KINH A DI ĐÀ DIỄN CA

Bài dâng hương
Lư hương vừa ngún hơi trầm,
Khói nghi ngút tỏa, thơm nồng nực huân:
Khắp pháp giới, kết tường vân;
Đông nhiều hội Phật, xa gần nghe hương.
Lòng thành mới thấu đạo trường,
Phật thân hiển hiện, Phật tường chứng tri.
Hương Vân Cái Bồ -tát ni,
Là Bồ -tát lớn, hội này dưng lên…

(Nam mô Bổn sư Thích -ca Mưu -ni Phật):
(Thích-ca họ, Mưu-ni tên, Phật kêu Thán Tử nóit ên kinh này.)

Khai kinh kệ
Không trên, rất thẳm pháp hay!
Trăm nghìn muôn kiếp khó thay gặp tầm!
Con nay đặng, thấy, nghe, cầm,
Nghĩa mầu của Phật, tụng thầm hiểu ghi.
(Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ -tát):
Cúi mong cả hội Liên Trì:
Phật cùng Bồ -tát các ngài chứng minh.
 “Phật thuyết A-di-đà kinh”,
Cưu Ma La Thập dịch thành chữ Nho.
A Nan kết tập nên pho,
Rằng: ta nghe Phật nói phô như vầy:
Như Lai Phật Tổ lúc này,
Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà;
Cách thành Vệ Xá không xa,
Là nơi Phật ở nói ra kinh này.
Tỳ Khâu đại chúng đông đầy,
Toàn là La Hán là thầy, chúng quen…
Đều thành bậc Trưởng lão tăng,
Như là: Thân Tử, Mụ Liên, Đầu Đà;
Ca Chiên Diên, Câu Si La,
Tinh Tú, Bàn Đặc hay Bàn Đà Ga;
Nan Đà với A Nan Đà,
La Vân, Phú Chướng, cùng là Ngưu Ty;
ứng Cúng, Ca Lưu Đà Di,
Kiếp Tân Na: vốn thông tri tinh cầu;
Thiện Dung vớ A Nâu Lâu,
Ma ha đệ tử theo hầu đồng nghe.
Cả hàng Bồ -tát theo kề;
Văn Thù Sư Lợi con về Pháp Vương.
Di Lặc là họ đã tường,
A Dậc Đa ấy tương đương danh đề,
Bất Hưu, Càn Đà Ha Đề,
Và Thường Tinh Tiến; mựa hề thối lui.
Thế, nhiều Bồ -tát các ngôi;
Chư Thiên, phàm, Thánh, Trời, người đều nghe.

Bấy giờ Phật đối đương ky,
Tưởng lão Xá Lợi Phất nề! nghe đây.
Kể từ kham nhẫn cõi này,
Cách mười muôn ức cõi Tây phương kìa;
Có cõi kia, ở tận bên:
Nước là Cực lạc, Phật tên Di Đà;
Hiện còn thuyết pháp tại tòa.
Này, Xá Lợi Phất sao là Lạc bang?
Quốc dân chẳng có khổ nàn,
Nên rằng Cực lạc: hưởng toàn phước vui!
Bảy hàng cây thẳng: ngang, xuôi,
Lan can, lưới võng bảy đôi bao trùm;
Mỗi hàng, mỗi lớp quanh chung,
Toàn là bảy báu giáp cùng bốn bên.
Nước dùng Cực lạc đặt tên:
Là công đức nọ, tạo nên vật này.
Lại nữa, nước kia vui vầy:
Ao xây bảy báu, nước đầy tám công;
Đa”y ao bằng cát vàng ròng,
Lộ bằng tứ bửu, đi vòng tứ bên.
Trong ao thường nở cửu liên:
Hoa phô chín phẩm, ánh riêng bốn màu;
Màu nào, tia nấy in nhau;
Như bánh xe lớn sạch làu thơm tho.
Nhà lầu, nhà gác nhỏ, to:
Trau giồi bảy báu, lô nhô mấy từng.
Trang nghiêm công đức bày trưng,
Nên rằng Cực lạc danh xưng nước nhà.
Dưới, trên trong nước Di Đà:
Trời liên miên nhạc, đất la liệt vàng.
Ngày, đêm gió cuốn hoa tàn;
Trời tuôn hoa mới cúng dàng Phật, Tăng.
Nhân dân rạng sáng lấy khăn,
Đựng hoa đem cúng Thánh Hiền phương xa:
Cả mười muôn ức Phật Đà,
Liền như một bữa ăn, đà về xơi (ăn);
Kinh hành xóc xáo thảnh thơi;
Nước vui là thế, chói ngời nên công…
Các chim tốt, đủ sắc lông:
Chim Thu, Keo Két, với Công, Hạc và.
Cọng Mạng, Ca Lăng Tần Dà,
Ngày đêm hòa nhã kêu ca pháp này:
Năm căn, năm lực kể bày,
Chánh đạo tám phẩm, giác chi bảy phần.
Nghe rồi ai cũng ân cần,
Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng tu hành.
Chớ rằng chim bởi tội sanh,
Vì sao? Nước ấy không danh tam đồ;
 “Danh” đã không, “thật” có mô!?
Nguyên do Phật hóa: khắp phô pháp mầu!
Này người! Cõi Phật cả bầu:
Gió rung cây báu, lưới châu rập rờn;
Hay như: đánh nhạc khảy đờn,
Trăm ngàn: món, nhịp, một cơn họa vần.
Nghe rồi khoan khoái tâm thần,
Niệm xưng Tam Bảo, hơn gần bát âm.
Vẻ vang công đức chí lăm,
Nên danh Cực lạc, nguyện thâm tổ thành.
Với quốc danh, đã hiểu qua;
Này Xá Lợi Phất! Sao A Di Đà?
Hào quang của Phật phóng ra:
Dọc soi ba giới, ngang lòa mười phương;
Bởi vì sáng suốt không lường,
Cảnh không chướng ngại, danh tường A Di.
Phật cùng dân chúng sống hoài,
Nên rằng “Vô Lượng Thọ” hay “Di Đà”.
Ngài từ thành Phật lâu xa,
Đến nay mười kiếp, còn là vô biên.
Đệ tử Ngài: hàng Thinh văn,
Đều là La hán không ngằn số đông,
Dễ gì tính kể cho thông,
Bồ-tát cũng thế, quá đông, khôn lường.
Thế là “bửu bối; người hiền”,
Nên danh Cực lạc là miền trang nghiêm.
Chúng sanh niệm Phật cổ kim,
Đều sanh về đó, tiến thêm “chẳng lùi”;
Phần nhiều “một kiếp nữa thôi,
Bổ đi các xứ lên ngôi Phật đà”;
Số này đông lắm thậm đa,
Vô biên vô lượng khó mà tính xong!
Các người nghe, nên bằng lòng,
Mau mau phát nguyện, mong mong sanh về…,
Là chi? Bởi được gần kề,
Các người “Thượng Thiện” hội hè một nơi.
Vì tu “niệm Phật” không rời,
Là nhiều: “phước đức, tuyệt vời thiện căn”;
Dễ thường tu các nhân duyên,
Là “ít phước… thiện…” sanh lên đặng nào!
Vậy khuyên nam, nữ, đồng bào,
 “Trì danh niệm Phật” dầu sao, niệm hoài!
Một, hai, ba đến bảy ngày,
 “Nhứt tâm bất loạn” niệm rày thành công.
Đến khi người ấy mạng chung,
Di Đà, Thánh chúng rất đông hiện tiền;
Bởi câu “niệm Phật” rất thiêng,
Nên người tỉnh táo chẳng điên đảo gì;
Thánh Hiền tiếp dẫn, tức thì,
Sanh về nước Phật, Liên Trì hóa thân.
Này người! Ta đã phân trần;
Thấy vì lợi ấy, lại phân lời này:
 “Trì danh” là phép rất hay!
Ai tu cũng đặng, bảy ngày mà thôi;
Vậy thì, ai nấy nghe rồi,
ân cần “phát nguyện” lần hồi vãng sanh.
Quốc danh, Phật hiệu đã minh;
Nay ta xưng tụng phẩm bình công phu.
A Di Đà Phật khỏe tu,
Lắm công nhiều đức khó trù tính toan.
Chẳng riêng ta khó nghĩ bàn;
Đến như chư Phật sáu phương, như là:

Đông Phương: Bất Động bụt đà,
Hay A Súc Bệ cũng là tên ghi;
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật và ngài Diệu âm…
Bên phương Nam: Nhật Nguyệt Đăng:
Đèn từ sáng mãi như trăng, mặt trời;
Danh Văn Quang, tiếng khắp nơi;
Đại Diệm Kiên: trí sáng ngời, đảm đang;
Tu Di Đăng: trí sáng cao;
Vô Lượng Tinh Tiến: cần lao không lường…
ở bên thế giới Tây phương,
Có: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Tướng và
Vô Lượng Tràng: thắng quân ma;
Đại Quang Phật với bù đà Đại Minh;
Bửu Tướng Phật; tốt thân hình;
Tịnh Quang Phật: đức, trí thanh khác thường v.v.
Bên Bắc phương, có: Diệm Kiên;
Tối Thắng âm; tiếng hơn Tiên điểu cà,
Nan Thư, hay Nan Trở, là:
Không chi phá hoại, như tòa kim cang;
Nhật Sanh là: ánh mọc sang,
Phật ngài xuất hiện huy hoàng như kia;
Võng minh: lưới sáng nhiều tia,
Trí ngài lẫn suốt ví kìa Để Châu v.v.
Phương dưới sâu, có Phật là:
Sư tử: uy mãnh, Thiên Ma kinh hồn;
Danh Vắng là: tiếng khắp đồn;
Danh Quang; tên tuổi rở cồn gần xa;
Cao sâu là pháp; Đạt Ma;
Pháp Tràng, Trì Pháp phép ra: phướng, gìn v.v.
Cả trong thế giới phương trên:
Phạm âm, tiếng Phật nghe, tin không lầm;
Tú Vương: đức Phật chiếu lâm,
Như sao Bắc Đẩu, trăng rằm trung thiên;
Phật tên Hương Thượng, kinh biên:
Thượng thừa năm phận…đầu chiên…sáu thù;
Hương Quang: đức Phật rất mầu,
Thơm tho tỷ thức, sáng làu nhãn căn;
Đại Diệm Kiên, trí đảm đang,
Lửa hừng đuốc huệ, vai mang việc nhà;
Phật tên Tạp Sắc Bửu Hoa,
Nghiêm thân: muôn hạnh, chói lòa ba thân;
Ta La Thụ Vương: chắc gân,
Như cây cao cả trên dân vững vàng;
Bửu Hoa đức Phật vẻ vang;
Kiến Nhứt Thế Nghĩa: biết vàng muôn cầu;
Như Tu Di Sơn: báu mầu.
Đức Phật chót đầu, thể núi tột cao v.v.
Cả sáu phương, Phật xiết bao:
Hằng hà sa số, phương nào cũng như…;
Mỗi phương nhiều đức Phật từ,
Mỗi nước mỗi Phật hiện chừ hóa duyên:
Lưỡi Từ bủa khắp đại thiên,
Thốt lời thành thật mà “khuyên bảo” rằng:
Chúng sanh ngươi phải “tin” kinh,
Chư Phật hộ niệm ngợi khen khôn cùng!

à Thân Tử! Có biết không?
 “Chư Phật hộ niệm kinh” dùng ý chi?
Là: như nam tử, nữ nhi,
Nghe tên: “kinh…, Phật” thụ trì, xưng danh;
Thế là gái tín, trai lành,
Được ”…Phật hộ niệm” tiến nhanh ”…bồ đề”.
Thế nên người với chúng nề!
 “Nghe” theo chư Phật, “tin” về lời ta.
Đối với nước Phật Di Đà:
Hoặc ai nguyện: trước, nay…và, nguyện sau;
Chúng kia tất cả với nhau,
Đều được “bất thối bực cao bồ đề”;
Thỉ, chung đều được sanh về,
Nguyện: trước sanh trước… sau về với sau.
Vậy “khuyên” Thiện, Tín mau mau:
Phát “mau” nguyện đó, sanh “mau” nước kìa.
Đối sáu phương, chư Phật kia,
Ta nay khen tặng A Di các ngài:
Ngài nào cũng vẫn sống dai,
Lắm công, nhiều đức, khó suy khôn bàn!
Đối ta, chư Phật khen, than,
Cũng công đức đó, mà ban lời này:
 “Đức Phật Thích Ca Mưu Ni,
Hay làm được việc cực kỳ gian nan!
Ta Bà là cõi khốn nàn!
1′) Kiếp đời tăng giảm, thời gian hoại thành;
2′) Nhân sanh kiến thức vô minh:
Tà kiến điên đảo, tạo thành trược ô;
3′) Tham, sân phiền não hồ đồ:
Rủi ro tám nạn, vập vồ ba tai;
4′) Chúng sanh động vật hình hài:
Thân mang máu mủ, tâm say vía hồn;
5′) Trăm năm sanh mạng nan tồn:
Chết mang mến nghiệp, sống dồn dập khiên!
ở trong năm trọc chuân chuyên!
Rán tu thành Phật, nên khen tặng Ngài.
Đã đành “tu, chúng” khó thay!
Lại vì chúng ấy, nói ngay kinh này;
Khổ vì chúng khó nghe hoài,
Khuyên cho tín nguyện, chẳng nài từ nan!”
Thế, lời chư Phật khen ban;
Người nay phải biết, ta đang vẫn làm:
Hi sanh với việc nan kham!
Vì: ngũ ác thế, đắc tam bồ đề;
Khổ: vì “tu, chứng” đã ghê!
Lại vì “thuyết pháp” ê chề! người ơi!
*
Kinh này Phật thuyết đã rồi;
Các ngài Thân Tử… các ngôi pháp Thần;
Bí Xu, Bồ-tát, thế nhân;
Trời: vua Đế Thích…Quỉ Thần: Tu La…;
Chúng: nghe, tín, nguyện, truyền ra;
Hoan nghinh bái tạ Phật đà, rồi lui.
(Kinh A-di-đà diễn ca rồi; kế tụng chú tâm kinh sau đây).

Chú Tâm Kinh
Chú Tâm Kinh nhân danh Bát nhã:
Trí huệ là lòng dạ bên kia…
Đức Quan Tự Tại xưa kia,
Khỏi đây mê hoặc, đến kìa giác minh,
Xét soi mình không hình năm uẩn;
Tất cả đều độ những khổ nguy,
Bảo: ông Xá Lợi Tử ni!
 “Không” chẳng lạ “sắc”, sắc thì như không;
 “Sắc” tức “không”, không đồng tức sắc;
 “Thù, tưởng, hành, thức” ắt cũng như…
Này ông: Thu Tử! Biết ư?
Tâm là “không tướng” của chư pháp trần;
Chẳng sanh tân, không cần diệc cựu;
Chả sạch, dơ, hà hữu bớt thêm.
Thế nên “không” ấy vẫn êm;
Vắng hoe năm uẩn, im lìm sáu căn;
 “Sáu trần” ngăn: không lăng xăng cảnh:
 “Sáu giới” hay thức tánh vắng tanh;
Không mười hai pháp “duyên sanh”…
Cũng không “không” nữa, hết sanh “sanh” rồi;
Không ngược, xuôi; lôi thôi nhân quả:
Bốn “đế” không chơn giả, đạo đời;
Không “khôn” không “đắc” tuyệt vời;
Vì “không tướng” ấy đắc nơi, chỗ nào?
Quả lớn lao: Biết bao Bồ -tát,
Đến bờ kia, y Bát nhã đây:
Tâm không ngần ngại thế nầy;
Không hề khủng bố, có gì đảo điên;
Hết thụy miên, não, phiền, mộng, tưởng,
Sẽ tột cùng “vô tướng” Niết bàn.
Ba đời chư Phật hoàn toàn:
Cũng y “không tướng” đã sang giác ngàn;
Rất vẻ vang cao sang vô thượng;
Quả Bồ đề đã hưởng đã thăng,
Thế thì, ai nấy biết rằng:
 “Trí” là mẹ Phật, “Tâm” căn bản người.
 “Trí Tâm” người, vẹn mười sáng suốt:
Trăm phần trăm chính thuộc tâm kinh.
Chú này hàm có bốn danh:
 “Đại Thần” là nhứt, “đại minh” là nhì,
Thứ ba thì tên ghi “Vô Thượng”.
Và “Vô đẳng đẳng”, lượng thứ tư,
Bao nhiêu tội khổ đều trừ;
Vì tâm “Chân Thực bất hư” vọng mà!
 “…Chú Ba la mật đa” hiển thuyết;
Tiếp diệu huyền “mật thuyết” bốn câu:
 “Yết đế yết đế” câu đầu,
 “Ba la yết đế” là câu hai, và,
“Ba la tăng yết đế” câu ba,
Với “bồ đề tát bà ha” bốn rồi.
Bài Tán Lễ Tây Phương
Tán lễ Tây phương
Kính lạy phương Tây…;
Cực lạc thanh hương
Cõi tịnh vui vầy:
Liên trì cửu phẩm hoa hương
Hoa sen chín phẩm thơm lây;
Bửu thụ thành hàng
Vật báu hàng cây;
Thường văn thiên nhạc kiên tương
Trời thường trỗi nhạc vang dầy.
Di Đà Phật
Hào quang Phật…;
Đại phóng từ quang
ánh sáng lớn thay!
Hóa đạo chúng sanh vô lượng.
Chúng loại không lường độ hoài.
Giáng các tường
Xuống điềm hay…
Hiện tiền chúng đẳng ca dương
Bây giờ đạo chúng khen bày:
Nguyện sanh an dường
Xin sang nước Thầy;
Hiện tiền chúng đẳng ca dương
Bây giờ đạo chúng khen bày:
Đồng sanh an dường
Đồng sang nước Thầy.

Bài Tán Lễ Thích Tông
Tán lễ Thích Tông
Kính lạy Thích -ca:
Vô thượng năng nhân
Tột bực Bu -đa;
Tăng kỳ cửu viễn tu nhơn
Nhân tu nhiều kiếp lâu xa;
Đẩu suất giáng thân
Xuống giữa Ta -bà;
Trường từ bửu vị kim luân.
Hi sanh ngôi báu nước nhà;
Bồ đề tọa
Ngồi gốc da…;
Đại phá Ma quân
Chiến thắng quân ma!
Nhứt đổ minh tinh đạo thành
Đắc đạo sao mai sáng lòa.
Giáng pháp lâm
Mưa pháp sa.
Tam thừa chúng đẳng qui tâm
Theo về xe pháp cả ba:
Vô sanh dĩ chúng.
Đã chứng Phật -đà.
Hiện tiền chúng đẳng qui tâm
Hiện chừ chúng đối trước tòa:
Vô sanh tốc chứng.
Mau chứng Phật đà.

Bài phục nguyện
(Cuộc lễ “Chứng Hôn”, thụ qui giái, thuyết pháp rồi)

Phục Nguyện
Lòng phát minh Ba Báu, căn lành nảy nở bởi trồng gieo;
Giái tiến thủ năm điều, quả phước kết tinh nhờ bón tưới.
Tu Cư Sĩ tại gia trên, dưới; nào làm quan, làm quân, làm chủ, làm tớ, đều thiệt hành đạo đức công dân;
Học đại thừa nhập thế xa, gần: hoặc đi cày, đi dạy, đi thợ, đi buôn, đồng hưởng thụ lợi quyền bình đẳng.

Phổ Nguyện
Cả gia đình “cọng” lạc ưu thắng;
Cả quốc tế “cọng” hòa phú cường;
Cả nhân loại “cọng” nghiệp thuần lương;
Cả chúng sanh “cọng” thành Phật đạo.
Nam mô Vô Lượng Thọ Tôn Phật chứng minh.
Bài phục nguyện
(Hằng ngày hôm sớm tụng niệm rồi, nên dùng)

Phục Nguyện
Cây Bồ -đề cao sồ sộ: sà sà che mát cả Nhân Thiên;
Huê ưu bát nở liền liền: rực rỡ thơm tho cùng thế giới.
Nào là bổn đạo: xóm làng, kẻ qua, người lại, đều nhờ mưa pháp tưới căn lành;
Nào là Tổ Tôn: nội ngoại, sống khôn, thác linh, cùng đến ao sen vào Hội Thánh.
Xin bạn lành dạy nhau cho cứu cánh;
Đem pháp Phật truyền bá cho phổ thông.
Phàm ở trong thương, sĩ, công, nông;
Đều tiến lên Thánh, Hiền, Tiên, Phật.

Phổ Nguyện
Trên Trời dưới đất;
Trong Đạo ngoài đời;
Tất cả mọi nơi;
Đều thành Phật đạo.
Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo chứng minh.

Lại bài nữa
Phục Nguyện:
Đất rêm sáu chủng;
Trời rải bốn hoa.
Mây từ mưa pháp mát người ta;
Quả phúc căn lành nhờ Phật đọ:
Cả thiên hạ bắc, nam ba bộ, nước nhà giàu mạnh.
Toàn địa cầu thế giới năm châu, quốc tế hòa bình.
Phổ Nguyện:
Tăng Dà thường truyền bá:
Cư Sĩ vẫn hộ trì;
Trăm họ đều qui y;
Muôn loài thành Phật đạo.
Nam mô Thiên Địa Nhân luân vương Bồ -tát chứng minh.
Sanh nhựt chúc thọ
Phục Nguyện
Đang thư tăng toán;
Ngọc lịch thiêm linh.
Niên chu hoa giáp chi khánh sanh: hiến lục cúng, tấn lục tuần chi chúc thọ; thế diễn tài định chi thạnh phó: suất lục thân, hành lục độ chi tu nhan.
Trừng lục căn lục thức dĩ thuần chân;
Tịnh lục niệm lục tâm chi thành thật.
Phổ Nguyện
Lục mạo điệt vu Thung Đường Huyên thất; lục kỳ hi ư quế tử lan tôn. Phổ lục châu thọ khảo ấm gia môn; biến lục thú lão lai thành Phật đạo.
Nam mô Tăng diên thọ Bồ -tát chứng minh.
]
(Lại bài nữa)
Phục Nguyện
Phước Trời dư dũ, đức báo sanh ban bố khắp năm châu;
Phép Phật nhiệm mầu, ơn giác thế thi hành cùng ba giới.
Kìa ngũ phúc còn truyền vạn đại;
Nọ tam đa vẫn để thiên thu.
Đành rằng kiếp trước đã khéo tu;
Nên được ngày nay mới trọn hưởng.
Phổ Nguyện
Dười chúc thọ, thọ tăng vô lượng;
Trên tu phước, phước tích hữu dư.
Thừa lục tuần vẹn việc công, tu;
Thêm trăm tuổi tù, tha thành Phật đạo.
Nam mô Tiêu Tai, Tăng Phước Thọ Bồ -tát chứng minh.
Phục nguyện tại huyệt đường
Phục Nguyện
Tâm hàm vũ trụ;
Đạo quán cổ kim.
Kìa bể dâu chi sá cuộc nổi chìm;
Nọ sống thác quản bao đời thay đổi.
Thân tứ đại đã quay cuồng theo vận hội; thì, từ đây, có chiếu đất, có màn trời, có trăng trong, có gió mát, yên một giấc biệt mấy nghìn thu.
Tâm nhất chơn vẫn toàn vẹn đủ công phu, thì trong đó, sẵn tâm kinh, sẵn tánh Phật, sẵn cõi tịnh, sẵm đài vàng, vui lắm điều sống vô lượng kiếp.
Phổ Nguyện
 “Ngưu miên” an giấc Điệp
“Lân chỉ” sống tuổi Qui
Đồng nhau niệm A Di
Đồng nhau thành Phật đạo.
Nam mô Tịnh Độ Phẩm Bồ -tát chứng minh.

Phương danh Quí vị ấn tống
Phạm Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ba, Trần Văn Hồ, Nguyễn Thị Tiến, Thiên Bảo Đường, Ngô Xuân Quang, Ngô Hữu Toàn, Hồ Văn Ngọc, Trần Nga, Cô Bảy, Lâm Thị Năm, Cô Ba, Thái Dương, Trương Thái Tín, Cô Tám, Cô Lê Thị Lành, Diệu Liên, Võ Thị Thọ, Phan Văn Huy, Cao Thị Vân, Du Thị Có, Trần Tuyết Nhung, Trần Thị Khui, Trần Thị Ngọ, Trần Thị Sanh, Lư Văn Bộ, Phạm Thị Sông, Lê Thị Dây, Lưu Thị Nhì, Đoàn Thị Sanh, Ngô Văn Phát, Nghi Thiện Diệu, Chía, Nghê Thị Dung, Nguyễn Thị Yến, Lê Thị Hà, Diệu Thước, Diệu Trí, Huỳnh Hoa, Nguyễn Giác, Kim, Trần Thị Tần, Ngô Thị Sảnh, Tô Noa, Yến Thị Trục, Diệu Phước, Nguyễn Thị Hai, Mai Thọ Truyền, Bích, Nghệ hợi, Nguyễn Sông, Cô giáo ở nhà Cô Tiến, Lê Lâm, Lê Văn Quý, Diệu Nguyễn Ba Trà, Diệu Thanh, Phan Văn Mẹt, Cao Văn Thành, Nguyễn Ngô, Từ Thanh, Diệu, Phan Thị Hiếu, Trần Thị Thanh, Trần Thị Liên, Cao Tấn Trí, Phan Quan Nhật, Khương Thị Thanh, Chú Bảy cyclo, Lê Văn Thuấn, Trường Tiền Kỷ, Nguyễn Ngọc Lầu, Trần Thị Nên, Giáo Châu, Bùi Văn Bông, Trần Thị Màn, Trần Văn Dắt, Bà Phủ Ngởi, Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Năm, Nguyễn Hữu Thời, Huỳnh Văn Hơn, Trần Văn Ngà, Nguyễn Văn Chức, Lý Cát, Phạm Công Huệ, Phan Văn Phước, Đào Kim Ngọc, Đào Công Cường, Nguyễn Phi Điệp, Phan Trung Hàm, Dương Văn Hinh, Trần Louis, Sương Quần, Thời, Tinh Hóa, Phạm Văn Ngọc, Nguyễn Thị Ba, Trần Văn Tuyên, Vĩnh Phước, Giáo Nhơn, Phạm Văn Phương, Nguyễn Thị Kỳ, Lý Lạc Thể.