnh Quang trang nghiêm” trở xuống là nêu ra ánh sáng của Như Lai chiếu rõ thân Bồ-tát Diệu Âm.

“Liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật” trở xuống là đoạn thứ hai trong phẩm nêu ra Bồ-tát Diệu Âm nhận lãnh sứ mạng mà đến. Trong đây tự có năm đoạn: 1. Trước hết nêu ra Diệu Âm tạ từ Phật kia mà đến; 2. Nêu ra đức Phật kia dặn dò Diệu Âm đi đến; 3. Ngài Diệu Âm nhận lời dặn bảo; 4. Nêu ra đức Diệu Âm hiển bày tướng từ cõi kia đến; 5. Nêu ra đức Diệu Âm phát khởi từ cõi kia đến. Nay có bốn hàng là đoạn thứ nhất nêu ra ngài Diệu Âm giã từ đức Phật kia mà đến. “Bấy giờ, đức Tịnh Hoa Trí Phật” trở xuống là đoạn thứ hai nêu ra lời căn dặn của đức Phật kia. “Ngài Diệu Âm bạch Phật rằng” trở xuống là đoạn thứ ba nêu ra Diệu Âm thọ nhận lời dặn bảo của Phật. “Lúc đó, ngài Diệu Âm” trở xuống là đoạn thứ tư chỉ ra tướng từ cõi kia đến. Lại xét trong đoạn thứ tư này tự có sáu phần:

  1. Nêu ra sự hiển bày hoa sen báu trong cõi nước này.
  2. Từ “bấy giờ, Văn thù Sư Lợi” trở xuống là nêu ra ý Văn Thù hỏi Phật về tướng đoan nghiêm ấy.
  3. “Khi ấy. Đức Thích ca “trở xuống là nêu ra đức Như Lai trả lời Văn thù.
  4. “Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật” trở xuống là nêu ra Văn Thù muốn thấy ngài Diệu Âm.
  5. “Lúc ấy đức Thích Ca” trở xuống là nêu ra lời đáp của Thích Ca chỉ ra đức Đa Bảo Như Lai tự sẽ vì các ông mà kêu gọi.
  6. “Tức thời, đức Phật Đa Bảo “trở xuống là nêu là nêu ra đức Phật Đa Bảo vì Văn Thù mà gọi Diệu Âm.

Từ “bấy giờ, Bồ-tát Diệu Âm” trở xuống là đoạn thứ năm nêu ra Bồ-tát Diệu Âm phát khởi đến cõi này. Căn cứ trong đoạn này tự có chín phần:

  1. Trước hết nêu ra Diệu Âm đem theo quyến thuộc cùng đi đến.
  2. “Ở các nước trải qua” trở xuống là nêu ra ngài Diệu Âm đang trên đường đi mà hiện tướng thần lực.
  3. “Mắt của vị Bồ-tát đó như cánh sen xanh rộng lớn” trở xuống là kinh gia trình bày hình tướng của Bồ-tát ấy.
  4. “Ngài vào trong đài bảy báu” trở xuống là nêu ra Bồ-tát Diệu Âm ngồi trên tòa báu mà đi đến.
  5. “Đến rồi” trở xuống là nêu ra Diệu Âm đã đến cõi này rồi liền thiết lễ cúng dường.
  6. “Mà bạch Phật rằng” trở xuống là nêu ra Bồ-tát Diệu Âm truyền lại lời thăm hỏi của Phật kia với đức Thích Ca.
  7. “Thế Tôn nay con muốn thấy” trở xuống là nêu ra ngài Diệu Âm bạch Phật là mình muốn thấy Phật Đa Bảo.
  8. “Lúc dó, đức Thích Ca vì ngài Diệu Âm mà nói với Phật Đa Bảo.
  9. “Đức Phật Đa Bảo” trở xuống là nêu ra đức Phật Đa Bảo ở trong tháp báu xa bảo ngài Diệu Âm.

“Lúc bấy giờ, ngài Hoa Đức Bồ-tát bạch Phật rằng” trở xuống là đoạn thứ ba của phẩm nêu ra sắc thân của Diệu Âm hiện khắp nới để hoằng truyền kinh. Trong đó tự có hai lần hỏi đáp được phân làm hai đoạn. Nay nêu ra trong lần hỏi đáp chỉ có một vấn đề được hỏi. Trong đoạn Phật đáp tự có bốn phần:

1. Đáp rằng xưa kia Bồ-tát Diệu Âm do hành nhân tốt đẹp mà nay được quả báo như vậy.

2. “Hoa Đức, ý ông nghĩ sao?” trở xuống là nêu ra kết hợp thông cả xưa và nay.

3. “Hoa Đức, ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ-tát” trở xuống là rộng nêu ra sắc thân của Diệu Âm Bồ-tát biến hiện khắp nơi đễ hoằng truyền kinh.

4. “Hoa Đức! Diệu Âm Bồ-tát thành tựu “trở xuống là nêu ra sự tổng kết lời đáp. “Bấy giờ, ngài Hoa Đức Bồ-tát bạch Phật” trở xuống là phần hỏi đáp thứ hai nói lên tên của Tam muội.

“Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ tư trong phẩm nêu ra hai cõi nước phương Đông và Tây được nhiều lợi ích tức đạt được Tam muội này. “Khi ấy Diệu Âm cúng dường đức Thích Ca “trở xuống là đoạn thứ năm trong phẩm nêu ra đức Diệu Âm đã nói về sắc thân biến hiện xong rồi tạ từ trở lại nước của mình. Trong đây tự có ba phần:

1. Trước hết nêu ra việc tạ từ Như lai.

2. “Các nước trải qua” trở xuống là nêu ra khi ngài Diệu Âm đi về nước mình giữa đường có thể hiện thần lực.

3. “Đã đến bổn quốc” trở xuống là nêu ra việc đến cõi kia và cung kính Phật kia. Từ “lúc nói phẩm: Diệu Âm Bồ-tát lai vãng” trở xuống đến phẩm là đoạn thứ sáu kinh gia trình bày đại chúng lúc bấy giờ được nhiều lợi ích.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BỐN: “QUÁN THẾ ÂM”

Quán Thế Âm có thể có bốn tên gọi: 1. Quán Thế Âm chính là nói: quán xét Âm thanh của đời mà độ thoát chúng sanh; 2. Nói Quán Thế Âm Thân tức là nói quán xem thân nghiệp của chúng sanh mà độ thoát chúng; 3. Nói Quán Thế Âm Ý tức là quán xét ý nghiệp của chúng sanh mà độ thoát chúng; 4. Nói Quán Thế Âm Nghiệp tức là quán xét thông suốt cả ba nghiệp trước (thân, khẩu, ý).

Hỏi: Nếu như vậy cớ sao chỉ có gọi tên Quán Thế Âm? Đáp: Vì hành khẩu nghiệp thì dễ còn thân nghiệp và ý nghiệp hành thiện thì rất khó. Hơn nữa trong thế giới Ta bà đa phần lấy Âm thanh mà làm Phật sự cho nên mới lấy đó gọi tên là QuánThế Âm. Xét trong phẩm này cũng có sáu đoạn: 1. Trước hết khen ngợi vị Bồ-tát này; 2. Từ “Quán Thế Âm Bồ-tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? “Trở xuống là nêu ra sự biến hiện khắp nơi để lưu thông kinh; 3. “Cho nên các ông phải một lòng cúng dường” trở xuống là khuyến khích người cúng dường Bồ-tát này; . “Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần Thông tự tại như thế” trở xuống là kết luận khen ngợi vị Bồ-tát này; . “Bấy giờ ngài Trì Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy” trở xuống là nêu ra ngài Trì Địa Bồ-tát nhắc nhở, và cuối phẩm khen ngợi đức độ của ngài Quán Thế Âm; . “Lúc Phật nói phẩm phổ môn này” trở xuống đến phẩm là nêu ra khi nói phẩm kinh này đem lại rất nhiều lợi ích cho chúng sanh.

Nay căn cứ trong đoạn khen ngợi thứ nhất có hai phần tức là hỏi và đáp. Trong phần trả lời của Phật tự có hai đoạn: 1. Nương vào tên gọi mà khen ngợi; 2. “Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức “trở xuống tức nêu ra sự so sánh để khen ngợi. Trong đoạn: nương vào tên gọi để khen ngợi gồm có bốn phần: 1. Khen ngợi Quán Thế Âm; 2. “Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục” trở xuống là khen ngợi Quán Thế Âm; 3. “Nếu có người giả sử muốn cầu con trai” trở xuống là khen ngợi Quán Thế Thân; 4. “Cho nên chúng sanh đều nên thọ trì” trở xuống là tổng kết khuyến khích thọ trì.

Trong phần thứ nhất: Quán Thế Âm lại có ba phần nữa: 1. “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh thọ các khổ não” trở xuống là tổng nêu ra việc quán xét Âm thanh đau khổ của cuộc đời; 2. “Nếu có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát trở xuống là riêng biệt nêu ra Quán Thế Âm cứu thoát bảy thứ nạn; 3. “Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức oai thần lớn” trở xuống là tổng kết sự khen ngợi. Nên biết trong việc cứu bảy thứ hoạn nạn được nêu ra như sau: 1. “Nếu có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này” trở xuống có một hàng rưỡi nêu ra sự cứu thoát nạn lửa; 2. “Nếu bị nước lớn làm trôi” trở xuống gồm một hàng nêu ra sự cứu thoát nạn nước; 3. “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh” trở xuống gồm có năm hàng rưỡi nêu ra sự cứu thoát nạn bị gió cuốn. Trong đây tuy có đề cập chung đến La Sát nhưng chưa rõ. Gió vốn không có màu nhưng vì nêu ra gió này thổi mạnh khiến khởi u ám đen tối cho nên nói là “đen”; 4. “Nếu lại có người sắp sẽ bị hại” trở xuống gồm có hai hàng nêu ra sự cứu thoát nạn dao gây đánh đập; 5. “Nếu Tam thiên đại Thiên” trở xuống có hai hàng rưỡi nêu ra sự cứu thoát khỏi nạn La sát; 6. “Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội” trở xuống gồm có hai hàng nên ra sự cứu thoát khỏi nạn gông cùm; 7. “Nếu có kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam thiên đại Thiên” trở xuống có sáu hàng nêu ra sự cứu thoát khỏi nạn trộm cướp. “Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát đó” trở xuống đến “cao lớn như thế” là phần thứ ba: Tổng kết sự khen ngợi Bồ-tát Quán Thế Âm.

“Nếu có chúng sanh nhiều lòng dâm dục” trở xuống là phần thứ hai: khen ngợi Quán Thế Ý (xem xét ý của cuộc đời). Trong phần này tự có hai đoạn: 1. Khen ngợi; 2. Từ “Vô Tận Ý” trở xuống “cho nên chúng sanh phải một lòng niệm là tổng kết sự khuyến khích. “Nếu có người nữ” trở xuống phần thứ ba: khen ngợi Quán Thế Thân. Trong phần này cũng có hai đoạn: 1. Nêu ra thân nghiệp lễ bái để cầu được con trai hoặc con gái; 2. Từ “Vô Tận Ý” trở xuống “phước đức chẳng luống mất” là tổng kết sự khuyến khích. “Cho nên chúng sanh” trở xuống là phần thứ tư trong đoạn nương vào danh hiệu để khen ngợi, nêu ra sự tổng kết khen ngợi.

“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì sáu mươi hai ức” trở xuống là đoạn thứ hai: so sánh để khen ngợi. Trong đoạn này cũng có bốn phần: 1. Trước hết đức Phật so sánh công đức để hỏi Vô Tận Y; 2. Vô Tận Ý đáp lại lời Phật là rất nhiều; 3. “Phật nói: “Nếu lại có người” trở xuống là nêu ra Như Lai kết luận; . “Vô tận ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát” trở xuống là tổng kết khen ngợi.

“Vô Tận Ý bạch Phật rằng” trở xuống là đoạn thứ hai trong phẩm nêu ra sắc thân biến hiện khắp nơi để hoằng truyền kinh. Trong đoạn này có hai phần tức là hỏi và đáp. Nay xét trong phần hỏi tự có ba đoạn văn thuộc hai ý: 1. Hỏi rằng: “Dạo đi trong cõi ta bà như thế nào”? tức là hỏi về hình tướng; 2. Hỏi rằng”nói pháp cho chúng sanh như thế nào?” Là hỏi về giáo nghĩa; 3. Hỏi rằng”sức phương tiện, việc đó thế nào” là tổng kết câu hỏi trước tức hai pháp: hình tướng và giáo nghĩa đều là lực phương tiện. Trong phần Phật trả lời cũng có hai đoạn là đáp và tổng kết lời đáp. Trong đoạn đáp gồm có mười chín sự ứng hiện thích hợp. Trong mỗi sự ứng hiện ấy đều dùng để đáp lại hai câu hỏi ở trên. “Hiện hình” tức là đáp lại câu hỏi về giáo nghĩa. Nay câu ban đầu”nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát” là nêu ra căn tính của chúng sanh. Câu sau theo thông lệ đều được trình bày như vậy nhưng do văn kinh lược nên không nêu ra hai chữ “chúng sanh”. “Vô tận Ý! Quán Thế Âm đó” trở xuống là phần thứ hai: Tổng kết lời đáp.

“Cho nên các ông phải một lòng cúng dường” trở xuống là đoạn thứ ba trong phẩm: khuyên người cúng dường Quán Thế Âm. Trong đoạn này gồm có bảy phần: 1. Nêu ra Như Lai khuyến khích cúng dường; 2. Nêu ra ngài Vô Tận Ý nghe theo lời chỉ dạy của Phật mà cởi xâu chuỗi “Anh lạc” để cúng dường; 3. “Khi đó, Quán Thế Âm Bồ-tát” trở xuống là tụng ngài Quán Thế Âm không thọ nhận; 4. Nêu lên Vô Tận Ý cầu xin ngài Quan Âm thọ nhận; 5. “Bấy giờ, Phật bảo” trở xuống là nêu ra Như lai bảo ngài Quán Âm nên thọ nhận; 6. “Khi đó, ngài Quán Thế Âm” trở xuống là nêu ra ngài Quan Thế Âm liền thọ nhận; 7. “Phân làm hai phần” trở xuống là nêu ra Quán Thế Âm thọ nhận chuỗi châu Anh Lạc rồi sau đó chia làm hai phần dâng cúng cho Phật Thích Ca và Đa Bảo.

“Vô Tận Ý” trở xuống là đoạn thứ tư của phẩm: tổng kết sự khen ngợi Quán Thế Âm. “Bấy giờ, ngài Trì Địa Bồ-tát” trở xuống là đoạn thứ năm của phẩm nêu ra ngài Trì Địa tổng khen ngợi đức độ của ngài Quán Thế Âm. “Lúc Phật nói phẩm Phổ môn này” trở xuống là đoạn thứ sáu kinh gia nêu ra khi đức Phật nói phẩm kinh này khiến cho chúng sanh được nhiều lợi ích.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI LĂM: “ĐÀ LA NI”

Trong phẩm này nêu ra thần chú Đà-la-ni nên mới lấy đó làm tựa đề của phẩm. Trong việc nêu ra quy tắc lưu thông kinh vốn có ba đoạn. Ba phẩm trước chính là nêu ra sự việc dùng người làm quy tắc lưu thông kinh. Nay một phẩm này là ý thứ hai nêu ra Như Lai nói lên Đại Thần chú để khuyến khích bậc Đại sĩ hộ trì gìn giữ người hoằng truyền lưu thông kinh pháp. Trong phẩm này đại khái được phân định làm ba đoạn:

1. Có một lần hỏi đáp trước hết nêu ra việc so sánh công đức với người lưu thông kinh.

2. “Bấy giờ, ngài Dược Vương” trở xuống lại có một lần hỏi đáp để nêu ra năm người nói thần chú nhằm giữ gìn và bảo hộ người hoằng tuyền kinh.

3. “Lúc nói phẩm Đà-la-ni này” trở xuống một hàng nêu ra đại chúng lúc bấy giờ được nhiều lợi ích. Năm hạng người nêu ra ở trên chính là: Dược Vương, Dõng Thí, Tỳ Sa môn, Thiên Vương, Trì Quốc Thiên Vương và nữ La Sát.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU: “DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ”

Nếu y cứ như phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự thì cũng nên nói phẩm này là phẩm Tịnh Trạng và Tịnh Nhãn. Chín phẩm này chính là nói vị Quốc Vương xưa kia mang nặng tà kiến và không có niềm tin đối với Tam bảo, nhưng hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn lại phải sanh vào trong nhà ấy, với mục đích chuyển tâm tà kiến của vua thành chánh kiến. Vì thọ nhận sự giáo hóa của hai người con cho nên mới lấy đó làm tựa đề của phẩm. Nay xét trong phẩm này đại khái được phân định có sáu đoạn: 1. Nêu ra nguồn gốc của sự việc; 2. Khen ngợi hai người con có đức sâu dày và hành động tốt đẹp; 3. Nêu lên đức Phật Vân Lôi Âm vì chúng mà nói kinh Pháp Hoa; . Nêu ra sự việc xưa kia: hai người con giáo hóa cha tức cũng là chủ ý củaphẩm này; . Kết hợp chung xưa và nay; . Kinh gia nêu ra khi nói phẩm này thì đại chúng lúc ấy được nhiều lợi ích.

Nay trước hết nêu ra nguồn gốc của sự việc tức tên của cõi nước và danh hiệu của Như lai làm giáo chủ nước đó. Từ “có hai người con” trở xuống là đoạn thứ hai: khen ngợi hai người con có đức sâu dày và hành động tốt đẹp. “Lúc đó đức Phật kia” trở xuống là đoạn thứ ba: đức Phật kia vì hai người con mà nói kinh Pháp Hoa. “Bấy giờ, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai người con” trở xuống là đoạn thứ tư: nêu ra sự việc xưa kia hai người con giáo hóa cha. Căn cứ trong đoạn này có ba phần:

1. Nêu ra duyên khởi giáo hóa cha.

2. “Lúc ấy hai người con” trở xuống là nêu lên sự giáo hóa cha.

3. “Bấy giờ, cha thấy con có sức thần như thế” trở xuống là vua cha bằng lòng với hai người con qua thưa với me cùng đi đến chỗ Phật. “Mẹ liền bảo con rằng” trở xuống là nêu lên người mẹ bảo con dẫn dắt tà kiến của vua cha” Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai người con” trở xuống là nêu ra hai người con khởi niệm than oán. Từ “mẹ bảo con rằng” trở xuống là nêu ra khuyến khích con giáo hóa cha. “Lúc ấy trở xuống chính là nêu lên hai người con tạo ra mười tám sự biến hóa để giáo hóa vua cha.

“Bấy giờ, Cha thấy con” trở xuống là nêu ra vua cha nhận lãnh sự giáo hóa của con. Căn cứ trong đoạn này gồm có mười bốn phần:

  1. Nêu ra vua cha cùng con hỏi đáp.
  2. “Lúc ấy, hai người con” trở xuống là nêu ra hai người con cùng mẹ hỏi đáp.
  3. “Bấy giờ, hai người con” trở xuống là nêu ra hai người con khuyên cha mẹ nên đi đến chỗ của Phật.
  4. “Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm” trở xuống là nêu ra quyến thuộc của vua kham nhận pháp giáo hóa.
  5. “Hai người con như thế” trở xuống là khen ngợi đức của hai người con giáo hóa vua cha.
  6. “Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm” trở xuống là nêu ra vua và quyến thuộc của vua đi đến chỗ Phật.
  7. “Lúc đó, đức Phật kia vì vua mà nói pháp” trở xuống có hai câu nêu ra Như Lai nói pháp cho vua nghe.
  8. “Vua rất vui thích” trở xuống là nêu ra khi vua nghe pháp được nhiều lợi ích nên mới dùng báu vật cúng dường.
  9. “Bấy giờ, đức Phật Vân Lôi Âm” trở xuống là nêu ra đức Phật ấy thọ ký cho vua.
  10. “Vua Diệu Trang Nghiêm tức liền” trở xuống là nêu ra vua xuất gia tu học đạo.
  11. “Liền bay lên hư không” trở xuống là nêu ra vua đã liễu ngộ nên sau đó báo đáp ân của hai người con.
  12. “Lúc đó” trở xuống là nêu ra Như Lai nói rõ hai vị vương tử này chính là thiện tri thức.
  13. “Vua Diệu Trang Nghiêm liền từ trong hư không” trở xuống là nêu ra vua khen ngợi ân đức của Phật.
  14. “Vua thưa lời đó rồi, lạy Phật mà lui” gồm có hai câu nêu ra vua giã từ Phật để trở về nước mình.

“Phật bảo đại chúng” trở xuống là nêu ra kết thông suốt cả xưa và nay. “Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự này” trở xuống đến phẩm là kinh gia nêu ra sự việc khi nói lên phẩm này khiến chúng sanh có được nhiều lợi ích.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY: “PHỔ HIỀN KHUYẾN PHÁT”

Trong phẩm này nêu ra Phổ Hiền nhân từ phương Đông đến để khuyên người tự phát tâm nghe kinh cho nên mới lấy đó làm tựa đề cho phẩm. Tuy nhiên kinh vốn có ba đoạn và trong đoạn thứ ba: lưu thông vốn có hai phần: Phần thứ nhất có mười phẩm rưỡi là hóa tha lưu thông. “Nay, phẩm này là đoạn thứ hai: tự hành lưu thông. Nếu người nào không thọ trì kinh này thì đối với người ấy không có nghĩa lưu thông. Nếu người nào tự thọ trì kinh này thì đối với người ấy có nghĩa lưu thông. Vốn nói trong hai đoạn thì mỗi đoạn có ba phần. Nay trong đây có ba phần tức là: 1. Nêu ra Bồ-tát này từ phương Đông đến là vì muốn khuyên người phát tâm lưu thông kinh; 2. “Bạch Phật” trở xuống là nêu ra sự khuyến khích phát tâm nghe kinh; 3. Phần cuối phẩm là kinh gia nêu ra sự lợi ích khi nghe nói phẩm này.

Nay vả lại, trong đoạn ban đầu tự có bốn phần: 1. Nêu ra Phổ Hiền từ phương Đông đến; 2. “Các nước đi ngang qua” trở xuống là nêu ra tướng thần thông; 3. “Lại cùng” trở xuống là nêu ra tướng quyến thuộc của Phổ Hiền; 4. “Đến cõi Ta Bà” trở xuống là nêu ra việc đi đến chỗ Phật để kính lễ.

“Bạch Phật rằng” trở xuống là đoạn thứ hai của phẩm chính nêu ra nghĩa khuyến khích phát tâm lưu thông kinh. Trong đây nêu ra tướng chủ và khách giản lược có bốn phần: 1. Phổ Hiền trước tiên hỏi Như Lai về thực hành khuyến phát; 2. “Phật bảo Phổ Hiền” trở xuống là nêu ra Như Lai đáp lại câu hỏi về thực hành khuyến phát; 3. “Lúc đó ngài Phổ Hiền bạch Phật rằng” trở xuống là nêu ra Phổ Hiền khuyến phát; 4. “Lúc bấy giờ, đứcThích Ca Mâu Ni khen rằng” trở xuống la nêu ra Như Lai thuật rõ sự thành tựu về việc khuyến phát.

Lại căn cứ trong bốn đoạn này, mỗi đoạn có ba phần riêng biệt. Đoạn thứ nhất có ba phần tức là: 1. Dẫn ra Phổ Hiền vì kinh này cho nên mới đến; 2. “Xin nguyện” trở xuống là sự thỉnh cầu lời đáp; 3. Từ “nếu thiện nam tử” trở xuống là chính nêu ra câu hỏi “Phật bảo trở xuống” là đoạn thứ hai “Phật đáp” nêu ra sự thực hành khuyến phát. Trong đoạn này tự có ba phần: 1. Tổng xướng lên bốn số pháp; 2. “Một là” trở xuống tức riêng biệt nêu ra tên của bốn pháp; 3. “Thiện nam tử” trở xuống là tổng kết lời đáp. “Lúc đó, ngài Phổ Hiền” trở xuống là đoạn thứ ba: Phổ Hiền khuyến khích người thực hành bốn pháp này. Trong đoạn này cũng có ba phần: 1. Tổng khuyến khích; 2. Riêng biệt khuyến khích; 3. Tổng kết sự khuyến khích. “Người đó hoặc đi hoặc đứng” trở xuống là phần thứ hai: riêng biệt khuyến khích. Xét trong phần này gồm có bốn hạng người được khuyến khích: 1. Nêu ra thị hiện điềm lành khuyến khích, tướng ứng văn kinh nói “nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này con sẽ cởi tượng vương trắng đến hộ trì người đó”; 2. “Cũng lại cho người đó” trở xuống là nêu ra việc dùng thần chú để hộ trì; 3. “Nếu có người thọ trì” trở xuống là nêu ra Phật dùng thần lực để hộ trì “nếu có người hay thọ trì kinh này” tức là nêu ra chư Phật dùng thần lực để hộ trì người đó; . “Nếu chỉ biên chép” là nêu ra quả báo để khuyến khích. Nghĩa là nếu người lưu thông kinh này thì được quả báo tốt đẹp. “Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông” trở xuống là đoạn thứ ba: tổng kết sự khuyến khích nhằm nói rõ Phổ Hiền tự thệ nguyện phát ý chí hoằng truyền kinh, dẫn dắt khắp cả chúng sanh tức là tổng kết. “Lúc bấy giờ. Đức Thích Ca Mâu Ni” trở xuống là đoạn thứ tư: Như Lai thuật lại sự khuyến phát và khen ngợi Phổ Hiền. Căn cứ trong đoạn này có ba phần: 1. Thuật lại tướng linh ứng của Phổ Hiền và thần chú để hộ trì người khuyến phát; 2. “Sẽ dùng thần lực” trở xuống là thuật rõ thành tựu việc Phật dùng thần lực để hộ trì ở trên; 3. Từ “Phổ Hiển! Nếu Như Lai “trở xuống là thuật lại sự thành tựu quả báo khuyến khích ở trên, lần lượt thọ trì tức liền sẽ được. “Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền khuyến phát” trở xuống là đoạn thứ ba trong phẩm kinh gia nêu ra sự lợi ích của chúng sanh khi Phật nói phẩm kinh này.

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8