PHẦN PHỤ

Bài Tống Chung

Đời sống người mấy mươi, mấy chốc,
Phút, thôi rồi kẻ khóc, người thương!
Sanh li, tử biệt, đôi đường!
Ai xui, nên nỗi vấn vương mối sầu?
Kẻ còn thốn thức canh thâu;
Hỡi người thiên cổ đi đâu? Đâu rồi??
Khi nào có khứ, có hồi,
Bây giờ không tới, không lui thế này!
Khi nào dậy sớm, thức khuya,
Bây giờ khắc thẳm, canh chầy không hay.
Khi nào lao động hôm mai,
Bây giờ yên nghỉ, không nài tăng lương.
Khi nào thế lực hào cường,
Bây giờ phá sản… gia đường tan hoang.
Khi nào du lịch thanh nhàn,
Bây giờ biệt xứ…lỡ làng sầu bi!
Khi nào đi học, đi thi…,
Bây giờ quốc ngữ, chữ Tây không màng,
Khi nào ruộng rẫy lo toan…,
Bây giờ đặng mất mùa màng mặc ai.
Khi nào kỷ nghệ giồi mài,
Bây giờ chẳng đoái đồ ngoài tối tân.
Khi nào buôn tảo bán tần,
Bây giờ vô giá… chợ đen mặc người.
Khi nào “luân lý” dạy đời,
Bây giờ “thơ, rượu”, “rung đùi” cũng không.
Khi nào thầy thuốc tây, đông,
Bây giờ “tiêm”, “hốt” ai hòng rước đưa.
Khi nào sơn hướng chọn lừa…,
Bây giờ điểm huyệt như… chưa biết gì.
Khi nào sủ lá, mu qui…,
Bây giờ cung tốn, cung ly tách vời.
Khi nào xem ráng, dòm trời…,
Bạy giờ mây bạc, sao rơi chia buồn!
Khi nào số mạng tinh tường,
Bây giờ đâu biết gốc nguồn Tử Vi.
Khi nào nổi tiếng Mai Y…,
Bây giờ xem tướng, coi tay ra gì.
Khi nào coi hát, ca hay,
Bây giờ “tấn kịch” thảm thay cả vùng!
Khi nào chồng vợ yếm âu,
Bây giờ như gãy chiếc cầu sông ngân.
Khi nào huynh đệ tương thân,
Bây giờ như gãy tay chơn xa lìa.
Khi nào thăm viếng sớm khuya,
Bây giờ cha mẹ như tia khuất ngàn.
Khi nào ông cháu, họ hàng,
Bây giờ nội ngoại, xóm làng rẽ phân.
Khi nào dâu, rể, hôn nhân,
Bây giờ thác thể: Chế Trần bao lăm.
Tuổi: ông Bành Tổ tám trăm,
Nhan Hồi băm mấy, cũng xong một đời.
Sang như Hai Nhiểu ăn chơi,
Nghèo như Tư Đặng cũng nơi quan tài.
Sống còn phân biệt gái trai,
Thác rồi ai cũng như ai một hàm.
Mặc dầu chồng Tây vợ Nam…,
Cha Tiều mẹ Thổ… cũng gom một gò.
Ví dù nhiều khúc quanh co…,
Cũng quán tạo hóa, cũng đò âm dương.
Chiếc thân mỏng mảnh vô thường,
Như: mơ trong mộng, tựa sương trên cành.
Phập phồng cái kiếp phù sanh,
Thể: đèn trước gió, lục bình ngoài sông.
Xác phàm nhiều nỗi long đong;
ép dầu trong bộng, tuyết nung trên lò.
Người ơi! Mau tỉnh, sớm lo…,
Chi, chi cũng thế, còn đo đắn gì?
Người ơi! Sống đặng mấy khi?
Trăm năm thấm thoát, một kỳ dở dang!
Người ơi! Giác ngộ là ngoan,
Căn lành là Đạo, dây oan là Tình.
Người ơi! Thôi chớ niệm Tình,
Cùng nhau niệm Phật để nghinh hồn về.
Phật xưa đã có lời “thề”:
 “Phóng quang tiếp dẫn”, hồn kề theo sau.
Quan âm, Thế Chí cùng nhau,
Gót nương ánh ngọc, tay trao đài vàng.
Dọc đài: bửu cái, tràng phan…
Hương thơm nực đất, nhạc vang rền trời.
Thuyền Từ đón rước thảnh thơi,
Lước qua biển khổ, tách vời sông mê.
Đồng lên giác ngạn bồ đề,
Hoàn toàn thanh tịnh, chỉnh tề trang nghiêm:
Địa cầu bằng chất hoàng kim,
Giới biên rực rỡ, trung tim chói ngời.
Nước nhà sáng rạng mọi nơi,
Lộ hừng tứ bửuL, lầu ngời thất trân.
Ao sen bằng chất kim ngân…,
Nước đầy tám đức, hoa phân bốn màu.
Thai sen hóa thể sạch làu,
Nên rằng tịnh độ, tự hào lạc bang.
Hóa sanh thân thể bằng vàng;
Hồn nay thác chất, dự hàng pháp thân.
áo giải thoát, ấm tinh thần,
Khát dùng sữa pháp, đói ăn cơm thiền.
Muốn chi, có nấy hiện tiền,
Sẵn sàng thọ dụng tự nhiên ý mình.
Không phiền thủ xả, kinh doanh,
Không cần phấn đấu, hi sanh điên khùng.
Vô sanh quả sống vô cùng,
Không già, không bịnh, không chung, thỉ gì.
Không tham, không giận, không si,
Không kiêu, không ngạo, không nghi, không nghì.
Không bát khổ, không ngũ suy,
Đã không tám nạn, có gì ba tai.
Không tử khứ, không sanh lai,
Nên không các khổ, có hoài các vui.
Có Trời thường rải hoa tươi,
Có người đem cúng cả mười phương xa.
Có chim: Ca lăng tần dà…
Đã hay thuyết pháp, lại hòa nhã âm;
Có bửu thụ, có quỳnh lâm,
Gió mầu thổi động, reo trăm nhạc vần.
Có… nghe rồi niệm: Phật…Tăng,
Nhứt là có Phật thường hằng nói kinh.N

Bài Tống Chung
(của Bích Liên Hòa Thượng)

Cuộc hồng trần xây vần quá ngán,
Kiếp phù sanh tụ tán mấy lăm hồi.
Người đời có biết chăng ôi!
Thân người tuy có, có rồi huờn không.
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng;
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi.
Làm cho buồn bã thế ni!
Hôm qua còn đó, bữa nay mất rồi!
Khi nào đứng đứng, ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lượt giắt, trâm cài,
Bây giở gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày xanh,
Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nấm cỏ sầu xanh xanh.
Khi nào liệt liệt oanh oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa, xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi khuất xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con con,
Bây giờ hai ngã nước non cách vời.
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo, nhành tươi vui gì!
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu, cuộc kỳ vắng thiêu.
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Sang mà đến bực công hầu,
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai!
Một mai, mai một, một mai,
Giàu sang cũng chết, xạt xài cũng vong.
Thông minh, tài trí, anh hùng,
Ngu si dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go,
Mau mau nhẹ bước qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi! Hỡi Vong hồn!
Cuộc đời nay bể, mai cồn tỉnh chưa?
Tỉnh rồi một giấc say sưa,
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về cực lạc nước kia,
Cho xa hàng quỉ, mà lìa kiếp ma.
Nhờ ơn đức Phật Di Đà,
Phóng ra một đạo chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng,
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân.
Quan âm Bồ -tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu, tay bưng kim đài.
Với cùng Thế Chí các Ngài,
Cũng đều khuyến thỉnh lên ngai sen vàng.
Có bửu cái, có tràng phan,
Có mùi hương lạ, có đoàn nhạc hay.
Có Trời các cõi truy tùy,
Có đờn có trống rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có hoa thất bửu, có hương ngũ phần.
Lưu li có đất sáng ngần,
Ma ni có nước trong tần chảy quanh.
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Có ngân các, có kim lầu,
Có chim nói pháp, nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền.
Đã sanh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng xảy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể: Mẹ tìm con,
Con mà gặp Mẹ, lại còn lo chi?
Dọc ngang đài xạ thiếu gì,
ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu.
Không ân, không oán, không sầu,
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa, rày đã tỏ rồi,
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô.
Tu hành phải đợi kiếp mô,
Nguồn tình bể ái đã khô bao giờ.
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ đã lờ đi đâu?
Mấy lời hộ niệm trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau, nữa mà.
Phân thân ra khỏi Ta -bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.

Bài Tống Chung
(của Thái Không pháp sư)

Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng:
Đời người chớp nháng như lằn điểm quang.
Thân người giả họp rồi tan,
Lao xao bọt nước, mơ màng chiêm bao.
Nặng mang những nghiệp trần lao,
Loanh qouanh ba cõi lao nhao sáu đường.
Đã sanh vào cảnh vô thường,
Nào ai tránh khỏi con đường tử sanh.
Bầu trời lộng lộng xanh xanh,
Xây mưa, trở nắng tan tành gió mây.
Mênh mông đất nước nặng dày,
Cồn giâu, bể thẳm, lưng, đầy, chiều, mai.
Kể từ vô thỉ dĩ lai,
Đến đời mạt pháp là ngày hôm nay.
Biết bao tan xác rã thây,
Biết bao những nấm mả lài mồ hoang.
Phật xưa trượng sáu mình vàng,
Mãn duyên, còn phải Niết bàn hóa thân.
Tiên gia như Lý Đạo Quân,
Đến ngày vỏ hóa hình thần cũng tan.
Tam Hoàng, Ngũ Đế thánh nhân,
Nào ai giữ được xác thân đời đời.
Hạng Vương khuấy đất chọc trời,
Tám ngàn đệ tử còn người nào đâu.
Thỉ Hoàng bạo ngược tóm thâu,
Tràng Thành giữ được bao lâu vững bền.
Trọng Ny thất thập nhị hiền,
Tam thiên đồ đệ, hiện tiền còn ai.
Tám trăm tuổi số thật dài,
Mà nay Bành Tổ mặt mày còn đâu.
Băm hai trẻ tuổi xanh đầu,
Thầy Nhan Uyên có van cầu được thêm?
Lang thang tơi tả áo xiêm,
Tăng Sâm, Yến Tử có bền gì ru.
Giàu như ỷ Đốn, Đào Châu,
Thạch Sùng, Vương Khải há mua vô thường.
Thánh, Tiên, Trời, Đất, giang san,
Noãn, thai, thấp, hóa sáu đường cũng tan.
Than ôi! Cuộc thế ngỡ ngàng,
Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui!
Nếu là hơi thở tắt rồi,
Mưa tuôn, cỏ lợp, đất vùi, nắng phơi.
Nào người hống hách rùm trời,
Xiêm Rồng, mão phụng chói ngời trên ngai.
Ba ngàn hổ bái kim giai,
Hầu trong mỹ nữ, vệ ngoài trảo nha.
Ngày nay gió táp, mưa sa.
Rêu phong mặt đất, đốm lòa đầu cây.
Nào người phạt bắc chinh tây,
Binh hùm dậy đất, gió bay lộng trời.
Thang gươm, mũi sóc sáng ngời,
Máu tuôn thành bể, thây phơi chật đồng.
Ngày nay tuyết phủ, sương lồng,
Véo von giọng dế, não nùng tiếng quyên.
Nào người thẻ ngọc, bài huyền,
Gia phong cửu tích, chưởng quyền tam công.
Tới lui kiệu phụng xe rồng,
Linh đình nghìn tứ, chập chồng muôn chung.
Ngày nay khói tỏa, rêu phong.
Sớm soi gương thỏ, chiều dòm bóng ô
Nào người trướng ngọc giường ngà,
Châu hài nghìn khách, kim thoa mấy hàng.
ê chề hải vị, sơn trân,
Thóc tiền hàng triệu, ngọc vàng dư muôn.
Ngày nay quạnh quẻ bên truông,
Bông lau âm ỷ, tiếng người nỉ non
Nào người gác tía, lầu hồng,
Tay tiên đơm ngọc, gót son rải vàng.
Mái mây rẽ ngút mai trang,
Phấn tô vóc liễu, gấm choàng mình mai.
Ngày nay một núm mô lài,
Vi lau hiu hắt, mấy ai tưởng tình!
Nào người đổ nước nghiên thành,
Sóng xao biển bạc, gương nhìn non xuân.
Bóng nga nhẹ tách quảng hàn,
Lừ đừ cá ngắm, rập ràng nhạn sa
Ngày nay bìm sắn giắt gia,
Líu lo chim hót, rờm rà cỏ đơm.
âu sầu nắng sớm, mưa hôm,
Nào ai hương khói dưng đơm ít, nhiều.
Quạnh hiu, hiu quạnh đều đều,
Thảm thê, thê thảm chín chiều bâng khuâng.
Xót thay cho lẽ tuần huờn,
Còn còn, mất mất xây vần như xe.
Gẫm đường sống, thác mà ghê,
Sớm sanh, chiều diệt ai dè vậy nay.
Hồi nào giao mặt bắt tay,
ái ân dan díu những ngày bén duyên.
Bây giờ rẽ thúy chia uyên,
Bỗng dưng dương cảnh, hoàng tuyền cách xa.
Hồi nào mẹ mẹ cha cha,
Ngày nay một nắm cỏ hao giải dầu.
ôi ôi nghĩa nặng cù lao,
ơn sâu thăm thẳm trời cao khôn cùng.
Hồi nào cháu cháu ông ông,
Ngày nay phân cách xa trông biệt ngàn.
Chạnh niềm cây cội nước nguồn,
Đã đành u, hiển hai đường lạnh tanh.
Hồi nào như lá liền cành,
Ngày nay cốt nhục tan tành rụng rơi.
Ngẩn ngơ chiếc nhạn bên trời,
Tích linh lịu địu rã rời bơ vơ.
Hồi nào điểm cúc vây cơ,
Ngày nay nước chảy hẫng hờ non cao:
Bâng khuâng mai úa liễu xào,
Gương treo bóng xế, mây rào vườn xuân.
Than ôi, cuộc thế xây vần,
Họp tan, tan họp mấy lần từ xưa.
Than ôi tạo hóa khéo lừa,
Bày chi cái chết không chừa một ai.
Than ôi giấc mộng muôn đời,
Biết bao nhiêu khách dạ đài say vui.
Hỡi vong ôi! Hỡi hồn ôi,
Bao nhiêu nợ thế trả rồi thế thôi.
Rửa lòng cho sạch trần ai:
Lưỡi câu dục lạc, miếng mồi lợi danh.
Tránh xa cái cửa tử sanh,
Thoát nơi tham ái, khỏi thành sân si.
Bước vào trong cửa từ bi,
Nương theo chơn Phật, trở về liên bang.
Khỏi đường sống chết xây lăn,
Khỏi điều thống khổ, khỏi thân tội tình.
Liên bang là nước hóa sanh,
Có ao tám đức, có sen bốn màu.
Có cây ngọc, có lưới châu,
Có thành thất bảo, có lầu thất trân.
Sáu thời thiên nhạc vang rân,
Màu hoa chói rạng, mùi hương nực nồng.
Tốt thay thế giới vàng ròng,
Bảy hàng bửu thụ, chín trùng liên hoa.
Đạo sư là Phật Di Đà,
Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang.
Hằng ngày thuyết pháp rền vang,
Tiếp người niệm Phật, dẫn đàng thiện duyên.
Hồn ôi! Hồn có linh thiêng,
Phát tâm niệm Phật, mà nguyền vãng sanh.
Thành tâm phát một nguyện lành,
Hoa sen vàng đã nêu danh tánh rồi.
Căn lành cội phúc vun bồi,
Mượn thuyền lục độ, để hồi hướng qua.
Mãn duyên sen nở một tòa,
Rước hồn có Phật Di Đà phóng quang.
Muôn trùng bửu cái tràng phan,
Trầm hương khói tỏa, sen vàng hoa đơm.
Hiện thân Thế Chí, Quan âm,
Vô biên Bồ -tát, thiên trùng thánh tăng.
Hồn ngồi trên tọa sen vàng,
Nhạc tâu, hoa rải vinh quang ai tày.
Đến nơi quì trước Liên đài,
Vâng lời thọ ký, nghe bài pháp âm.
Nhiệm mầu Phật pháp cao thâm,
Linh quang sáng suốt, chân tâm tỏ tường.
Dạo xem cảnh giới Phương tây,
Đơm hoa Bát nhã, xông hương Ngũ phần.
Chói ngời cây ngọc lá vàng,
Mưa sa hoa báu, gió đàn mành châu.
Bạch hạt trước, Khổng tước sau,
Ca Lăng, Anh Võ… chầu hầu nghiêm trang.
Kêu lên những tiếng dịu dàng,
Tám phần chánh đạo, bảy phần giác chi.
Thâm trầm những tiếng từ bi,
Nhiệm mầu không thể nghĩ suy luận bàn.
Nghe ra ai cũng phát tâm,
Nguyên sanh với bực thượng căn một nhà.
Mạn đà rải rác mưa sa,
Nhạc trời chập trổi dịu hòa rền vang.
Gió khua cội báu như đờn,
Đồng thời in rập muôn phường nhạc tâu.
Những cây báu, những lưới châu,
Những đài hổ phách, những lầu ma ni.
Gác mã não, tạ lưu li,
Chiên đàn trầm thủy xông nghi ngút mùi.
Mỗi tòa trên có mỗi ngôi,
Màu phù đàn Hóa Phật ngồi nghiêm trang.
Mi gian phóng rạch hào quang,
Đôi tròng trong trẻo mình vàng sáng trưng.
Chói ngoài tám vạn do tuần,
Mỗi tia lại có một vầng hoa sen.
Mỗi hoa một thế giới riêng,
Nước tên Cực lạc, Phật tên Di Đà.
Cũng hóa Phật, cụng liên tòa,
Cũng đồng thuyết pháp, dịu hòa cao sâu.
Vô vi pháp Phật nhiệm mầu,
Hóa sanh cơm ngọc, áo châu đủ mùi.
Rảnh rang hưởng sự rất vui,
Những điều ác thú, luân hồi vốn không.
Làu làu chân tánh sạch trong,
Tinh tường muôn kiếp, tỏ thông ba đời.
Ngộ lòng thường trú không dời,
Bao trùm khắp cả đất trời đại thiên.
Bấy giờ vận dụng phép huyền,
Từ chơn lại tục tùy duyên hiện hình.
Phân thân tùy thuận chúng sanh,
Ra vào khắp cõi Khí, Tình thế gian.
Rải gieo hột giống sen vàng,
Cứu đời ác trược, vớt đoàn trầm mê.

Đại Tịnh Độ Nguyện Văn
(Bổn Diễn Ca của Bích Liên Hòa Thượng)

Xây mặt phương Tây cúi lạy Thầy;
Lạy Thầy tiếp dẫn chúng sanh này.
Tôi nay phát nguyện sanh về đó;
Xin hỡi thương cùng dắt díu đây.
Chúng con đệ tử khắp vì:
Bốn ơn, ba cõi cả thì chúng sanh;
Cầu trên các Phật viên thành,
Nhất thừa vô thượng, đạo lành cho ra;
Vậy nên chuyên niệm Di Đà,
Hồng danh vạn đức đặng mà cầu sanh.
Lại vì nghiệp nặng, phước khinh;
Chướng đầy đã lắm, huệ đành còn lưng.
Lạ thay lòng nhiễm dễ hừng;
Khốn thay tịnh đức một phần khó nên.
Hôm nay trước Phật thưa lên,
Cúi đầu kính lạy gắng bền vóc năm.
Tỏ bày trong một chơn tâm,
Thật lòng sám hối lỗi lầm những bao.
Rằng: con với chúng nao nao,
Mê lòng bổn tịnh kiếp nào đến nay.
Buông lòng tham với sân, si,
Nhuộm trong ba nghiệp đã dày dơ tanh.
Biết bao nhiêu chứa tội tình,
Biết bao nhiêu buộc trong mình nghiệp oan.
Phật tiền nguyền thảy tiêu tan,
Tội kia, nghiệp nọ hai đàng sạch trong.
Từ nay thề lập một lòng,
Xa lìa ác pháp thề không lại làm.
Đạo thiền gắng gỗ công tham,
Thề không lui bỏ mà tham thế tình.
Thề sao chánh giác cho thành,
Thề ra độ hết chúng sanh mới là.
Cúi xin đức Phật Di Đà,
Hãy đem từ nguyện chứng qua với cùng.
Xin thương con có một lòng,
Xin thương giúp đỡ cả trong lúc nào.
Nguyện khi thiền quán, chiêm bao,
Đặng đường thấy Phật bạch hào kim thân.
Đặng chơi lầu các thất trân,
Bửu nghiêm cõi ấy thường tầng trải qua.
Đặng nhờ đức Phật Di Đà,
Lấy cam lồ rưới đầu ta dầm dề.
Quang minh soi khắp mình này,
Tay thì vò trán, áo thì che thân.
Khiến con chướng cũ bỏ lần,
Thiện căn thêm lớn mấy phần tươi xanh.
Chóng tiêu phiền não bụi tình,
Lại mau bỏ khối vô minh trong lòng.
Lòng mầu viên giác mở thông,
Tịch quang cảnh thiệt thường trông thấy liền.
Đến khi thọ mạng gần viên,
Trước đà dự biết nhân duyên đến ngày.
Thân không một chút khổ chi,
Lòng không một chút sự gì tham mê.
Sáu căn vui vẻ đủ bề,
Rõ ràng chánh niệm chẳng hề đơn sai.
Báo thân khi xả êm tai,
Thể như thiền định thảnh thơi nhưng là.
Một ngôi đức Phật Di Đà,
Quan âm, Thế Chí nửa mà thiếu chi.
Thánh hiền các vị đông dầy,
Phóng quang dắt díu, thả tay nưng bồng.
Tràng phan lầu các mấy trùng,
Thanh thao thiên nhạc, đượm nồng dị hương.
Dọc ngang cõi thánh phương Tây,
Hiện ra trước mắt rõ ràng chẳng mê.
Khiến cho kẻ thấy người nghe,
Vui mừng mà phát bồ đề tâm ra.
Con trong khi ấy thì là:
Theo hầu bên Phật ngự tòa kim cang.
Móng tay chừng thí khảy sang,
Sanh về Cực lạc Tây phương đã rồi.
Trong ao thất bảo hẳn hòi,
Bông sen thượng phẩm mình ngồi vào trong.
Nở ra thấy Phật kim dung,
Các ngôi Bồ -tát lại cùng thấy nhau.
Nghe xong tiếng pháp diệu mầu,
Phút đà liền đặng chứng vào vô sanh.
Phút đà hầu khắp quang minh,
Phật Ngài thụ ký cho mình xong xuôi.
Khi ta đặng thụ ký rồi,
Rõ ràng trí bốn, hẳn hòi thân ba.
Nhãn năm thông sáu những là,
Trăm ngàn vô lượng môn đà la ni.
Bao nhiêu công đức cũng thì,
Thảy đều thành tựu trong khi ấy rồi.
Rồi sau con mới phản hồi,
Lòng nương an dưỡng, thân lui Ta bà.
Đem thân vô số phân ra,
ứng trong thế giới khắp và mười phương.
Lấy trong thần lực chẳng lường,
Chước kia, phương nọ cứu đường chúng sanh.
Khiến đều lìa các nhiễm tình,
Mau mau đem đặng lòng thanh tịnh về.
Đồng sanh về cõi phương Tây,
Vào ngồi bất thối dựa kề ao sen.
Lớn như thế ấy một nguyền,
Kìa bầu thế giới, nọ miền chúng sanh. ‘
Nghiệp và phiền não minh minh,
Có bao nhiêu lại nguyện mình bấy nhiêu.
Nay xin lễ Phật nguyện đều,
Tu hành thí kẻ đắm xiêu hữu tình.
Bốn ơn đền trả đủ vành,
Cả trong ba cõi minh minh đều nhờ.
Biết bao pháp giới mờ mờ,
Chúng sanh chủng trí bây giờ đồng viên.

Tiểu Tịnh Độ Nguyện văn
(Bổn Diễn Ca của Bích Liên)

Một lòng quyết trở về Lạc quốc;
Đem mình nương đức Phật Di Đà.
Xin bưng đèn tịnh soi qua,
Nhớ lời từ thệ đắc ta với cùng.
Tôi nay chánh giữ một lòng,
Xưng danh hiệu Phật mà trông một bề.
Thiết tha vì đạo bồ đề,
Nên chi niệm Phật cầu về phương Tây.
Phật xưa lời thệ rõ ràng,
Rằng: “Như có kẻ thế gian đó mà.
Muốn sanh về cõi nước ta,
Hết lòng tin thiệt hay là ưa vui.
Và trong “thập niệm” hẳn hòi,
Bằng không sanh đặng ta lui bực hèn.
Bởi vì niệm Phật nhân duyên,
Đặng vào biển Phật thề nguyền ngày xưa.
Nương nhờ Phật lực sớm trưa,
Đã tiêu tội chướng, lại thừa thiện căn.
Đến khi gần xả báo thân,
Mình đã dự biết tới chừng nào đi.
Thân không bịnh khổ chút chi,
Lòng không tham tiếc sự gì thế gian.
ý không điên đảo trớ trang,
Như vào thiền định an nhàn thảnh thơi.
Phật cùng Bồ -tát các ngài,
Tay bưng một tọa kim đài rước ta.
Chừng trong một thí đâu xa,
Sanh về cực lạc, nở tòa bông sen.
Nở rồi thấy Phật dạy khuyên,
Phật thừa Phật huệ nghe liền mở ra.
Chúng sanh mấy lớp độ qua,
Bồ đề mấy nguyện cũng là đầy luôn.