ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

Phẩm 4: TRƯỜNG THỌ

Phần 1

“Phật lại bảo các Tỳ-kheo: Các thầy đối với giới, luật” cho đến “Như lai sẽ giảng nói cho các thầy nghe để tâm các thầy được vui mừng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đức Phật muốn cho đại chúng hỏi về nhân sống lâu. Sống lâu vốn là vào sinh tử, bến tốt lành cứu giúp chúng sinh, lấy tâm từ làm gốc. Từ là cứu giúp, không đặt ra giới luật, khiến chúng sinh không gây ra các điều xấu ác, nhưng khiến cho thực hành mọi việc lành đó là cùng cực. Đã đặt ra giới luật, hễ có tội, thì phải bị trị, tức sự giống nhau không có lòng từ, nói là không có từ, nghĩa là không phải xuất phát từ nghi ngờ đối với giới luật, chính là giải thích căn bản của tuổi thọ, không thể không hỏi.

Hỏi về gốc của tuổi thọ là sự lý của Bồ-tát, chẳng phải là nỗi do dự giả dối mà hàng Thanh văn đã thích ứng, cần phải tìm hiểu!”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong đây nói, hoặc là việc tu hành của Tỳ-kheo, cho nên khuyên riêng: “Về giới luật, nếu các thầy còn có điều gì nghi ngờ, cho đến “Chớ cho rằng Như lai chỉ tu bản tánh vắng lặng của các pháp”. Đầu tiên, Đức Phật mở bày tông chỉ, nói bố thí là nhân sống lâu. Thuần-đà lấy việc hộ pháp làm nhân.Trong tông chỉ rộng, dùng ba pháp tu làm nhân. Dù nói ba nhân, nhưng chưa giải thích căn kẽ về gốc sống lâu. Nay, trước chỉ nêu giới, sau nêu trí, lược chỉ nêu điểm bắt đầu, sau cùng, để nói tất cả muôn hạnh đều là nhân sống lâu. Triển khai câu hỏi về tông chỉ của các vị Tỳ-kheo kia, nên ở đây, trước chỉ nêu giới luật.”

Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Được nhân, quả trước kia là giải thích rõ về đầu mối tông chỉ của hai giáo. Nêu sơ lược từ trước đến nay, nêu cảnh để khuyên đại chúng nên hỏi, chỉ vì lý đã nêu ra là rất sâu sắc, nhiệm mầu, người Nhị thừa dù cho có hoài nghi, lo nghĩ cũng

không sánh bằng, nên chưa thể nêu lên câu hỏi. Đức Phật biết họ không thể, nên lại khuyên nên hỏi, để họ suy tìm có sự tồn tại.

Sở dĩ chỉ nêu giới luật để cho đại chúng đặt câu hỏi, vì giới luật là hạnh thiết yếu của người Thanh văn, là nền tảng đầu tiên của người vào đạo.

Lại, một nghĩa là người Thanh văn không nghi ngờ giới, không hướng về Đức Phật, nhưng nghi ngờ đối với giới, chưa hẳn là Thường.”

Lại, một nghĩa nữa là: “Dù cho người Thanh văn có nghĩ đến quả thường đi nữa, cũng chưa biết được giới này và giới xưa khác nhau thế nào? Đã ôm ấp nỗi nghi ngờ này, nghi thì nên hỏi.”

Pháp Liên ghi lời của Tăng Tông rằng: “Phẩm chỉ nêu cảnh tuệ của “Không”, bất “Không”, để khuyên nêu câu hỏi. Nay, nêu ra nhân muôn hạnh của giới luật, để khuyến hỏi. Nếu nhân không hiểu rõ thì quả cũng không rốt ráo, mà nhân thì có giới, định, tuệ.

Cho nên hỏi riêng về giới luật, vì giới là đối tượng hành trì của Thanh văn. Do luật nghi giới giúp đỡ nên được giới định, được “Giới đạo cộng”.

Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Tăng Tông rằng: “Khuyên Tỳkheo thưa hỏi, gồm có ba lớp: Phẩm trước, dừng lại ở Ai Thán kia, tức là khuyến khích để cho hỏi, nhân tu đến đây. Nay, lớp thứ hai này lại khuyên. Sắp mở rộng về chỉ thú thường, mà vì giới là gốc của muôn điều lành, nên chỉ nêu giới để khuyên thưa hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn thứ tư, thúc giục chúng thưa hỏi. Giới là gốc của Thanh văn, cho nên chỉ nêu giới mà khuyên thưa hỏi.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Trên đây nêu các pháp để khuyên, e rằng các Tỳ-kheo kiêng sợ sự sâu sắc của lý thường, nên không dám nêu câu hỏi. Nay, chỉ nêu giới sự thực hành của thường, y cứ ở tình ý gần để khuyên.

Pháp sư Minh Tuấn nói: “Nhân thọ cúng dường trước kia, để mở bày tông chỉ thường, chỉ có Thuần-đà, lợi căn hễ nghe liền tỏ ngộ. Đặt ra năm lượt hỏi han, vấn nạn, để nói về pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát, tức được nói về lần nữa từ lâu là ruộng thường. Nhưng vì chỉ thú về thường u huyền, mầu nhiệm, nên phải giải thích rộng. Do đại chúng bi ai sâu đậm, liền quên thưa hỏi để được giải quyết nghi vấn, vẫn thường thiết tha thỉnh Phật ở đời, bèn sinh ra biện luận một bên. Vì cho nên Phật phát ra ánh sáng để thôi thúc cúng dường, để nói về lần nữa về nghĩa tông chỉ. Lại, do Thuần-đà đã hiểu rõ hai chỉ thú của dấu vết xưa, nên nói ăn không phải thật, chẳng lẽ thọ diệt là chân hay sao? Nên sau khi Thuần-đà ra đi, đại chúng đều im lặng.

Bấy giờ, mặt đất rung chuyển, Đức Phật cho đại chúng được nêu câu hỏi hàng đầu, mà rất xót xa lưu luyến. Hiểu rõ không có hỏi han thưa thỉnh, chỉ tỏ bày sâu sắc với nỗi khổ bi lụy thảm thiết. Ví dụ sắm sửa cúng phẩm, vừa kính mến vừa chê trách.

Khi ấy, Đức Thế tôn nhân hai bài kệ để ức chế tâm trạng buồn thảm của đại chúng, chỉ nêu tóm tắt, khuyên đại chúng thưa hỏi, chỉ nêu pháp môn, việc khuyên hỏi đều là chỉ thú của quả. Đức Phật quán tâm của đại chúng vẫn còn mê, bèn nói ba đức Niết-bàn, chứng được niếtbàn. Tỳ-kheo lại chấp giáo xưa, lại hết lòng thỉnh Đức Phật trụ ở đời. Phật dùng pháp tu đắc thắng để loại bỏ chấp. Dùng ví dụ thầy thuốc để hội giáo. Với nỗi khổ khóc than bi ai để thỉnh cầu Đức Phật trụ ở đời. Vì nỗi phân vân của đại chúng vừa chấm dứt, cho nên Đức Phật lược chỉ nêu nhân thường trụ, là giới, định, tuệ, nhằm khuyên đại chúng hãy thưa hỏi. Đây là lời khuyên thứ hai.

Sở dĩ trước chỉ nêu giới là vì Thập địa lấy đại bi làm đầu, năm giới lấy không giết hại làm trước. Dưới đây đáp về nhân sống lâu: “Đấng đại từ, đại bi truyền trao giới không giết hại, là nhân sống lâu, ưu tiên ở giới. Cho nên trước, Đức Phật khuyên nên hỏi.”

“Như lai đã tu học thông suốt tất cả các pháp với bản tánh vắng lặng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là nhân của trí.”

Pháp sư Tăng Tông nói Đức Như lai biết rõ bản tánh các pháp. Đã được gốc thì nắm ngọn, sẽ có đức rửa sạch nỗi hoài nghi, nên khuyên cứ hỏi.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xưa, nói giữ giới được quả, chỉ được đoạn diệt vô vi không!” ý hiện nay của Đức Phật: “Xưa Như lai đã nói đoạn diệt vô vi không, chính là nhân của ngôi nhà thường trụ ngày nay. Về nghĩa này các thầy nên nghi ngờ, hãy theo đúng căn cơ mà hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói nêu đức bên trong của Phật.

Pháp sư Đạo Tuệ nói: “Trước, Đức Phật đã tu hành, được đến chỗ thường. Nay, chẳng lẽ ông được không tu các hạnh như giới v.v… ư?”

Minh Tuấn bàn: “Muôn hạnh, chung quy lấy giới, định, tuệ làm gốc. Câu trước chỉ nêu giới, câu này chỉ nêu định tuệ, bản tánh là không, nghĩa là cảnh của tuệ. Tịch là định. Văn dưới nói: “Tỳ-kheo liền nói lại ba chỉ thú này rằng không thể nghĩ bàn.”

“Nầy các Tỳ kheo các thầy chớ nghĩ rằng, Như lai chỉ tu các pháp bản tánh vắng lặng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói Muôn hạnh đều là nhân.

Pháp sư Tăng Tông nói “Không” chẳng khác xưa, e rằng nỗi nghi ngờ của các Tỳ-kheo kia chấm dứt, lại nêu, bất không, phát ra câu hỏi kia.”

“Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo. Nếu đối với giới luật, có điều gì nghi ngờ, các thầy nên hỏi.”

“Các Tỳ-kheo bạch Phật rằng” cho đến “không có trí tuệ để hỏi đạo Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả Phật sâu xa, mầu nhiệm, trí của chúng con nhỏ nhoi, nông cạn, không thể hỏi. Dạy bảo tức là giới luật.”

Minh Tuấn nói: “Giải thích lý do không thể hỏi, tức lãnh hội ba chỉ thú trên, đều không thể nghĩ bàn. Cảnh giới: Tức chỉ nêu tánh không ở trên. Các định: Tức nêu lên nghĩa vắng lặng ở trên. Dạy bảo: Tức là nói giới luật trên.”

“Bạch Đức Thế tôn! Ví như ông lão thọ một trăm hai mươi tuổi” cho đến “Đối với các giới luật sẽ hỏi về điều gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Như lai bảo nên hỏi, tất nhiên là muốn lưu thông, mà các Thanh văn lại không trụ, có ba lý do:

  1. Vì trí nông cạn.
  2. Vì tuổi thọ ngắn.
  3. Không có quyến thuộc.

Vì thế, nên không thể che chở giữ gìn chánh pháp.”

“Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay, các thầy” cho đến “Có các nghi ngờ, cho phép được hỏi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tỳ-kheo ngỏ lời, chưa có đối tượng để tìm cầu. Vì muốn cho các Tỳ-kheo tìm cầu các Bồ-tát, cho nên lại răn bảo.”

“Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bấy giờ, các Thanh văn ngồi yên lặng.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thấy lời lẽ của mình không kham, bèn tiến cử người có khả năng.”

Pháp sư Tuệ đản nói: “Trước, ý khuyên hỏi, muốn cho các Tỳkheo dùng ví dụ để tự bày tỏ. Sau, ý khuyên nên hỏi, khiến cho tìm cầu người có khả năng là Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại sĩ ngồi trong đây, sinh hiểu biết của phẩm hạ, về sau, lại sinh kiến giải của phẩm trung, thượng, cho nên suy cử.

Hai mươi lăm tuổi, là người trí lực mạnh mẽ, nhạy bén, hiểu biết thường đầy đủ, dụ cho sự tốt đẹp, tu đủ muôn điều lành, dụ cho nhiều pháp tài. Nhờ hiểu về thường của phẩm mầu nhiệm quá khứ, nên sinh hiểu biết hiện tại, dụ cho cha mẹ. Do hiểu biết phẩm trung ở hiện tại, nên sinh hiểu biết phẩm thượng ở vị lai, dụ cho vợ con. Mỗi phẩm đều có chủng loại, dụ cho bà con giòng họ thân thuộc, vì chung một hiểu biết, nên nói “đều tồn tại”. Như lai dụ cho người trí. Lý thường dụ cho vàng, báu. Văn ở dưới nói: “Niệm niệm diệt, dụ cho bệnh nặng, qua đời, cảm thắng giải sâu, vì dạy quyến thuộc gia đình. Do hiểu biết tồn tại, nên về lý được sáng tỏ, về nghĩa nói là được trở lại.”

“Bấy giờ, Đức Phật khen các Tỳ-kheo” cho đến “Để cho pháp mầu nhiệm này được ở lâu trên đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm La-hán, là ít muốn, biết đủ. Do hai duyên này, nghĩa là người Thanh văn không hội đủ ba việc trên, Bồ-tát có đủ ba việc.”

Pháp sư Đàm Tế nói: “Do hai duyên này:

  1. Vì người Thanh văn không có quyến thuộc.
  2. Vì Bồ-tát có nhiều quyến thuộc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “có hai nhân duyên:

  1. Khéo léo hay hỏi đáp, hiện tại có lợi ích.
  2. Vì khiến ở đời lâu, vị lai có lợi ích”.

Pháp sư Tuệ Đản: “Có hai nhân duyên:

  1. Vì có thể hỏi.
  2. Vì có thể nói.”

Minh Tuấn nói có: “Hai lý do:

  1. Có khả năng làm cho pháp bảo được ở đời lâu.
  2. Làm lợi ích, yên vui cho chúng sinh.”

“Đức Phật bảo toàn thể đại chúng” cho đến “Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mạng sống lâu là quả cùng cực. Năm giới, ba quy y là bắt đầu của nhân. Chỉ nêu nhân, quả để khuyên.”

Minh Tuấn nói: “Phẩm trước khuyên hỏi về “Không”, bất không v.v… là chỉ nêu riêng về quả, mà đầu tiên của phẩm này lại chủ trương giới, định, tuệ là chỉ nêu riêng về nhân. Nay nêu hoặc năm giới, hoặc ba quy y là nêu cả nhân, quả. Giới là gốc của muôn hạnh. Quy là nhất thể Tam bảo.

Dưới đây, là phẩm Nhập Đại Chúng Vấn, là đoạn hai trong nói lược, tức lấy hỏi, đáp làm hai lượt. Trong phần hỏi có hai lớp:

  1. Vì hỏi dần, tức văn xuôi.
  2. Chính là đang hỏi, tức là kệ.Trong văn xuôi có bốn lượt:
  1. Đức Phật dạy bảo khắp.
  2. Tôn giả Ca-diếp vâng lời Phật dạy.
  3. Phật liền chấp nhận.
  4. Ngài Ca-diếp phát ra ánh sáng. Đây là câu hỏi thứ nhất.”

“Bấy giờ, trong đại chúng có một vị Đại Bồ-tát tuổi còn nhỏ” cho đến “Nếu Đức Như lai cho phép, con mới dám hỏi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp tự nghi ngờ, dù được xếp vào hàng đại chúng, nhưng vẫn sợ rằng, mình không phải là người thích ứng với lời Đức Phật đã dạy răn, nên có lời thưa hỏi.”

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri” cho đến “sẽ giải quyết điều nghi ngờ của ông, để ông được vui mừng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ nêu ba danh hiệu Phật, để nói Đức Phật chẳng có pháp nào mà Ngài không biết. Có hỏi, đều có khả năng đáp.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Và nhân gốc lành oai đức của đại chúng, mà thưa hỏi ít điều thôi.”

Minh Tuấn nói: “Lời khiêm nhường phát ra ánh sáng để vâng chỉ.”

“Bồ-tát Ca-diếp ở trước Phật nói kệ hỏi rằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, thứ hai là phần thưa hỏi. Gồm có ba mươi bốn câu hỏi: có bốn đoạn: Đoạn thứ nhất là lược, đoạn thứ hai là rộng, đoạn thứ ba là khuyên tin, đoạn thứ tư là hỏi về tu hành. Trong đoạn một có bốn câu hỏi:

Hai câu đầu hỏi về quả, câu thứ ba hỏi về nhân, câu thứ tư hỏi về tên Kinh và công đức truyền bá Kinh. Thể Kinh đã khắp, gọi là rốt ráo bờ bên kia.

Trong đoạn thứ hai có mười sáu câu hỏi: Từ “Mở bày mầu nhiệm, sâu kín” cho đến “Thiên, ý, thọ”. Trong đây, nói rộng có bốn lớp: Một câu hỏi đầu, nói rộng về quả. Kế là, từ “Từ được rộng lớn v.v…” v.v… trở xuống cho đến bốn đảo cuối cùng, có bốn câu hỏi, truyền bá rộng khắp và dựa vào nghĩa của con người. Kế là, có hai câu hỏi: Hỏi về nghiệp lành và khó thấy tánh, vì nhân rộng. Kế là, có chín câu hỏi:

Từ “Giải thích chữ Mãn” cho đến “Thiên, ý, thọ”: Công đức của văn tự rộng.”

Trên đây, gồm hai mươi câu hỏi, rộng lược đã nói xong.

Trong đoạn ba có mười câu hỏi khuyến tin, vì Đức Phật do nhân mà chứng đắc. Lại, nói Niết-bàn là Thường, nếu không còn dùng sự giải thích thì vì đời khó tin, nên đặt ra mười câu hỏi để giải thích:

1. Ý hỏi: “Nếu Đức Phật từ “Duyên” vô tánh thì không nên thường riêng?” dưới đây là đáp: “Dù từ duyên được, nhưng có “Hoặc” thì vô thường, không có “Hoặc” thì Thường.”

Câu thứ hai, thứ ba chỉ nêu quả để khuyên tin. Trước, chỉ nêu bên ngoài, sau chỉ nêu bên trong. Câu thứ tư, thứ năm, nói có Đấng Đại Từ, như cha mẹ thế gian. Điều tâm từ nói, không lừa dối chúng sinh. Câu thứ sáu nói Niết-bàn, thị hiện không thật.

“Đức Phật thường” v.v… trở xuống, có bốn câu hỏi, làm chứng thị hiện, vì sao? Vì Đức Phật không ăn mà thọ thực, không bệnh mà thị hiện nằm, nên biết không diệt mà hiện diệt. Kế là có hai câu hỏi, nói hiện tại biết thường, thọ vui. Đời sau, biết được hữu dư, vô dư, công đức hóa độ đã xong, cho nên ứng hiện. Câu thứ chín, chứng minh không bệnh. Câu thứ mười, nói về bệnh, nói diệt, đều là Mật giáo.

Trong đoạn thứ tư có bốn câu hỏi:

Dựa vào Kinh tu hành, tức năm hạnh, cho nên hỏi về hạnh.

Ở trên nói công đức của Kinh có khả năng chữa trị bốn tội trọng, năm tội nghịch. Chữa trị, tất nhiên là tu hành. Thực hành năm hạnh này, cũng không chữa trị được sai lầm của chính mình. Câu thứ hai, giải thích lý do sai lầm, do chuyển biến gần mà thành sai lầm, bèn nêu năm người xa, gần làm chứng. Câu thứ ba thỉnh Phật nói về nghĩa Hành. Câu thứ tư, hỏi về tánh, nói về tánh có nhân, quả. Hành có trái, theo, thức tánh thì theo, tức hỏi về sư tử rống. Không nhận thức tánh là nghịch, tức câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp. Kế là hai bài kệ nói về nhân quả mông mênh của Niết-bàn. Về câu hỏi thì không thể hết, cho nên không hỏi. Điều mà Pháp sư Bảo Lượng đã phán quyết, đồng với thuyết này, ở đây không chép lại.”

Pháp sư Đàm Tế nói: “Thứ nhất có bốn câu hỏi, chính là nói về thể của Kinh, nhân quả của sống lâu là kết thác tên Kinh. Thứ hai là mở rộng chỗ sâu kín, cho đến quán Tam bảo, có mười sáu câu hỏi, nói rộng về quả trên và truyền bá tên Kinh.

Thứ ba là từ “Ba thừa hoặc vô tánh” cho đến “Nói pháp sâu kín có mười câu hỏi để khuyên tin.

Thứ tư nói về các hạnh mầu nhiệm, có ba câu hỏi, hỏi về nhờ Kinh mà tu hành.

Thứ năm là đều có tánh an vui, một câu hỏi là nói dựa vào Kinh mà thực hành, thứ lớp tu hành.

Thứ sáu, nay muốn hỏi về các ấm, một là hỏi để Kiều-trần-như đáp:

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại yếu của Kinh này, lấy quả thường làm tông chỉ. Trước kia Thuần-đà do bố thí mà nói về thường, vì nghĩa thì lược. Nay, Bồ-tát Ca-diếp đặt nhiều câu hỏi, để bày tỏ lại chỉ thú trước qua hai lần hỏi rộng, lược. Vì sao lấy nhiều tệ giáo riêng lẻ để nói về thường? Nay, lập ra hỏi đáp để tiếp nhận lấy sự tỏ ngộ. Tuy nhiên, Chỉ thú lớn của hỏi đáp là luận nhân, nói quả, để nói về cảnh, nói hạnh. Đầu mối dù nhiều, nhưng chủ yếu không ngoài hai lượt hỏi đáp này, vì thể của câu hỏi lấy xa ý đáp, cho nên chỉ thú của nghĩa thường phù hợp nhau, không vượt qua ý chỉ Kinh.

Y theo câu hỏi này, chia ra tiết mục, lược có bốn phần: Thứ nhất có mười ba câu hỏi, nói về nhân quả thường trụ, kế là mười chín câu hỏi khen công năng của Kinh. Kế là có một câu hỏi nói dựa vào Kinh, mà sinh ra hạnh. Kế là một câu hỏi nói về cảnh được chiếu soi.

Căn cứ bốn phần này, mỗi phần đều có rộng, lược. Mở rộng thì có tám, hợp lại thì thành bốn, trong đó gồm có các chi tiết riêng . Vì cho

nên lấy bốn phần làm đầu mối của việc hỏi đáp kia.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Về chỉ thú của lời khuyên đã rõ, còn về thời gian nên hỏi”. Vì căn cơ ở tại Bồ-tát Ca-diếp, nên nghe lời Phật dạy bảo.

Về lời hỏi, đại khái có ba mươi bốn, dùng nghĩa để chia, thì lược thành ba đoạn? Về chỉ quy của Kinh, dùng quả cùng cực làm tông. Nhưng lý do của quả chẳng phải nhân không mà đến, nên đầu mối của lời hỏi han thưa thỉnh, thì phải được ưu tiên.

Vì thế, nên thứ nhất, từ bắt đầu đến rốt ráo cho đến “Bên kia bờ”, gồm có năm câu hỏi. Hỏi về nhân, quả, kết danh tự, thể của răn bảo, đại khái đã nêu.

Sắp muốn giáo hóa, truyền thừa ngàn năm, đem lại lợi ích cho chúng sinh không thôi. Nhưng vì đạo không tự làm cho rộng lớn hơn mà nói chung là do ở con người. Cho nên câu hỏi thứ hai, từ “Cúi mong Đức Phật mở bày pháp sâu kín” cho đến “Thái bạch và sao Tuệ”, gồm mười câu hỏi. Hỏi thông qua pháp của Kinh và có thể thông qua người. Dù rằng về hai lý người , pháp rõ ràng có thể riêng khác, nhưng vẫn chưa nói rõ có ích rộng lớn, nên không do đâu thấm nhuần một cách nhạy bén cho người học. Vì thế, nên câu hỏi thứ ba, từ “Thế nào là chưa phát tâm” cho đến “Đạo tối thắng vô thượng, gồm có mười chín câu hỏi, hỏi về thế lực của Kinh. Nếu luận chung thì ba nghĩa này cũng đủ thông suốt.

Nay, từ việc, từ nghĩa mới có riêng khác.”

Minh Tuấn nói: “Phán quyết về đại thể của câu hỏi, thế gian có sáu, chia làm ba đoạn:

  1. Lược.
  2. Rộng.
  3. Khuyên tin.

Trong phần lược hỏi có tám câu:

  1. Hỏi về nhân sống lâu.
  2. Hỏi về quả sống lâu.
  3. Hỏi về quả của thân Kim Cương.
  4. Hỏi về nhân của thân Kim Cương.
  5. Bốn câu hỏi này giải thích sơ lược về Bát-nhã, Pháp thân.
  6. Hỏi về giải thoát.
  7. Hỏi về oai lực của Kinh.
  8. Hỏi về tên Kinh.

Sở dĩ y cứ tên Kinh để nói về thế lực của Kinh là để hỏi về sự giải thoát, gồm có hai nghĩa:

  1. Kinh này lấy thường trụ làm tông chỉ, lấy dòng phiền lụy để làm tên phiền lụy. Cho nên vô thường là vì thường, không có phiền lụy.
  2. Nói về giải thoát gần, xa đều do công đức của Kinh. Gần thì có khả năng dứt trừ được ba chướng trong nhân. Xa, thì có thể giải thích về sự giải thoát của quả Địa.

Vì cho nên hỏi: “Thế nào là đối với Kinh này? Tức là hỏi về danh, hỏi về năng lực. Rốt ráo đến bờ bên kia, tức là hỏi về giải thoát.

Phẩm Danh Tự dưới đây nói: “Nghe danh hiệu Kinh này, vang

khắp bốn cõi, thì không có việc đó”, tức là năng lực gần. Lại nói: “Bồtát ở đây, tức là có khả năng thị hiện khắp mọi nơi, tức là năng lực xa. Chỉ nêu bảy điều lành để đáp danh hiệu Kinh. Hàng phục tất cả các phiền não kiết và các tánh ma. Sau đó, chủ yếu là đối với Đại Bát-niếtbàn, buông bỏ thân mạng, chính là đáp rốt ráo đến bờ kia”.

Lại nói: “Tám vị đầy đủ, chỉ nêu các câu như thường hằng… là giải thích về thể giải thoát.

Vì sao? Vì văn dưới trong phần nói về giải thoát, có nêu tám câu hỏi này, mỗi câu đều được giải thích rộng, sáng tỏ dễ nhận thấy.

Câu hỏi thứ tám là lưu thông y, như Kinh Nê-hoàn loại sáu quyển chép: “Bồ-tát hóa độ chúng sinh, nói pháp có bao nhiêu thứ? Mà thiếu sót, rơi rớt hoặc có trong đây. Nghĩa là nghĩa thật sự dễ. Nếu không lấy câu hỏi kia, thì y cứ vào vị của lời nói này cũng có nghĩa truyền bá câu hỏi.

Trong phẩm Danh Tự, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: “Nêu gọi tên Kinh này là gì? Làm sao vâng giữ?” Chỉ thú của Kinh đó rõ ràng. Dưới đây, dùng phẩm bốn tướng để đáp.

Thứ hai là hỏi rộng, gồm mười sáu câu hỏi. Đầu tiên, dùng một câu hỏi, hỏi rộng về ba đức của quả địa. Văn dưới, dùng “Phẩm Bốn Tướng, Niết-bàn Hữu dư, Vô dư” cho đến “Giải thoát” để đáp câu hỏi này.

Kế là, có hai câu hỏi, truyền bá rộng, nói về người , về pháp, về tà. Chính là giải thích về phẩm Bốn Y, dùng chánh pháp, chánh nhân để làm y. Phẩm Tà, Chánh, bỏ người tà, pháp tà cho là ma.

Kế là, có bốn câu hỏi, nhân rộng bốn đế, bốn đảo. Hai câu hỏi chỉ nêu “Giải”, “Hoặc” để nói về trí, tức nói rộng về nhân duyên. Nghiệp lành khó thấy tánh. Hai câu hỏi chỉ nêu đầu cuối. Để nói về chánh nhân.

Kế là, có hai câu hỏi, hỏi rộng về tên Kinh, tức mãn tự và hạnh Thánh. Kế là, có bảy câu hỏi nói rộng về thế lực của Kinh. Bốn câu hỏi như chưa phát tâm v.v… ở trước là hỏi rộng về năng lực diệt ba chướng của nhân địa. Sau, ba câu hỏi về thuyền sư v.v… giải thích rộng về quả địa. Muôn “Hoặc” dứt ở đây, rốt ráo giải thoát.

Thứ ba có mười hai câu hỏi nhằm khuyên tin, đồng với cách giải thích của Pháp sư Tăng Lượng: Làm thế nào để được sống lâu?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tựa đề Kinh này dù lấy giải thoát để tiêu biểu cho tên, nhưng nếu nói về thể tròn đầy của Kinh kia, thì tức là pháp thân, Bát-nhã. Vì thế, nên lập ra ngôn thuyết để hỏi, trước hết, lấy Bát-nhã làm đầu. Dù Bát-nhã này hoàn toàn, mà nghĩa gồm cả nhân quả. Ý ở nơi quả, không được không hỏi về nhân. Dù có hai ý, nhưng hợp chung thành một câu hỏi.

Sống lâu, nghĩa là một thuở nọ kỳ là thọ, sự dài lâu của thời kỳ là Trường. Quả thường không có kỳ hạn chỉ nói là dài thôi. Vì bàn về tuệ soi sáng vô cùng, tức là Bát-nhã.

“Thế nào là được?” Nghĩa là hỏi về nhân của tuổi thọ lâu dài kia.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, đáp rằng: Tu bốn vô lượng, trao giới không giết hại làm nhân, được thể pháp tánh của mạng lâu dài làm quả.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi này có hai:

Câu hỏi thứ nhất: “Thế nào là được?” Câu hỏi thứ hai: “Tướng của quả sống lâu?” “Thân kim cương bất hoại”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước hỏi về Bát-nhã, ở đây hỏi về pháp thân. Trên nói về vô tận, ở đây nói về không hư hoại, như kim Cương ở thế gian, thể của nó không thể hư hoại, nhưng có công năng làm tan hoại muôn vật, lấy ví dụ Pháp thân. Ba tướng không thể dời đổi. Vạn hóa của thần kia không làm đổi thay thể của nó.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thể, tướng, thân mạng, thật ra không khác. Nói theo nghĩa thì chẳng thể không khác. Thân thích hợp với Pháp thể, mạng nói có đầu cuối, nên chia thành hai câu hỏi.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ ba, hỏi về quả của Pháp thân.”

“Lại nhờ đâu được năng lực vững chắc rộng lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu trên, đã hỏi về quả, câu dưới đây, hỏi về nhân. Văn dưới đây là đáp, lấy giữ gìn chánh pháp làm nhân.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tư là, hỏi về nhân của thân kim cương.” “Thế nào nói Kinh này? Rốt ráo đến bờ kia?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ thú lớn của Kinh nhân quả đã rõ ràng, vẫn kết tên Kinh. Văn ở dưới nói: “Kinh này gọi là Đại Bátniết-bàn. Cho nên nói rốt ráo là vì Kinh này có văn có lý. Văn để giải quyết lý, lý để thích hợp với văn. Văn lý phù hợp nhau, nghĩa không có thiếu sót, là nói Kinh rốt ráo. Đối với văn, lý, con người tu học thành Thánh. Quả Phật của thời hạn sau cùng, là nói mh rốt ráo. Y Kinh truyền bá, sẽ có đủ đức nào?

Phẩm Danh Dự Công Đức ở trước, đã kết tên Kinh, mới là thành Kinh, mà Kinh thì phải có con người mở mang, chẳng phải đức thì không lưu truyền.

Phẩm Bốn Tướng, đầu tiên nói về lợi ích của truyền bá, tự thực hành, gồm mọi người, sau cùng thành Đại giác, bờ bên kia xán lạn.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu năm, hỏi về tên Kinh, gồm cả ích lợi của việc thọ trì.”

“Xin Phật mở sâu kín

Nói rộng chúng sanh nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có chín câu hỏi, là pháp môn rộng. Trong môn lược trên, nói về Bát-nhã, pháp thân. Ở đây, trong pháp môn rộng, nói về giải thoát. Ba đức đã hiển bày, chữ Y mới tròn đầy.

Mở rộng chỗ sâu kín, là nói rộng về hai thứ ẩn giấu của Như lai:

  1. Lời nói ẩn giấu.
  2. Hình dáng ẩn giấu.

Vì giáo xưa chưa rõ là nhiệm mầu, giải thích Thường là sâu kín.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là pháp môn rộng, gồm có mười sáu câu hỏi. Một câu hỏi này hỏi về công dụng của quả rộng. Quả, là pháp thân, Bát-nhã, giải thoát.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ sáu, hỏi về pháp rộng lớn suốt qua. Dưới đây có mười câu hỏi, đều nối nhau mà nêu.” “Thế nào là rộng lớn

Làm y chỉ cho chúng?

Thật chẳng phải La-hán

Lượng đồng với La-hán.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong môn nói lược về nhân quả, kết tên Kinh, làm rõ việc truyền bá. Nay, trong môn rộng, chỉ nói về quả, không nói kinh, vẫn truyền bá chung, nên biết rằng, ý chỉ của nhân không ở nhân, chỉ lấy quả làm tông.

Phẩm Bốn tướng ở trên, nói về Bốn pháp. Trong phẩm này chỉ nêu người Bốn Y. Bốn tướng kia thì nhờ pháp nói về đức, phẩm này thì chỉ nêu địa vị, tiêu biểu cho người.

Đức Như lai là thể tôn quý cùng cực, là La-hán chân thật, Bồ-tát là tương tự La-hán, chỉ cho dấu vết của đấng Đại sĩ cao siêu, cách con người rất xa, khó phân biệt biết rõ, nên mới y cứ ở bốn quả, phưởng phất nơi tâm, sao cho người ấy được nhận thức.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thường có bốn câu hỏi đều truyền bá rộng. Đây là một câu hỏi, hỏi rằng: “Đức của con người truyền bá, so lường cao hay thấp? Là đáp phẩm Bốn Y.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ bảy: “Nên nói đâu thừa nhận giai vị của người, có khả năng được kinh rộng lớn, có thể làm chỗ nương tựa, tuy là Bồ tát mà địa vị ngang hàng với Thanh văn?”

“Làm sao biết ma trời

Làm trở ngại cho chúng?

Phật nói, Ba-tuần nói

Làm sao phân biệt biết?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Muốn có pháp ra đời thì phải nhận thức tà, chánh. Ma trời, ngoại đạo thường gây trở ngại, rối loạn Phật pháp. Chúng giả dạng với thuyết ngụy tạo, nhằm mê hoặc những ai chưa thấu suốt chánh pháp. Những người được chúng cảm hóa, sống lâu dài trong sinh tử. Ngay bây giờ, bốn y ra đời, ngăn cấm ma, mở mang đạo.

Trước kia nói: “Ma trời phải nhận thức, chứ không phải nói”. Chớ cho rằng ma nói, Phật nói. Về lý, có phân biệt rõ ràng. Chính vì thế, nên nhờ lời nói để xem xét tà chánh.”

“Thế nào các Điều Ngự

Vui mừng noi chân đế?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Rộng thì nghĩa nhân ở trước. Ở trên, đáp nhân Bát-nhã, là mười thiện bốn đấng v.v… Nhân của pháp thân, nghĩa là hộ pháp. Đây là nhân quả tương tự. Nay, y theo môn rộng, nhờ cảnh để nói. Vì sao? Vì nếu gồm thâu khắp nhân của pháp thân kia thì có đến bốn muôn tám ngàn. Nói lược thì, không ngoài trí tuệ. Do tró tuệ sinh ra thì sinh ở cảnh. Vì cảnh có sâu, cạn, nên giáo có Thiên viên, kiến giải cũng tùy ở giáo. Đức Như lai đầu tiên mở ra bốn đế, chỉ nói là khổ là tập, chưa nói khổ, tập bất sinh. Đến giáo Bát-nhã mới hiển bày bấtg sinh, đến thời Pháp hoa, tướng khổ, tập vẫn còn dừng lại ở ba cõi.

Ngày nay, nói một mảy may “Hoặc” khởi, tức là vô minh trụ địa, cho đến Kim cương khổ cũng như thế. Ngày xưa nói diệt dứt ở thân trí. Diệt đã hữu dư, đạo cũng chưa hiểu rõ. Giáo không rốt ráo, sinh giải cũng nghiêng lệch. Vì hiểu biết nông cạn thêm nhỏ nhoi, nên tâm Thánh không vui.

Ngày nay, đã nói, giáo viên, lý đủ. Sinh giải cũng sâu xa, công mở rộng được biểu dương, tâm vui mừng nói nghĩa.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là hỏi về cảnh thứ chín.

“Đủ thành tựu chánh thiện

Giảng nói bốn điên đảo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên, chỉ nêu cảnh để thành tuệ. Nay, nêu ra “Hoặc” để hình dung về giải. Sở dĩ như thế là vì “Giải” “Hoặc” đều do giáo. Giáo xưa đã nghiêng lệch thì giải cũng trái ngược, đâu có chánh thiện ư?” lại nói: “Đế là khác thì Đảo cũng khác. Vì lý thú tương quan với đầu mối, nên lại phải nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi này, hỏi về giáo trở xuống lý được nói, có chân, ngụy. Bốn Đế nói về chân, bốn đảo nói về ngụy. Vì muốn cho người học nhận thức về sự đúng sai của chân, ngụy kia, nên nếu gọi là bốn đế thì tất nhiên là bốn đảo, ngữ hợp với tám đảo, thì đó là ma.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười này trái với tướng lý.” “Làm việc lành thế nào? Nay Đại tiên dạy bảo.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói:

Nghiệp lành bắt đầu này là nhân cùng cực. Trước nói về trì giới, hộ pháp, chưa làm nhân tích cực. Nếu chiếu giải tròn sáng thì mới gọi là Nghiệp lành. Căn cứ vào văn đáp về nghiệp lành, tự có năm lớp sinh nhau, sẽ trình bày rõ ràng ở văn dưới.

Một lớp này nói: Nếu sinh niềm tin ở tánh, là chỗ bắt đầu nghiệp lành.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ mười một, hỏi về lý Phật tánh. Nếu chúng sinh không có ngã, thì một lần hóa độ là hết, cần gì được chấn hưng nghiệp lành để hướng về quả lành?”

“Thế nào các Bồ-tát

Thấy được tánh khó thầy?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng là nói lớp thứ hai, nhằm làm rõ nghiệp lành sau cùng của thấy tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi thứ mười, mười một, là nhân rộng v.v… trở xuống, lời đáp của phẩm Như lai Tánh. Thực hành nghiệp lành là duyên nhân. Trong lời đáp lý do ở trước. Nói về chánh nhân, nghĩa là muốn nói về phương pháp lập tâm của người tu hành. Nếu nói về tánh nhận thức nhân quả thì thực hành sẽ thành Trung đạo. Nếu thực hành Trung đạo thành thì muôn điều lành chính là cây. Vì thế, nên đáp thực hành chánh nhân Trung đạo, tức là “Duyên” nhân.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười hai: “Bậc Đại sĩ ở địa nào có khả năng chiếu lý của tánh quả đương lai?” “Làm sao hiểu được nghĩa Mãn tự và bán tự.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là lớp thứ ba, lưu thông rộng, là dụng của Kinh, có văn, có lý.

Trong phần lược câu hỏi ở trên, kết tên Kinh, gọi là Đại Niết-bàn. Lại, pháp bảy thiện, khen lý của văn này. Nay, một phẩm Văn tự, trước là tác dụng của văn rộng. Văn Kinh dùng mười bốn âm làm gốc của các âm. Cho nên nói bán, mãn là vì giáo có Thiên, Viên do căn cơ có đầu mối thứ lớp. Đức Như lai đã khéo được sự thích nghi đó, nên nói “Khéo hiểu rõ mãn tự và bán tự.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là chín câu hỏi công đức của văn tự rộng v.v… trở xuống, thuộc về lý. Đây là câu hỏi thứ mười hai. Trước quyết định văn tự Kinh ấy. Phẩm Văn Tự ở dưới là đáp.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là ý của câu hỏi thứ mười ba. Nếu tên

“Ngã” bắt đầu từ Đức Phật thì ngoài ra, danh tự khác sẽ do ai ư?”

“Thế nào Thánh hạnh chung

Như chim Bà-la-ca?

Thế nào là ân Đế?

Như nhật nguyệt, Thái bạch

Với năm, tháng thì sao?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, lưu thông rộng. Làm công dụng của lý không ngoài thường và vô thường. Ứng với chân, giáo này, nói về tám lý đối nhau, lẽ ra trừ tám đảo. Sự đồng với trong văn tẫn (chim đực), mẫu (chim cái), chỉ xếp vào sáu hành, vì sơ lược. Như mặt trời, mặt trăng, nghĩa là bốn ví dụ này là lý do trở thành chân, ứng, nhật, nguyệt lên trời thì muôn vật sẽ được trong thấy ở đây. Đây là chỉ nêu riêng chân, ứng, để nói về đức tự tại.” “Vì sao chưa phát tâm? Mà gọi là Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là mười chín câu hỏi khen ngợi Kinh, bảy câu đầu tiên là hỏi khen sơ lược. Bốn lời khen trước, là nhân ích, ba lời khen sau, là quả ích. Kinh nói có người có thể chưa phát tâm, gắng gượng khiến họ phát tâm, nếu hoặc có người được nghe từ Chư Phật, Bồ-tát mà không sinh niềm tin, sắp trở thành Xiển-đề. Do oai lực của Kinh, nằm mộng thấy những việc xấu ác, thì liền phát tâm thực thành hạnh Bồ-tát.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn cứ vào nghĩa có công năng diệt ác sinh thiện:

“Thế nào giữa đại chúng

Mà được không sợ hãi

Như vàng Diêm phù đàn

Không ai nói lỗi chúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã bắt buộc phải phát tâm để trở thành Bồ-tát, tức là trên cầu tuệ Phật, dưới độ chúng sinh, nghiệp công đức trở nên vượt hơn. Về lý, không còn phải sợ ma trời, ngoại đạo và các Dị học nữa!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau khi dứt ác thành ruộng phước thanh tịnh.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười bảy hỏi về oai lực của Kinh có công năng dứt trừ nghiệp chướng.”

“Thế nào ở đời trược chẳng nhơ như hoa sen, để giáo hóa chúng sinh, không bị pháp đời nhiễm cũng giống như hoa sen?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tín, tuệ khai phát, không còn che lấp Thánh đạo.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười tám hỏi về oai lực của Kinh có công năng tiêu diệt báo chướng.”

“Thế nào là phiền não?

Phiền não không thể nhiễm

Như thầy thuốc trị bệnh

Không bị bệnh làm nhiễm.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước thì suốt qua nhân quả, nay, lời nói nghiêng lệch vì bệnh nặng, cho nên không dễ gì cứu chữa mà Bồ-tát vẫn cứu. Trước kia chỉ nói không nhơ, nay, nói đối trị “Hoặc”, như ví dụ thầy thuốc”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười chín hỏi về oai lực của

Kinh có công năng diệt trừ chướng phiền não.”

“Thế nào là lái thyền

Ở trong biển sinh tử?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn câu hỏi trên, nói về oai lực của Kinh, khi người chưa phát tâm, khiến cho Bồ-tát có khả năng làm thầy thuốc. Dù chưa thành Phật mà ở ngay trong nhân, đã có khả năng làm lợi ích. Đây là nói về quả giúp ích lời nói, nhờ Kinh mà tu hành, cuối cùng thành Phật. Sau khi đã được thành Phật, lại lái thuyền Đại Niếtbàn này để đón rước, cứu giúp chúng sinh.

“Thế nào thoát sinh tử

Như rắn lột da cũ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia nói: “Lái thuyền Niếtbàn, chúng sinh thấy kia diệt, thật ra thì không diệt, vì nhận thức cạn cợt nên chưa tỏ ngộ.

Dùng ví dụ dời đổi để làm rõ, như rắn lột da, chẳng phải chết thật. Đức Như lai cũng thế, thị hiện diệt, không phải Phật thật, mượn để làm dụ.”

“Vì sao xem Tam bảo

Cũng như cây thiên ý?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu đối với người đã hiểu biết thì không cần ví dụ dời đổi, chỉ tỏ ngộ có trước sau, đến nỗi có người nghi giặt áo mau bằng nước sôi. Ngờ vực rằng, hiện thấy Đức Như lai bắt đầu giáng sinh ở cung vua, cuối cùng nhập diệt ở Song thọ, chẳng lẽ nói là bất diệt ư? Nên mượn ba việc đổi thay của cây Thiên ý để làm thí dụ.”

“Nếu ba thừa vô tánh

Thì làm sao nói được

Như niềm vui chưa có

Làm sao gọi thọ vui?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có mười hai câu hỏi, khen rộng về Kinh. Dựa vào Kinh giáo của ba thừa, để nói về vô tánh của ba thừa. Mỗi thừa đều có Niết-bàn, rốt ráo có tánh khác, không chấp nhận đồng. Nếu ba thừa kia không co tánh thì vì sao ở trên đáp với Thuần-đà là sắc lực của mạng là thường, quả thường không có sai lầm, hễ “Cớ” thì “Đều cơ”, còn “Không” cũng “Đều không”. Nếu tánh của ba thừa kia là “Không ” thì trước kia không nên nói, nếu ba thừa kia đã có, mà có thì quá sớm. Trong nhân không có quả, trong quả không có nhân, mà nói là có, tức là niềm vui chưa phát sinh, đã gọi là thọ vui. Vì thế, nên Bồ-tát Văn-thù đã vượt ngoài nỗi ngờ vực của Thuần-đà là ở đây.

Y theo lời Phật đáp dưới đây: “Vì có lý nên chẳng thể nói là “Không có”, vì chưa có tác dụng hiện tại, nên không thể nói là “Có”. Đây là ba thừa đồng tánh có.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có mười câu hỏi để giải quyết nghi ngở, khuyên tin.”

“Đã là mù bẩm sinh

Làm sao chỉ đường được?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo phần khen rộng Kinh, cũng có nhân ích, quả ích, về nghĩa thì không khác với trước. Đã hiểu biết chính đáng, lại hóa độ người ngu tối, làm sao cho họ được mở mắt tuệ, cũng như dùng người có mắt để dẫn đường người mù.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nói quả nội tại, khuyên tin. Nếu không thấy Kinh này thì cho dù có ở chung đi nữa, như người mù bẩm

sinh kia, vẫn không biết là nhân của Đức Phật.”

“Thị hiện nhiều đầu kia Xin Phật giải lý do?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bắt đầu là trong nhân, mở mắt tuệ cho người, sau cùng là thành Phật, sắp sửa ứng không có phương hướng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo sự ứng hiện để khuyên tin.”

“Vì sao người nói pháp

Thêm lớn như trăng mọc?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, hỏi về nhiều đầu, là hỏi về “Thân mật”. Nay, hỏi người nói pháp, là hỏi về “Khẩu mật”. Căn cơ có lợi, độn, giáo có sâu, cạn.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xem Đức Phật như cha mẹ, không xem thường con, tùy căn tánh để nói pháp mà khuyến tin.”

“Thế nào là thị hiện

Rốt ráo đối Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về lợi ích của quả không ở một vị Phật. Nay, y theo Đức Thích-ca để giải thích về diệt không diệt, tức là nghĩa chèo thuyền Niết-bàn, để cứu giúp chúng sinh.

Văn dưới, nhân phát ra ánh sáng, đôn đốc Thuần-đà cúng dường. Nói mười ba bài kệ, để nói về không diệt.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ hai mươi tám nói xa thấy đại chúng, thấy Đức Phật thọ thực, rồi cho là chết thật sự, nên hỏi về nghĩa ứng tích diệt, không diệt.”

“Thế nào bậc Dũng kiện

Hiện trời, người, ma đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:

Giáo nghiêng lệch của ngày xưa, nói thật vô thường nhốt kín trong thường, người mê lầm đánh mất chỉ thú, tuệ mạng chẳng sinh, đó là đường ma. Nay, Viên giáo đã mở mang, sinh ra kiến giải tròn đầy, cuối cùng thành Đại giác, đây là đạo trời.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thường có bốn câu hỏi, hỏi về chứng chung sự rốt ráo. Một câu hỏi này, tức chứng sự vị lai một cách hoàn tất, vì chúng sinh ớ vị lai, Đức Phật mở bày hai môn tà, chánh rồi. Đến hiện tại hôm nay lại không có sự.”

Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới cho rằng: Nếu có người không thể quán rõ Tam bảo là thường như thế, người ấy chính là Chiên-đà-la, tức là đường ma, khác với đường ma này, gọi là đạo trời.”

“Làm sao biết pháp tánh

Mà thọ hưởng pháp lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói hai đường trời, ma, đại chúng hiểu biết tăm tối, được pháp thấm nhuần, tâm sinh vui mừng, sự do giáo nay.” Pháp sư Đàm Tiên nói: Văn dưới chép bấy giờ các trời, người đại chúng nghe pháp này rồi tâm sanh vui mừng, hớn hở vô lượng, đó tức là pháp lạc, để đáp câu hỏi này.

Thế nào là các Bồ tát xa lìa tất cả bịnh.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Trước nói vô diệt, ở đây nói vô bịnh phẩm Hiện bịnh ở dưới nói rộng về sự không thật của bịnh.

Pháp sư Đàm Tiên nói: Văn dưới nói: Nay thấy các Bồ tát thể mạo đều khác lạ, rất lớn rất mầu nhệim. Chỉ thấy thân Phật dụ như cây thuốc, được các Bồ tát vi nhiễu chung quanh, đó là trong ngoài vô tịnh, để đáp câu hỏi này.

Thế nào là vì chúng sanh mà bày nói chỗ bí mật?

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Ngày xưa mật ngữ, sanh ra sự chấp lầm cho mọi người, nếu không có giáo nay, thì do đâu mà thông đạt cùng khắp. Giải thích rộng lời nói ẩn chứa của Phật, giảng rõ ý chí sâu xa, sanh ra hiểu biết nhờ kinh, cũng khen ngợi giáo.

Pháp sư Đàm Tiên nói: Ở dưới là văn nay, Như lai muốn làm ngọn đèn sáng lớn cho vô lượng chúng sanh đời vị lai, nên giảng nói kinh Đại niết bàn như thế, để đáp câu hỏi này.

Vì sao nói rốt ráo và không rốt ráo, dứt nghi như thế vì sao không có thuyết nhất định.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Giáo xưa nói hai hạng người bị bịnh thì không trị được, điều mà kinh này nói đều có thể trị được, do tăng lực thù thắng của kinh, cũng khen ngợi giáo.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về ba hạng người: Xiển-đề, năm tội nghịch, chê bai chánh pháp, rốt ráo không thể thấu suốt. Bồ-tát rốt ráo có thể bỏ hàng Thanh văn. Gặp bạn lành thì tiến, không gặp thì lùi, là nói không rốt ráo. Dưới đây nửa bài kệ còn lại, lại thỉnh Đức Phật giải thích.”

Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới có bài: “Kệ khác v.v…, nói hữu dư, tức không rốt ráo, vô dư tức là rốt ráo”, đáp câu hỏi này.

Kết đáp: “Chỉ trừ trợ đạo, pháp lành thường vui, ngoài ra tất cả, là hữu dư, vô dư.

“Thế nào mới được gần

Đạo tối thắng vô thượng?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bắt đầu là trị tội, sau cùng là oai lực, đức độ của Bồ-tát càng cao gần với cảnh cùng cực, đều do oai lực của Kinh. Trong Kinh này đều chỉ bày giáo nay, có khả năng mở rộng hiểu biết một cách tròn đầy, chúng sinh không có nghi ngờ, là lợi ích rõ rệt của Kinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây nói về năm hạng người Hữu Học, từ bốn thời giáo đến Kinh hiện nay, dạy phát sinh niềm tin đối với nhân quả, sẽ được gần đạo Vô thượng.”

Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới chép: “Bấy giờ, đại chúng dâng các thứ phẩm vật cúng dường Đức Như lai xong, liền phát tâm đạo Vô thượng. Vô lượng Bồ-tát an trụ sơ địa, tức là gần với đạo Vô thượng”, đáp câu hỏi này.”

“Nay con thỉnh Như lai

Vì các vị Bồ-tát

Giảng nói pháp sâu xa

Các hạnh mầu nhiệm thảy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là văn thứ ba trong bốn lớp văn. Trước nói về nhân quả: Một là chỗ chỉ quy của Kinh đã rõ rệt; hai là khen ngợi giáo. Nay nói dựa vào Kinh tu hành, nhận lấy quả thường, cũng muốn cho tín chúng lặn lội tìm cầu, sẽ được kính mến khuôn phép trước, muốn cho câu văn của luận đều hợp nhau. Trước nói trong quả, cũng nói về nhân, nay văn giải thích nhân, đồng thời cũng nói về quả, cho đến nói về cảnh, cũng nói về hạnh, cũng nói về cảnh. Đây là văn Kinh đắp đổi lẫn nhau, tương tự không phân biệt, nhưng chủ yếu phải tìm cầu giềng nói của cảnh, hạnh kia, cũng đều tồn tại.

Nguyện vì nói pháp sâu mầu nghĩa là hạnh, nguyện của Thập địa, người Nhị thừa chẳng quan hệ, nên nói là sâu xa, chỉ vì hạnh có cạn sâu. Cạn thì nói là hạnh, sâu là công đức rõ ràng. Công đức với hạnh, rộng lược dù khác, nhưng nghĩa của nhân không khác.”

“Đối tất cả các pháp

Đều có tánh an vui

Cúi xin bậc Đại tiên

Phân biệt dạy chúng con.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói cái do: “Hạnh sinh ra, phải do cảnh. Sự nhiệm mầu trong cảnh, không gì hơn Phật tánh. Sư tử rống là lược, Ca-diếp là rộng.

“Y chỉ lớn chúng sinh

Thuốc hay Lưỡng Túc Tôn! v.v… cho đến

Cảnh giới của Chư Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi, đã xong, sẽ tự gồm thâu thoái lui. Các ấm nghĩa là trên đến Chư Phật, dưới cùng khắp chúng sinh, năm đường người, trời. Thánh giáo khác nhau, chỉ thú này rất sâu sắc, mà vẫn chưa thấu suốt. Về lý, nên thưa hỏi, chỉ vì tình cạn, trí kém, nên không dám thưa hỏi, đâu chỉ con đã không dám, cho đến tinh tấn đến bát trụ trở lên, có ba hạng không lui sụt, cũng không phải cảnh giới của họ cho nên chẳng dám hỏi”.

 

Phần 2

Giải thích ý nghĩa của nhân sống lâu.

Nêu ra việc lực sĩ Mật Tích giết Đồng tử .

Nêu ra danh hiệu của các Yết-ma.

Nêu ra việc tám con sông đổ ra biển.Hợp thí dụ con trâu cày.

Giải thích nghĩa pháp tánh.

Giải thích việc trời Vô tưởng thọ vui.

Giải thích nghĩa Nhất thể Tam bảo.

“Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: Lành thay! Lành thay!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuyết trên dù rõ ràng, nhưng vì chỉ thú của nghĩa chưa chu toàn, cho nên phải nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, trước là đáp về nhân sống lâu, được chia thành bảy đoạn:

  1. Cho phép nói.
  2. Răn chúng.
  3. Nói chung.
  4. Khuyến khích giáo hóa ngoại đạo.
  5. Phật tự dẫn chứng.
  6. Thể, tướng của chánh nghiệp.
  7. Giải thích nghi ngờ.

Pháp sư Trí Tú nói: “Một phẩm này đáp hai câu hỏi về nhân quả, chia làm hai phần. Trong lời hỏi của nhân đáp trước, có ba đoạn:

  1. Khen ngợi sự thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp.
  2. Nói về tướng của nhân sống lâu.
  3. Nói về nghĩa.

Minh Tuấn nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi về nhân, đại khái được chia làm hai:

  1. Chính là đáp.
  2. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi.

Căn cứ trong phần chính đáp có năm lượt:

1. “Từ đây đến lợi ích chúng sinh”, trước khen lời thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, gồm có ba ý: Đầu tiên, do xa, bình đẳng Chư Phật. Kế là, do gần với bình đẳng với Đại sĩ. Sau khen ích lợi rộng lớn của nhân sống lâu kia để kết khen.

2. Từ “Con không có trí, lực” cho đến “Vì trí tuệ sâu xa”, Bồ-tát Ca-diếp kính cẩn đáp, khen chỉ thú, cũng có ba ý:

  1. Dẫn muỗi mòng làm thí dụ.
  2. Không dám nâng lên bình đẳng Chư Phật.
  3. Dẫn quan giữ kho báu làm thí dụ, nghĩa là đã hiến dâng, cung kính trên hết. Hoặc có chút đồng với Bồ-tát. Về sau, Bồ-tát tự khiêm nhượng nói rằng: “Điều con hỏi rất hẹp hòi kém cỏi, đâu thể lợi ích rộng rãi, chỉ lợi mình mà thôi.

3. Từ “Lắng nghe v.v…trở xuống, cho đến chuyển thành người nói, là răn bảo dốc lòng, khuyến cho vận chuyển giáo.

4. Từ “Con do tu tập”, trở xuống, chỉ nêu hiện tại làm chứng.

5. Chính là đáp câu hỏi, có năm thứ bậc. Nói về Thập địa, dùng đại bi làm đầu, năm giới lấy không giết hại làm trước, là dùng đầu mối thưa hỏi, phát ngôn ở giới, nên biết giới tâm của Bồ-tát không có tự đại bi.

Nay, đã nói về nhân sống lâu, cho nên:

  1. Trước nêu cho đến lòng từ để nói về hạnh lợi mình.
  2. Khuyên thực hành không giết hại chúng sinh. Truyền trao thì dùng mười điều lành, năm giới, để nói về sự giáo hóa người ngoài.
  3. Xông pha vào ba đường để cứu vớt nỗi khổ đau hiện tại, là nói rộng về công dụng của tâm Bi.
  4. Phát bốn thệ nguyện rộng lớn, dụng của lòng từ sâu rộng, bao la nhằm an ủi chúng sinh ở vị lai.
  5. Kết: Trên trời, nghĩa là từ gần mà nói xa.”

“Này, người thiện nam! Nay, ông chưa được” cho đến “Đồng như các nghĩa sâu sắc mà bậc nhất thiết Trí đã hỏi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là phần đáp câu hỏi thứ ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi này cương yếu chung của một bộ Kinh, gồm thâu then chốt muôn hạnh. Vì kính mến Thánh chỉ sâu rộng, nên hợp xứng điều lành để khen ngợi. Ông hỏi, Như lai đáp, chiếu lý là đồng. Với chỉ thú mà Chư Phật đã giảng, vì sao lại khác với điều ông đã hỏi ở đây? Cho nên nói “Đồng với Chư Phật”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sự thật Bồ-tát Ca-diếp vẫn chưa tường tận ở chỗ do dấu vết mà lấy, đâu nói về soi thấy bình đẳng với Đức Phật? Vì lý mà Chư Phật đã hỏi thật là u huyền độc tôn, cao đẹp tuyệt vời! Vì tín chúng có nhận thức rất nông cạn, nên phải nói lên lời khen ngợi này.”

“Này, người thiện nam! Lúc Ta mới thành đạo Chánh giác dưới cội Bồ-đề” cho đến “Là đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng những được đồng với Chư Phật mà còn đồng với Như lai trước kia. Xưa kia, ở bảy xứ, tám hội, Như lai đã giảng nói Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Phương Quảng. Bấy giờ, các Đức Như lai mười phương đều nhóm họp để luận về nghĩa, cũng đã có nêu lên câu hỏi này.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” cho đến “Nghĩa rất sâu sắc của pháp tánh hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây Đức Phật quá khen, nên Bồ-tát Ca-diếp tỏ ra khiêm tốn, rằng mình chưa đạt được cử chỉ đó khiến cho ánh sáng đức độ của ngài càng thêm rực rỡ.

Biển trí tuệ: Một là sâu rộng; hai là cất chứa vật báu. Pháp tánh hư không có hai thứ: “Một là muôn pháp xưa nay không có tánh; hai là Niết-bàn cũng xứng với pháp tánh. Đây là việc mà năng lực suy nghĩ không thể hiểu được.”

“Bạch Đức Thế tôn! Ví như vị vua đem viên ngọc sáng trong búi tóc” cho đến “Giúp con có được trí tuệ sâu rộng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa là được chỉ thú của Đức Phật đáp, kính cẩn, vâng giữ, cung kính, như quan cất giữ kho báu kia.”

“Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Đã tự lãnh thọ rồi, sẽ nói lại cho người khác nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp Đại thừa không vì một người mà gìn giữ, phải ứng với vô biên mà lưu thông.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp đáp việc thưa hỏi, Đức Phật vừa khuyên răn, vừa dạy bảo. Tông chỉ rất sâu kín, tâm xem thường thì chẳng lãnh thọ được. Dù rằng lời Phật nói chỉ với Bồ-tát Ca-diếp, nhưng ý là đối với đại chúng.”

“Này, người thiện nam! Do tu tập hạnh nghiệp như thế, mà Như lai được thành Vô thượng Chánh giác” cho đến “Nay lại giảng rộng nghĩa ấy cho ông nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “lời đã nói không giả dối, là dẫn Như lai làm chứng.”

“Này người thiện nam! Ví như Vương tử phạm tội, bị giam vào ngục” cho đến “Đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở đây trước nói thí dụ, sau nói pháp. Bồ-tát có hạnh nghiệp bên ngoài và hạnh nghiệp bên trong. Lòng từ là nhân tố của hạnh nghiệp bên ngoài, tám con sông chảy về biển là quả của hạnh nghiệp bên ngoài. Chúng sinh là nhân hạnh bên trong, Niết-bàn, Phật tánh là quả hạnh bên trong. Kế là, nói Nhất Thể Tam bảo, làm rõ lại hai quả là thường.

Nhà Vua tự quay xe giá trở về, vì ngục tù là nơi bất tịnh, không phải chỗ Vua đến, vì lòng từ nên đến. Năm đường là nơi khổ sở, chẳng phải chỗ ở của Bồ-tát. Cũng chính vì đức từ, nên ở chỗ khó đến mà Bồtát vẫn đến được .”

“Truyền cho giới bất sát, dạy cho tu pháp lành” cho đến “Sau khi qua đời, được sinh lên cõi trời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ vốn cứu khổ, giới là gốc cứu khổ. Cưu giúp là công hạnh của lòng Từ. Sinh lên cõi trời, là hiện báo của nhân địa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười điều lành Bốn bình đẳng là hạnh quan trọng. Bốn thệ nguyện rộng lớn là nguyện quan trọng. Chỉ nói lược bất sát trong mười điều lành là nhân tố sống lâu, vì lấy nghĩa tương tự với nguyện kia. Chín điều lành còn lại, lược qua không nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có Kinh Riêng nói về bốn thệ nguyện rộng lớn, phối hợp với bốn Đế. Nghĩa là đối với người chưa vượt qua khổ, nói khổ đế để vượt qua, người chưa tránh khỏi ràng buộc, thì nói tập đế để họ được giải thoát, người chưa Niết-bàn thì nói diệt Đế, cho họ được hội ngộ. Yên ổn sau cùng là nói đạo Đế, sao cho họ được yên ổn. Vì tâm Bồ-tát rộng lớn bao la, nên gọi là “Hoằng”, vì chắc chắn có khả năng thực hành, nên gọi là “Thệ”.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Thật sự xem đồng là con, như La-hầu-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc ở đây nêu là khó là không bình đẳng. Thường tình chúng sinh nhận thấy xưa kia thường trị tội, dường như tổn thương lòng từ, vì thế, nên phải nói.”

Minh Tuấn nói: “Dưới đây, thứ hai, là Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi. Nay, thứ nhất này trước là thưa hỏi vì không có lòng từ nên trái phạm giới sát, để cho nghĩa của nhân không lập. Sau, thứ hai, là nêu hiện thấy Niết-bàn không có quả sống lâu. Nếu có nhân lâu dài thì quả sẽ không ngắn. Vì quả tất nhiên không dài, nên biết không có nhân trái lại với hai quan hệ để trở thành nghĩa nhân quả kia.

Căn cứ vào mối quan hệ trước, có ba trái ngược:

  1. Quyết định lòng từ coi như con.
  2. Chỉ nêu lên việc, do thần Kim cương, làm thành lời thưa hỏi.
  3. Chỉ nêu lý, dùng cắt, xóa để so sánh.

Đây là thứ nhất, quyết định lòng từ. Ba hạng người ác cũng coi như con phải không? Có hai thứ bậc: Trước là Bồ-tát Ca-diếp quyết định, sau là Phật đáp.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Xem đồng như Lahầu-la”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ, thật ra không bình đẳng, dùng hai việc để làm chứng:

  1. Vì chúng sinh không thể bình đẳng, nghĩa là phá giới.
  2. Vì sự nghiệp từ của Bồ-tát không bình đẳng, bằng cớ là lực sĩ đã giết Đồng tử.

Người kế thừa ý chỉ của Phật, Phật còn bình đẳng, huống chi là Bồ-tát?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Kim cương tức là Bồ-tát. Đã vâng theo ý chỉ của thần, tức là hai Thánh giết chung, việc này không nói bình đẳng.”

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Nay ông không nên” cho đến “Đều thương xót như con là La-hầu-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người tại gia hủy báng chánh pháp, còn thêm khổ để trừng trị, huống chi người xuất gia ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bậc Thánh cho được lợi ích có lúc, không cần phải chờ đợi biến hóa, chỉ vì sự thật nên Bồ-tát Ca-diếp chỉ nêu biến hóa thôi.”

Minh Tuấn nói: “Dưới đây Đức Phật đáp có năm thứ bậc:

  1. Quét sạch dấu vết để làm rõ Đồng tử, là biến hóa.
  2. Nói về pháp vua và pháp Phật, sự tà vạy khác để chứng minh không giết hại.
  3. Lấy nhỏ để so sánh với lớn. Nếu phát ra một tia sáng, còn cho sự không sợ hãi, huống chi là sẽ có giết hại?
  4. Nêu ba thí dụ, để nói về pháp hạnh sau cuối. Bốn chúng có khả năng trừng trị người tội phá hoại chánh pháp, được vô lượng phước.
  5. Nhưng kết thúc hai ý chỉ: Nếu người không trừng trị sẽ mắc vô lượng tội, người đúng pháp trừng trị, là đệ tử của Như lai.”

“Này người thiện nam! Ví như vị vua” cho đến “Những người làm việc xấu ác sẽ có quả báo”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật dùng ba việc để chứng minh bình đẳng:

  1. Dùng Yết-ma trị tội, không cắt đứt mạng sống của người tội.
  2. Dùng ánh sáng soi chiếu, ánh sáng là quả của đức từ, giúp họ không sợ hãi.
  3. Trừng trị chúng sẽ được phước, không tổn hại lòng từ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu người có đức tin, thì không được cắt đứt mạng sống. Sinh đạo có muôn mối, đâu cần cẩu thả ở pháp này. Tỳ-kheo tự có thể y theo pháp mà lập đức, đâu sợ chê trách mà làm hư hoại”

“Này người thiện nam! Nay ông nên biết Như lai tức là” cho đến “Đầy đủ vô lượng thế lực như thế”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được vô lượng phước, nghĩa là trước kia dùng việc để so sánh.” Sắp diệt: là Không ăn năn tức là diệt, có ăn năn thì dừng. Nhà vua kia vì dùng hai việc sau đây nên được phước:

    1. Thương xót người dân.
    2. Lệnh cho người ác phải làm điều lành.

Pháp trị Tỳ-kheo:

    1. Để giữ gìn chánh pháp.
    2. Lệnh cho làm việc lành.

“Dưới đây, kéo cắt dây, nhổ tóc, riêng cho hộ pháp để làm thí dụ.”

“Này người thiện nam! Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy” cho đến “Hãy nên xua đuổi, quở trách trừng trị.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là việc thứ ba, dẫn chứng, để nói về hộ trì chánh pháp ở vị lai, sẽ được vô lượng phước, để nói sẽ có lợi ích sâu rộng.”

“Nếu Tỳ-kheo hiền thiện, thấy có người hoại chánh pháp” cho đến “Là Thanh văn chân thật, đệ tử của ta.”

Minh Tuấn nói: “Đây là thềm bậc thứ năm, kết thúc được, mất.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Nếu trừng trị kẻ phạm luật thì lời dạy kia sẽ có lỗi.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia dùng đồng tử làm biến hóa, để nói lên lỗi không bình đẳng, nhưng cũng trừng trị người tội, đối với lòng từ mà thành, cho nên, dẫn chứng hai việc cắt, xóa để đặt câu hỏi.”

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này, người thiện nam! Ví như vị vua” cho đến “Dạy bảo như thế, sẽ được vô lượng phước.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp đáp vấn nạn, trước nêu thí dụ: Vị vua dụ cho Phật. Đại thần dụ cho pháp chung. Bồ-tát, các con dụ cho bốn chúng. Sự xinh đẹp dụ cho hiểu lý không nghiêng lệch.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói Đức Như lai, giao phó bốn bộ đệ tử cho người hoằng pháp, giáo hóa thành tựu. Dù khiến cho ba bộ đệ tử không vâng theo sự dạy bảo, tất nhiên, không phải đều thành đạo, mà có một chúng khác không thể ít muốn, nhưng lại không trừng trị. Sở dĩ không phạm tội, vì có hai lý do: Một là không có tâm xấu ác; hai là nói vì vận dụng lòng từ.”

“Này người thiện nam! Như lai cũng vậy” cho đến “Cũng khéo biết được những việc đời trước.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp thí dụ, so sánh phàm Thánh. Đáp khó nói về sự bình đẳng của đứa con một chẳng phải sai lầm.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Như lai không nên nói như thế.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Muốn nói quả, dùng quả để hỏi người, quả hiện tại không dài lâu thì nhân dĩ vãng đâu thể bình đẳng?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù rằng lấy quả để tìm nhân mà việc thưa hỏi ở quả, tức đáp câu hỏi về quả sống lâu.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vẫn là nhân của vấn nạn. Nhân, phải là thật, về lý, gọi là quả thường, thì không nên Niết-bàn. Nay, dùng quả để hỏi nhân, tất nhiên nhân cũng không phải thật. Do đó suy ra, sự hiểu biết cũng là nhân của thưa hỏi, chẳng phải là quả của đáp. Có hai điểm trái nhau: Một là hỏi; hai là đáp. Theo việc thưa hỏi có ba giai đoạn:

  1. Trực tiếp, nghĩa là không thích ứng với chỉ thú sống lâu.
  2. Chỉ nêu thí dụ.
  3. Hợp thí dụ, kết thúc thưa hỏi.

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Nay, vì sao ông nói” cho đến “Như lai đã chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai này, Đức Phật đã quở trực tiếp thay cho lời đáp mà thôi. Từ trước đến nay đã nói, không nên lại có lời thô như vậy.”

“Bồ-tát lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Đức Như lai được tuổi thọ vô lượng thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói về sự nghiệp của Đức Như lai thì chỉ tám mươi năm, mà nói rằng, Như lai đã chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ thì chẳng lẽ không có ý chỉ? Vì thế, nên hỏi: “Thế nào là thường?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là Đức Phật đáp câu hỏi về quả sống lâu thứ hai. Đáp câu hỏi khác nhau: Hoặc cần chú trọng tương xứng với câu hỏi để tìm lời đáp. Hoặc hỏi trực tiếp, hoặc nhân đáp khác trước kia, vẫn là đáp, nghĩa là trong lượt đáp này có ba phần:

  1. Chính là đáp ý nghĩa sống lâu.
  2. Đặt ra câu hỏi.
  3. Cải chính ba quy y.

Từ đây cho đến tuổi thọ thứ nhất, chính là đáp câu hỏi. Có hai ý: Đầu tiên là Bồ-tát Ca-diếp hỏi, sau là Phật đáp.”

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này người thiện nam! Như tám con sông lớn” cho đến “Và các con sông nhỏ đều chảy ra biển cả.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sở dĩ chảy vào biển, là vì rất thấp, do các dòng chảy của các con sông nhỏ kia là nước của biển. Nước cũng gọi là biển.”

“Cũng vậy, tất cả con sông tuổi thọ của người, của trời” cho đến

“Đều chảy vào biển tuổi thọ của Như lai.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tuổi thọ của Đức Như lai ra sao? Lấy trăm họ làm tuổi thọ, nói là biển tuổi thọ.”

“Vì vậy, nên Như lai có tuổi thọ vô lượng.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý do tuổi thọ lâu dài là nhờ không giết hại. Nhưng mạng của trời, người cũng phần nhiều do không sát sinh, đây là nhân vào phần ít tuổi thọ của Đức Phật, nên nói: “Tất cả mạng đều vào trong biển mạng của Phật”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Biển thâu nhận các dòng chảy không có thêm, đều là do muôn điều thiện của, đất đúc lại nơi quả cùng cực, do nhân đầy là thường”. Lại, Kinh Thắng Man nói: “Như lai tạng, tức là Phật tánh, ở nhân là Tạng, ở quả là Phật, chẳng phải đầu, chẳng phải cuối ẩn, hiển mà khác. Nếu chúng sinh không có tánh, thì giữa chừng cũng có thể bị cắt đứt, vì nghĩa của Phật tánh kia không mất, nên chắc chắn sẽ thành Phật. Đến Phật tức là thường, như các dòng sông chảy ra biển, lại khó chảy đi, cho nên “Hoặc” hết, hạnh khắp, chứng được Phật tự thường”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Biển là đồ đựng để thâu nạp dòng chảy. Tuổi thọ của Như lai là cùng cực của các tuổi thọ. Nghiên cứu phân tách ý chỉ của tuổi thọ kia, gồm có ba nghĩa: Hai nghĩa kia sâu kín, một nghĩa từ văn :

1. Nói mạng sống lâu của chúng sinh, đều là tuổi thọ của Như lai, ở trong biển, không ai hơn Đức Phật.

2. Tuổi thọ của chúng sinh dù là vô lượng, nhưng trôi lăn mãi không nhất định, đến Phật mới dừng lại.

3. Nói về ngày mà Bồ-tát còn ở hạnh địa đã có ban cho chúng sinh mạng mình, lấy việc này làm nhân. Ngày đắc quả, thì sẽ không được rút ngắn. Tuy nhiên, Kinh nói: “Chúng sinh sinh tử như con tằm dệt thành kén, chẳng phải điều mà bậc Thánh dạy. Mãi đến nay mới nói là thí cho thân mạng là nhân, việc này thật khó hiểu”. Lại nói: “Chúng sinh có thể hãm hại, mà người hành đạo thì không có tâm làm hại, tức gọi bố thí mạng. Đây lại là việc khó hiểu. Bậc Thánh ra đời, chính vì muốn cho người dứt trừ phiền não, dứt sinh tử. Nếu theo ý nghĩa này thì lẽ ra là cướp đoạt mạng sống mà lại nói là thí cho mạng. Sống là sao? Mạng được gọi là sinh, sinh nơi chân thọ, Chân thọ tức là thân pháp tánh. Vì thế, nên bậc Thánh thường bảo chúng sinh tu đạo để nói về tuổi thọ chân thường. Vì ý Thánh ở đây, nên nói là bố thí mạng”.

“Lại, Này người thiện nam! Ví như ao A-nậu-đạt” cho đến “Cũng vậy, Như lai sinh ra tất cả tuổi thọ”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lấy tuổi thọ của trăm họ làm tuổi thọ, cảm thì sẽ sinh ra, sinh ra thì sẽ vô cùng, như vũng chứa nước”.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói về tuổi thọ của trời, người đều do Đức Phật biến hóa mà có, cho nên nói: “Từ mạng của “Như lai xuất ra tất cả mạng ”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ trước nói về nhập, ở ví dụ này nói về xuất. Kinh Đại Phẩm chép: “Tất cả trời, người, Đại tánh sát-lợi, cho đến cư sĩ, tất cả đều do Bồ-tát biến hóa, nói về thời gian ở nhân địa. Thí cho tất cả mạng, đã do công dụng biến hóa, nên thí trở về với chủ biến hóa. Cho nên đến Đức Phật là thường”.

“Này người thiện nam! Ví như trong tất cả các pháp thường” cho đến “Như lai là bậc nhất trong các pháp”, thường nói về hình dáng phù hợp với mạng sống lâu khi còn ở nhân địa, ở quả cùng cực, không nói về sau cùng bất tận, nên dùng ví dụ này, lại nói về vô tận như hư không.

“Như trong các vị thuốc, vị đề hồ là bậc nhất” cho đến “Trong các chúng sinh, tuổi thọ của Như lai là bậc nhất”.

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Khen ngợi chỉ thú thường hiểu biết do cảnh sinh ra, vì có công năng dứt trừ “Hoặc” nên định so sánh với đề hồ.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:” cho đến “Thường nói pháp mầu, như tuôn mưa lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì y theo căn cơ nên thỉnh Đức Phật ở đời, trên là nói quả mầu là thường, chưa nói về dấu vết thì phải diệt. Nay, nhân Bồ-tát Ca-diếp phụng thỉnh, nói thân trượng sáu chẳng phải thật, là lấy dưới để so sánh với trên, là bổn tích dễ biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói lý đã xong, dẫn bốn việc để làm chứng:

  1. Mượn gần để so sánh với xa.
  2. Nói về có tên thường, căn bản ở Đức Phật.
  3. Dẫn pháp tánh làm chứng.
  4. Nói về Nhất thể Tam bảo, chỉ nhất cực làm chứng. Đây là bậc nhất.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp câu hỏi nhằm làm sáng tỏ thường, đã nói ở trước. Dưới đây, thứ hai lại nêu ba duyên làm chứng, đây là thứ nhất, dẫn khuất phục để hỏi: “Đã nói là thường thì lẽ ra thường trụ, đã không trụ thì vô thường.”

Phật dạy: “Này người thiện nam! Nay ông không nên có quan niệm diệt tận đối với Như lai” cho đến “Vậy, nên Như lai thị hiện bỏ thân mà nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm thông của ngoại đạo còn làm cho rút ngắn, kéo dài tự tại, huống chi Đức Như lai có năng lực tự tại để thị hiện đồng với cây độc.”

“Này người thiện nam! Ông nên biết rằng, Phật là pháp thường” cho đến “Đã tu tập và giảng nói cho người khác nghe.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trong chương này có hai phần: Một là hỏi; hai là đáp. Trong đáp có hai bậc: Trước là đáp, đây là kết khuyên.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:” cho đến “Bụi nhỏ thế, tánh cũng không hiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói về nhân quả hiện hành bên trong, trước hỏi về quả thường: “Nếu quả không thường hiện thì làm sao khác với pháp thế gian. Tánh, nghĩa là dị đạo chấp rằng, dùng “Minh sơ” làm tánh thế gian.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói về lý thường của Như lai rõ ràng, chỉ y cứ vào hiện nhập Niết-bàn ngày nay, dường như là luống dối, tức là đồng với thuyết thế gian đã nói. Nếu không có do phân biệt khác thì hoặc giả vì chúng, nên phát câu hỏi này, khiến có sự phê phán rõ ràng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y cứ trong phần đáp về quả, có bốn chương:

1. Gởi gắm ngôn, hạnh trái nhau, đủ thấy rõ bổn tích là thường. Dù biết là thường nhưng ngoại đạo cũng nói có thường.

2. Giải thích danh từ ngã là thường, vốn ở Đức Phật, đã bị ngoại đạo trộm lấy. Nay giải thích về chân, ngụy: Chân, tức là Niết-bàn của Phật pháp, thể Niết-bàn kia là thường. Thường tức là pháp tánh, chỉ cho Niết-bàn xưa, cũng nói là Pháp tánh. Hai giáo đã đồng, thì về sự, phải giải thích tỉ mỉ. Thế nên thứ ba là phân biệt hai danh từ nay xưa đồng nói về pháp tánh. Điều được nói khác với nhau nói về pháp tánh, chỉ vì “Diệt” riêng.

3. Nay, nói pháp tánh là thường mà diệu hữu, quả cùng cực, thể tròn đầy, đủ đức của ba quy y. Vì thế, thứ tư là khuyến khích người tu hành, bảo nên quy y. Có khác gì với có, thật biết bổn tích thích hợp, chỉ vì ngay nơi sự là diệt. Như ngay cả ngoại đạo cũng có lời nói suông, đều không có sự nghiệm. Môn đồ mắc kẹt ở lời nói, không do đâu mà tin. Cúi mong Phật giải thích để cho chân ra chân, ngụy ra ngụy.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là ý thứ hai, chỉ nêu trách nhiệm nặng. Nếu đều không hiện, thì lẽ ra đều là vô thường.”

4. “Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Ví như Trưởng giả”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả không thường hiện, bổn tích không thể giải thích, là nhân dụ để giải thích. trong ví dụ này có bốn phần nghĩa:

  1. Ví dụ Đức Phật ở đời, đọc tụng được ý chỉ, tu hành thành Phật.
  2. Ví dụ Phật mới nhập diệt, được Phật để lại giáo pháp, không hiểu nghĩa sâu, cũng vẫn được làm người trời.
  3. Ví dụ trí tuệ của mình, lại không có từ bi, mong cầu tự độ, không giải thoát rốt ráo, không thành quả Phật.
  4. Tâm cầu thường, thì sinh ra tà kiến. Người có kiến chấp nhiều, thì sẽ đánh mất người trời, ít thì không mất. Trưởng giả dụ cho Phật. Cách giải thích của Pháp sư Bảo Lượng đồng với cách giải thích này, chỉ hợp với phần thứ tư. phần thứ ba, Pháp sư Tăng Tông chia ví dụ thứ tư thành thứ năm.”

“Có nhiều con bò”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là Kinh Tạng. Bò cho ra năm vị, Kinh sinh ra năm quả.”

Sắc, dù mỗi thứ án, nhưng Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tám muôn bốn ngàn pháp tạng”, Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười hai bộ Kinh đồng chung một nhóm”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trở về một giải thoát”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù trong mười hai bộ lý vị, có khác, nhưng đồng một Đức Phật nói.” “Giao cho người chăn”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát mở mang”.

“Đi ăn cỏ uống nước.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái gọi là Chư Phật vì một việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Người, trời là sữa, bơ. Người Nhị thừa là bơ sống, Bồ-tát là bơ chín, chỉ Phật là đề hồ.”

“Người chăn bò kia, vắt lấy sữa rồi tự uống.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đọc tụng, hiểu được chỉ thú Kinh.”

“Trưởng giả chết”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật nhập Niết-bàn”.

Dưới đây là ví dụ thứ hai:

“Tất cả các con bò đều bị bọn cướp đoạt hết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phàm không theo chỉ thú Kinh để tìm hiểu, dụ cho cướp đoạt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù đạt thọ trì, tâm giữ lấy tướng mạnh, đa số là các ngụy tạp nhạp, không được chân lý.”

“Bọn cướp bắt được bò rồi, không có phụ nữ”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người chế biến ra đề hồ, vốn là tài khéo léo của phụ nữ. Nếu thọ từ phụ nữ kia thì sẽ có lý thành. Nay, nói rằng không có phụ nữ là dụ cho không có mở mang, gần gũi bạn Thánh,

Hiền, nên không có thành.”

“Liền tự vắt sữa được rồi liền uống”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phàm phu chấp ngang trái, gồm có ba cách, đây là một trong ba cách đó. Dù không có thầy, nhưng nhờ khéo đọc tụng, hoặc được người, trời cúng dường, rồi chấp cho là phước, là một trong những chấp trước ngang trái.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cách xa Thánh, nói là gần, do được người trời giúp đỡ.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù không xuất ly, nhưng cũng được chút ít việc lành, dụ cho vắt sữa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù không có phương tiện tuệ, nhưng đều dùng tướng, tâm để thọ trì.”

“Bấy giờ, bọn cướp bàn bạc với nhau rằng:” cho đến “Gọi là vị ngon bậc nhất ở thế gian.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là ví dụ thứ ba, biết đại ý Kinh, do người, trời tiến dần, đến kỳ hạn sau cùng sẽ thành Phật. Do phương pháp nào mà được?

Tự biết không hiểu, không có phương tiện.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù được gọi là thường, nhưng thật không hiểu chỉ thu của thường.”

“Chúng ta không có đồ đựng”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát dùng đại bi làm đồ đựng.

Quên mình cứu giúp chúng sinh, tự xét pháp không.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Không biết cách cầu Niết-bàn.”

Pháp sư Đàm Tế nói: “Từ, giới là đồ đựng muôn hạnh, tự biết là “Không”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Rằng, thân này chẳng phải đồ đựng đạo.”

“Dù vắt được sữa cũng không có chỗ chứa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa là cho dù được làm trời, người cũng chẳng phải nhân cầu Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã nói là dù cho, thì không có lý, chẳng những người Nhị thừa vô lậu không thể mà ngay như giải thích về lập ra điều lành của hạnh địa, cũng chẳng phải đối tượng giải thích.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Chẳng những không có chỗ yên định quả cùng cực của Niết-bàn mà dù có được chút điều lành như sữa, cũng không có đồ đựng chánh tín để làm gốc cho điều lành đó.”

“Chúng lại bàn với nhau rằng, chỉ có túi da có thể dùng đựng sữa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn bắt chước Thanh văn thọ thân, như túi da đựng nước, không thể đựng đề hồ.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù biết phương tiện Niết-bàn, nhưng có giỏi đọc tụng, cũng không thể hiểu biết chính đáng, nên chỉ được làm trời người.”

“Dù có đồ đựng, nhưng vì không biết cách làm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cách làm dụ cho tư tuệ, khuấy động dụ cho tu tuệ. Dù tự cầu độ, nhưng không sinh hai tuệ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chính là thuyết không có phương tiện”.

Các trường hợp trên đây chưa nói về như thế, chỉ bảo thủ, chấp mắc trời, người không biết rằng suy xét, mong cầu, còn có người hơn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù muốn thực hành Tiểu thừa, nhưng không biết thực hành, giả danh quán hạnh “Pháp không”.”

“Nước còn khó được, huống chi là bơ sống.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tinh túy, ròng rặc thành bơ. Nước có nhựa khác là nước uống. Người Nhị thừa thành đạo, thân tức là thừa. Nếu không hiểu nghĩa thường, trái với thường này là xa, là hai điều chấp ngang trái.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả hướng dụ cho nước uống. Đắc quả, dụ cho bơ. Đã không có hai tuệ mà chứng đắc, thì với hướng đều không thành.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã không giải mà biết cách nói là su khéo léo của thế tục, còn không dể gì được, huống chi là quả Nhị thừa?”

Pháp sư Đàm Tế nói: “Bảy phương tiện trong Thanh văn hướng, dụ cho nước uống.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sơ địa đến Thất địa, như bơ (sinh tô). Bát địa đến Thập địa, như phó mát bơ chín. Nước uống chẳng phải giới hạn của năm vị. Nay nói đã không biết chứa nhóm lại, để tìm cầu cái khéo của sinh ra vượt hơn, cho đến trụ điều lành hữu lậu của người phàm trước kia, còn không thể được, huống chi trụ vị chân trên, mà có thể được bơ hay sao?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tín đứng đầu năm căn cũng không lập.”

“Vì muốn được đề hồ, bấy giờ bọn cướp vì đề hồ nên đổ thêm nước vào.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ tư. Cầu Thường không được, bèn sinh ra tà kiến.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù biết Kinh này nói có thể được quả thường, nhưng không thể biết được Thường ở đâu. Lại nói “Các pháp thường trụ, nghĩa là đổ thêm nước vào.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ thứ tư. Đề hồ (phó mát) là vật, chất nó rất trong. Vì muốn chóng được, nên đổ thêm nước vào để nó được trong. Đây là tương tự sắc trong, vị nó thì khác. Dù biết Niết-bàn là pháp thường, lạc, nhưng vì muốn chứng đắc nhanh chóng, nên chấp thân này chính là thường, lạc, tên thì đồng mà thật ra thì khác. Ví như đổ thêm nước vào, thì sẽ làm hao hụt sữa có lẫn máu. Nếu chấp thân là

“Ta” thì sẽ gây tổn hại điều lành của trời, người.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là dụ thứ ba, đều sinh ra các tà kiến.”

“Vì nước nhiều, nên tất cả sữa, bơ, pho mát (đề hồ) đều bị hỏng.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lại nói là Kinh được thắng giải thường trụ mà không biết lại nói các pháp tà thường. Tà thường đã tăng thêm thì sẽ làm hư hoại vị vốn thường, cả năm thời đều mất, là ba chấp ngang trái.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người tà kiến nhiều, làm dứt gốc lành, người trời đều mất. Người ít tà kiến, do tin nhân quả.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Thêm vào nước thường đảo, sẽ phá hoại chân thường, nên cả năm vị đều mất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ thứ năm, bị dứt mất gốc lành, cho đến nhân quả trời, người đều mất!”

“Phàm phu cũng vậy, dù có pháp lành, nhưng đều là chỗ dư thừa của chánh pháp Như lai.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là hợp thí dụ. Kinh Phật dạy người được giới, định, tuệ. Ba pháp này vốn là đạo quan trọng để thành Phật. Bọn cướp kia vì chấp lấy niềm vui ở đời, nên mất gốc còn thừa, vì vui của đời cho nên bỏ.”

“Vì sao khi Như lai, Thế tôn nhập Niết-bàn” cho đến “Như bọn cướp kia đoạt đàn bò”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vốn không nên lấy, vì đó là niềm vui của người đời mà lấy, gọi là trộm.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp ví dụ thứ hai”. “Các phàm phu dù được giới, định, tuệ, nhưng vì không có phương tiện, nên không thể giải thoát.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì không hiểu giới, định, tuệ là nghĩa của nhân thường trụ, giải thoát, nên không hiểu giải thoát, hợp hai thứ chấp ngang trái.

“Vì nghĩa này, nên họ không thể được” cho đến “Không biết phương tiện nên quên mất đề hồ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là hợp riêng ví dụ thứ ba ở trên, ở trên nói: “Thêm vào nhiều nước là chưa bị hợp. Vì sao? Vì tà kiến có nhẹ, nặng. Nặng, là nói không có nhân quả, trời, người đều mất. Nhẹ là chấp lầm Niết-bàn, hoặc được làm trời, người.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nêu ví dụ thứ tư, mà trước, hợp ví dụ thứ năm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là hợp ví dụ thứ ba, thiếu không hợp dụ đầu.”

“Các phàm phu ấy có chút phạm hạnh” cho đến “Như bọn cướp kia được sữa pha với nước.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù lại thêm thường, người chưa dứt gốc lành, cũng do chút việc lành, được sinh lên các tầng trời cõi Dục, hợp với ba thứ ngang.”

“Mà hạng phàm phu ấy thật sự không biết” nhân cho đến “Lại tuy nói mà thật không biết.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì họ còn không biết việc lành thế gian, nên sinh lên cõi trời, chẳng lẽ biết Tam bảo hay sao?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong sữa pha thêm nước này, là pha thêm ít nước. Không biết do tu phạm hạnh, nghĩa là nhân gần của trời, người còn không biết được, huống chi nhân thường ra đời mà biết hay sao?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tu chút phạm hạnh, được hưởng chút vui, phải tự phân rõ mà ăn, như bọn cướp kia pha thêm nước vào sữa, lại nêu ví dụ thứ tư.

“Mà phàm phu ấy thật sự không thể biết nhân chút phạm hạnh: Tức là pha thêm nước (Nhân gọi là lý do). Đã chấp thân là thường, thì đâu thấu suốt lý do của chân thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là giải thích giáo”. Xưa, chủ trương ngoại đạo sinh lên cõi trời, nghĩa là nói dùng tà kiến làm nhân. Ở đây giải thích: “Chẳng phải dùng tà kiến làm nhân, chính là xưa nói rằng, cúng dường cha mẹ, là điều lành hiếu kính làm nhân. Ngoại đạo không biết được lý này, đâu biết được con đường ra khỏi sinh tử, vì điên đảo chấp ngang trái nên trở thành Đại tà.”

“Vì thế, nên sau khi Như lai ra đời” cho đến “Bọn cướp tan rã, đàn bò vẫn còn nguyên.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sau Phật ra đời, nói chân thường.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho sau Đức Phật giáng sinh, phàm phu mong cầu ngang trái, về lý vốn thường còn, Chư Phật ba đời đồng chung một đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Năm ví dụ trên nói về ngoại đạo trộm được danh thường mà không phải thật là thường. Nay nói tên thường, trước sau trở về với Phật.

Hợp thí trước kia đã xong, nghĩa này là sinh.”

“Bấy giờ, vua Chuyển Luân liền giao đàn bò” cho đến “Tất cả người dân không bị bệnh khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói Đức Thích-ca ra đời, lại giao phó pháp thường, cho Bồ-tát.”

“Vua chuyển luân ra đời” cho đến “Bây giờ, Như lai khéo giảng nói pháp thế gian và ra đời gian”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Khéo nói điều lành thế gian, cho nên được nghĩa thường trụ, huống chi là pháp ra đời ư? Đã bỏ phàm phu, được mang về quả Phật.”

“Vì chúng sinh, Như lai đã bảo các Bồ-tát hãy theo đó để giảng nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Để giao cho Bồ-tát, giúp cho được thắng giải thường, đạo gồm thiên hạ.”

“Các Đại Bồ-tát đã được đề hồ” cho đến “Cái gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Gồm có hai ý: Trước, hợp với bọn cướp trốn mất. Sau, hợp với Như lai giao phó cho Bồ-tát nhiệm vụ.”

“Này người thiện nam! Vì những nghĩa ấy, nên” cho đến “Gọi là pháp thường trụ thì chủ yếu là Như lai, chứ chẳng phải pháp nào khác.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói theo trên đây, pháp thường hư, thật đều có rõ ràng.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Kết thúc trả lời câu hỏi.”

“Này người thiện nam! Phải biết như thế biết thân Như lai” cho đến đi theo chỗ ta đã đi đến chỗ ta đã đến.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Khuyên thọ trì”.

“Này người thiện nam! Nếu có người nào tu tập hai chữ như thị” cho đến “Tức là pháp tánh của Chư Phật.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp: Không còn có nghĩa phi pháp. Tánh, nghĩa là nghĩa chân cùng cực không có thay đổi, tức chân mà không có biến đổi, chẳng lẽ có diệt hay sao? Nay, nói diệt là pháp tánh, vì không có đối tượng diệt mà thôi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát thông đạt pháp tánh, thành Phật Niết-bàn. Pháp tánh vô diệt, Niết-bàn thường trụ. Đây là nói nghĩa trên quả của hạnh bên trong, phàm phu chẳng hiểu “Không”, nên chẳng chứng được Niết-bàn, dùng “Không” để chứng Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, thứ ba, chứng địa của quả Phật, vì dùng pháp tánh làm tuổi thọ, cho nên dài xa.”

Có người giải thích: “Tướng diệt này là “Diệt” của “Đoạn diệt”. Nói thế không đúng! Vì sao? Vì văn dưới đây có câu kết: “Tức là pháp tánh của Chư Phật”, chẳng lẽ là lời đoạn diệt ư?”

Nay, giải thích: “Nếu người nào có khả năng yên định hai chữ này là “Diệt” của “Tịnh diệt”, thì Đức Phật đối với người đó là thật sự nhập Niết-bàn chữ Y, nên nói: Vì sao? Vì tức là pháp tánh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nay con hiểu thế nào về nghĩa ấy?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước kia cho rằng: Diệt là pháp tánh, dường như thân trượng sáu vẫn còn. Nếu Thân trượng sáu là thật thì nên xuất ra từ trong “Phi pháp”, mà pháp tánh không có “Phi pháp”, thì đâu có thân trượng sáu ư? Thân và pháp tánh không thể đồng nhau, mà có thân chưa hiểu rõ ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chấp phương tiện làm lời hỏi, chân cực không có thay đổi, gọi là pháp tánh, phải bỏ thân, trí, sau đó là đúng. Nay, thân đã không diệt, lại nói là tánh, là lý của ánh nắng, giọt sương, cả hai không phải cùng tồn tại, làm sao biết được nghĩa này?”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói Niết-bàn là pháp tánh của Phật, tương tự như Niết-bàn là pháp tánh. Nay, muốn nói pháp tánh là thể của pháp thân thường trụ, Pháp tánh tức là pháp thân, nếu dùng diệt tận làm pháp tánh, thì vì không có cái có, chẳng lẽ có pháp thân ư? Nếu có pháp thân, chẳng phải diệt hết thì đâu có pháp tánh? Vì hai việc, không được đồng đều.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là văn thứ hai. Pháp tánh mà giáo nay nói, nghĩa là quả viên chẳng có “Phi”, nên nói thể của pháp không thay đổi, nên gọi là tánh, danh và xưa đồng sự phải phân biệt.”

“Phật bảo Ca-diếp: Này người thiện nam! Nay ông không nên” cho đến “Pháp tánh không có diệt.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp tánh chiếu soi tròn đầy, lý thật sự thường còn, cho đến ứng cảm, đâu tạm bỏ dở?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tìm gốc để chứng cho ngọn, đó là hữu vi, sinh diệt theo chiều ngang! Pháp tánh xưa nay chẳng thật có, nên không có diệt. Như lai cũng xưa nay chẳng thật có, chẳng lẽ có diệt hay sao?”

“Này người thiện nam! Ví như trời Vô tưởng” cho đến “Các Thanh văn, Duyên giác chẳng phải biết được”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu thọ báo sắc, tâm, thì cần phải trực tiếp dùng tưởng sâu kín. Người Nhị thừa không biết, gọi là trời Vô tưởng, là sự gần không phải cảnh giới của ông, huống chi là vô lậu ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo Kinh này nói, cho đến “Bốn không” ở đây đều có sắc. Nay, trời Vô tưởng, là cõi trên hết của bốn phàm phu, trong bốn thiền. Dưới tầng trời Na-hàm có một địa này, dù có sắc thân, nhưng vì tâm của địa đó sâu kín nên tưởng Vô sắc, chỉ có Đức Phật mới biết, ngoài ra, không ai hiểu rõ.

“Này người thiện nam! Ông không nên nói rằng, thân Như lai” cho đến các “Thanh văn, Duyên giác không thể biết được”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng lẽ đối với pháp mầu nhiệm cùng cực của Như lai, mà có thể biết ư? Xưa, Đức Phật chỉ thị hiện diệt riêng để làm pháp tánh, đó là quyền không phải thật.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Nay ông không nghĩ lường” cho đến “Các thứ phương tiện không thể nghĩ bàn.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là Phật khuyên răn.”

“Này người thiện nam! Ông phải nên tu tập” cho đến “Tu tưởng thường, thì có chỗ quy y”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật thật sự không diệt. Sau Phật nhập Niết-bàn, không nghe Kinh này, rồi nghĩ là thật diệt, dựa vào Tam bảo thể khác mà xuất gia, thọ giới, không thành thanh tịnh, đầy đủ ba quy y. Nếu người nào nghe Kinh mà không tin, thì dù cho người ấy xuất gia, cũng không thể thành tựu quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn văn thứ tư, trước nói pháp tánh, nếu chẳng phải diệt đơn lẻ thì “Diệu hữu” có thể trở về. Nếu yên tâm đối với “Chẳng phải không có”, thì sẽ nhận thức được quả chân. Thế nên nêu ba quy y để tiêu biểu có phương tiện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì chỉ cho địa vị cùng cực, cho nên là Thường. Nói ba pháp này là một thể mà không có ba, nên nói không có tướng khác. Thể là sừng sững, nên nói là tướng vô thường. Vì không bị ba tướng làm dời đổi, nên không biến thành tướng khác.

Nhất thể Tam bảo: Chính là nói về ba nghĩa của Thể một Đức Phật. Chỉ vì tâm gọi đầu tiên, thích hợp với pháp thể. Muôn tưởng đều là danh của nghĩa, không có danh của thể riêng, danh của nghĩa giác thì khác, vì thế, Phật Bảo là “Đương thể”. Ngoài ra Pháp, Tăng thuộc về Danh của nghĩa.

Xưa nói ba thể Tam bảo đều khác nhau. Nay, vì đặt pháp và Tăng của ngày xưa trên Phật, nên nói là Tam bảo của Nhất Thể Phật, dùng nghĩa giác sát làm Phật Bảo, với thể không có “Phi pháp”. Vì đầy đủ các thứ công đức, nên gọi là Pháp bảo, với thể không ngăn cách chúng sinh thì hòa hợp với lý, gọi là Tăng bảo. Nếu người vì tu khác với ba pháp này thì phải biết người ấy không thành quy y thanh tịnh.

Đã nói Phật bảo chưa cùng cực, thì làm sao được giới cụ túc ư? Không nói số đầu đều ít, chính là nói rằng, giới không phải phẩm thượng. Nếu nương tựa ba quy y thường trụ thì sẽ được giới cụ túc. Hạnh sinh ra từ địa vị Tín. Nay tín chưa tròn, thì giới đã được đâu thể chấp nhận là đầy đủ ư? Xưa Đức Phật tự nói: “Ta là Nhị thừa”, nay dựa vào Tam bảo khác nhau, còn không thể được, như ta tạo nên quả gần của Thanh văn, Duyên giác, huống chi không nương tựa vào ba quy y thường trụ, mà lại được vào địa vị Chân thánh vô lậu hay sao?” Cho nên chấp giáo hiểu Kinh, việc ấy là sai lầm!”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là Đại ý thứ ba trong phần đáp câu hỏi. Thứ ba là đại ý vì xưa, nói về Tam bảo, vì nói chỉ thú chưa chu toàn, nên tâm quy y chưa chính đáng. Nay, nói về pháp tánh thể đầy đủ Tam bảo còn mãi bất diệt. Đây là tâm quy y cần thay đổi. Vì vậy, một chương này đủ nói về quy y chính đáng, gồm có ba lượt:

  1. Đức Phật tự nói về lý, khuyên chúng sinh hãy quy y.
  2. Bồ-tát Ca-diếp đặt ra câu hỏi, Phật đáp.
  3. Bồ-tát Ca-diếp trình bày ý chỉ Phật khen ngợi thành tựu.

Tam bảo không có tự thể riêng lẻ, nên nói “Không có khác”. Vì không dời đổi, nên chẳng phải vô thường. Vì không có sửa đổi ngu thành trí nữa, nên không thay đổi.

“Này,Ca-diếp! Ví như do nơi cây nên có bóng cây” cho đến “Ví như trong chỗ tối có cây mà không có bóng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cây dụ cho Phật, bóng dụ cho quy y. Không có cây thì không có bóng, không có Phật thì không có chỗ nương tựa. Có cây không có bóng, nghĩa là trong chỗ tối có cây không có bóng. Đức Phật dù vẫn còn mà không hiện, thì sẽ không thành quy y.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói vì có lý thường, nên được nghĩa quy y, như có cây thì có bóng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Kế nhau giải thích: “Hễ có tâm “Năng quy”, thì sẽ có lý “Sở quy”. Đây là giải thích câu hỏi của Bồ-tát Cadiếp, tức là được dịp. Căn cứ vào văn, lại có lúc không được dịp: Theo cách giải thích xưa thì cây ở đây dụ cho pháp thân chân thật, bóng dụ cho ứng thân. Đối với văn trước thì có dịp, đối với câu hỏi thì không có dịp.

Hai cách giải thích này đều không phải một bên, chưa được thích ý trọn vẹn, đều không tăng lên được ý văn. Nay nói: Có quy y, chính là nói “Diệu hữu” của quả cùng cực là thường thì có đức của quy y. Nếu không có đức này thì nghĩa “Có” cũng mất, cho nên Bồ-tát Ca-diếp y theo bóng để thưa hỏi, là vì muốn cho không có đức của quy y.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Tâm của năng quy y vì sau cùng có hkả năng thành Phật, nên lấy cây dụ cho tâm quy y, bóng dụ cho Phật đã thành, nên nói: “Nhân cây nên có bóng”.

“Này người thiện nam! Ông không nên nói có cây mà không có bóng” cho đến “ Mỗi mỗi đều khác, nên trở thành vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trăng, sao có ánh sáng. Cây có bóng tối, chỉ vì nhỏ nhiệm, nên nhục nhãn không thấy được. Pháp thân cũng vậy, ông chẳng thấy được.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Chớ nên không thấy mà nói là “Không có”. Pháp thân thường trụ, vì tuệ nhãn thấy, nên nghĩa quy là có nhưng nhục nhãn không thấy, rồi cho là không có nghĩa quy y thường trụ!

Ở đầu phẩm này khuyên hỏi rằng: “Nếu quy, tức là ba quy thường trụ này”, lại nói: “Nếu giới, tức là đấng Đại từ, đại bi trước xem chúng sinh như con một.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên nhãn nhờ ánh sáng của “Không” nhỏ nhiệm, mà ngắm nhìn sắc, nên không đồng với công dụng của nhục nhãn.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:” cho đến mà được sống lâu, là khéo biết những đời đã qua.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, thuật lại chỉ thú, mở rộng biến hóa, có hai điểm khác nhau: Trước, Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội thắng giải. Sau, Đức Phật khen ngợi thành tựu.”