ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 20: PHẠM HẠNH

Phần 1

  • Giải thích bảy pháp lành là phạm hạnh, là biết pháp biết nghĩa…
  • Giải thích mười hai bộ kinh.
  • Nói rộng bốn tâm Vô lượng.
  • Nói Người ái hành phần nhiều tu hỷ, xả, người kiến hành phần nhiều tu từ bi.
  • Giải thích rộng về bốn số nhất định vô lượng.
  • Giải thích nghĩa người trong oán, thân có chín phẩm.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng bốn đẳng làm thể, gốc là đạo Phạm thiên, vẫn là tên gốc. Cũng nói Phạm nghĩa là thanh tịnh. Hạnh Thánh là tự tịnh, bốn đẳng là tịnh người khác, nên được gọi là Phạm. Người có phạm hạnh, trước dùng bảy việc lành để tự sửa mình cho chính đáng, sau là dùng bốn đẳng để chánh người. Gọi bảy việc lành trước để sửa đổi bên trong, đủ ba việc lành sau, nhằm sửa đổi bên ngoài, đều là nghĩa tự chánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại khái phán quyết phẩm này có bốn đoạn:

  1. Nêu bảy việc lành, để làm thể cho tự tu hành.
  2. Từ “Bốn tâm vô lượng trở xuống, đến cuối sáu niệm, chính là nói về hóa độ bên ngoài.
  3. Thể đã bày, tức là khen ngợi sự truyền bá.
  4. Vua A-xà-thế làm chứng cho kinh này, có công năng dứt trừ Đại ác, đồng thời cũng chứng tỏ lòng từ bi có lợi ích thật sự.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này có năm đoạn:
  1. Nói về nhân của Phạm hạnh, tức bảy việc lành.
  2. Nói về thể của Phạm hạnh, tức bốn vô lượng.
  3. Nói về quả của Phạm hạnh.
  4. Khen ngợi kinh.
  5. Dùng A-xà-thế làm chứng.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Sáu là biết chúng, bảy là biết cao thấp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bảy pháp lành chẳng phải phạm hạnh. Y theo bảy pháp lành, năm pháp trước là tự thực hành, hai pháp sau là hóa độ người. Vì đủ bảy pháp lành, nên có được bốn vô lượng, thành tựu công hạnh hóa độ người.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát tu phạm hạnh như thế nào?” cho đến “Tất cả như vậy, gọi là Tu-đa-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tu-đa-la gồm có năm nghĩa, như kinh có nêu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Biết pháp, là biết mười hai bộ kinh. Từ câu: “Tôi nghe như vầy”“ cho đến “Vui mừng vâng hành.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói là biết mười hai bộ kinh, nhưng ở đây nói tức là “Pháp biện”, biết được phạm vi của pháp, về danh, tướng thể khác nhau, thấu suốt một cách tốt đẹp về chỉ thú của pháp và chẳng phải pháp biện như thế nào? Đó là lý do ở đây y theo “Pháp biện” để lấy pháp.

Mười hai bộ kinh nói, về mặt lý, chẳng có lý nào không thông suốt qua các pháp như: Bốn đế, mười hai nhân duyên…, không có một kinh nào không nói về lý này, vì thế, nên đi suốt qua các bộ. Nay, nói về sự khác nhau của các bộ đó. Theo nghĩa sự đã nói, để nêu lên các sự khác nhau. Nhưng danh từ mười hai bộ, đều là âm nước ngoài. Tu-đala, Hán dịch là Pháp bổn (gốc pháp), cũng dịch là kinh bổn, vì có công năng sinh ra trí của cảnh quán, nên gọi là gốc pháp. Nếu tứ “Tôi nghe như vầy” trở xuống, cho đến câu “Vui mừng vâng hành”. Tóm lại, về lý văn chung thành mười một bộ làm gốc. Chính vì nghĩa này nên gọi là Tu-đa-la.”

“Những gì gọi là Kỳ-dạ kinh” cho đến “Không còn thọ các hữu, đây gọi là kinh Kỳ-dạ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hán dịch là kệ Trùng tụng, văn xuôi đã nói, lại trùng tụng giúp cho hiển bày nghĩa này, nên nói lên khác hẳn các bộ khác.”

“Những gì gọi là kinh Thọ Ký?” cho đến “Hiệu là Di-lặc, đó gọi là kinh Thọ Ký.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên-trúc nói Hòa-già-la-na. Xưa khi chưa nói bốn đế thì thọ ký chỉ ghi nhận rằng: “Từ sau không giáo, nói về thọ ký trong đương lai sẽ thành Phật với danh hiệu, cõi nước, gọi là kinh Thọ Ký, cũng vì lấy nghĩa thọ ký này mà thành khác nhau.”

Thế nào gọi là kinh Già-đà?” cho đến “Là giáo của Chư Phật, đây gọi là kinh Già-đà.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trừ Tu-đà-la và các giới luật, nghĩa là trừ trùng tụng Tu-đà-la và trùng tụng giới luật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây trừ mười một bộ dịch thẳng là kệ, nghĩa là không tụng văn xuôi, cũng do tụng về thứ khác mà thành khác.”

Những gì gọi là kinh Ưu-đà-na” cho đến “Vô vấn tự thuyết”, Đây gọi là Ưu-đà-na.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là kinh Vô vấn tự thuyết. Các Tỳ-kheo đều nghi rằng: “Đức Phật xuất định đã lâu mà không ai hỏi, liền dùng Tha tâm trí mà tự nói rằng: “Này các Tỳ-kheo! Tất cả các vị trời có tuổi thọ rất dài so với con người. Lành thay! CácTỳ-kheo biết vì người, không cầu lợi cho riêng mình, ít muốn biết đủ và giải quyết các nghi ngờ”. Vì muốn cứu độ chúng sinh, nên Đức Phật mới nghĩ ra cách giải thích này.”

“Thế nào là kinh Ni-đà-na?” cho đến “Giọt nước dù nhỏ, dần đầy lu lớn”. Như trên đây, gọi là kinh Ni-đà-na.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nguyên nhân căn bản, là trước nói nhân duyên, sau nói kệ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì nhân duyên nên nói kệ, không dùng kệ làm nhân duyên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ có người phạm tội thì nhân việc đó mà chế giới, nên gọi là nhân duyên. Do nhân duyên chế giới này mà khác hẳn với bộ khác.”

Thế nào là kinh A-ba-đà-na?” cho đến “Đây gọi là kinh A-ba-đàna.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hán dịch là thí dụ kinh, lý rất sâu mầu, không thể dùng lời nói thẳng để nhận lấy sự tỏ ngộ. Nếu không mượn việc bên ngoài, thì sẽ không có lý do để so sánh với giáo đã giải thích.”

Thế nào gọi là Y-đế-viết-đa-già kinh” cho đến “Đó gọi là Y-đếviết-đa-già.” (Bổn sư)

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi là Nhật giới kinh, nghĩa là khi Đức Thích-ca ra đời, thường nói về pháp tánh. Kinh này lấy danh hiệu như thế. Chư Phật quá khứ đã đặt danh hiệu như thế, gọi là Như thị ngữ kinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là Như thị ngữ kinh. Phật đời quá khứ khi nói kinh đã đặt ra tên gọi như thế. Đức Thích-ca gọi là giới, để phân biệt với nghĩa khác của giới pháp tướng.

Phật Cưu-lưu-tần dịch là Trống Cam lộ, ý nói bôi chất độc lên mặt trống. Người nghe tiếng trống đánh, mọi chứng bệnh dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói chung, Đức Thích-ca đã nói kinh trong mỗi lần hóa độ gọi là Nhật giới kinh. Cho đến Phật Thích-ca gọi là Phân biệt. Không dùng việc quá khứ để chứng minh cho việc nay.”

“Thế nào gọi là kinh Xà-đà-già?” cho đến “Có thể thọ thân, đó gọi là Xà-đà-già kinh” (Bổn sinh).

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là kinh Bổn Sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như trong Pháp Hoa chia làm hai Bổn sinh và Bổn sự. Nay, trong đây chỉ lấy nghĩa sự như Đức Phật đã từng làm vua Túc Tán… khi thực hành hạnh Bồ-tát ở đời quá khứ, dùng làm một bộ. Nếu chỉ nêu Bổn sinh của Đức Phật, thì các việc ở đời sống cũng tùy, vì thế, nên y cứ thì chung, mà dấu vết thì riêng.”

“Thế nào gọi là kinh Tỳ-phật-lược?” cho đến “Cũng như hư không.

Đây gọi là Tỳ-phật-lược.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là kinh Phương Quảng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thuở xưa vì chỉ nhận lấy câu, lời văn rộng của kinh, trong mười hai năm nên cho là kinh rộng, không được gọi “Phương”. Từ Thông giáo về sau, mãi đến Niết-bàn hiện nay, như chỉ một bài kệ bốn câu của Bồ-tát ở núi Tuyết cũng đủ gồm thiếp cùng tận lý của hai luân hữu vi và vô vi, tất nhiên sẽ không có pháp nào, đối tượng nào mà không bao gồm nên nói là Phương Quảng.”

“Thế nào gọi là kinh Vị Tằng Hữu?” cho đến “Các kinh như thế…, đều gọi là Vị Tằng hữu.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên-trúc dịch là A-phù-đa-đạtma. Bất luận việc ít có nào cũng đều được gọi là Vị Tằng hữu. Chẳng hạn như con bò Đại thanh bưóc đi trên bát sành, làm cho các bát sành va chạm nhau nghe rổn rảng mà không cái nào bị vỡ. Những chuyện như thế…, đều gọi là kinh Vị Tằng Hữu.”

“Thế nào gọi là kinh Ưu-bà-đề-xá?” cho đến “Mười hai bộ kinh, gọi là biết pháp.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hán dịch là luận nghĩa kinh. Lý tướng rất sâu kín, cho nên nếu không nhờ việc bàn luận qua lại thì về nghĩa sẽ không rõ ràng. Cho nên dùng việc nghị luận để lập riêng một bộ. Nhưng mười hai bộ này đều có văn, lý, như bài kệ “Nhà lửa”, nếu Tu-đa-la lấy việc trong dĩ vãng thì nêu thể là pháp bổn. Nếu dùng kệ tụng dĩ vãng để xét định, thì là Kỳ-dạ ngữ, là ví dụ, tức kinh Ví dụ. Như ba nghĩa này là văn của ba nhà, ở đây không có, vì lý mà không có lời văn, hay chỉ có văn mà không có lý.”

“Thế nào là Đại Bồ-tát biết nghĩa?” cho đến “Biết rộng nghĩa của kinh.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu người không biết được nghĩa kinh thì đối với đạo của mình chưa được thành thục, thì liệu có thể dùng sự hiểu biết để đem lại lợi ích cho chúng sinh ư? Vì lẽ đó, nên điều cần thiết nhất là phải biết pháp và nghĩa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, không còn có chỉ thú khác. Chính vì hiểu biết sâu sắc về mười hai danh hiệu của kinh này, vì nguyên nhân dưới đây, nên gọi là biết nghĩa.”

“Thế nào là Đại Bồ-tát biết thời?” cho đến “Bát-nhã ba-la-mật. Đó gọi là biết thời.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về hóa độ chúng sinh, thì phải biết thời. Nếu không như thế mất đi căn cơ của chúng sinh đó, há thành hóa độ ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, biết rành về thời tu hành đạo nghiệp, thì về lý sẽ được tốt đẹp hơn, không có thiếu sót.

“Thế nào là Đại Bồ-tát biết đủ?” cho đến “Ngủ, thức, nói nín. Đó gọi là biết đủ.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu không biết đủ, thì chỉ có lợi là ngày càng tham lam, bỏn sẻn mãi mà không bỏ, thì đâu thể nào dùng từ bi để cứu độ chúng sinh ư? Thế nên phải biết đủ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư, đối với bốn oai nghi, phải biết rõ lúc nào động, lúc nào tĩnh, sao cho không trái với ba nghiệp mà làm chướng ngại đạo.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Đáp như vậy, gọi là biết mình.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đạo tự biết mình và cả chúng sanh. Sau đó mới dùng sự hiểu biết của mình để hóa độ chúng sinh, có thể nói là tự biết mình.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm, nếu không tự giác biết mình có đức, thì cũng nên biết nhận thức sai lầm về nghĩa tinh tấn sâu sắc. Vì thế, nên có thể tự biết mình có hiểu được ít nhiều, có thể trang nghiêm cho nghiệp của tâm.

“Đại Bồ-tát biết chúng như thế nào?” cho đến “Hỏi, đáp như vậy gọi là biết chúng.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng có các loài, không thể dùng ngôn ngữ của một vùng mà thích hợp với đa số quần chúng kia. Vì thế, nên phải biết quần chúng đều khác nhau về ngôn ngữ, chủng loại để thích ứng với họ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp thứ sáu, là nên biết về phong tục, phép tắc, nghi lễ của từng cõi nước. Nếu không biết rành thì sẽ không tránh khỏi nhiều trở ngại trong việc hóa đạo.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Bảy pháp lành sẽ được đầy đủ phạm hạnh?”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đối với người biết đạo cao hơn ta, thì tỏ lòng tôn kính. Đối với người hiểu đạo kém hơn ta thì dùng từ để cứu giúp họ.

Trên đây là bảy pháp lành, thành tựu, thỏa mãn bốn hạnh cần thiết. Vì thế nên phải nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp lành thứ bảy, y cứ ở thực hành điều lành, nghĩa là có cao, thấp, hơn, thua như kinh đã chỉ bày về thực hành điều lành. Người kém thì thấp, người hơn thì tôn quý. Một khi đã hội đủ bảy pháp lành này rồi, thì được tự tại vừa ý, thích ứng với chúng sinh, như ngọc báu như ý.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Lại có Phạm hạnh, đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đầu tiên nói về tướng của bốn vô lượng. Bốn đều là từ, từ cạn đến sâu là bốn. Luận có văn mô tả rõ ràng, không phí lời lẽ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ, Bi, Hỷ, Xả chính là tánh tuệ. Vì công dụng của chúng có hơn kém, đặt tên của một vùng, cho nên nói bốn. Nói vô lượng, gọi là “Sở duyên”, như Bi cứu vớt đối tượng khổ, thì có tình thức nhờ cứu độ. vì tình cảm không giúp ích thiên vị, riêng tư, mà là “Duyên” vô lượng, nên gọi là vô lượng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn lớn thứ hai, nói về hạnh hóa độ người, được chia thành bảy lớp:

  1. Nói về danh số bốn vô lượng.
  2. Nói về sự cạn sâu của bốn tâm.
  3. Chứng tỏ bốn hạnh này là thật.
  4. Lược kết ba vô lượng. Quả ở Sơ địa, y cứ phần vị trong “Hữu”.
  5. Kết riêng quả “Xả” cũng ở Sơ địa, y theo “Không” làm phần vị.
  6. Nói sau khi bốn tâm đã thành, tiến lên Sơ địa trở đi, lại tiến tu mười một “Không” được đầy đủ, ngang bằng tâm Kim Cương, tức là thường lập ra ba ví dụ để khen ngợi.
  7. Từ “Tám thứ tri kiến, do thứ lớp ba ví dụ trên. Dưới đây, cuối cùng là địa Nhất tử.

Đoạn thứ hai, nói về thể của Phạm hạnh, tức bốn vô lượng, có ba lượt:

1. Danh hiệu cuối cùng là Vô lượng định. Danh từ vô lượng được lập thành bốn:

  • “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Xét theo nghĩa đó lẽ ra chỉ có ba.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây lập ra tất cả năm lớp thưa hỏi. Đây là đoạn hỏi thứ nhất: “Đã nêu lên tuệ của đối tượng trị đồng với từ bi của chủ thể trị, không nên có sự khác nhau, vì thế, nên chỉ có ba, không được bốn?”

  •  “Bạch Đức Thế tôn! Lòng từ có ba duyên: Một là duyên chúng sinh” cho đến “Duyên Như lai gọi là vô duyên.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ hai: “Bốn tâm dù khácmà đều có ba duyên; đó là Duyên chúng sinh, Duyên pháp và Vô duyên”. Đối tượng duyên đã đồng thì lẽ ra chỉ một?”

  • “Bạch Đức Thế tôn! Đối tượng duyên của lòng từ là tất cả chúng sinh” cho đến “Thế nên lẽ ra chỉ có ba, không nên có bốn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ ba: “Nói là có thấy cha, mẹ…, gọi là “Chúng sinh Duyên”. Không thấy cha, mẹ, chỉ “Duyên” năm ấm gốc của chúng sinh. Lìa hai tâm trước tức là “Không”. Vì duyên cảnh đã có, y cứ tâm từ cảnh, thì chỉ nên có ba?”

  • Bạch Đức Thế tôn! Con người có hai hạng: Một là người kiến hạnh” cho đến “Thế nên đáng lẽ có hai, không nên có bốn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ tư: “Vì hai người kiến, và ái lẽ ra là hai? Vì nếu là kiến hạnh, thì sẽ thấy căn cơ nhạy bén. Vì có sức mạnh, cứu giúp là năng lực, nên chỉ tu từ bi, nếu là người ái hạnh, thì chí khí quá đổi yếu hèn, tất nhiên là căn chậm lụt (Độn căn), thấy sự nghiệp thắng lợi vẻ vang của người, chỉ tùy hỷ mà thôi, nên chỉ có hỷ, xả. Thế nên chỉ có hai.”

  • “Bạch Đức Thế tôn! Nói về vô lượng, gọi là vô biên” cho đến “Vì thế, nếu là vô lượng thì lẽ ra nên có một, không nên nói là bốn?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ năm y theo danh tự để hỏi: “Nếu dựa vào nghĩa thích đáng để giải thích vô lượng, thì chính là dùng duyên vô lượng chúng sinh làm cảnh, mà giả làm lời lẽ không thông suốt, đã là nhận lầm ý Phật thì có nghĩa là thể tâm không có bờ mé. Vì thế nếu gọi vô lượng thì sẽ không vượt hơn có bốn? Nếu còn ít thì chỉ nên một?”

Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này người thiện nam! Chư Phật Như lai” cho đến “Đối với hạnh sâu xa của Như lai không nên sinh nghi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây sẽ đáp câu hỏi, trước đức để lộ rõ bí mật: Pháp nói ra mục đích đều vì độ người, chẳng thể với sự nhận thức nông cạn mà đo lường được, không nên toan tính, so đo rằng, nên như thế hay không nên như thế. Trước, nêu nhân duyên là một, mà vì chúng sinh, nên hễ có thuyết giảng nhiều, ít khác nhau, chỉ có Phật mới biết được, đây là mật ý, trừ sinh một pháp, là Tát-già-nikiền Tử, cha là Phạm Chí, mẹ là Ni-kiền, do ông ta bất sinh đúng như pháp, nên vì gìn giữ ý đó, nên không nói là sinh.”

“Này người thiện nam! Như lai, Thế tôn có phương tiện lớn” cho đến “Vì điều phục chúng sinh, há lại nói dối ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, nói về “Miệng mật”.

“Này người thiện nam! Có chúng sinh tham của cải” cho đến

“Nhưng không có nhiễm ô, cũng như hoa sen.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, chỉ rõ về “Thân mật”.

“Này người thiện nam! Nên biết nghĩa của bốn tâm vô lượng như thế” cho đến “Nếu có người tu hành thì sẽ sinh lên tầng trời Đại Phạm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp chung câu hỏi trên, sinh lên tầng trời Đại phạm, là có cạn có sâu. Hai cõi trên đều gọi là Đại phạm. Sơ thiền mới được nghe danh hiệu bốn vô lượng, nói về công hạnh của bốn vô lượng có cạn, có sâu. Kinh nói: “Tu từ thật sâu, sinh Đệ tam thiền, tu bi, sinh không xứ, tu hỷ, sinh thức xứ, tu xả, sinh Bất dụng xứ. Tánh có sâu cạn không nên lìa.”

“Này người thiện nam! Tâm vô lượng này có bốn loại bạn” cho đến “Được gọi là bốn, chẳng phải một, hai, ba.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không vui, nghĩa là ganh ghét. Bốn thứ phiền não, không thể một hạnh mà dứt trừ ngay, phải có các hạnh giúp nhau, là nghĩa bạn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng ba câu để đáp chung câu hỏi:

“Chẳng phải một, hai, ba.”

“Này người thiện nam! Như lời ông nói thì lòng từ sẽ dứt được sân” cho đến “Bạn bè của tâm vô lượng đối nhau, chia thành bốn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói tánh có cạn, sâu, đối trị kiết, phải nhờ bè bạn, có bốn nghĩa. Ở trên nói là hai thứ giận, yêu khác nhau. Nay nói giận có hạ, thượng, đối trị có sâu cạn, cũng phải đợi bạn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ông nói lòng từ có thể dứt được giận, đây là nêu câu hỏi đầu, dù đồng đối trị với giận, nhưng giận có thô, tế. Tâm từ dứt được thô, tâm bi dứt được tế. Nay đối tượng dứt đã khác, thì chủ thể dứt có thể riêng một mình không khác ư? Từ “Sáu câu dưới, giải thích về nghĩa thô tế”. Nói loại bạn đối nhau, nghĩa là từ bi dù là loại bạn, mà vì thô tế đối nhau cho nên thành bốn.”

“Lại, vì pháp khí, cho nên gọi là bốn” cho đến “Vì nghĩa này nên phải là bốn, không bớt được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp hai hạnh kiến, ái đều dùng nhân để đối trị làm câu hỏi. Ở trước, đáp người là pháp khí mà thực hành được lòng từ, nhưng vẫn chưa thể đề cập đức bi, là pháp khí có khác nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ hai, đáp chung câu hỏi thứ ba. Nói khí thế gian có lớn, nhỏ, bốn tâm có sâu cạn khác nhau, đâu được y theo cảnh khiến cho đầy vơi ư? Đồ đựng để đựng vật có công dụng. Cảnh có nghĩa chứa đựng, tâm đâu thể không có?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước đáp câu hỏi thứ tư: Pháp khí lợi độn khác nhau, tự có khả năng thực hành từ bi, mà chưa thể thực hành hỷ, xả, lần lượt đều như thế, thực hành lòng từ bi, tự có cao, thấp, hỷ, xả cũng có cạn sâu. Nếu vậy, thì đâu được hỏi rằng: “Nên hai mà không phải bốn ư?”

“Này người thiện nam! Do thực hành phân biệt, nên phải có bốn” cho đến “Không có hạnh bi, hỷ, xả, cho nên có bốn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp cả hai câu hỏi về nhân duyên: “Dù là nhân duyên, mà trong duyên có khác, chẳng phải một, chẳng phải ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ tư”: Nếu thực hành tâm từ, chưa có bi, hỷ, do bốn hạnh khác nhau, nên từ đầu đến cuối có một người thực hành bốn đức này, thì đâu được dùng căn tánh lợi, độn để nêu lên câu hỏi”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba. Câu hỏi thứ hai rằng: “Một là “Duyên” chúng sinh, hai là duyên pháp cần dùng. Đức Phật không cần duyên. Nếu vậy chỉ là một chúng sinh thôi. Cảnh đã là một, chỉ nên một.” Câu hỏi thứ ba rằng: Một là “Duyên” chúng sinh; hai là “Duyên” “giả danh không ”; ba là “Duyên” “Thật pháp không”, tức cảnh có ba, nên lẽ ra là ba”. Ở đây ý đáp rằng: “Dù nói là cảnh đều đồng, nhưng vì công hạnh của người tu hành có sâu, cạn, nên tự có người có khả năng thực hành một tâm hạnh ban đầu, nhưng không thể thực hành ba hạnh sau. Tự có người có thể thực hành tâm hạnh thứ hai, nhưng không thể thực hành tâm hạnh thứ tư, thì làm sao lại hỏi rằng: “Vì cảnh là đồng, nên phải là một, hay phải là ba?”

“Này người thiện nam! Vì vô lượng nên cũng được gọi là bốn” cho đến “Mới được gọi là vô lượng, vô biên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ năm: “Dù vô lượng gọi là đồng, nhưng hạnh trong ngoài khác, sâu cạn khác, chủ thể là một. Không thể được tam-muội Tự Tại. Mới thực hành hạnh Bồ-tát, chẳng phải vô lượng duyên đem lại cho cha mẹ vô lượng niềm vui, không lấy vô lượng chúng sinh làm duyên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ năm: “Nói “Duyên” vô lượng chúng sinh làm cảnh, nên có sự khác nhau giữa bốn tâm, không nói thể của tâm thông suốt đồng với không có bờ mé, không thể nối tiếp âm thanh thành câu hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ năm: “Tên gọi dù đồng, nhưng về nghĩa thì có bốn cấp bậc, đều gọi là vô lượng, không được thành một.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đó gọi là được Từ chẳng phải đại Từ”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là nói về bốn đẳng thành và không thành. Hạnh đầu tiên là tu tập lòng từ, phải từ gần gũi. Từ gần mà khởi, phiền não khó bỏ. Phiền não dù nhẹ, nhưng khác với oán thân, nên chưa thành đại bi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ nhất ở trước là quyết định bốn vô lượng gọi là giáo. Nay, đoạn hai là nói tâm từ có cạn sâu. Trụ phẩm hạ là cạn, trụ phẩm thượng là sâu. Đối với người trong oán thân, chẳng phải không bình đẳng, giống như cũ gọi là cạn, vì tâm từ khó thành, nhiều lần có lui mất. Nếu trụ phẩm thượng thì sẽ không còn lui sụt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn hai, giải thích cạn sâu, là tâm tưởng tướng mạo hữu lậu, gọi là cạn. Được chân vô lậu, vì một tâm đủ bốn, nên gọi là Đại vô lượng rất sâu xa.

“Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Bồ-tát có tâm Từ như vậy” cho đến “Do nghĩa này nên gọi là Đại vô lượng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thể điều phục tâm trong một ngày, mà phải tu từ thật lâu. Khi tâm từ đã thành thục rồi, cho dù còn phải trải qua sự sinh, tạm thời quên tu tập chăng nữa, thì chỉ cần một ngày là thành tựu, không từ thân khởi. Các ví dụ ở dưới sẽ nói về sự giận dữ rất khó dứt trừ, nói tâm từ rất khó thành.”

 

Phần 2

  • Nói Từ bi có lợi ích chân thật.
  • Nói rộng về việc bố thí, phát nguyện trong tâm từ.
  • Nói rộng về tâm từ mà Bồ-tát tu, tức là muôn hạnh.
  • Nói rộng về lợi ích của đức Từ: Voi trông thấy lực sĩ Sư Tử dời nhà đá đến chỗ trưởng giả Tu-na trước sự chứng kiến của rất nhiều người nữ và Đề-bà-đạt-đa, giặc Kiều-tát-la, Thái tử Lưu-ly.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Tu quán như vậy, chẳng phải luống dối hay sao?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba, nói về Bốn đẳng, là phần thực hành. Thưa hỏi có hai ý. Ở đây lấy hạnh suông làm câu hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc thưa hỏi có ba lớp. Đây là lớp thứ nhất rằng: “Chúng sinh hiện đang còn đau khổ mà không được cứu vớt, chứng tỏ lòng từ chẳng phải thật!?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn lớn thứ ba, nói từ là hạnh thật, sẽ giải thích về lý này, nên trước là, Bồ-tát Ca-diếp đã soạn sẵn câu hỏi về luống dối. Trong đây gồm có sáu lớp. Sau đây là lớp thứ nhất, giải thích thể của tâm từ là hạnh thật. Bồ-tát Ca-diếp sẽ dẫn năm việc, nhằm chứng minh cho câu hỏi về “Không có thật.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu chẳng phải luống dối mà thật sự ban cho niềm vui” cho đến “Vì chúng sinh không nhờ năng lực oai đức của Chư Phật, Bồ-tát, để tất cả đều được thọ vui?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thưa hỏi lớp thứ hai. Nếu tâm từ kia quyết định có lợi ích thật sự, thì tức là chúng sinh chắc chắn sẽ được lìa khổ?”

“Nếu quả thật không được vui” cho đến “Thì làm sao tương ưng với nghĩa này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai này nói về hạnh không thật, sẽ không được quả báo chân thật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, hỏi rằng: “Lấy quả để nghiệm nhân, thì hai việc trái nhau: Hư, thật chưa giải thích, thỉnh cầu Đức Phật giải thích.”

Phật nói: “Lành thay! Thiện nam!” cho đến “Chư Phật, Bồ-tát với lòng Từ chân thật, không luống dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bài kệ đầu nói lòng từ của thế gian. Người tu hành cho rằng bố thí cho là hạnh thật, nên đã bố thí làm phước, tu lòng từ thế gian, đã không có một người, huống chi là lòng từ xuất thế gian. Vì sao? Vì dù yêu thương một người, đem niềm vui cho đời, bố thí không được như vậy, lên xuống dễ hiểu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo phần nói về môn lòng từ có ích thật sự này, có năm lượt làm chứng:

1. Nói tu từ thật sự có công năng chuyển biến cảnh.

2. Nói tâm từ có công năng dứt được phiền não.

3. Nói lòng từ là căn bản của muôn điều lành.

4. Nói về đức từ tức muôn hạnh.

5. Dẫn hạnh từ của quả địa để chứng minh chân thật không luống dối. Đức Phật là biểu trưng cùng cực của lòng từ, được biết nhân địa cũng có lợi ích thân thật. Dù có thể có năm lớp này, nhưng nếu không muốn đáp lại ba câu hỏi thì với năm lớp này đều chứng tỏ lòng từ có lợi ích chân thật, đều đáp câu hỏi đầu thì dưới đây sẽ nêu lại. Câu hỏi thứ hai phát ra đáp riêng, bài kệ này nói: “Công dụng của hạnh từ là tốt đẹp nhất trong các hạnh, đâu chỉ có ích chân thật mà thôi sao? Không thể vì Thanh văn là không thật, rồi làm cho Bồ-tát cũng không thật. Hai câu đã được giảng giải thì câu hỏi thứ ba số tự nhiên được giải thích.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật sẽ đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, trước Đức Phật khen bài kệ, nói về công đức vô lượng lợi ích chân thật của hạnh từ. Vì sao? Vì có người chỉ ở bên cạnh một người khởi lên lòng từ đem đến cho người ấy niềm vui thì trước sau chắc chắn sẽ được ra khỏi sinh tử. Nếu một người dù từng cúng dường vô lượng thần tiên có năm thần thông cho là ruộng phước, cũng chẳng bằng công đức khởi tâm từ đối với người bên cạnh, chỉ bằng một phần sáu. Bởi cúng dường thần tiên, chỉ mới được quả báo sinh tử! Nếu cứu vớt được một người đau khổ thì thật sự được lợi ích xuất thế. Lại hóa độ vô lượng người thì được thoát khỏi sống chết, phải biết rằng lòng từ là thật.

Giải thích tâm từ có ý nghĩa lợi ích thiết thực, văn xuôi cũng tương đương với bài kệ này.

“Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát?” Cho đến tư duy chân thật chẳng phải không chân thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm việc chứng minh tâm từ. Đây là việc thứ nhất, nói về công năng làm cho cảnh (đối tượng) dù không thật, nhưng chúng sanh vẫn được lợi ích chân thật. Như do vàng mà được vui, đất tức là vàng. Nếu không có vàng mà vẫn có được niềm vui thì vàng tức là đất không khác. Lớn nhỏ dung hợp nhau, ngay sự việc đều là thật mà được công dụng đó.”

“Này người thiện nam! Sao gọi là” cho đến “Vì thế nên gọi là tư duy chân thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ hai, vì dứt được kiết, nên biết chẳng phải luống dối.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ ba, do từ có thể sinh ra muôn điều lành, chẳng lẽ không phải thật ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thân bị ghim bởi mũi tên có tẩm thuốc độc, nghĩa là mũi tên tham lam keo kiệt, quyến thuộc muốn cho người đó được yên ổn: Chư Phật, Bồ-tát, liền mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên độc, khiến các ruộng phước đến đó để xin.

Người bị nạn nói: “Đừng chạm đến! Hãy chờ tôi xem mũi tên này từ hướng nào bay đến?” Cho đến “Có thể thí, không thể thí, hoặc tài vật nhiều ít, thời gian có thể bố thí được hay không? Bồ-tát cũng như vậy.

“Nếu lúc thực hành thí cho”: Là hợp với ví dụ.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Thường nên siêng năng phát thệ nguyện như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói chiếc áo rời thân một thước sáu tấc: Như văn kinh dưới nói. Lại nói: “Y phục rời thân bốn tấc không rớt, tức là một bên, bôn tấc bôn bên thành một thước sáu tấc. Ở đây tức là nêu bốn bên của chiếc áo kia, chính là nói một mặt áo.”

“Này người thiện nam! Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát” cho đến “Vì nghĩa này cho nên là chân thật, chẳng luống dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu độ là công hạnh riêng của Bồ-tát. Nói thí cho một việc, năm việc còn lại dễ hiểu. Các hạnh còn lại, Bồ-tát đều thực hành chung với ba thừa. Do vì Phật nói, nên lấy Từ làm gốc. Trước nói “Người”, sau nói “Pháp”, pháp bất tịnh cho đến vô ngã quán, đều nói về hành tướng. Pháp Noãn cho đến Kiến đạo tu đạo, là nói chứng quả sâu cạn. Chánh cần cho đến tám Thánh đạo, là nói tên pháp sâu cạn. Bốn thiền cho đến tam-muội Vô Tránh là nói tên định. Tha tâm trí cho đến Phật trí là nói tên trí. Tóm lại tất cả đều dùng tâm từ làm gốc.”

“Này người thiện nam! Người nào làm việc lành, thì được gọi là tư duy thật” cho đến “Sẽ được vô lượng vô biên công đức.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ tư nói muôn hạnh tức tâm từ, dứt khổ là từ. Ba thừa đều là diệt khổ, phải được chẳng thật, tức là diệt khổ. Tư duy từ này, sẽ được hết khổ, gọi là thừa.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Tâm từ mà Bồ-tát đã tu tập là không có ích lợi”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ năm là nói về tâm Từ, vì hiện có lợi ích chân thật, cho nên mới hỏi.”

“Này người thiện nam! Lòng từ của Bồ-tát” cho đến “Là tư duy thật, chẳng phải không có lợi ích.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có hai thứ chắc chắn sẽ thọ khổ:

1. Vì không cứu vớt.

2. Tuy được niềm vui nhỏ, nhưng lại tăng thêm khổ, đó là Nhấtxiển-đề. Nói về người chắc chắn sẽ chịu quả báo khổ, thật ra cũng không phải chỉ có xiển-đề, mà ngay cả nghiệp ác cũng có, nhưng trạng thái của chúng rất khó nói.

Chịu khổ không nhất định, hễ cho vui thì được, không cho vui thì không được.

Xa thấy Sư tử: Chúng sinh nào không có lòng từ, hễ có người nào gặp thì sẽ cảm thấy sợ hãi! Người có tâm đại bi, dù gặp phải nghịch cảnh, cũng tự nhiên cảm thấy vui, vì có chỗ trở về.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước có hai quan điểm đồng nói về tâm từ có lợi ích chân thật. Đã khiển trách một quan điểm, sẽ bày tỏ sự tích, cho nên, Bồ-tát Ca-diếp lập lại câu hỏi trước, Phật liền giải thích.”

“Này người thiện nam! Như lai nói tâm từ này có vô lượng” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn, cũng không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về pháp thân “Không có duyên”. Nhưng hễ có cảm thì đây sẽ ứng, nhằm chứng tỏ công dụng của đại từ chẳng có khác nhau.”

 

Phần 3

  • Giải thích: ý nghĩa của Địa vị “Cực ái nhất tử”.
  • Nói Đức Phật không bao giờ gây ra nhân duyên phiền não cho chúng sinh.
  • Nói: Giải thích việc giết Bà-la-môn để được địa vị nhất tử.
  • Nói Bà-la-môn vào địa ngục, phát ba niệm.
  • Nói việc giết xiển-đề không có tội.
  • Nêu ra duyên khởi về quỷ thần Khoáng Dã.
  • Phát hiện dấu vết của Điều-đạt.
  • Kết tu tâm xả, đó là địa vị không, bình đẳng.
  • Giải thích rộng về nghĩa mười một không.

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Được trụ vào địa vị Cực ái nhất tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây dùng năm ví dụ giải thích tên địa này.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn bốn là kết ba quả vô lượng, nói Cực ái nhất tử: Đây là Địa thứ bảy. Nói Bồ-tát Thất địa thấy chúng sinh vẫn còn đau khổ, thậm chí máu tuôn chảy xối xả xuống đất. Ái này sâu hơn trước, vì tốt đẹp hơn. Bát địa trở lên, một tâm có đủ muôn hạnh. Vì thôi dứt hai tướng “Không” “Hữu”, cho nên chìm mất ái kia, gọi là thọ tên gọi “Bất bình đẳng”. Sau đây có năm thí dụ:

  1. Thí dụ cực ái.
  2. Thí dụ dưới đây có bốn ví dụ. Ví dụ con một là nói về tâm từ bình đẳng khi mới Đăng địa.”

“Này người thiện nam! Sao địa này gọi là cực ái?” cho đến “Thế nên địa này gọi là cực ái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ nhất nói thấy điều lành thì vui mừng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ cho Hỷ vô lượng.”

“Này người thiện nam! Ví như cha mẹ thấy con đau ốm” cho đến “Vì thế, nên địa này gọi là Nhất tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ hai nói thấy điều xấu ác thì lo lắng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn ví dụ sau đây là nói về khổ bệnh, khổ có nhẹ nặng. Về nghĩa, suy ra có từ bi, nhưng thiếu xả.”

“Này người thiện nam! Ví như con người lúc còn bé thơ, lượm đất cục” cho đến “Vì thế, nên địa vị này gọi là Nhất tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ ba nói về dạy bảo thực hành pháp lành.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tay trái đỡ đầu con, dụ cho thật tuệ. Tay phải móc ra, dụ cho tuệ phương tiện.”

“Này người thiện nam! Ví như đứa con được cha mẹ yêu thương” cho đến “Vì thế, nên địa này gọi là Nhất tử địa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ tư vào địa ngục là vì chúng sinh.

“Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con” cho đến “Vì thế, nên địa này còn gọi là Nhất tử địa”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ năm là nói về không giận thêm ác, hoặc giận thêm ác là khổ vô ích. Bồ-tát không làm việc ấy. Kết xả tự có địa riêng nay chỉ nói ba.”

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lại do nhân duyên gì không đọa vào địa ngục?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe trên đây đã dùng năm ví dụ để giải thích danh hiệu địa. Nay, hỏi Phật: “Vì khi Bồ-tát cắt đứt mạng căn của người đã không tương xứng với ý nghĩa của địa, mà sao vẫn không đọa địa ngục, tiến lùi chưa rõ?”

“Nếu tâm từ bình đẳng, nhìn tất cả chúng sinh” cho đến “Làm sao không trái với nghĩa?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, nêu việc giết Bà-la-môn để hỏi về thân nghiệp của nhân địa. Nay nêu chuyện mắng nhiếc Đề-bàđạt-đa, nhằm thưa hỏi về miệng nghiệp của nhân địa. Nếu thân, miệng đã như vậy, thì ý nghiệp phải biết ra sao rồi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp lập ra hai câu hỏi, có bốn quan điểm. Y cứ từ đầu dẫn đến sau cùng, về sự vì không thiếu sót, nên sau đây sẽ nêu ra sự việc để xem xét Đức Phật không còn như vậy.” “Bạch Đức Thế tôn! Tôn giả Tu-bồ-đề trụ hư không địa” cho đến “Làm cho các chúng sinh khởi tâm ác nặng nề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các Thanh văn còn gìn giữ ý nghĩ mình, huống chi là Phật, Bồ-tát mà khởi việc ác nặng nề ư?”

“Phật bảo Ca-diếp: “Nay, ông không nên cho đến, không bao giờ làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật sẽ chính đáp, trước là mượn ví dụ qua lời lẽ giả thiết, để nói rằng Phật không làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh, có hai ý: Trước, nói Phật thật sự không làm. Sau, nói Bồ-tát Ca-diếp không nên nói như vậy.

Cây Khư-đà-la khi cháy thành tro rồi, hễ đốt thì cháy suốt sáu ngày mới tắt, chất nó chắc, bén nhọn, rất dễ gây thương tích cho người.

“Này người thiện nam! Như ông vừa nói, ngày xưa Như lai” cho đến “Cuối cùng không cướp đi mạng sống của các chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong phần chính thức đáp có ba ý. Đây là ý thứ nhất, nêu sáu độ để nói, chính là thí cho thân mạng mình, đâu thể nói là cướp mạng. Đối với con kiến, còn không vô cớ mà giết, huống chi là Bà-la-môn ư? Nêu ra độ đầu, chỉ nói hiện tại có ích. Nêu năm độ sau, để nói về sự lợi ích của hai đời.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây sẽ đáp về quan điểm trước của câu hỏi đầu: Là pháp Bồ-tát đối với một con kiến, còn không cố giết, huống chi là Bà-la-môn, nhưng tự người này nếu không giết, cũng đọa địa ngục. Nay, bậc Thánh vì làm nhân duyên, nên đã làm cho chúng bỏ mê nhanh chóng. Nếu không làm duyên bên ngoài cho chúng thì sẽ sa đọa không có ngày ra khỏi. Cho nên gieo nhân duyên giải thoát, mà chẳng cho là giết. Nhân đó, sự việc sáng tỏ, nói về việc Bồ-tát làm là thường bố thí cho chúng sinh thọ mạng, sao lại hỏi rằng dứt thân mạng của người kia? Tuy nhiên, Bồ-tát đã thí cho chúng sinh sự sông lâu dài, đó là quả Phật. Mạng của pháp tánh vô vi chỉ có vui, không có khổ, há lại cho chúng sinh kia sự sống chết với mạng ba thọ lạc ấy ư? Nên biết rằng lý đó là tất nhiên.

“Bấy giờ đã được địa này”, chỉ vì tự tâm từ nên giết, chứ chẳng phải vì tâm ác. Đặt ra một ví dụ để làm rõ: Chính là vì che chở giữ gìn chánh pháp, nên cắt đứt mạng sống người kia, để cho tâm lành của họ được sinh ra! Nhưng Bồ-tát thường sinh tâm này là tùy theo chúng sinh, người sinh ra pháp lành, bất luận tốt xấu, phải vì lợi ích cho họ. Cho nên sau khi qua đời, các Bà-la-môn liền sanh ba niệm: Đã bỏ quả báo thế gian, cảm thọ khổ nặng ở địa ngục, liền biết việc làm của mình là xấu xa, gồm được túc mạng trí, biết mình từ cõi người đến và biết nơi đọa là địa ngục. Tỏ ngộ rằng, do chê bai kinh mà phạm tội rất nặng, đó là lý do gây nên quả báo này.

Đã biết tội nghiệp như thế, nên có chí kính tin, cung kính ăn năn, những việc mình đã làm trước kia, thì phá bỏ được nghiệp xưa, sinh lên cõi trời, cõi người. Cho nên biết rằng, sinh niềm tin đối với lý thường, một khi đã học hiểu tới rồi thì chẳng có gì không cảm, tự nhận hiểu rằng: “Đã đọa vào A-tỳ, chịu khổ Vô gián, thì lẽ ra không được sinh ba ý niệm: Một người đã hiểu, không kiêng sợ gì ở cõi này bị ngăn ngại, mới bị đọa vào Vô gián không được thọ vui. Đâu chấp nhận trong sự biết về khổ, đều không được sanh tâm, mà lại có đối tượng để ghi nhớ trong tâm ư? Nên biết lời này không có chướng ngại.”

“Này người thiện nam! Trước đây ông đã hỏi: “Giết Bà-la-môn” cho đến “Dứt mạng căn của họ, chẳng phải do tâm ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ hai, nói được địa này, nên vì ba ý nghĩ, vì lợi ích nên giết, do đó không có tội.”

“Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con” cho đến “Đó là vì muốn cho chúng sinh chừa bỏ tội ác trong dĩ vãng để tu theo pháp lành.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trực tiếp dùng nghĩa sát của tâm từ để làm thí dụ, không dùng ví dụ cùng khắp.”

“Ý Bồ-tát thường nghĩ” rằng cho đến “Tuy từng phương tiện, phải vì đem lại niềm tin và lợi ích cho chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ làm sao cho việc có ích, bất luận là thiện hay ác.”

“Sau khi Bà-la-môn chết” cho đến “Tuổi thọ đến mười kiếp, làm sao gọi là giết?

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do giết mà bố thí mạng sống, không làm họ khởi phiền não, để chứng thành nghĩa của Địa.”

“Này người thiện nam! Nếu có người đào đất, cắt cỏ, đốn cây” cho đến “Dù giết hại mạng chúng, mà chẳng có tâm ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Không vào địa ngục.” Ở trên nói: “Vì tâm lành mà giết, nên không có tội, giống như cha mẹ vì tâm lành mà giết con, nên được vô tội, cho nên phải nói. Ở đây nói là ta không có tâm ác, đất lại không có tội, nên không đọa địa ngục. Nói về người mắc tội sát, có ba thứ: Một là do tâm mà mắc tội, như người với tâm ác, giết xiển-đề; hai là do địa mà đắc tội, như người có tâm lành, giết người lành; ba là do tâm, địa cùng mắc tội như người có tâm không lành, giết người lành.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chứng minh không có tâm ác, dù có giết cũng không có tội.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp quan điểm sau của câu hỏi đầu: “Vì không có tâm giết, nên không đọa địa ngục. Vì Bà-la-môn đều là xiểnđề, không có nghĩa làm thương tổn ruộng phước, nên biết mắc tội giết, tất nhiên là do người có tâm ác vì làm tổn thương ruộng phước kia.”

“Này người thiện nam! Cứ theo giáo pháp Bà-la-môn, nếu giết chết con kiến” cho đến “Thì sẽ phải đọa địa ngục trong vô số ngàn năm!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp nói về nghĩa đắc tội qua việc giết hại Bà-la-môn không có tùng địa. Trước là nêu ra lời ngoại đạo nói: “Có khi giết mà không có tội.” Thuyết này là sai!”

“Này người thiện nam! Phật và Bồ-tát biết rằng, giết hại có ba” cho đến “Vì thế, nên dù có giết hại họ, cũng sẽ không đọa địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là ở ba, nghĩa là tùng địa đắc tội. Nếu không rơi vào ba hạng này thì vì xiển-đề dứt mất gốc lành, nên không có nghĩa tùng địa mắc tội.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý thứ ba, là ý chứng minh lý do giết hại không có tội, rằng trong ba hạng, quyết định nhân giết hại mà có lợi, còn không có tội, huống chi không rơi vào trong ba thứ giết hại mà có tội ư?”

“Này người thiện nam! Trước kia ông nói: “Vì sao Như lai” cho đến “Vì Chư Phật, Thế tôn, Ứng, Chánh biến tri biết rõ phương tiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây là đáp câu hỏi trong quả có lỗi của miệng, nói vì biết phương tiện, nên đừng nói lời thô, tế để hỏi, chỉ việc gì làm cho chúng sinh có ích thì nói, không có ích thì không nói. Việc này chẳng phải là “Sở tri” của Nhị thừa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong lời đáp này có ba ý: Đây là ý thứ nhất, trước nói về khéo chiếu soi cơ nghi, hễ động thì có lợi ích.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, nói lý do phát ra lời này, nghĩa là vì chủ yếu làm cho vào thời điểm này, pháp này phải có lợi thế thôi! Chư Phật đâu có nói suông?”

“Này người thiện nam! Như một hôm, ta đi ngang qua thôn Khoáng dã” cho đến “Nên thị hiện các phương tiện như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý thứ hai này nói chỉ cần có ích, cho đến chúng sinh phải chịu khổ về thân nghiệp, huống chi lời nói thô ư?”

“Này người thiện nam! Bấy giờ, thật ra ta không mắng nhiếc” cho đến “Ông không nên sanh ra lưới hoài nghi như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý thứ ba, là quét sạch dấu vết, nói

Đề-bà-đạt-đa chẳng phải là người thật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi liên quan về sau. Đề-bàđạt-đa không phải là tình cảm gần gũi mà lường trước được thì làm sao đọa vào địa ngục này ư?”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cái gọi là rất yêu thương như con một (nhất tử địa).

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ trước đến nay có năm đoạn:

  1. Quyết định danh số của bốn vô lượng.
  2. Nói về cạn sâu.
  3. Nói tâm từ có lợi ích chân thật.
  4. Kết quả của ba vô lượng. Thứ năm này, khen ngợi thuyết của Phật nói.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Địa không bình đẳng” như Tu-bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng Tiểu dụ cho chứng Đại. Về lý tất nhiên là bình đẳng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ tư ở trước đã kết quả của ba vô lượng. Đoạn năm vẫn khen ngợi Phật. Đây là đoạn thứ sáu, kết hiệu quả của tâm xả. Trong đây có tám lớp, nói về nghĩa: Thứ nhất là nói vì tu tâm xả nên được địa “Không bình đẳng”, tức khéo biết về “Mười một không”, là quả của tâm xả kia.

5. Nói chẳng phải chỉ có “Thức không”, mà còn có công năng chiếu sâu thế đế, vượt ngoài tám thứ tri kiến giác biết. Đã “Không” có hai “Giải”, nên lớp thứ ba nói được bốn biện tài để lợi ích chúng sinh. Đã là dấu vết có ích, là người chấp ngưng trệ, nghĩa là có bốn thứ để được, nên lớp thứ tư nói mười thứ “Không có” khiển chấp.

Lớp thứ năm, Bồ-tát Văn-thù nêu bài kệ: “Vốn không nay có”, với ý còn không chấp, không đắm, để chứng minh “Vô trước”. Dù nói vô để dứt hữu mà lại chấp vô, cho là vượt hơn, nên lớp thứ sáu, nói về thuyết trái với “Thường”, trừ bỏ cả hai thứ tai họa kia, cho đến ý chỉ trái với “Thường” còn làm cho đương thời có ích, huống chi là giáo hữu, vô mà chẳng có ích hay sao? Ở đây, vật tình đều mê muộn, không có chỗ để gá tâm. Vì thế, nên lớp thứ bảy nói dù không có “Sở đắc”, nhưng đối với lý thể, cuối cùng nói rằng có được, vì thế, nên nói Bồ-tát được Đệ nhất nghĩa. Nói Đệ nhất nghĩa tức Niết-bàn.

Lớp thứ tám, nêu đã có kiến, nghĩa là chứng tỏ có đắc, như Tu-bồđề, đây là quán không thứ nhất trong Thanh văn. Đã là có thời gian, còn người và “Sở tri”, nên mượn cái cạn để nói về cái sâu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn năm, kết thúc xả quả cũng đồng với Sơ địa. Nói về bốn hạnh vô lượng, vốn tương quan nhau, không thể lìa nhau. Nay nói được địa bình đẳng, là ngày lên Sơ địa, được vô lậu chân thật. Vì nhận thấy thể của pháp là “Không” nên lấy “Không, bình đẳng” để đặt tên, sở dĩ kết riêng là vì muốn cho người ưa thích pháp

“Không” này, mà tu hành.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây là đoạn hai có ba phần:

  1. Hỏi quả ở địa nào?
  2. Hỏi “Không” là “Không” nào?
  3. Nói được lợi ích.

Đây là đáp câu hỏi thứ nhất, chính là giải thích quả của tâm xả. Nói quả này ở tâm, cho nên khéo có thể soi chiếu “Không”, từ sở chiếu mà có tên, nghĩa là cái mà địa được là “Không, bình đẳng”?

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến khéo “Tu tập các pháp “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghĩa “Không bình đẳng”, để nói về tướng của địa, danh của địa. Ví như hư không, nghĩa là giải thích lý do “Không, bình đẳng” là địa: Vì khéo tu các pháp “Không”.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Nói bổn tánh tự “Không” nên chẳng có đối tượng để thấy, chứ chẳng phải không thể thấy pháp.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sao gọi là “Không”“ cho đến “Đó gọi là trong, ngoài đều “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tình bên trong gọi là nội, dùng hai thứ “Quán không”: Trống không lẫn nhau, như trong bò không có ngựa. “Ngã” không có các pháp khác, gọi là “Không”.

Đối đãi nhau, gọi là “Không”: Do chẳng có ngoài, nên chẳng có trong. Vì sao? Vì cha mẹ là ngoài, cũng không tự ngoài, vì nhân trong cho nên ngoài. Vì bên trong là không, nên bên ngoài chẳng thật có. Vì ngoài chẳng thật có, nên chẳng có trong, tuổi thọ của chúng sinh, thường lạc, ngã, tịnh. Bảy pháp đều chấp ngang trái cũng gọi là ngoài. Kinh Đại Phẩm chép: “Hai đế không có chúng sinh, mà biết chúng sinh… là chấp ngang trái. Dù có Phật tánh, nhưng vì chấp ngang trái bảy pháp nên có thể vô. Vì Phật tánh không ngang trái, cho nên phải nói. Pháp trong, pháp ngoài là khác nhau. Vì có riêng nên có chung, “Không” cũng đồng với ở trên. Không ở hai “Không”, nghĩa là hai “Không” trong, ngoài, chẳng ở “Không” đối đãi nhau. Chỉ nói hai, là trong cái riêng đã “Không”, thì trong cái chung rất dễ hiểu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười một “Không” chính là giáo nhất thời của kinh này. Từ Đại phẩm, các kinh mới có mười tám “Không”. Phải biết rằng, “Không” chẳng có nhiều, ít, vì dứt “Hoặc” có rộng, hẹp, nên giáo môn không đồng. Y theo mười một môn, năm “Không” trước, bài trừ bệnh gia của sáu đế. Trong Bách luận nói: Ngoại đạo chấp có một pháp có chung, kết hợp với tất cả pháp”. Nay, năm “Không” ở trước khiển trách tâm chung của họ:

Nói trong nội không có ngoại, trong ngoại không có nội. Hữu vi, vô vi cũng như vậy, đâu có pháp chung để kết hợp với pháp? Vô thỉ thứ sáu, khiển trách chấp của các nhà chủ trương hai mươi lăm đế.

Năm “Không” ở trên thì mê quả, còn “Minh đế” ở này là mê nhân. Tình người, nghĩa là dứt trừ nhắm vào chấp ngang trái, mới có “Không” sinh. Nay nói không đợi dứt bỏ chấp ngang trái, chỉ thể tánh của pháp kia tự là “Không”.

Chẳng có tất cả “Không”, là trước dù nói tánh “Không”, nhưng lấy gì để giải thích ư? Nay dùng trí để xem xét lại, thì thấy đều không có sở hữu, nghiệm xét là “Không”.

Đệ nhất nghĩa không: Nói về chỗ “Có” sinh ra sự chấp đắm. Trước kia mượn vô để khiển trách hữu. Vô này đối với hữu lý ấy vượt hơn. Đây là khen ngợi thứ nhất để nhận danh.

“Không không” là vật, tình sinh chấp, nghĩa là bỏ hữu, hội lý “Không”, lý cực ở đây. Chấp lý “Không” này tốt đẹp hơn lại thành bệnh! Nói vốn vì bỏ “Hữu”, nên nói là “Không”, đều có cái không để được ư?

“Đại không”: Trước đã bỏ cảnh, nay lại bỏ trí, cảnh trí đều quên, mới là Đại. Vì trong pháp nội không có pháp ngoài, đâu có một cái hữu chung trùm khắp tất cả chỗ? Chưa được thì gọi là tánh, đã được thì gọi là Tam bảo.

Chẳng phải trong, chẳng phải ngoại: Vì chúng sinh là hữu vi, Phật tánh vô vi. Vì vô vi, nên nói chẳng phải trong. Vì không lìa chúng sinh mà có tánh, nên nói chẳng phải ngoài.

Trong, ngoài “Không”: Tâm của hai “Không” ở trên yếu ớt, nên không thể đều quán. Nay, vì năng lực của tâm đã chuyển biến vượt vượt hơn, nên có thể song quán. Tâm của Bát địa đâu có mạnh, yếu, mà chỉ bày môn “Không” có thứ lớp, chỉ có Phật tánh chẳng ở hai “Không”, nghĩa là song quán hai pháp, dù rằng còn sự khác nhau giữa trong ngoài, nhưng “Có” là đồng, mà Như lai Phật Tánh, Tam bảo, đều chẳng phải là pháp “Có”. Vì thế, nên dù song quán nhưng trong ngoài đều không gồm thâu bốn pháp này.

Nay, đến khi song quán, chẳng nói là không có cha mẹ, mà chỉ nói không có Tam bảo…, là vì cha mẹ từ đầu đến cuối không lìa trong ngoài, nên không nói lại, mà vì Tam bảo chẳng phải trong ngoài, nên nói như thế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn sáu, nói trong quả Sơ địa, lại tiến lên tu mười một “Không” cho đến quả Thập địa, cũng như trong hạnh Thánh đã được sơ trụ xong, lại tu hai mươi lăm tam-muội. Về nghĩa mười một “Không” này, người hiểu biết khác nhau, có người lầm lẫn với người không có kiến giải, nên cho rằng mười một “Không” này chẳng phải đối tượng quán (sở quán) của Sơ địa.

Nay, sẽ giải thích: Mười một “Không” này đều là môn gần, xu hướng về đạo, con đường quan trọng để chứng lý cực quả.

Chín “Không” ở trước là chín người, mỗi người đều tự nắm lấy một “Không” để nhập đạo, cho đến chín địa. Vì sao? Vì nói chín “Không” trước kia đã không giải thích về mức độ sâu cạn của Hữu, đến thứ mười, mười một mới nói, nên biết, mỗi người đều tự theo đuổi phương tiện dễ dàng mà người tu tập trước đã ưa thích để bước vào đạo.

Nay nói nếu khi được môt “Không” đầu thì các “Không” còn lại, lẽ đương nhiên đều được cả, chỉ vì theo đuổi thói quen là hữu trước kia, là vì đã có bốn “Không” ở trước, lại chứng thành lẫn nhau. Hai “Không” kế tiếp, đem sau để chứng minh trước. Lại, một “Không” đem cái giả để chứng cái thật. Các cái “Không” còn lại, đều đương vị để nói về nghĩa. Như khi quán “Không” nội, nếu thấy đều “Không” thì biết ngay quán nội đã thành tựu. Nếu “Không” như vậy, thì sẽ chẳng thành. Quán “Không” nội, nghĩa là quán trực tiếp năm ấm của mình là nội. Nếu thấy năm ấm của mình cũng là lúc thấy kẻ oán người, thân đều không, biết “Không” bên trong đã thành, ngoài thường, lạc, ngã thì tài vật đều “Không”. Vì sao? Vì các pháp của đầu quả chẳng phải năm ấm nội, cũng chẳng phải năm ấm ngoài, cho nên phải dứt trừ.”

Lại, một cách giải thích khác: “Lúc khởi quán trong, thì bốn pháp như Phật v.v… thì tài vật v.v… đều thuộc về bên ngoài, vì không phải chánh quán “Ngã”. Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, nghĩa là tánh chất của chánh nhân là “Kiến giải” tránh khổ, tìm vui, với công dụng tìm kiếm kiến giải này, khi công dụng đã không thì chẳng có. Dù ở trong năm ấm, nhưng năm ấm có thể dứt trừ mà kiến giải này thì không thể mất, sau cùng sẽ thành Phật. Cho nên ghi chép thường dụng từ đầu đến cuối này, không có pháp hưng thịnh, bỏ phế là chánh nhân, nên tạo thành quán trong, ngoài. Trong pháp nội này, vì là chánh quán của “Ngã”, cho nên phải phân biệt.

Thường trụ không thay đổi: Chẳng phải thường vắng lặng, mà chỉ vì “Giải” này chẳng hề không có, nên nói là thường. “Không” bên ngoài, là cũng không có như vậy. Pháp nội, là có người quán trực tiếp “Không” bên ngoài, cũng không thấy có. Lúc năm ấm nội khác với pháp ngoài, thì biết được quán bên ngoài đã thành. Ở đây cũng như vậy. Bốn pháp như Phật… và tánh chất của chánh nhân, cũng còn phải phân biệt. “Không” trong và ngoài, là người này là nhà phát ra pháp, nhưng quán trong ngoài chẳng vượt qua trong ngoài, song quán đều “Không”, chẳng có đối tượng chứng thành. Chỉ có Như lai, Pháp, Tăng, Phật tánh đều chẳng ở hai “Không” trong ngoài, nghĩa là lại phân biệt xuất ly, vốn quán hai pháp trong và ngoài sinh tử. Tam bảo… không phải là pháp sinh tử, nên phân biệt.

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ hai, nêu tên “Không”, đều giải thích về pháp quán. Trước nêu danh từ “Không”, “Không” có mười một, là phương pháp giáo hóa ở một phương, tìm không vô có mười một “Duyên” khiến cho chúng sinh bị bệnh vì theo đuổi pháp là riêng nên có mười một!

Kế là, giải thích về pháp quán. Do người ngoại đạo chấp có một “Ngã” lớn khắp tất cả chỗ, với phần “Hữu” là “Một”. Dùng năm “Không” ban đầu để lẫn về lý “Vô”. Nói về các pháp trong ngoài không được “Hữu” lẫn nhau, vì đả phá chúng sinh chấp pháp quán trong đầu , tức là thân mình. Xét tìm thân này không có các pháp ngoài, cho rằng trong là “Không”, lại trừ Phật tánh, là “Duyên” Phật tánh, dù lệ thuộc chúng sinh, nhưng vì chẳng nhất định ở trong, ở ngoài, nên tùy thích nghi mà dứt trừ.

Quán pháp trong: “Chẳng có mạng sống lâu, nghĩa là không có mạng chúng sinh bên ngoài.”

Quán Hữu vi “Không” rằng: không có tuổi thọ, tức là đương quả thường trụ mạng. Quán vô vi không rằng vô ngã: Đây là nắm lấy thể của pháp năm ấm hữu vi không có năng lực tự tại, gọi là vô “Ngã”, chẳng phải là vô ngã của Đệ nhất nghĩa “Không”.

Quán vô thỉ “Không”, nhằm phá tan chấp tám muôn kiếp trở đi của người ngoại đạo, là điều mà họ không biết, rồi gọi là Minh đế và cho là thường. Nay quán sát trong đây các pháp, thường lưu động vô thường. Đây chính là đả phá lối chấp thường của ngoại đạo. Cho nên các câu, như lạc, tịnh… theo nhau đều quán sát.”

Trong đây nói thọ mạng là mạng thường của đương quả.

Quán tánh không, đây là phá chấp muôn pháp đều có bệnh “Tánh”.

Quán vô sở hữu “Không”, đây là phá chấp có pháp Vô vi, là chứng bệnh của người mắc phải sợi dây trói chặt. Tìm kiếm muôn hữu không có, giả cho là không. Tự có chúng sinh tiềm kiếm danh, rồi chấp giả dối. Nghe nói pháp “Không” rồi cho là có pháp “Không” này.

Đoạn thứ mười, kế là quán “Không”, “Không” đả phá chứng bệnh này của chúng sinh ra là “Hữu”, là đối tượng chấp “Không”. “Không này là nói “Không” này là “Vô”, đã nghe “Không” đối với “Không” này, lại cho rằng quán này là “Đúng”. Kế là lại đả phá “Đúng”, nói “Đúng”. “Đúng” nghĩa là vượt ngoài chẳng đúng là nói “Chỗ đúng” cũng “Vô”.

Đoạn chín là Đệ nhất nghĩa không, quán trí năng quán này lý chánh quán vô sinh. Đoạn thứ mười một là “Đại không” này, thể chẳng thật có. Hai “Không” này đều là lý vô sinh. ngoài ra chín “Không” đều tùy theo việc mà phá bệnh, nên nói chẳng phải lý vô sinh.”

“Này người thiện nam! “Không” hữu vi, nghĩa là pháp hữu vi” cho đến “Đây gọi là Bồ-tát quán “Không” vô vi”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh diệt là hữu vi, chẳng có sinh diệt là vô vi. Nay, nói “Không”. Trong “Có” nghĩa là “Không có”, đồng với trong ngoài.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng “Không” lẫn nhau. Hữu vi là pháp do duyên thành, cái có thể gọi vô là vô không.

Nói “Không” trong ngoài,… nêu các pháp này là “Không”, nói về pháp hữu vi là giả hữu, vô các pháp này.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp hữu vi cũng không là Tam bảo…, là pháp vô vi. Nếu quán pháp hữu vi là “Không” thì sẽ chẳng thấy sự khác nhau với vô vi, mới biết được quán hữu vi đã thành. Nêu pháp vô vi để chứng thành. “Không” vô vi, là có một người phát đầu tiên, bèn quán ba quán vô vi, nghĩa là quán Niết-bàn hữu dư, tạo ra các duyên vô vi. Quán Niết-bàn vô dư, tạo ra phi số duyên diệt vô vi. Quán như thế sẽ không thấy hữu vi khác với vô vi. Hữu vi cũng không, mới là quán vô vi thành. Thế nên nêu vô vi để chứng thành cũng phân biệt các pháp như Tam bảo… khác với hữu vi, vô vi. Nếu khiến cho thần minh không có căn bản tốt đẹp này thì vì sao đến lúc vô vi “Không” lại chọn tánh chánh nhân ư?”

“Đại Bồ-tát quán thế nào về “Không” vô thỉ?” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát quán “Không vô thỉ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngoại đạo cho rằng hữu vi, vô vi đều là vô thỉ, nên gọi “Vô thỉ không”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Khiển trách chấp Chân đế. Trong Phật pháp nói đều do, các hành vô minh tạo ra khổ sinh tử, đâu có minh đế nào là điểm bắt đầu? Nay, dùng tâm giải soi sáng, biết được vô thỉ nên nói chấp đó của ngoại đạo là trống không” cho đến “đây gọi là Đại Bồtát quán tánh không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp từ “Duyên” mà được. Vì không có tánh nên gọi là không. Hữu vi từ duyên mà được, vô duyên từ duyên mà thấy, đều không có tánh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở đây nói thể tánh các pháp là “Không”, đâu cần phải bỏ bệnh ư? Cho nên nêu thường, vô thường, cả hai đều có, vì vô thường là không, nên không nói, nay nói về thường mới đối lại với Thế đế là “Diệu hữu”. Nhưng pháp này đã sinh ra từ sự đối đãi nhau, vì đối đãi là giả, cho nên tướng và “Không”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tánh của không vô thỉ là không, đều do dứt chấp mà đặt tên. Bồ-tát quán muôn pháp xưa nay vô thỉ, cho đến sinh tử và Tâm bảo, Phật tánh đều không, đây là dùng cái sau để chứng cái trước. Vô tánh cũng giống như vậy, đâu có minh sơ, thế tánh ư?”

“Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Đại Bồ-tát quán không vô sở hữu?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không này vốn là nói theo con người.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dùng trí để xét về Không, chẳng lấy không có con để thí dụ, mà lấy người nghèo cùng để nói tất cả rỗng không làm thí dụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là quán không theo Tập quán, chẳng có gì để chứng thành. Nhận thấy trực tiếp thể tánh của tất cả muôn pháp đều không, tức là điều mà trong kinh Đại phẩm đã nói.”

“Đại Bồ-tát?” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ-tát quán Đệ nhất nghĩa không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hiện tại không có mắt, là hữu vi Không.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu hai pháp giả danh và thật pháp là không. Mắt… là không. Mắt… là tác giả thật, có nghiệp là giả danh. Hai nhà này vô sinh, là vì tốt đẹp hơn đối với pháp hữu vi, nên thọ lãnh Đệ nhất nghĩa! Không là chẳng có giả thật, chỉ là dựa vào giả thật để nói về không!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là không của pháp thật, nói thế là sao? Vì không có từ đâu đến và đi về đâu, nên biết được pháp thật là không. Sở dĩ nêu tác giả là vì cái không giả danh, để chứng thật pháp Không thành. Nếu không thấy sự khác nhau giữa giả thật thì biết rằng thật pháp không thành.

Đại Bồ-tát quán sát “Không không” như thế nào?” cho đến “Đây gọi là Đại Bồ-tát quán sát “Không không”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Là có là không, đó gọi là Không Không, nghĩa là hữu không này cũng không, cái vô không này cũng không, vì cái không sau không cái không trước, nên lập ra không không, nhằm phá tan sự tồn tại của người chấp tướng, là thị phi thị, đó gọi là không không. Nghĩa là hai không đều gọi cả hai câu trên. Kế là song phi, kế là câu kết. Vì sao? Vì muốn bỏ cái không sau, không được không có cái vốn là không, nên cả hai đều phi, sau đó là câu kết.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chín “Không” là bỏ “Hữu”, chỉ có “Không” này. Tâm người sinh chấp đắm, cho rằng có cái “Không” này, là vì thật có cho, nên bỏ.

Là hữu là vô, nghĩa là chín “Không” ở trước của ông, cái vô bị bỏ cũng chẳng có cái vô này. Vì bỏ hữu, nên nói là vô, há có cái vô để đợi ư? Tức là hữu hay vô cái không này nên nói là không không.”

Là phải, chẳng phải đây gọi là không không, nghĩa là tìm chúng sinh lần lượt sinh ra tai hại, trong sự dứt bỏ chấp đắm, xoay vần sinh ra tai họa ý nói trước đây đã lấy không để bỏ hữu. Đây là vì đối nhau mà đặt tên, nên không thật có. Nay, nói hai chấp đều bỏ, tâm này là hơn, muốn bảo thủ tâm xả này thì lại bị tai hại!

Là đúng, chỉ cho ý chỉ trong vòng. Nếu cho rằng, ý chỉ này là cùng cực thì cũng không có ý chỉ này, đây tức là lý và tâm đều không thật có, nghĩa là “Không không”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đối tượng chứng đắc của Địa Pháp Vân, “Không không” có hai thứ. Như xưa người Tiểu thừa đã quán muôn hữu là “Không”. Vì ái chấp đắm “Không” này, nên mới nói không này tức là không, cũng gọi là không không. Lại, có một thứ quán muôn hữu là “Một không”. Trí quán không này lại tức thể là không, đây cũng là “Không không”.

Nay nói “Không”, đều khác với hai thứ “Không không” nói trên. Vì sao? Vì từ Cửu địa trở xuống cho đến tín đứng đầu năm căn, chẳng phải không có tướng mạo. Tin biết tám tự tại “Ngã” không, chỉ cho Cửu địa về sau, đều lập ra quán vô ngã này, về sau đến Thập địa, thấy phần ít tám tự tại “Ngã” không. Vì nhờ “Không” mà được “Không”, nên nói là “Không không”, cũng tức là tam-muội không. Đây chính là chỗ người Nhị thừa mê muội, chìm mất! Khen ngợi lý “Không” nhiệm mầu này, chẳng phải là đối tượng duyên của tâm mình!

Là hữu là vô: Là tên của hai pháp. Là hữu nghĩa là Cửu địa trở xuống đã được “Không” vô ngã. “Không” vô ngã này do dứt bỏ “Không” . Lại “Không” này đã là pháp của “Sự tượng”, nên lại tạo ra thuyết có danh.

Là vô, là tám tự tại ngã “Không” này. Lúc được “Không” này, tâm hữu, vô đều không hiện hành. Nếu tạo ra có lấy cũng không được, tác động không có lấy cũng không được. Hai tâm hữu, vô đã được hoạt động, tức là vì hiểu Trung đạo, nên nói là vô, là tên của hai pháp đã xong. Sau kết thúc gọi là “Không không”.

Là phải, nghĩa là hiểu, lãnh hội ý chỉ này, nghĩa là ý bình định. Lại là vô ngã mà Cửu địa ở trước đã chứng được, là “Không” của “sự tượng”. “Sự tượng” là pháp hữu, nên nói là đúng.

Là chẳng phải, nghĩa là lại chẳng phải là người của Cửu địa, nghĩa là Cửu địa trở xuống đã được “giải không” là cùng cực. Nay, thì chẳng phải cùng cực. Nếu nhờ “Không” vô ngã, được “Ngã không” của tám tự tại thì sẽ được nói chẳng phải hướng, nghĩa là không mà Cửu địa đã được, nên nói là chẳng phải. Vì thế nên văn nói: “Thập trụ vẫn còn thông đạt phần ít trong đây, huống chi là Cửu địa trở xuống mà được ư? Không lập ra kiến giải này, tức là không lãnh hội được ý chỉ của văn kinh.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Thì sẽ được trụ trong địa “Hư không đẳng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì với tất cả hữu đều không, nên gọi là Bát-nhã, cũng vì không tất cả tướng, nên gọi là Đại không.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa là thể của trí cũng “không”, hai ví dụ ở dưới đều làm đẹp cho kiến giải bình đẳng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thập địa đầy đủ, chính là Kim Cương. Tâm Kim Cương soi rọi hết muôn pháp, gọi là Học địa. Nhất thiết chủng trí đủ năm nhãn của Phật, gọi là Bát-nhã ba-la-mật, trí tuệ đầy đủ”.

 

Phần 4

  • Giải thích rộng tám thứ giác trí kiến.
  • Giải thích rộng bốn vô ngại.
  • Nói rộng nghĩa “Vô sở đắc”.
  • Nói rộng về ý nghĩa thần thông ứng hóa, không câu chấp.
  • Giải thích rộng về trái với pháp thường nói, nghĩa là chân đế nói là thế đế.
  • Nói rộng về sự khác nhau giữa nội đạo và ngoại đạo.

“Này người thiện nam! Nay, Như lai ở trong đại chúng” cho đến “Còn được gọi là Địa vị hư không đẳng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng bị hữu ràng buộc, chẳng bị Không làm mê muội. Giải thoát “Không”, “Hữu” để giải thích địa danh. Sau đây, sẽ dùng hai thí dụ, để giải thích công năng:

  1. Vì bất sinh tham, giận.
  2. Thường bao dung chúng sinh.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn bảy, nói về công dụng lớn của mười một thứ “Không”. Đã được tâm Kim Cương, nhận thấy rõ ràng tất cả muôn pháp, tức là tùy ý vận dụng đối với duyên, không còn câu chấp, trệ ngại nữa, là lời khen thứ nhất. Sau, từ “Kệ xưa có nay không” trở đi, cho đến cuối cùng sáu niệm xứ lại rộng, là lời khen thứ hai. Như hư không đối với các thứ sắc đáng ưa thích không cảm thấy tham đắm, đối với sắc không đáng ưa thích, cũng không nổi cơn giận dữ, nói lúc trụ trong tâm Kim Cương, không thấy tướng khác đáng ưa thích, chỉ có một tướng, vô tướng trở xuống, mười vô tận lại rộng.

Lời khen thứ ba: “Như hư không rộng lớn chẳng có đối đãi, có khả năng dung nạp tất cả vật. Ví dụ được tâm Kim Cương, như hư không. Đủ tất cả tri kiến, chẳng có pháp nào không cùng khắp. Sau đây, sẽ dùng tám thứ tri kiến để giải thích rộng về nghĩa này”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì đầy đủ song chiếu không, hữu nói trên nên được lợi ích của bốn biện tài để hóa độ chúng sinh. Theo đây, có sáu lớp giải thích:

  1. Nói chung tất cả pháp hữu vô ngại.
  2. Y cứ khắp trên công hạnh của ba thừa, để nói về pháp vô ngại.
  3. Nói được bốn vô ngại, không chấp đắm.
  4. Nói về khả năng thọ trì.
  5. Suy tìm nhân.
  6. Đoạt sở đắc của người Nhị thừa, để làm rõ công hạnh đầy đủ của Bồ-tát.

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là phần ba, nêu người nghe pháp được lợi. Trên đã nói về thực hành tâm xả được trí, biết về vô pháp. Ở đây, kế là, là nói không phải trực tiếp nhận biết về vô, mà cũng có thể hữu, vô song chiếu”.

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Các pháp như vậy, tất cả đều thấy biết”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói tám thứ tri kiến, vượt ngoài việc dung nạp, đây là việc thứ nhất: Hoặc hành, hoặc “Duyên”…, nói chung tất cả pháp, bên trong gọi là tánh, bên ngoài gọi là tướng. Mạnh mẽ gọi là nhân, yếu kém gọi là duyên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, là nói rộng về ví dụ thứ ba. Tám thứ tri kiến, nói về tự tu hành. Bốn vô ngại ở dưới, nói về hóa độ người ngoài:

1. Tri kiến trong nhân quả chung thứ nhất như hành là hạnh sinh diệt khởi động. Hoặc “Duyên” là từ “Duyên” mà có, nghĩa là sự giúp đỡ bên cạnh. Tánh là bên trong, tướng là bên ngoài. Sức mạnh là nhân, gần xa là Duyên. Biết tâm thiện ác của chúng sinh khởi động trong sátna. Hoặc căn: Căn cơ nhạy bén, chậm lụt. Hoặc thiền định: biết chúng sinh được định sâu cạn. Hoặc thừa: là Đại thừa, Tiểu thừa. Hoặc Thiện tri thức khác: Biết duyên bên ngoài. Hoặc giữ giới: Hiểu suốt việc dứt ác. Hoặc Sở thí: khéo biết quên tướng.

Tất cả tri kiến như vậy, nghĩa là tổng kết sự thấy biết đối với nhân quả.

2. Biết được pháp mà ngoại đạo đã thực hành, không thấy được quả tốt.

3. Thấy pháp mà ngoại đạo thực hành, bị quả báo ba đường. Biết sửa đổi việc ác, hướng về điều lành, chắc chắn sẽ được quả thanh tịnh, giải thoát.

4. Thấy thường, vô thường.

  1. Thấy biết thuận dòng, ngược dòng.
  2. Thấy biết chuyển biến chướng ngại.
  3. Thấy biết Phật tánh.
  4. Thấy biết hai Đế.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Được chánh giải thoát, đó gọi là không thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ hai cạn cợt gọi là biết, đồng biết với việc thứ tám. Nhân tà, không được quả chánh. Từ đầu tiên” cho đến “Trên phân bò”. Là nói về khổ của bốn oai nghi. Áo thô, áo gai, đến nước cám, nước sôi, là nói về áo cơm, cam chịu khổ sở. Dưới đây sẽ nói về khổ của hành nghiệp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, biết pháp mà ngoại đạo thực hành, không thấy họ được quả lành.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Nhập chánh giải thoát, đó gọi là biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, thấy nhân tà kiến, tất nhiên sẽ mắc phải quả khổ. Biết ra khỏi khổ, sẽ được giải thoát. Vì sao? Vì người này dù thực hành tà đạo, nhưng tâm tình chán khổ tột độ. Do tâm chán khổ này mà thoát khỏi khổ, cần phải chánh giải thích đúng. Quả tà dễ biết, gọi là thấy giải thoát, việc xa gọi là biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, thấy pháp mà ngoại đạo đã thực hành, được quả của ba đường. Nếu họ biết bỏ ác làm lành, sẽ được quả thanh tịnh giải thoát.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đều có Phật tánh, đó gọi là biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tư là hợp quán thường và vô thường… . Đầu tiên, chung dễ biết, gọi là thấy. Sau là riêng khó thấy, gọi là biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là thấy thường, vô thường.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Từ sáng vào sáng, đó gọi là thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm, biết ngược theo các dòng, vì ngược khó biết, gọi là biết. Vì theo cái dễ hiểu, nên gọi là thấy. Từ “Tín” cho đến “Thị”, gọi là biết. Nói phàm phu trong dòng nước chảy ngược, nội phàm phu dứt ngoại gọi là ngược, chưa dứt nội gọi là theo.”

Dưới đây, là người từ sáng đi vào sáng, là nói ba đường là bóng tối, phàm phu ngoại này đều xuôi theo dòng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là thấy biết ngược dòng, thuận dòng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Chịu quả báo ở địa ngục, đó gọi là thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ sáu, biết chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng. Nếu chuyển nặng thành nhẹ, nghĩa là vì hướng đến giải thoát, nên gọi là biết. Chuyển nhẹ thành nặng, vì nhắm vào sinh tử, nên gọi là thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ sáu là thấy biết chướng chuyển biến.”

“Lại có biết mà không thấy” cho đến “Cũng như đêm tối thấy vật không rõ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ bảy là biết Phật tánh, vì nói về thấy biết và cả Như lai, chẳng phải như các trường hợp kia.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ bảy là thấy biết Phật tánh.”

Lại có vừa thấy, vừa biết, đó là Chư Phật Như lai” cho đến “Tức là sở tri của năm nhãn của Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tám là biết hai đế. Cho nên lại nói chân tục, là vì đầu tiên nói là tướng của địa không thấy các pháp. Về sau, nói là công năng của địa, thì không có pháp nào thấy biết, e rằng người nghe sẽ sinh hoặc hữu vô nên phải nói chân tục để hội thông. Vì chân đế không có tướng, nên chẳng thấy, chẳng biết. Chẳng phải cho rằng việc bị che giấu nên không thấy, khác với nghĩa “Cũng chẳng ”, biết đối tượng huệ thí. Ở trên nói rằng chân đế vô tướng, nên không thấy, không giống như tục đế, chắc chắn có tướng để thấy. Lại nói tục đế biết thọ, là ba việc giả nói, gọi là không thấy, không có tướng cố định để thấy. Trên đã nói thấy, đều nói biết là thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tám là thấy biết hai đế.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Biết được như vậy, thì sẽ được những lợi ích gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lương nói: “Lợi ích ngoài bốn đẳng là nghĩa. Nay, nói xả quả không bình đẳng địa, tám thứ thấy biết đối với bốn đẳng sẽ có lợi ích gì ư?”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lợi ích ngoài từ là lợi, bốn vô ngại là lợi về từ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là nói về công hạnh hóa độ người ngoài. Gồm có năm lượt giải thích, cũng tức là tám thứ thấy biết, chỉ vì tự tu hành và hóa độ người là khác. Ở đây, trước nêu tên bốn vô ngại.”

“Pháp Vô ngại là Đại Bồ-tát biết tất cả pháp” cho đến “Tức được bốn trí vô ngại như thế!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết chung gọi là Thật, gọi là pháp vô ngại. Tùy tên gọi mà giải thích nghĩa, gọi là nghĩa vô ngại. Nói danh, nói nghĩa, gọi là từ vô ngại. Nói không thể biết, là nhạo thuyết vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ nhất là pháp, là biết giới hạn của pháp. Nghĩa là lý do của lời nói một cách thông suốt. Nhạo thuyết nghĩa là dùng tâm không biếng nhác nói pháp bảo chúng sinh nghe. Tùy từng chữ mà biện luận, nghĩa là bậc Thánh vì pháp lập ra danh tự, muốn giúp cho chúng sinh biết phân biệt thiện, ác, bỏ ác, làm lành.

Chánh âm luận, nghĩa là tùy theo chủng loại, phong tục của địa phương đều được giải thoát, đều được chân chánh. Xiển-đà luận là Đại Tập Luận. Thế Biện Luận, là lối biện luận rất nhạy bén trong thế đế.”

“Này người thiện nam! Pháp vô ngại là” cho đến “Các thuyết khác nhau, không thể cùng tận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát biết pháp, vốn vì độ người, người không ngoài ba thừa, do biết pháp ba thừa là pháp vô ngại. Biết ba cuối cùng quy về một, là nghĩa vô ngại. Một giới, định, tuệ tạo ra nhiều tên gọi, là từ vô ngại, cũng đồng với nghĩa nhạo thuyết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói pháp Ba thừa là pháp vô ngại, biết lý quy một là nghĩa vô ngại. Trên một pháp đặt ra các tên gọi là từ vô ngại. Nói pháp không biết mệt mỏi là nhạo thuyết vô ngại.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Pháp vô ngại là” cho đến “Nếu chấp chấp đắm thì không gọi là Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên dù lại nói, nhưng vẫn chưa nói về không chấp đắm. Nay nói không có chấp đắm, để trở thành nghĩa vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ ba, lấy quên tướng làm tông.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” cho đến “Nói là biết pháp mà không chấp đắm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa chỉ chưa rõ rệt, nên phải kích phát. Nói không chấp lấy tướng khác thì không biết khác. Không biết tướng khác thì sẽ không biết pháp.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Nói về người chấp đắm” cho đến “Tất cả phàm phu đều không có bốn vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói vô ngại là do ra khỏi sinh tử làm tên gọi. Cái tên chấp đắm, không ra khỏi sinh tử. Sau đây, sẽ nêu ra việc để làm chứng. Ở đây trước chứng minh chấp đắm chẳng phải vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp: “Đã nói rằng được Bốn vô ngại, sao lại còn chấp đắm ư?” nay, Đức Phật đáp: “Tâm chấp đắm vốn là sự trói buộc của “Hoặc”, tất nhiên, không gọi là vô ngại. Bồ-tát tâm sau, tướng chấp đã dứt hẳn, nên gọi không đắm. Này người thiện nam! Đại Bồ tát cho đến đại Bồ tát mà không hề đắm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không chấp đắm, sẽ được bốn vô ngại.”

“Này người thiện nam! Pháp vô ngại cho đến “Mà không thể hết. Đó gọi là nhạo thuyết vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ tư giải thích về điểm khác nhau giữa bốn sự pháp, nghĩa vô ngại. Nói rộng một nghĩa, tất nhiên là không có nghĩa: Như Bồ-tát Địa Trì Sơn có nói: “Không có đất, không có núi, cũng không có cái gì để giữ gìn. Cảnh giới của Chư Phật, là biết không có đất, không có núi, là tướng của vô vi. Cảnh giới của phàm phu là đắm danh, cầu tướng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ tư, được sáu Pháp này giữ mãi không quên, dùng không quên để giải thích.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Nói thế luận cho nghe, nên được nhạo thuyết vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm, là lấy Thế đế làm pháp lấy Đệ nhất nghĩa làm nghĩa Pháp sư Bảo Lượng nói: Thứ năm là lấy thế đế làm pháp vô ngại, lấy đệ nhất nghĩa đế làm nghĩa vô ngại vì người Tiểu thừa nên đặt ra thuyết này. Nếu y theo kinh Thập Địa, thì Đệ nhất nghĩa là pháp vô ngại, Thế đế là nghĩa vô ngại. Đây là nói cho người Đại thừa. “Không” là một loại pháp dễ biết, nên gọi là pháp vô ngại. Thế đế thì hư cấu, giới hạn khó biết, gọi là Nghĩa vô ngại.”

“Này người thiện nam! Nếu Thanh văn, Duyên giác có được bốn vô ngại này” cho đến “Thanh văn, Duyên giác thật sự không có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì người Nhị thừa không có nhân, cho nên vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước nói được, nay nói mất.”

“Vì sao Đại Bồ-tát” cho đến “Vì sao Phật im lặng không nói?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về độ người ra khỏi khổ, phải do nói pháp. Nếu chỉ dùng thần thông để chứng thì sẽ không có bốn vô ngại để chứng.” Duyên giác không thể nói pháp độ người cho đến tất cả không có bốn trí vô ngại. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Chứng riêng cho nên vô.

“Thế nào là hàng Thanh văn không có bốn vô ngại” cho đến “Vì không có ba phương tiện này, nên không có bốn vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thanh văn nghe Phật nói pháp, có khả năng nói pháp độ người. Cũng biết Phật tánh thường trụ, nhưng vì không có phương tiện khéo, nên không phải vô ngại trong bốn việc.”

“Hàng Thanh văn, Duyên giác không thể rốt ráo” cho đến “Vì thế nên người Nhị thừa không có bốn vô ngại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa riêng, nay nói chung. Vì không biết căn cơ chúng sinh, nên Thế đế ngờ vực, không biết khéo nói Đệ nhất nghĩa “Không” nên chẳng có bốn vô ngại.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Nếu nói là đầy đủ bốn vô ngại thì không có việc đó!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thanh văn như bốn con sông. Bồtát như ao A-nậu-đạt, Phật như biển cả. Hoặc có người được một, nghĩa là phàm phu này nói được bốn, không cần một người có đủ bốn.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sao lại nói Bồ-tát mà có sở đắc?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trụ trong địa vị hư không vô đắc, được tám thứ tri kiến, bốn vô ngại. Chúng sinh khởi chấp, nay nhằm quét sạch phiền não trói buộc, bưng bít của chúng sinh nên Phật dùng mười vô để dứt trừ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây sẽ giải thích về mười vô, nói rộng về ví dụ thứ hai ở trên, để nói tâm Bồ-tát không còn hữu vô.

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là nói xong sáu niệm, tình mê mờ, chấp giả dối, để chuyển biến theo duyên. Đã nghe nói vô, lại cho rằng không bao giờ có sở đắc, nên kế sẽ dùng đoạn văn này để nói rõ có sở đắc, làm sinh khởi lòng tin. Văn có sáu phần:

  1. Xin Phật giải thích bài kệ “Xưa có nay không có”.
  2. Đức Phật nói cho nghe thuyết trái với thường.
  3. Chính là nói nghĩa có sở đắc.
  4. Nói thấy tướng rõ ràng.
  5. Nói kệ khen ngợi Phật và kinh giáo.
  6. Xin Phật giải thích sự đồng khác giữa thế gian và xuất thế gian.”

“Phật nói: Này “Người thiện nam! Lành thay! Lành thay!” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về bốn vô ngại, lấy giả để đặt tên, thật ra thì không được nói, dù có khác nhau mà nghĩa không trái với mục đích của địa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ nhất, còn có cái được là bốn điên đảo, không có sở đắc là vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm có mười cặp đối nhau. Đây là cặp thứ nhất: Có trái ngược và không trái ngược đối nhau.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ hai nói về ánh sáng và bóng tối đối lập nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tuệ và Vô minh đối lập nhau.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ ba là nhân và quả đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì sinh tử và Niết-bàn đối nhau.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ tư là hành tướng trong nhân đối lập nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì Bồ-tát thừa và Nhị thừa đối nhau.”

“Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ năm là giáo đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phương Đẳng và Tiểu thừa đối lập nhau.”

“Này người thiện nam! Vô sở hữu” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ sáu là định và loạn đối lập nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: ““Không tam-muội” và vòng sinh tử.”

“Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ bảy là lý thường và vô thường đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đồng với cách giải thích này.”

“Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ tám là “Giải” và “Hoặc” đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: Vì đệ nhất nghĩa và năm kiến đối nhau.

“Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ chín là nhân quả và người đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật và Đại thừa đối nhau.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Lời ông hỏi cũng vô sở đắc” cho đến “Là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử ta.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ mười là bỏ, hỏi về bỏ, đáp đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Là đồng.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lìa quyến thuộc của ma, là đệ tử Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng về nghĩa vô đắc. Sở dĩ bảo cho biết là vì “Không” đứng đầu muôn hạnh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bạch Đức Thế tôn! Nghĩa này như thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn năm. Trước kia, dùng mười vô để dứt chấp, giúp cho sự bưng bít tâm của phàm phu được giảm bớt phần nào, nay lại muốn dẫn chứng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là xong sáu niệm xứ, là giải thích rộng về ví dụ thứ nhất trên. Lối chấp của vật tình vốn giúp cho “Hoặc” ở trong tâm. Cho nên chỗ nào cũng bị ngăn ngại, chẳng thể hóa độ vô cùng. Nay nói về Bồ-tát Thập địa, với tâm Kim cương viên mãn và vì phiền não đã dứt hẳn cho nên ẩn, hiển vô phương, trăm biến hóa tự tại, nên nói không có đối tượng câu chấp.

Nay, Bồ-tát Ca-diếp với ý hỏi rằng: “Nếu quả Phật đã không có câu chấp thì sao ở trên nói bài kệ “Xưa có nay không”, chỉ vì Thuần-đà, không vì khắp đại chúng? Được biết Như lai vẫn chưa tránh khỏi chấp câu nệ?”

Phật nói: “Này người thiện nam! Ta vì hóa độ” cho đến “Văn-thùsư-lợi liền được hiểu rõ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý Phật đáp rằng nói pháp cùng tận. Sau đây, trước nói rộng về nghĩa “Xưa có nay không”, sau Đức

Phật sẽ đáp riêng câu hỏi.”

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như Vănthù-sư-lợi” cho đến “Là vô thường thì không có việc đó!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Phật vì chúng sinh chấp đắm nên nói tên của địa vô sở đắc. Không chấp đắm: là nói địa gọi là có sở đắc Văn-thù hiểu rõ, nghĩa là ở trên Bồ-tát Văn-thù sắp hỏi Phật về nghĩa khác nhau, không khác nhau, vừa nghe xong kệ này thì hiểu ngay!”

“Này người thiện nam!” Như lai khắp vì các chúng sanh cho đến

“Dù thấy các pháp, mà vẫn nói là không thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây chính là đáp câu hỏi.

Như trong Tỳ-ni nói: “Vì tùy theo thế tục nên hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn sáu, từ lúc đầu, nói “Mười một không”, người nghe nói vô, tâm không có chỗ nương gá, nên nói lại tám thứ thấy biết và lợi của bốn vô ngại. Đã nghe nói hữu, lại còn bỏ vô nên, chấp chặt lấy cái hữu. Vì dứt bỏ sự trệ ngại này, nên lại nói mười thứ vô, lại rửa sạch tình chấp. Chúng đương Thời nghe nói không “Hữu” nói lẫn nhau, nên chẳng biết phải theo bên nào? Đức Như lai quở, phải dừng tâm mình lại, cần phải tìm kiếm, mong cầu ý trong giáo. Như lai giảng nói đều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nói trái với lý thường còn vì lợi ích cho đương thời, huống chi hai thuyết “Không” “Hữu” mà lại sinh ra chấp chặt ư? Nói hữu vi để khéo biết về thế đế. Nói vô vi là để nói các pháp đều không ở đây. Ở đây là hữu chẳng trái với vô, vô chẳng trái với hữu, đâu được trái với lời nói hữu, không có để rồi thêm chấp kia ư? Dù biết các pháp nói là không biết, nghĩa là nếu y theo cái học của ngoại đạo, thì thấy cũng như thế!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đáp riêng về không có tướng câu chấp: đã nói là biết rồi lại nói không biết, đây là nói trái với lý thường, là nói Như lai trụ trong địa “Không bình đẳng” để nói tất cả pháp một cách tự tại, tùy ý. Nếu vậy, sao ông lại hỏi rằng: “Phật có câu chấp hay không?”

“Dù biết các pháp mà nói là không biết”, nghĩa là dù biết thường trụ mà nói rằng vô thường. Dù thấy mà nói là không thấy, nghĩa là Đức

Phật nói thấy chân thường mà nói là không thấy.”

“Pháp có tướng nói là vô tướng, pháp vô tướng nói là có tướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp có tướng nói là vô tướng: thật ra tự nó không diệt, nói là đoạn diệt. Pháp vô tướng, nói là có tướng, nghĩa là Đức Phật thật sự dứt tướng, mà nói là Bồ-tát giáng sinh trong cung vua.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tầng trời Ba mươi ba thật sự là sinh tử mà nói là thường, ngã, lạc, tịnh. Ở đây nói có tướng mà cho là vô tướng, vô tướng mà cho là có tướng, nghĩa là nói Niết-bàn là khổ, vô thường.”

“Thật ra có vô thường mà nói là có Thường” cho đến “Ngã, lạc, tịnh… cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như A-la-hán ở vị lai có tướng sinh tử, mà nói là “Vô”. Thật không có tướng rốt ráo mà nói là “Có”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thật có vô thường, nghĩa là tầng trời Ba Mươi ba nói là thường. Thật sự có thường, nghĩa là nói giáo nghiêng lệch lạm quá Phật địa.”

“Pháp của ba thừa nói là Nhất thừa. Pháp nhất thừa, tùy cơ nghi nói ba.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba nói là một, nghĩa là đã phá “Hoặc” khác với ba, nói giáo đồng quy. Một nói ba, nghĩa là phương tiện của ngày xưa là giáo phương tiện tùy nghi.”

“Tướng lược nói thành tướng rộng, tướng rộng nói thành tướng lược.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Như một nhân duyên, rộng thì mười hai, lược thì chỉ có nhân quả mà thôi.”

“Pháp bốn tội nặng gọi là tội Thâu-lan-già, pháp Thâu-lan-già nói là bốn tội nặng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc được biểu hiện trong luật, chẳng hạn như giới của tăng thì nhẹ, mà giới của ni lại nặng.”

“Phạm, nói không phạm, không phạm nói phạm” cho đến “Vì Đức Như lai thấy rõ căn tánh chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng hạn như tăng đi một mình, không phạm, Ni đi một mình thì phạm… .”

“Này người thiện nam! Đức Như lai dù nói lời như vậy” cho đến “Tùy phương tiện thích nghi, sẽ nói cho họ nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do nói luống dối mà được lợi cho chánh pháp, nghĩa là ngữ, tâm thì không có luống dối. Nếu nói luống dối mà có ích, thì cũng vì họ nói. Giải thích lại việc trên.

“Này người thiện nam! Tất cả thế đế, nếu đối với Như lai tức là Đệ nhất nghĩa đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Danh từ hai đế xuất xứ từ Phật nói, không phải do phàm phu. Nếu có cái gọi là Thế đế mà không có Đệ nhất nghĩa. Nói giả có là vì muốn nói lên chẳng thật có, nên đối với Phật là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Danh từ hai đế nói ra từ miệng Phật, không phải nói ra từ phàm phu. Nói giả có là vì muốn nói lên chẳng thật có, mà đối với Như lai thì thường là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế đế dù là sum-la, nhưng đối với kẻ điên đảo thì thường có, còn đối với người không mê hoặc thì thường “Không”, chẳng hề “Có”. Nếu do Phật mà lấy thì thường là một đế, nhưng đến khi thành Phật, thì mới biết rằng chúng sinh là mộng. Đối với Như lai thì suốt ngày không có. Có cái vô để có, chẳng có cái vô để không. Vì yên lặng không có tướng mạo, nên đối với Phật đều là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Xưa nói Niết-bàn đều không có thân, trí nói chưa liễu nghĩa, tức là luống dối, nên gọi là thế đế. Thế đế này thật ra chẳng phải là pháp vô được Phật soi sáng, tức là Đệ nhất nghĩa.”

“Vì sao Chư Phật, Thế tôn vì Đệ nhất nghĩa” cho đến “Thì Chư Phật không bao giờ giảng nói Thế đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghĩa trên, chúng sinh chấp “Có”, thì Chư Phật nói “Chẳng thật có”. Nói giả có là để đắt dẫn chúng sinh. vì để cho chúng sinh biết là giả có, chẳng thật có. Nếu không biết chẳng thật có thì Phật cũng không nói là giả có. Vì sao? Vì dù là giả, thật khác nhau, nhưng vì tai hại là một thì cần gì phải nói.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia là thuyết trái với thường, nay lại trở về với sự hiểu biết kia rằng: “Như lai tùy phương tiện giải thích, hóa độ chúng sinh được lợi ích khác nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phàm phu vì phải y theo thế đế, mới biết được muôn pháp “Là vô”. Nên nói rằng, vì làm cho chúng sinh được Đệ nhất nghĩa, nên mới nói thế đế.”

“Này người thiện nam! Như lai có lúc giảng nói thế đế” cho đến “Không phải điều mà Thanh văn, Duyên giác biết được.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Phật vô thường, phàm phu cho là thật, là bậc nhất. Nói Đệ nhất nghĩa, chúng sinh cho là Đức Phật nói thế đế. Phật nói thường, lạc là Đệ nhất nghĩa, phàm phu cho là Giả, là Thế đế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chấp lấy gần, thì giả danh, thật pháp là “Không”, đều là thế đế. Chấp lấy xa là cửu địa trở xuống, đã được “Không” vô ngã, cũng là thế đế, chỉ có thể của Niết-bàn thường vắng lặng là chân đế, mà chúng sinh đã nói là Cửu trụ trở xuống được “Không”, bỏ Đệ nhất nghĩa, lý luận đều là thế đế.”

“Này người thiện nam! Vì thế, ông không nên hỏi rằng:” cho đến “Sao lại hỏi rằng Vô sở đắc ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói ý Phật rất khó hiểu hễ nghe nói là chấp đắm. Chúng sinh nói vô đắc, là bình đẳng địa, bèn cho là tất cả vô đắc, lại kết như trên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn bảy. Trước kia, nghe nói trái lại với lý thường, dứt bỏ mê muội cho chúng sinh, tâm không có chỗ đặt để, lại nói có được để gồm thâu ý kia. Thường được Niết-bàn, tức Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật nói vô phương, chẳng lẽ là cảnh giới của ông ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai, chính thức đáp lời hỏi. Nghĩa có đắc tức là Bồ-đề Niết-bàn.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Đệ nhất nghĩa đế” cho đến “Cũng gọi là Bồ-đề, cũng gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đệ nhất nghĩa đế, gọi là chân thật. Pháp chân thật có ba thứ: Mười một “Không” thần thông, trí tuệ là đạo. Trí tức Bồ-đề. Kiết dứt hết là vô vi, gọi là Niết-bàn. Hai pháp này đều là bậc nhất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý Đệ nhất nghĩa, về lý lẽ ra là thường. Thường thì không thể đắc. Nếu đối với sự có đắc, thì là vô thường. Muốn

Đức Như lai giải thích lý do vì sao là thường, chẳng phải mới có.”

Nếu có Bồ-tát nói rằng có đắc đạo” cho đến “Giống như Phật tánh không có đắc, không có sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là hỏi chung ba pháp.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nói về Đạo: Chẳng phải sắc, chẳng phải không phải sắc” cho đến “Bồ-đề, Niết-bàn cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi về “Không” để nói không có tướng để đắc.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Niết-bàn là tên chung của các đức. Ba đức này chỉ là một thể. Nếu có thể đắc thì lẽ ra là vô thường. Vì sao pháp thường không được có, cho nên chẳng phải thường”.

Phật nói: “Đúng vậy! Đúng vậy! Này người thiện nam!” cho đến “do nghĩa này nên không thể chấp lấy”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy khổ hạnh v.v… làm đạo, đó là vô thường, dùng “Không” làm đạo, đây là thường.

Bồ-tát ít thấy Phật tánh, được gọi là thường. Ngoại đạo chế phục kiết, vì kiết sinh trở lại, nên gọi là vô thường”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước giải thích về thường, tất nhiên, là ở Phật, vì bị phiền não che lấp, nên không thể thấy được. Nay được thấy chẳng phải mới có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu đạo là vô thường thì làm sao giúp người tu hành dứt hoặc, thành Thánh được?”

“Này người thiện nam! Dầu đạo không có hình sắc để thấy được, cân lường biết được, nhưng thật có công dụng”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Không thể làm cho chẳng phải sắc mà không có tự thể, thể biểu hiện ở muôn “Hoặc”, hạnh mãn tức là công dụng”.

“Này người thiện nam !Như tâm chúng sinh dù chẳng phải sắc” cho đến “Tất cả Bồ-tát đều thấy biết rõ ràng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy “không”, dứt “Hoặc” là có dụng của “Không”. Thấy, biết rõ ràng, nghĩa là dùng hai việc để chứng minh là “Có”.

  1. Dứt bỏ kết.
  2. Thấy được rõ ràng.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Mượn tâm chúng sinh để so sánh”.

“Này người thiện nam! Thấy có hai thứ” cho đến “Dù thấy như vậy, nhưng đầu tiên vẫn không có tướng thấy”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng thấy để làm chứng. Tư tuệ của thế gian không hiểu rõ, tu tuệ thì hiểu rõ”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn tám, chứng minh có đạo. Có năm lượt, đây là lượt thứ nhất, nói có thấy, cho nên có biết, tất nhiên là có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thấy tướng mạo, nghĩa là Cửu địa trở xuống, tin thấy là mắt thấy: Thập Trụ thấy rõ ràng. Lại, giải thích Thập trụ thấy không rõ, nên nói là thấy tướng mạo. Đức Phật vì thấy đầy đủ, nên gọi là mắt thấy”.

“Này người thiện nam! Do nhân duyên này, nên ngày trước, cho đến “Gọi là phàm phu, Bồ-tát cũng vậy”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhân duyên thấy có rõ, không rõ, nên biết là “Có”. Dẫn thuyết đã nói ở trước, thấy “Có” tướng thấy là thế gian, thấy “Không” tướng thấy là Phật, Bồ-tát “

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai là dẫn xưa, Đức Phật đã vì Xá-lợi-phất nói pháp, nên chứng biết là “Có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Điều mà thế gian không thấy biết, là ngoại đạo biết thì Phật và Thập trụ cũng biết. Điều mà ngoại đạo không biết thì là Phật và Thập trụ cũng biết. Nhưng cái mà thế gian không biết, đó là Phật tánh. Ngoại đạo không biết mà khởi chấp đoạn thường. Bồtát dù biết nhưng không nói có tướng biết, cho nên không câu chấp”.

 

Phần 5

  • Nói về thế gian không thấy biết, thì Bồ-tát thấy biết.
  • Nói rộng về tướng tu giới của Bồ tát. Răn dạy rộng, phép tắc của người truyền bá rộng chánh pháp.
  • Giải thích rộng sáu niệm, thứ nhất là nói về mười danh hiệu.
  • Giải thích Bà-già-bà…

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như Phật, Thế tôn” cho đến “Không gọi là thế gian, không gọi là chẳng phải thế gian”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không gọi là thế gian, không gọi là người tại gia trong Phật pháp. Không gọi chẳng phải thế gian, không gọi người tín căn trở lên”.

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp nghe việc này rồi” cho đến “Chúng sinh nghe tạng bí mật, liền được bất sinh diệt”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói công năng của địa rồi, nói phạm hạnh thô đã xong. Ở đây là khen Phật. Bài kệ này nói Đức Phật khéo nói chánh đạo, gọi là thầy thuốc. Bài kệ tiếp, giải thích nghĩa thầy thuốc, đủ chủ thể trị, đối tượng trị, rốt ráo không phát. Bài kệ kế là, lập ví dụ về pháp. Kệ sau nói về thể của pháp.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vì sẽ hỏi về chỉ thú của nghĩa trước, nên đoạn năm, trước dùng kệ để khen ngợi Phật và kinh giáo”.

Bồ-tát Ca-diếp nói kệ này xong” cho đến “Nếu chẳng phải thế gian, thì có tướng gì khác?

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, nói về công năng của kinh: y theo kinh tu hành, sẽ mau được xuất thế. Như Công Đức Tạng Vương đã nói ở cuối phẩm Thánh Hạnh”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là phân biệt rộng về người hiểu biết. Thế nên Bồ-tát Ca-diếp nhân thưa hỏi để phát ra lợi thưa thỉnh”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là xong sáu niệm, đoạn sáu nói Bồ-tát khác với thế gian, xuất thế gian có ba ý:

  1. Y cứ giới, định, tuệ.
  2. Y cứ phép tắc, oai nghi của Pháp sư.
  3. Y cứ pháp sáu niệm, nói về giống nhau, khác nhau giữa sáu niệm.

“Phật nói: “Này người thiện nam! Nói Bồ-tát” cho đến “Cũng đồng với thế gian không hiểu biết”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại khái Bồ-tát có hai loại: Loại thế gian, và loại xuất thế gian. Nếu là người đang giữ giới thanh tịnh, tâm bền chắc không lay động, cuối cùng sẽ được phát định, sinh tuệ, biết lối chấp của chín mươi sáu thứ ngoại đạo là sai quấy. Biết lý mà pháp Phật nói là đúng. Công dụng của lòng tin này là tu hành, dứt hết hai bên, thuộc về người thấy biết. Hỏi: “Đây là người ở địa nào? Là tín, đứng đầu năm căn trở lên, người này được lìa hẳn sinh tử, không còn nỗi lo rơi vào ba đường nữa, gọi là Bồ-tát xuất thế gian.

Nếu lòng tin không lập thì giữ giới sẽ không thanh tịnh. Dù được thấy kinh Niết-bàn kính tin thọ trì, nhưng lại không biết. Chín mươi sáu thứ chấp là sai lầm và pháp Phật đã nói là đúng. Đây gọi là tạo ra bốn niệm xứ, người trước là Bồ-tát thế gian, trở lại xếp vào số người không thấy biết. Dưới đây là bỏ, gồm có ba lớp, văn sẽ được phân biệt.

1. Đầu tiên y theo sự thành tựu, không thành tựu trong tâm tín tuệ, để chọn lựa nhắm vào người đã am hiểu, tức là lớp thứ nhất.

2. Y theo sự chọn lựa trong số người mở mang chánh pháp, nếu là người giữ giới thanh tịnh trong cõi đời vẩn đục này, không sanh chê bai, biết chín mươi sáu thứ chấp của ngoại đạo là sai lầm, thể nghiệm pháp Phật thường truyền bá là đúng đắn, đây là Bồ-tát xuất thế gian, rơi vào địa vị của người thấy biết. Nếu là người dù ở trong đời ác, truyền bá rộng kinh này, nhưng giữ giới không thanh tịnh. Lại tỏ thái độ chê bai, thêm vào đó không nhận thức được chỗ đúng sai của nội đạo, ngoại đạo, thì đây gọi là Bồ-tát thế gian, thuộc về hạng người không thấy biết.

3. Y theo sáu niệm để lựa chọn: Nếu là người y theo kinh Niếtbàn, tạo nên sáu niệm xứ thành tựu, biết nội đạo, ngoại đạo đúng sai, thì gọi là Bồ-tát xuất thế gian, là người thấy biết. Nếu thực hành sáu niệm không thành tựu, do y theo giáo học xưa. Lại, không biết chỗ đúng sai của nội đạo, ngoại đạo, thì gọi là Bồ-tát thế gian, là người không thấy biết.”

“Bồ-tát nghe kinh Niết-bàn này rồi” cho đến “Đây gọi là Bồ-tát tu trì tịnh giới.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu biết có Phật tánh có công năng đạt được quả thường mà phát tâm, thì cho dù có trải qua sinh tử, cũng không mất niệm này, đó là công năng của kinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, nói về đạo dù chẳng phải là không nhưng phải có giới, định, tuệ.”

“Giới đã thanh tịnh, kế là tu thiền định” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát tu định thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn, Tư, Tuệ được rồi, chẳng cần tu tuệ, là nói có thể tu hai tuệ là tĩnh và định.”

“Giới, định đã đủ, kế là tu tuệ thanh tịnh” cho đến “Đó gọi là sự thấy biết chẳng phải thế gian.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong thân có ngã, thì thân lớn, ngã nhỏ. Trong ngã có thân thì thân nhỏ ngã lớn. Thân này ngã này dù nhỏ, dù lớn đều là đúng. Chẳng phải thân, chẳng phải ngã, cả hai đều vô. Tuệ có công năng dứt kiết. Trước là phải dứt bỏ thường, vững chắc không lay động, nghĩa là các kiến là gốc phạm giới, kiến đã dứt hết, thì giới sẽ không nghiêng động.”

“Này người thiện nam! Bồ-tát thấy giới cấm của mình thọ trì” cho đến “Là điều Bồ-tát thấy biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói không ăn năn, do giới mà sinh, chưa giải thích về nghĩa sinh nhau. Ở đây sẽ giải thích nghĩa sanh nhau.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Do giới thanh tịnh, nên tâm được vui mừng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nhờ kinh Niết-bàn mà giữ giới, là giới thế gian, tức có đủ bốn điều ác, không thấy được Phật tánh xuất thế.”

“Này người thiện nam! Như người xinh đẹp khôi ngô, tự thấy dung nhan mình trong gương” cho đến “Người phá giới cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gương mặt, dụ cho giới thanh tịnh. Gương, dụ cho Tỳ-ni, ở đây dù nói không có gương, nhưng kinh khác có nói.”

“Này người thiện nam! Như có hai cô gái chăn bò” cho đến “Do nhân duyên này, tâm cảm thấy vui vẻ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong thí dụ một đời ở trên có lúc vui mừng, có lúc không vui mừng, dụ cho khi qua đời. Bò, dụ cho kinh giáo. Cô gái chăn bò dụ cho người tu hành. Bình, dụ cho thân người. Lạc dụ cho phá giới. Bơ dụ cho trì giới. Thành dụ cho kinh Niết-bàn. Trợt chân dụ cho vô thường. Bình bể dụ cho qua đời. Bơ đã lấy ra ngoài, nước không đáng tiếc, dụ cho thân người trì giới, lợi mình đã phát ra, còn lại không đáng kể tới, dụ cho vui mừng. Bơ ở trong lạc mất chung với bình. Thí như người phá giới lợi ích của thân chưa phát ra với thân đều mất, dụ cho đáng buồn rầu!”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch: “Mừng và vui” cho đến “Là sự thấy biết của Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm pháp giúp cho giải thích lại tịnh giới. Sở dĩ giới là nhân của Niết-bàn là do được tuệ… giúp đỡ. Vì lìa năm cái, nên sinh năm thứ Niết-bàn, giải thích sở dĩ có năm pháp như tín… là vì suy ra công của tuệ, vì có khả năng lìa bỏ cái và kiến nghi, nên người có đủ năm căn là được năm giải thoát.”

“Này người thiện nam! Nếu đệ tử thọ trì, đọc tụng” cho đến “Không thể cho người phá giới cấm thọ trì tu tập.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói năm thứ trì kinh, để nói về xuất thế. Vì sao? Vì kinh khác nói, vì chưa rốt ráo nên hành vi ác đã không giữ đủ, làm cho người chê bai kinh, cho rằng người trì kinh này khởi việc ác, dù có thể lợi mình, nhưng không thể làm lợi ích cho người, chẳng phải Bồ-tát xuất thế! Vì lẽ đó, nên Đức Phật chỉ cho phép người xuất thế được trì kinh, để thích ứng với nghĩa của hạnh rốt ráo.”

“Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta thọ trì, đọc tụng” cho đến “Là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử của ta.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có công phu chân thật, đó gọi là buông lung đùa bỡn. Nếu chuyển các hữu thì gọi là nghiêng động.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta” cho đến “Là quyến thuộc của ma, chứ chẳng phải đệ tử ta.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc tỏ ngộ chưa đến, gọi là phi thời. Nơi chốn không nên nghe, gọi là chẳng phải nước. Không nghe lời răn dạy trên là tiêu diệt Phật pháp. Ý nói pháp Phật tắt mất thì pháp thế gian sẽ lừng lẫy. Nếu người muốn thọ trì cho đến mà là chỗ thấy biết của Bồ tát này. Xét: Pháp sư tăng Lượng nói: điều mà kinh này nói lý đều đầy đủ, khi nói kinh này lẽ ra đầy đủ các thuyết!”

“Này người thiện nam! Thế nào lại gọi” cho đến “Niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói sáu niệm của Bồ-tát xuất gia, tức là chung cho cả tại gia, dứt sợ sinh tử. Người tu sáu niệm không sợ nạn biển, vì tham của báu. Bồ-tát không sợ nạn khổ sinh tử vì tham vật của Tam bảo. Sợ chết, là sợ ba đường. Niệm giới, thí, thiên, đẩy lùi được sợ chết, là bắt đầu tu hành, không phải công đức xuất thế. Nếu dựa theo kinh này mà tu, thì chính là sự thấy biết xuất thế, là công năng tốt đẹp của kinh này.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm nói về sáu niệm, là trước kia, nói về giới, định, tuệ. Nay nêu cảnh để làm rõ công đức của tuệ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu tạo ra sáu niệm thành, thì gọi là Bồ-tát xuất thế gian, là người hiểu biết. Nếu không như vậy thì chẳng được gọi là người thấy biết của thế gian.”

“Này người thiện nam! Thế nào là niệm Phật?” cho đến “Vì nói

Trung đạo nên gọi là Đại Pháp sư.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này phân tích mười danh hiệu có chánh tạp, có lược rộng, từ Như lai đến Đại Pháp sư, ở đây ban đầu là rộng mười hiệu sau là lược, cũng có thể trước chánh, sau tạp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong niệm Phật có ba lượt:

  1. Nêu chung tất cả công đức của quả Phật.
  2. Trải qua mười hiệu.
  3. Nêu nhân thành Phật. Khi xưa Đức Phật tu các công đức của sáu độ. Nay được thường trụ muôn cảnh đều soi chiếu. Năm niệm dưới đây đều là chân ứng đều nói, chỉ có thể thấy trong văn, không cần giải thích.”

“Thế nào gọi là Như lai? Như Chư Phật quá khứ” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như là Như Phật; Lai là nương nhân mà đến quả, trong quả này nói Như lai. Từ sáu Ba-la-mật, nghĩa là nói Như lai trong nhân.”

“Thế nào là pháp ứng hợp với thế gian” cho đến “Để cúng dường

Phật nên gọi là ứng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ứng ác dứt trừ ứng thiện, vì nhóm họp đủ hai đức, nên xứng đáng nhận cúng dường.”

“Thế nào là Chánh biến tri? Chánh gọi là không điên đảo” cho đến “Thanh văn, Duyên giác không có Biến tri.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì biết nhân là chánh, biết quả là khắp.”

“Thế nào là Minh hạnh túc? “Minh” là nói danh được vô lượng” cho đến “Do nghĩa này nên gọi là Minh hạnh túc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh “Không” dù chẳng phải chiếu “Giải”, nhưng chẳng phải nhơ bẩn, tăm tối.”

“Thế nào là Thiện Thệ? Thiện là cao” cho đến “Thành tựu Đại Niết-bàn, nên gọi là Thiện Thệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh Niết-bàn, thật ra chẳng thật có. Nghĩa là sinh, trụ, diệt là tướng hữu vi, vì Niết-bàn không có tướng này, nên chẳng phải “Có”.”

“Thế nào là Thế Gian Giải? Thế gian” cho đến “Vì thấy rõ thế gian, nên hiệu là Thế Gian Giải.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhờ lời nói của thế gian, là “Có”, nghĩa là “Chẳng phải có”, nói “Có”, để nói “Chẳng phải có”.

“Thế nào là Vô Thượng Sĩ? Thượng sĩ” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có điều ác chưa hết, trí tranh luận với tâm. Vì trí vượt hơn tâm, nên nói là “Thượng”. Lời nói có thể hư hoại, nghĩa là có tranh cãi thì sẽ hư hoại.”

“Thế nào là Điều Ngự Trượng Phu? Tự mình đã là Trượng phu” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Điều Ngự Trượng Phu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nên dùng thân người nam để thành Phật, gọi là Đại Trượng Phu, giải thích câu trên. Đầy đủ pháp, là giải thích câu dưới. Điều Ngự Trượng Phu ở sau, gồm có bốn thứ, thích hợp với căn cơ sâu thì nói sâu, ứng với căn cơ cạn thấp thì nói cạn thấp, là nói khéo điều phục.”

“Thế nào là Thiên Nhân Sư? Sư có hai hạng” cho đến “Thế nên Phật hiệu là Thiên Nhân sư.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sư có hai hạng: Giải thích Vô thượng sư ở trên. Cũng kế là giải thích hai nghĩa: Trời, người, nói về năng thọ đạo.”

“Thế nào là Phật? Phật Hán dịch là Giác” cho đến “Thường được không lìa thấy Phật, Thế tôn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một lần nói về mười hiệu.”

“Này người thiện nam! Vì sao gọi là Như lai?” cho đến “Thân Kim Cương với tám mươi vẻ đẹp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại nêu quả để gọi. Vì muốn cho chúng sinh ưa thích quả nên thực hành nhân. Lại nói nhân, là trước lược, sau rộng.

“Lại Bồ-tát trong vô lượng kiếp xưa” cho đến “Đó gọi là Đại Bồtát niệm Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh, Trụ là hữu vi, tự tại là vô vi, tu năm mươi tâm, thành tâm quả này.”

 

Phần 6

  • Giải thích: Niệm pháp vô tướng.
  • Niệm tăng là ruộng phước.
  • Niệm giới là cầu rường.
  • Niệm thí là nhân Bồ-đề.
  • Niệm thiên là Đệ nhất nghĩa thiên.
  • Nói về sự khác nhau giữa ba phẩm nhập thai.
  • Giải thích ý nghĩa pháp Phật Ca-diếp bảy ngày diệt .
  • Nói truyền bá kinh Niết-bàn, thì Phật pháp sẽ không diệt.
  • Nói trong cõi đời vẩn đục này, các Thanh văn chấp lấy tướng, mất lý, thì pháp Phật chắc chắn sẽ hoại diệt.
  • Nêu ra không được ăn mười thứ thịt và những việc bán dao, rượu, lạc sa…

“Thế nào là Đại Bồ-tát niệm pháp” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát niệm Pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng kinh Niết-bàn làm pháp, sáng tu, chiều được lợi. Chiều nay tu, sáng mai được lợi, nên nói “Không có thời gian mà có quả hiện tại. Đối tượng mà pháp nhãn thấy, đến vô vi, vô số, nói là mười một “Không”, là pháp không có nhà cửa, cùng cực rốt ráo mầu nhiệm.

Giải thích “Không” để gọi là pháp có công năng đạt đến Niếtbàn. Chẳng phải sắc dứt sắc, nghĩa là nói chân, mà cũng là sắc, nghĩa là nói “Ứng”.

Chẳng phải nhân là chẳng làm nhân. Là nhân: Trí là giải thoát làm “Liễu nhân”.

“Thế nào là niệm Tăng? Chư Phật, Thánh Tăng” cho đến “Thường không thay đổi, đó gọi là Niệm Tăng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chư Phật, Thánh Tăng,” cho đến “Tu hành pháp chánh trực”, là giải thích như pháp trụ. Thầy của Phật là pháp, vì pháp là thường nên Như lai là thường. Tăng có ba nghĩa, ở đây giải thích nghĩa hòa hợp và nghĩa đệ tử tăng. “Không thể quán thấy” cho đến “Nghĩa không thể suy nghĩ bàn luận”, là tăng thường. “Là ruộng phước tốt của tất cả chúng sinh”, là giải thích nghĩa ruộng phước tăng.”

“Thế nào là niệm giới? Bồ-tát suy nghĩ” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm giới.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có giới không phá, cho đến “Chư Phật đều khen ngợi”, nói là tịnh giới thể. “Là Đại Phương đẳng” cho đến “Cờ tốt đẹp báu mầu”, là giới tốt đẹp, có công năng sanh ra muôn pháp, thí như đất là qua sông sinh tử, dụ cho thuyền. Trang nghiêm chúng sinh, dụ cho chuỗi anh lạc. Khả năng gìn giữ tăng chúng, dụ cho như dòng họ lớn. Dứt trừ phiền não, dụ cho nước tro (xà-phòng). Ngăn Che các ngọn gió lốc dữ dội, dụ cho nhà cửa. Cắt đứt các kiết phược, dụ cho dao, gươm. Chẳng có ưa thích nào không đầy đủ, dụ cho ngọc báu. Chỗ hướng đến tự tại, dụ cho chân đi trên con đường Niết-bàn, dụ cho mắt thấy. Có công năng sinh ra các điều lành, dụ cho cha mẹ. Ngăn che sức nóng bức của phiền não, dụ cho che mát. Trèo lên núi Niết-bàn, dụ cho thềm bực. Dẹp tan bọn giặc ma, dụ cho cờ phướn.

“Thế nào là niệm Thí? Đại Bồ-tát” cho đến “Nói rộng hạnh Bồtát như trong kinh Tạp Hoa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã khen ngợi từ đầu đến cuối”, nói là thành tựu công đức bên ngoài. Từ “Thí cho chúng sinh thức ăn, cho nên thí mạng gọi là công đức bên trong.”

“Thế nào là niệm Thiên? Có cõi trời bốn Thiên vương” cho đến “Là nơi Bồ-tát đã thấy, biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xua tan nỗi sợ hãi của ba đường. Tín, Giới, Thí, Văn Tuệ là nhân của cõi trời trong ba cõi. Nay ta có đủ cả. Không có khổ địa ngục v.v… Trời thế gian vô thường, hồi hướng công đức này để cầu Đệ nhất nghĩa thiên, lìa hẳn sinh tử, đâu có sợ sinh tử?”

“Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta” cho đến “Rất kỳ lạ đặc biệt, không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói tu sửa kinh là đức, nay kết kinh không thể suy nghĩa bàn luận.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ phẩm Phạm Hạnh đến đây nói về bốn tâm vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả, mà nói riêng về đức xả có tám đoạn, với câu văn sinh nhau, nghĩa chúng đã hoàn tất, nên nay khen ngợi kinh, có ba lượt:

1. Nói về công đức thọ trì, biện chép thì phần lớn không so sánh với kinh khác.

2. Nhờ người để khen ngợi kinh. Nói sở dĩ được tám việc không thể suy nghĩa bàn luận là nhờ năng lực của kinh.

3. Gởi gắm vào sự hưng thịnh, diệt vong để khen ngợi kinh. Nói kinh Niết-bàn này còn ở đời thì chánh pháp hưng thịnh. Nếu kinh này mai một, thì chánh pháp sẽ lu mờ. Đã thịnh, suy do kinh này thì phải biết vượt vượt hơn các kinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ đây trở xuống, là văn thứ ba trong phẩm Phạm Hạnh: Khen ngợi lưu thông kinh, y theo phần khen ngợi kinh này có ba phần:

1. So sánh với các kinh trước Pháp Hoa. Nay, kinh Niết-bàn vì đã nói đầy đủ sáu hạnh, cho nên tốt đẹp. Tuy nhiên kinh xưa chỉ nói ba hạnh, cho nên không bằng.

2. Từ câu “Lại nói Bồ-tát không thể suy nghĩa bàn luận”…trở xuống, y theo công năng lợi ích cho người, để khen ngợi. Người này không từ người nghe pháp. Ở trong đời vẩn đục, chỉ thấy kinh này, tự mình dựa vào sáu hạnh mà tu thân, sẽ được lợi ích. Cũng do năng lực kinh rất lớn, nên được như vậy!”

3. Từ “Pháp Phật ở trên, cho đến lúc nào mới diệt” trở xuống, đều y theo sự thịnh, suy để khen ngợi. Vì sao? Vì từ kinh Pháp Hoa về trước, ứng với căn tánh của chúng sinh, tiến dần đến hạnh của họ, vì điều phục bốn điên đảo, căn cơ cũng thành tựu, bèn bỏ dở giáo này. Tuy nhiên, kinh Đại Niết-bàn là lời nói rốt ráo không dư thừa. Chư Phật trong ba đời đều giảng nói chung lý này, nên không có sự hưng thịnh, bỏ dở”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ tư trong phẩm dưới đây là khen ngợi kinh. Hạnh không cô lập, lập thì phải nhờ ở kinh, nên đã giải thích về thể của hạnh xong. Kế là phần khen ngợi kinh, gồm có ba lượt:

  1. Y theo sự thọ trì.
  2. Y theo sự thành tựu không nghĩ bàn.
  3. Y cứ pháp hưng thịnh diệt hoại. Đây là phần thứ nhất, nhờ ở chỗ thọ trì hơn kém, để phân biệt sự cao thấp của năng lực kinh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!…cho đến Kinh Đại Bát-niết-bàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét thấy: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn nêu lên câu hỏi thì trước phải nhận hiểu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ đây trở xuống là lượt thứ hai, nương vào người để khen ngợi. Do năng lực kinh, nên được tám việc không nghĩ bàn.”

“Bạch Đức Thế tôn! Vì sao lại nói Bồ-tát…cho đến là “Nhân của Vô thượng Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất là nói Bồ-tát được kinh này, không có thầy, tự giác ngộ, y theo lý sáu hạnh mà tu nhân để chứng được quả Phật.”

“Này người thiện nam! Như Bồ-tát này lúc chưa thấy Vô thượng Bồ-đề” cho đến “Do đó, nên Bồ-tát không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe kinh phát tâm, không có người dạy, chưa nhận thấy lợi ích của Bồ-đề, mà không tiếc thân mạng, đây là việc thứ nhất.”

“Lại nữa, Bồ-tát” cho đến “Do đó, còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có hai ví dụ nói lên đâu có khổ nào, không nhàm chán là việc thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau khi thấy kinh này, Bồ-tát tự sẽ tu hành, vì chúng sinh mà chịu khổ, cho đến ba đường cũng không nhàm chán.”

“Này người thiện nam! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề” cho đến “Thế nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai vị Bồ-tát trên chưa bước lên Sơ Địa, mà tâm rất vững vàng, là nhờ năng lực kinh, nên được như vậy.

Kết lại hai việc nói trên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ ba, nói chúng sinh phát tâm dù nhiều, nhưng thành tựu thì ít. Người này nhờ thấy kinh nên được rốt ráo không lui sụt.”

“Này người thiện nam! Nếu có người nói rằng: “Tôi có thể lội qua” cho đến “Thế nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì phát tâm làm thí dụ. Sức nhỏ mà việc hiện tại lớn, quả của tâm kia, là việc thứ ba.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ tư, người đời có khả năng lội qua biển sinh tử. Người này có thể lội qua, để chứng lấy quả Phật.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Do đó, nên gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù là thuyết điên đảo, nhưng không nhiễm sinh tử, là việc thứ tư.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ năm. Người này vì chúng sinh mà nói thường…, chẳng phải luống dối.”

“Này người thiện nam! Người có ba hạng: Thượng, trung, hạ” cho đến “Do đó nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu thọ sinh điên đảo, hạ thì khởi sân, thượng thì sinh tham, mà với sáu niệm, Bồ-tát đồng là phàm phu thọ sinh, nhưng bất sinh tham, sân, là việc thứ năm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Việc thứ sáu. Người này nhờ năng lực kinh, nên có thể tu định, học tuệ, tự biết những việc nhập thai, ra thai.”

“Này người thiện nam! Vô thượng Bồ-đề” cho đến “Do đó, lại gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả Bồ-đề, tâm là nhân. Nhân, quả này đều không thể dùng việc so sánh để nói được. Kinh Niết-bàn nói: “Bồ-tát lại là người không cần thầy mà có khả năng thành Bồ-đề, có khả năng nói cho người nghe, là việc thứ sáu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Việc thứ bảy, chân như, quả Phật là, “Có” mà “Không” là Tướng nhưng con người không thể so sánh, giống nhau nhưng không thể chấp lấy. Ở trong nhân được kinh này, nên yên tâm tu hành, lại còn có thể làm cho người khác được yên tâm, đồng hướng về quả cùng cực.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Không thể suy nghĩa bàn luận, miệng cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lìa, tức mười giới thiện. Bồ-tát không có ngã, không có ngã sở, mà tu tịnh giới, khinh, trọng đều không trái phạm.”

“Này người thiện nam! Từ thân xa lìa thân, từ miệng xa lìa miệng” cho đến “Do đó nên gọi là không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói là Bồ-tát khéo hiểu về giả danh, trước nói về pháp thật không có dứt kiết. Từ thân thực hành xa lìa. Thân không có tạo tác. Nghiệp khác cũng giống như vậy. Tuệ là thật. Nói thật, có pháp thật, không có dứt kết, không thể làm cho Bồ-tát xa lìa dị, diệt của chúng sinh. Không bao giờ sinh niệm, cho đến chẳng luống dối, vì khéo hiểu giả pháp, nên nói không luống dối, là việc thứ tám.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ tám, nói Bồ-tát xa lìa mười điều ác, mà không ở tướng lìa. Không thấy một pháp là thân, là nghiệp, là lìa chủ, dùng lý không mà cầu, tức là không thấy ba nghiệp. Lấy duyên giả mà cầu, cũng là “Có”. Thật có tuệ này, thì không thể làm cho Bồ-tát xa lìa, nghĩa là nói Bồ-tát không hiện có thật tuệ, tâm hư hội lý, nên biết được từ thân mà lìa thân, cho đến từ tuệ mà xa lìa, chứ chẳng phải thân, chẳng phải miệng. Ba nghiệp đã không, thì mười việc ác sẽ dứt ở đây.

Không có một pháp: Câu trên nói “Duyên” thành giả không, ở đây nói “Không” giả nối tiếp nhau.

Nói không có một pháp: Y theo đạo của thật pháp, thường chia ra tự diệt. Vì trước không đến sau, nên không có tuệ xa lìa. Theo giáo xưa nói: Sau đây là lượt thứ tám. Nói người này nhờ năng lực kinh, nên biết được giả danh, thật pháp. Biết nhân duyên là không thật, dứt được ba nghiệp, chẳng làm việc phi pháp cũng không nghĩ bàn. Vì dứt ba điều ác của thân, nên nói là “Từ thân lìa thân”. Vì dứt bốn lỗi lầm của miệng, nên nói “Từ miệng lìa miệng”. Vì chủ yếu là được tuệ, nên dứt bỏ ba độc, vì thế nói là “Từ tuệ mà xa lìa, chứ không phải từ thân, từ miệng. Thật có tuệ này, nhưng không thể lìa, là nói trong pháp thật, không có học dụng riêng, trước sinh sau diệt. Đầu tiên không lựa chọn và lúc tuệ sinh thì không có hoặc để dứt, khi hoặc còn lại không có tuệ, phải là nối nhau trong đạo, xưa “Có” mà nay “Không”, mới được nói về dụng.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Phật pháp vô thượng sẽ trụ trong thời gian bao lâu?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì muốn nghe kinh nên trước hết phải hiểu. Sẽ trụ trong thời gian bao lâu, nghĩa là hỏi tất cả pháp Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn thứ ba, y theo thực trạng thịnh suy để khen ngợi, nên xét trước, nêu câu hỏi sau.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Y theo lời khen ngợi thứ ba này có bảy lượt, để nói về sự thịnh suy của chánh pháp.”

“Này người thiện nam! Như kinh Đại Niết-bàn” cho đến “Phải biết rằng, lúc bấy giờ Phật pháp chưa diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một câu kệ nói Phật là thường trụ, là năm hạnh của kinh này, văn khen ngợi đầy đủ, là gốc của các kinh. Người giữ được gốc thì cành nhánh chắc chắn sẽ sum sê tươi tốt, pháp Phật chưa diệt”.

“Này người thiện nam! Nếu kinh Đại Niết-bàn” cho đến “Nên biết rằng Phật pháp sắp diệt, không còn bao lâu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù kinh được truyền bá khắp nơi, nhưng không thể kính tin thì kinh pháp sắp diệt không còn lâu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu truyền bá kinh này, thì đạo Phật sẽ không bỏ phế. Nếu bỏ mà theo điều ác, thì không bao lâu sẽ diệt!”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ nhất nói vì kinh này hiện đang còn thì pháp Phật không diệt. Nên biết rằng, về lý gồm nhiếp các kinh điển!”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Là tạng bí mật của các Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Lý và Danh, cú là kinh, có ba thứ:

  1. Kinh Danh tự.
  2. Kinh Chương cú.
  3. Kinh giấy mực.

Người ở thời kỳ đó đều ghi nhận gượng gạo, không cần giấy mực, cho nên kinh giấy mực diệt.

Có kinh này thì không, nghĩa là nếu có kinh này, thì người nên cung kính, kinh pháp sẽ không diệt. Nếu không thì chẳng phải cùng có, không nên nói kinh điển này là tạng bí mật của Chư Phật.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo ngôn ngữ, vì đều là phụ nhau, nên nêu lên câu hỏi:

Dù cho hai lần triển khai, nhưng mục đích là muốn nghe lý bất diệt, chính là lý vì khen ngợi kinh. Nếu giáo pháp thường tồn tại, tất nhiên không nên nói diệt, bởi diệt tận thì không nên thường?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước là một phen xem xét, là kết thúc hai câu hỏi: “Nếu pháp của Phật Ca-diếp có kinh thường này thì không thể nói là “Bảy ngày đã diệt”? Nếu không có sự kiện đó thì không được nói rằng” cho đến “Đó là thời kỳ Phật pháp bất diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh Niết-bàn đã khởi lên hai Pháp đều không diệt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng chín lớp pháp đối lập nhau để nói về pháp thường không diệt, vô thường bất diệt.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, sẽ đáp, nên trước nêu các pháp, nói lược về sự thịnh, suy là ở văn, không ở lý.”

“Này người thiện nam! Vừa rồi ông đã hỏi Phật Ca-diếp” cho đến “Vì đã không nói nên gọi là bí tạng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tất cả Chư Phật đều có hai cõi nước tịnh, uế. Phật ở cõi nước vẩn đục, Khai thị giáo ba thừa, trước cạn, sau sâu, vì dứt trừ dần các điều ác, nên gọi là Tạng.”

Nói vào thời kỳ Phật Ca-diếp, há không có ư? Sở dĩ giáo pháp không truyền thừa là vì căn tánh con người vào thời kỳ ấy, rất dễ tỏ ngộ, vì phiền não ngày càng giảm ít, nên không cần ngôn giáo, tự họ có thể suy gẫm sâu sắc về chỉ thú u huyền. Do đó, không thể nói là do con người không truyền tải, nên làm cho lý thường cũng mất. Chúng sinh đời nay, vì nhiều phiền não nên phải giảng nói kinh này. Nếu có chúng sinh đối với chân ngã, chấp là không có ngã, thì ngoài người đó ra, còn có con người như thế, “Hoặc” của họ ngày càng chồng chất sâu dày, vì thế nên cần phải có giáo thường để dạy bảo tâm của chúng sinh!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đâu cần hỏi “Có” hay “Không” kinh này, chỉ cần mười một bộ không nói thì bị hoại diệt!”

“Như bảy thứ châu báu của con người không đem ra ngoài để dùng” cho đến “Thời Phật Ca-diếp có kinh này không?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì để tiêu diệt điều ác nặng nên kinh được nói ra. Nếu những việc xấu ác không dứt thì kinh gọi là ẩn. Vì kinh ẩn giấu, nên tất cả pháp đều hoại diệt!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Giải thích lý do không nói, chẳng hạn như người ngoài nghe nói kho chứa bảy thứ châu báu, phải đủ hai nhân duyên (điều kiện) mới đem ra ngoài để dùng:

  1. Vì lúa gạo đắt đỏ.
  2. Bị giặc đến xâm chiếm, dường giao thông tắc nghẽn.
  3. Gặp phải vua ác, buộc phải chuộc mạng.
  4. Dự phòng của tài khi thời vụ thất thu, sẽ đem ra dùng.

Nói về ý Phật cũng giống như vậy. Như nói về bốn thời giáo. Về sau, chứng bệnh chấp đoạn, thường của chúng sinh phát ra, nói kinh Niết-bàn cho nghe, sau cho chúng sinh đều được vị pháp để tự no đủ, như vì lúa gạo khan hiếm, mắc mỏ, mà phải ăn. Đã sinh phiền não đối với sự nghiệp hành đạo, bèn vì họ nói giáo thường, như bọn cướp đến chỗ của cải lấy đem đi rồi đòi chuộc. Mạng trí tuệ của chúng sinh không nối tiếp, như gặp phải vua ác, buộc phải chuộc mạng.

Đã khởi lên nghiệp Kiết, vời lấy tám khổ sinh tử. Nay nói lý cùng cực, làm cho tâm giải của chúng sinh được phát, dứt trừ sinh tử. Chính vì những lý do đó, nên khi chúng sinh khởi lên các chứng bệnh, Đức Như lai vì muốn dứt trừ những việc ác đó, nên giảng nói lý này, để dẫn dắt chúng sinh.

Đã biểu dương sáng tỏ nghĩa bí tạng như thế, tức là Đức Phật đã quở trách câu hỏi trước kia của ngài Ca-diếp. Nhưng về sau chính là đáp, nói về pháp của Đức Phật Ca-diếp ở vào thời kỳ đó, sau khi trụ bảy ngày mới diệt. Vì sao? Vì đây là chúng sinh ở tịnh độ, thần căn nhạy bén, trí tuệ thấm nhuần, nên chỉ trong bảy ngày thọ trì đều được. Qua thời gian này và mãi về sau, không còn cần đến âm thanh, chương cú, thành ra nói là diệt mất, thật ra về lý cũng thường hằng mà không hủy diệt. Nay, ở thế giới này, sự ngu si không có trí, nhơ nhuốc, vẩn đục thường ngự trị ở trong lòng người, vì không thể hiện ở thường, cho nên phải giảng nói rõ ràng, phân biệt lý vốn thường trụ, há chấp nhận diệt vong ư?”

“Này người thiện nam! Vào thời Phật Ca-diếp, chúng sinh” cho đến “Nên dù có kinh này, mà vẫn không cần giảng nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cõi nước thời kỳ đó rất trang nghiêm, thanh tịnh, không có căn tánh chậm lụt, nên không cần ba thứ kinh”.

“Này người thiện nam! Đời nay, chúng sinh nhiều phiền não” cho đến “Vì sao thường không thay đổi?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về cõi nước này ô, uế, xấu ác, vì chúng sinh ưa quên, nên phải có ba thứ kinh.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ tư, chính là đáp câu hỏi. Nói về pháp Phật Ca-diếp, về lý thì thường bất diệt, vì căn cơ người học rất nhạy bén nên không cần nói năng. Do ngôn giáo không hưng thịnh, nên nói là diệt.”

“Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh đối với chân ngã mà chấp là không có ngã” cho đến “Không thể nói là pháp của Như lai diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở Trên nói có nhiều phiền não, ở đây nói tướng mạo phiền não.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đối với các câu chuộc mạng… trong dụ cho bảy châu báu ở trước. Nếu bệnh đoạn, thường của chúng sinh nổi dậy, thì nói sáu hạnh, sẽ có công năng yên định tâm. Về lý này thì tuệ mạng sẽ được thêm lớn, chính là dẫn chứng sáu việc như tài giỏi xuất chúng… làm thệ nguyện.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ năm, nói về các thời kỳ cần nói.”

“Này người thiện nam! Nếu Phật mới ra đời, đã chứng được Vô thượng Bồ-đề” cho đến “nên biết rằng chánh pháp này vẫn ở lâu trên đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về lúc kinh này ẩn thì kinh khác cũng diệt. Người gây ra pháp ác, thì pháp ác khởi lẫn nhau, ác khởi lên thì kinh Niết-bàn ẩn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói rộng về tướng pháp Phật diệt, bất diệt gồm có mười hai câu, hợp thành sáu cặp phải làm cho đạo, tục cần lẫn nhau, mới mong mở mang chánh pháp, được mất, thành công, thất bại đều bày tỏ với nhau, cùng biện bạch về quan điểm hơn kém nhau.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ sáu, là nói rộng về tướng diệt, bất diệt.

“Này người thiện nam! Lúc pháp của ta tiêu mất” cho đến “đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng, chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như trên đã nói pháp của Chư Phật có thịnh vượng, suy vi, ở đây nói điều ác thứ sáu trong pháp của Đức Thích-ca. Lạc-sa, là có ra từ trong hoa Ba-la-xa. Khi sâu tuôn ra lúc nhúc, có thể dùng để dứt trừ. Có mười hai muôn các Đại Bồ-tát đến đốt tất cả kinh điển, đủ chứng tỏ kinh Niết-bàn không tiêu mất. Nói thẳng chỉ là văn tự, giấy mực tiêu tan mất mà thôi!”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ bảy nói về hình tướng thịnh suy của pháp Phật Thích-ca.”

 

Phần 7

  • Việc vua A-xà-thế và sáu vị quan nói về tà kiến.
  • Việc Kỳ-đà an ủi vua A-xà-thế.

“Bấy giờ, vua A-xà-thế trong thành Vương xá,” cho đến “Vua cha vô tội mà bị nghịch hại một cách ngang trái.”

Xét: Pháp Sư Tăng Lượng nói: “Xếp vào cuối phẩm là có bốn ý, chứng tỏ kinh có nhiều nghĩa:

  1. Chứng minh lòng từ bình đẳng với oán thân.
  2. Chứng minh lòng từ có lợi ích.
  3. Nhổ gốc năm tội nghịch sâu nặng.
  4. Nếu tin nhân quả thì sinh tâm rất hổ thẹn, phát lộ sám hối. Như vua A-xà-thế thì có thể nhổ gốc tội, nếu không thế thì không thể cứu giúp. Ở đây trước nói về duyên khởi gây ra tội. Trong đó có mười điều ác, không thấy vị lai. Người của đảng hung ác bên ngoài bèn sinh khởi tội nghịch sâu nặng.

Ngài Đàm Tế nói có sáu ý

  1. Nói lòng từ có lợi ích.
  2. Nói oán thân bình đẳng.
  3. Nói bên ngoài làm thanh tịnh chúng sinh.
  4. Nói có công năng dứt trừ.
  5. Nói về hối quá.
  6. Nói nên gần gũi bạn lành.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có hai ý:

  1. Vẫn là khen ngợi kinh.
  2. Chứng minh thành tựu Phạm hạnh có lợi ích.”Kính Di chép rằng: Có năm ý:
  1. Khen ngợi kinh.
  2. Các nội quan khuyên đến chỗ Phật.
  3. Trong không khuyến cáo tùy theo Kỳ-bà.
  4. Lòng từ của Phật không nghiêng lệch.
  5. Nói về trừ tội.

Lại có cách giải thích khác:

  1. Các ngoài quan khuyên theo tà sư.
  2. Chứng minh Phạm hạnh.
  3. Chỉ bày tâm từ có năng lực sửa lỗi.
  4. Chỉ bày có tri thức chân thật.
  5. Nói trong phụ giáo ấy là Thanh văn.

Dưới đây có năm đoạn: Các ngoài quan khuyên.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là phần thứ tư trong đoạn lớn của phẩm Phạm Hạnh chứng minh lực dụng của kinh, có công năng dứt trừ tội nặng, gồm năm ý:

1. Trên đây tuy nói kinh có năng lực lớn, dứt trừ tội nặng, nhưng chưa thấy việc ấy. Nay nêu ra việc vua A-xà-thế gần gũi người ấy, nhờ năng lực của kinh nên tội được trừ.

2. Nói bốn tâm vô lượng là lợi ích chân thật. Nếu không ngoài tướng ấy thì lấy gì chứng nghiệm, nay cố dạy tam-muội Nguyệt Thọ, trước chữa trị bệnh ghẻ trên thân vua, gần thì tiêu biểu cho sự chân thật của tâm Từ bi.

3. Sẽ nói trong sự giáo hóa một đời của Như lai, làm Thiện tri thức cho khắp trời, người đầy đủ nhân duyên nhập đạo. Hiển rõ sáu vị giáo chủ ngoại đạo là bạn ác, Kỳ-bà là thiện tri thức.

4. Chỉ dạy người cách sám hối. Nếu có tội mà thực hành như vua A-xà-thế thì sẽ được dứt trừ.

5. Xa chứng lòng Từ bi bình đẳng của ba thừa.

Thứ Đệ Giáo chép: “Thanh văn không có lòng Từ bi cứu giúp chúng sinh, mà vua Tần-bà-sa-la chính là người đã chứng quả Tu-đàhoàn, có khả năng xả bỏ oán nặng. Trong “Không” có khuyến khích.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn lớn thứ năm trong phẩm chứng minh tâm Từ bi có ý nghĩa lợi ích chân thật. Văn có bốn phần:

  1. Nêu bên trong có nhân ác, bên ngoài tùy theo duyên ác mà làm ác.
  2. Kỳ-bà là bạn lành, khuyên A-xà-thế đến chỗ Phật.
  3. Vua cha khuyên.
  4. Phật tự phát ra ánh sáng để dắt dẫn hóa độ.”

“Vì sau khi hại cha thì tâm sinh hối hận,” cho đến “Có người trị được thì không có việc ấy.”

Nhận xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói tin có sám hối.”

“Bấy giờ, có vị quan lớn tên là Nguyệt Xứng” cho đến “Dứt trừ tội của ta, ta sẽ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phong tục của nước ấy là dùng kệ để an ủi, cho nên mọi người đều nói kệ để hiểu được ý vua. Phú-lan-na là tên, họ là Ca-diếp, người ấy khởi kiến chấp đoạn diệt. Cho nên nói sinh pháp như thế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại tà kiến này chê bai không nhân quả.”

“Lại có một vị quan tên là Tạng Đức” cho đến “Trừ diệt được tội của ta, ta sẽ quy y.”

Nhận xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mạt-già-lê là chữ, Câu-xály là chữ cái, người ấy sinh chấp đoạn thường. Nghĩa là bảy phần là thường, không thiện ác là đoạn. Cỏ y-sư-ca, da bên ngoài mềm mại, thân bên trong cứng chắc, dụ cho bảy pháp vô hại và người chết. Bảy phần mỗi phần đều chẳng phải người. Tánh khác không thể hợp thành một, cho nên vô hại. Nếu cách trị nước là giết hại thì trị người vô tội, nước có các thứ tội về hình phạt giết hại, từ vời lấy tội chết. Tội của người giết, pháp gọi là vô pháp. Đáp lời vua không có tội lỗi. Các vua trước tuy không có tội cuồng lạm, không có lỗi hình phạt giết hại nhưng có dư báo, có tội ở quá khứ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là ngoại đạo tà kiến lập ra thường kiến.”

“Lại có một vị quan tên là Thật Đắc” cho đến “Trừ được tội của ta thì ta sẽ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sa-xà-da là chữ, Tỳ-la-chi là chữ cái. Họ khởi chấp rằng: Tất cả khổ vui đều do nhân ở quá khứ, còn hiện tại thì vô nhân, vị lai không có quả, hiện tại giữ giới ngăn quả khổ không khởi, gọi là giải thoát.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là tà kiến, chấp tất cả khổ vui đều gây ra ở quá khứ.”

“Lại có một vị quan tên là Tất Tri Nghĩa” cho đến “Trừ diệt được tội của ta, ta sẽ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “A-kỳ-đa-sí-xá là chữ, khâm-bà-la là y, mặc y xấu khổ hạnh. Họ khởi kiến chấp rằng nhân khổ vui cũng ở quá khứ, nếu hiện tại chịu sự khổ thì tự được giải thoát, cho nên chịu khổ bằng nhiều cách như gieo mình xuống vực sâu, nhảy vào lửa, nướng thân trên năm nguồn nhiệt…”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Người này chấp đoạn kiến.”

“Lại có một vị quan lớn tên là Cát Đức” cho đến “Diệt được tội của ta, thì ta sẽ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ca-la-cưu-đà là chữ, Ca-chiêndiên là họ. Người này cho rằng tất cả muôn vật do trời Tự tại làm ra, tâm không hổ thẹn, trời Tự tại vui mừng, không vào địa ngục.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là kiến chấp về hai mươi lăm đế”.

“Lại có một vị quan tên là Vô Sở Úy” cho đến “Trừ được tội của ta, thì ta sẽ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ni-kiền là chữ, Nhã-đề là chữ cái, cho rằng nhân cũng ở quá khứ chịu sinh tử, trải qua tám muôn kiếp khổ hết, cũng không có thiện ác, hành đạo để dứt khổ. Cho nên nói không có A-la-hán tu đạo…”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu là người này chấp có giải thoát tự nhiên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ đầu đến đây là từ ngữ để phân biệt bạn ác: Dưới đây là từ Kỳ-bà trở đi nói về việc thiện tri thức. ”

“Bấy giờ, có vị thầy thuốc tên là Kỳ-bà” cho đến “Đến chỗ vua bạch rằng: Đại vương ngủ được yên hay chăng?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa nay các quan lớn đều không thấy nhân quả, ý nói ở ngôi vua được tha hồ giết người, không nên buồn khổ, không nói với thầy. Nay Kỳ-bà thấy có nhân quả, đã có tội thì đáng lý phải buồn khổ, không được ngủ yên, cho nên hỏi”.

“Vua dùng kệ đáp: Nếu có người dứt hẳn,” cho đến “Người trộm cắp chưa được tài vật thì không được ngủ yên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn bài kệ đầu nói về Phật, năm bài kệ rưỡi nói về Bồ-Tát, hai bài kệ kế, một bài nói về Phật, một bài nói về Bồ-tát, ba bài kệ kế nói về có tội, không được ngủ yên. Ba bài kệ kế nói rộng về việc không ngủ yên.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Kệ do hạ phàm mà có bốn ý: Chín hàng rưỡi đầu nêu ra ngủ được. Thứ hai có hai hàng, nêu ra người được ngủ, thứ ba là sáu hàng, nêu ra pháp không được ngủ. Thứ tư là văn xuôi từ trong đó.

“Này Kỳ-bà! Nay ta bệnh nặng đối với vua Chánh pháp,” cho đến “Nói rộng thuốc pháp, dứt khổ bệnh cho ta.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước tự nói bệnh bất trị không được lo lắng, sau biết bệnh khởi do tâm, cỏ đá không thể trị được, nếu chẳng phải Pháp Vương thì không thể trị được.

“Kỳ-bà đáp rằng: Lành thay! Vua tuy gây ra tội nhưng sinh tâm sám hối, hổ thẹn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúc mừng vua bệnh được nhẹ, vua biết cha mẹ ân nặng nên có tâm hổ thẹn. Tâm sinh hối hận, phát lộ với người, sợ khổ địa ngục, tin có nhân quả, có được năm việc lành này thì bệnh vua dễ trị, chớ có sợ hãi. Sau đó mỗi việc đều dẫn lời Phật để làm chứng”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có bảy phen nói pháp”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có tám phen nói pháp”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có sáu phen nói pháp”. Đến chỗ đó lại nói.

“Tâu Đại vương! Chư Phật Thế tôn thường nói lời này” cho đến:

“Lành thay! Đại vương có tâm hổ thẹn”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh sự hổ thẹn”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất là nói có tâm hổ thẹn thì tội sẽ dứt”.

“Đại vương hãy lắng nghe! Thần có nghe Phật nói” cho đến “Tội sẽ được trừ diệt, thanh tịnh như xưa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh hối lỗi.”

“Thưa Đại vương! Có hai thứ giàu có: Một là voi ngựa” cho đến “Thường gây ra các tội ác, không bằng một điều lành.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Điều lành từ lý mà sinh, có sức căn mạnh, điều ác ngang trái, cho nên vô căn, vì vậy năng lực yếu. Ở trên nêu thẳng lời Phật, ở đây dùng lý giải thích”.

“Thần nghe Phật nói tu một tâm lành” cho đến: “Làm thế nào để phá bỏ đại ác”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Những điều đã nói chứng minh năng lực của điều lành rất mạnh.”

“Tâu Đại vương! Như lời Phật dạy che giấu là lậu” cho đến “Nói người có trí thì không có tội che giấu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là nói nhà vua tuy gây ra tội nặng, có khả năng làm hoại diệt sự phát lộ, tội có thể tiêu diệt.”

“Lành thay! Đại vương biết kính tin nhân quả” cho đến “Vì sao nói là không thể cứu chữa?

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh phát lộ thì tội tiêu diệt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là nói về tín tâm của vua không dứt nên có thể chữa trị.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Trên nay, thứ nhất đã chẳng phải Xiển-đề mà có tâm hổ thẹn thì sẽ dứt trừ.”

“Như lời vua nói không thể trị,” cho đến “Trong rừng Sa-la Song thọ, thành Câu-thi”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là nói có thầy cho nên tội sẽ trị được.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là chỉ cho vua chỗ thầy thuốc.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ hai là nói hiện tại đã có Đại sư ở đây, vì sao nói không?”

“Rộng vì vô lượng a-tăng-kỳ” vua cho đến “Tất cả tội nặng sẽ được tiêu trừ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ vua chỗ thầy thuốc, cho nên phải nói đủ. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo đều nói thầy mình là bậc nhất thiết Trí, cho nên phải kể lại đầu đuôi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba làn nói các vị giáo chủ này nói thuốc pháp, cho nên tội có thể trị.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm nói Kỳ-bà là vua, nói thuốc pháp hai đế để trừ tội.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Câu thứ hai là nêu điều lành, nay nêu thuốc pháp.”

 

Phần 8

  • Kỳ-bà khuyên vua A-xà-thế đến chỗ Phật.
  • Nói rộng về các việc duyên khởi.
  • Việc Tần-bà-ta-la xuất hiện giữa hư không, để khuyên vua Axà-thế.
  • Giải thích ý nghĩa tam-muội Nguyệt Ái, ý nghĩa xây dựng một cung điện cho Xiển-đề.

“Nay, Đại vương nên nghe Thích Đề-hoàn Nhân” cho đến “Tất cả tội nặng, chắc chắn sẽ được tiêu trừ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa chưa nói việc trừng trị người tội có ứng nghiệm. Nay, nêu ra người bị trừng trị để chứng minh.”

“Nhà vua nghe nói có con của Bà-la-môn” cho đến “Là Đấng Vô

Thượng Y, chẳng phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ương-quật-ma-la, Hán dịch là Chỉ Man.”

“Đại vương! Lại có Vương tử Tu-tỳ-la” cho đến “Là bậc Vô thượng y, chẳng phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa, có tính tham lam, keo kiệt. Ngày nay phải chịu đói khát, nghe nói lỗi lầm của mình, lòng cảm thấy tủi hổ, ăn năn, thấy nước được uống.”

“Tâu Đại vương! Ở nước Xá-bà-đề, có bọn cướp gồm năm trăm tên” cho đến “Là đại lương y, không phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tư là nêu rộng các việc lợi ích, để nói nhờ có năng lực đạo, nên được lợi ích rộng lớn vô cùng.”

“Thưa đại vương! Nếu đại vương tin lời thần” cho đến “Nếu không tín, nguyện, khéo suy nghĩ.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây, là đoạn sáu, dẫn đến việc hiện thật để chứng minh. Từ khi Đức Phật ra đời đến nay, kẻ phạm tội được thấy Phật, thì tội được dứt trừ, đâu phải chỉ có tội của vua không diệt ư?”

“Tâu đại vương! Chư Phật, Thế tôn, với tâm đại bi che khắp” cho đến “Cũng sẽ coi Phật như cha mẹ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “E rằng nhà Vua suy nghĩ không dám cầu Phật, nên kế là nói đại Bi, đối với kẻ oán, người thân đều bình đẳng, cho nên nêu rộng các việc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là dẫn chứng rộng để khuyên vua thực hành.”

“Đại vương nên biết! Như lai chẳng những” cho đến “Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là nói về lòng Từ bi của Phật che khắp, không hạn cuộc ở một người.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ bảy là nói Phật bình đẳng, không phân biệt người này người kia.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ năm là tâm Phật không thiên lệch, cho nên có công năng dứt trừ tội của vua.”

“Đại vương! Nếu một tháng thường dùng áo cơm” cho đến đến chỗ “Như lai thành tâm nghe pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phạm tội đã nặng, chỉ nên nghe pháp, chứ không nên dùng của cải bố thí mà tiêu diệt được tội lỗi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu là xét lường lưu lại, công đức nhiều ít.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tám là nói về nhân công đức trí tuệ của Phật rất rộng lớn, có công năng tiêu diệt tội lỗi của con người.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ sáu là nói Phật có khả năng thêm ích lợi cho tâm người, cho nên thấy Phật thì chắc chắn được phước lợi.”

“Bấy giờ, nhà vua đáp Kỳ-bà rằng” cho đến “Tự cảm thấy rất hèn mọn, không lòng dạ nào dám đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không vì nghĩ đi đến chỗ Phật, mà vì lo nghĩ tự mình thấy hèn hạ, nhơ nhớp, buộc ràng, chẳng phải là quyến thuộc nghe pháp, nên khi đến đó, e rằng sẽ không được Phật chấp nhận chữa trị cho.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy là nhà vua thầm nghĩ ”:

Mình đang phạm phải tội nặng, nên không có ý muốn đi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù nghe kể sáu thứ tốt đẹp trên, nhưng nhà vua vẫn chưa dám đi.”

“Bấy giờ, từ trên hư không vang ra tiếng nói” cho đến “Bệnh

nhọt ghẻ lở, nóng bức, độc hại của Đại vương, chỉ càng ngày càng nặng thêm, chứ không bớt đâu!

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Để chứng minh cho lời Kỳ-bà nói rằng tội của vua đã nặng, chỉ có Đức Phật mới có khả năng dứt trừ. Vì thế nên nói là Phật sắp vào Niết-bàn, khuyên nhà vua hãy mau đến chỗ Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là phân biệt. Trước kia, ngoại đạo đã xúi giục tìm kiếm tà sư. Kế là lời khuyên của Kỳ-bà. Nay, vua cha tự khuyên, khiến nghe lời Kỳ-bà.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vua A-xà-thế trước kia đã có tội nghi ngờ rất nặng, cảm thấy hổ thẹn đến chỗ Phật. Vua cha e rằng nhà vua sẽ nghe theo lời tà sư, nên nay cố ý khuyên.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là lượt thứ ba, vua cha dùng năng lực thần thông khuyên vua hãy đến chỗ Phật.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn ở trong rừng Song thọ” cho đến “Vô lượng kiếp không nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nói Đức Như lai thấy tâm của A-xà-thế có thể cứu vớt, nói vị mà cầu, chính là vì muốn từ Xà-thế để giải thích về lý Thường.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì sao chỉ vì vua A-xà-thế?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì người thời đó chẳng hiểu ý chỉ này, nên Bồ-tát Ca-diếp mới hỏi.”

Phật nói: “Này người thiện nam! Trong đại chúng đây” cho đến “Thế nên tự ngã xuống đất.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bậc Thánh thị hiện nhập diệt, muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nếu sinh tâm quyết định diệt, sẽ gây ra khổ ngất xỉu, thì Phật sẽ vì họ mà không nhập Niết-bàn!”

“Này người thiện nam! Như ta đã nói” cho đến “Kinh Đại Niếtbàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là giải thích về mật ý của Phật. Bốn câu trước phát hiện ra việc đã làm. Hai câu sau, nói Niết-bàn bất diệt. Vì không nên do Phật nhập diệt mà ngất xỉu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích nỗi nghi ngờ ở đương thời không phải chỉ trực tiếp một người mà vì là tất cả những ai chưa hiểu rõ lý Thường.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có bảy phần, nói: Nói Đức Phật phát ra ánh sáng dẫn dắt nhà vua đến chỗ Phật. Đức Phật nói pháp cho nghe, dứt trừ tội của vua. Đến khi Kỳ-bà nói bảy việc , đây là việc thứ nhất, trước xướng lên mật ngữ.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn, Đấng Đạo sư Đại Bi” cho đến “Mục nhọt trên thân vua liền lành, cơn nóng bức đau nhức liền hết!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dĩ ánh sáng Từ soi đến từ xa, là vì nhà vua nghe cha mình dạy bảo: Quả báo khổ ở địa ngục, phải chịu không nghi ngờ gì, cho rằng tội mình không thể dứt trừ. Tự thấy mình hèn mọn, ác độc, nhơ bẩn, Đức Phật sẽ không ngó ngàng đến. Vì hai nỗi hoài nghi này, nên không dám đến chỗ Phật. Ánh sáng Từ soi đến từ xa, cả hai nỗi ngờ vực đều tan biến.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn năm, trước đã nói Đức Phật vì nhà vua trụ ở đời mà chữa trị tâm vua. Dù có nói lời đó, nhưng chưa thấy được sự thật, tam-muội Nguyệt Ái bắt đầu hiệu nghiệm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước trị bệnh thân vua, sau trị bệnh tâm cho vua.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ hai là Đức Phật phát ra ánh sáng diệt khổ.”

“Vua biết mụt nhọt đã lành, thân thể mát mẻ” cho đến “Trước chữa trị thân vua, sau đó đến tâm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn kinh Song Thọ, nói là có nghe người nói về kiếp lửa, chẳng thiêu đốt chúng sinh. Trước có ba mặt trăng chiếu một lượt, trừ bệnh cho chúng sinh, giúp cho được tu thiền, sinh lên cõi trên. Mặt trăng đã xuất hiện, chẳng có bệnh nào không lành”. Thời kỳ đó chưa đến, mà vẫn có ánh sáng mầu nhiệm. Do đó, cảm thấy vui mừng nên hỏi?” Đức Phật đáp: “Nên cố ý ứng hiện ánh sáng, không có tướng quyết định, chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc, giải thích cả hai tướng chân định. Chẳng phải màu xanh, chẳng phải màu vàng, giải thích riêng về chân. Vì độ chúng sinh, nghĩa là giải thích riêng về ứng.”

“Vua nói: “Kỳ-bà! Như lai Thế tôn” cho đến “Vì thế nên còn gọi là tam-muội Nguyệt Ái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một đứa trong bảy đứa con bị bệnh, dụ cho phàm phu. Sáu đứa con dụ cho sáu trụ. Từ vốn “Duyên theo khổ”, khổ nặng thì từ nặng. Sơ trụ đã lìa ba đường, lục trụ thì lìa hẳn trời, người. Đức Phật thì buông xả lòng từ.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai, chính là nêu việc phát ra ánh sáng, để dứt trừ các khổ của thân vua.”

“Vua nói: “Kỳ-bà! Ta nghe Như lai” cho đến “Phải có tâm nào để đến yết kiến Như lai?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù nhờ ánh sáng xa, nhưng thân bệnh được tiêu trừ. Nghe kinh này nói, nên sợ không dám đến. Sẽ không té xỉu xuống đất, nghĩa là nếu trái với kinh mà gặp Phật, thì e rằng sẽ lại gây ra các khổ này! Ta thấy Như lai trước kia, dẫn lời kinh nói, đây là tình cảm để suy ra.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù được ánh sáng chiếu, nhưng cũng do việc thiện, ác làm ngăn cách. Vả lại, vì sự hổ thẹn đã biểu hiện trên gương mặt, nên vua không muốn đi.”

“Kỳ-bà đáp: Tâu đại vương! Ví như người đang khát nước” cho đến “Nay đại vương cũng nên mong cầu Đấng Từ Bi cứu giúp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói pháp cho Xiển-đề, nghe: So sánh tội nặng, với tội nhẹ, để chứng minh chắc chắn được Phật cứu giúp. Gồm chẳng phải các kinh mà nhà vua đã dẫn. Nếu quả thật còn vì xiển-đề nói pháp, thì lẽ nào Đức Phật không cùng ngồi cùng đứng với người ác, hay sao?”

“Vua bảo: Kỳ-bà! Xưa ta có nghe” cho đến “Vì sao Đức Như lai nói pháp cho họ nghe?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lời của Như lai không giả dối vì sao vừa nói là Đức Phật nói pháp cho xiển-đề nghe? Tất nhiên là không đúng!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kỳ-bà bày tỏ ý Phật, cạnh đó là nói pháp cho nghe, còn nói pháp cho cả xiển-đề, huống chi nhà vua không phải Nhất-xiển-đề ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, nhà vua dù được soi sáng, nhưng tâm vẫn chưa thông suốt, nên xin Kỳ-bà giải đáp thắc mắc cho.”

“Kỳ-bà đáp rằng: “Tâu Đại vương! Ví như có người” cho đến “Nói với thầy thuốc: “Hãy mau lên xe.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn sáu, nói ví dụ để an ủi, khuyên nhà vua nên đến chỗ Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì nói pháp cho xiển-đề nghe, gồm có ba ý, như thầy thuốc chữa trị người bệnh:

  1. Vì dứt các khổ hiện tại.
  2. Loại bỏ các khổ ngang trái của quyến thuộc.
  3. Chấm dứt sự chê bai của người ngoài.

Hợp ví dụ như thế, rất dễ hiểu.

“Bấy giờ, vị thầy thuốc tự nghĩ” cho đến “Người bệnh như vậy, chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ Như lai nói pháp cho xiểnđề nghe, như thầy thuốc chẩn đoán biết ngườ bệnh sẽ phải chết, nên chẳng thể không nói: Một là vì người bệnh, hai là vì họ hàng thân thuộc.

Chư Phật cũng vậy, chẳng thể không nói.”

“Tâu Đại vương! Đức Thế tôn cũng như vậy, đối với hạng Nhấtxiển-đề cho đến giảng nói pháp cho Nhất-xiển-đề nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói pháp cho xiển-đề nghe, có hai điều lợi không luống dối: Trước bỏ phàm phu chê bai, sau nói lợi ích cho xiển-đề, chứng tỏ nói pháp chẳng phải không. Ví như người bệnh , là dụ cho gốc lành vị lai.”

“Vua bảo Kỳ-bà: “Nếu Đức Như lai” cho đến “Người đắc đạo, không đọa địa ngục.” Pháp sư Tăng Lượng nói: Mong ông hãy nắm giữ, sợ phạm tội thêm sanh, đọa vào địa ngục.

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ bảy, bắt đầu từ Kỳ-bà khuyên truyền lệnh xe giá để đưa nhà vua đi đến chỗ Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư, căn cơ nghe pháp phát khởi.”

 

Phần 9

  • Đức Phật vì Vua A-xà-thế nói hai mươi pháp môn.
  • Nói về hạnh trẻ thơ.

“Bấy giờ, Phật bảo các đại chúng” cho đến “Giống như núi vàng ròng mầu nhiệm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vẫn có nghi ngờ rằng Phật không rũ lòng từ cứu giúp, tội sẽ không được diệt. Phải biết rằng, các pháp không có tướng nhất định, tội nhất định, lấy phiền não làm nhất định. Không có nhất định mà nhất định, nghĩa là không có tâm nghi nhất định. Tâm nghi nhất định hễ dứt thì bất sinh khởi.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn phát ra tám thứ tiếng” cho đến “Kính lễ xong, ngồi sang một bên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Đại vương, nghĩa là không gọi thẳng tên, vì sợ lỗi vui mừng kia, mở mang dần tâm mình.

Vô thượng Đại sư: Biết chân Trí nhất thiết như từ… của Phật.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ năm, Phật bảo Đại vương hãy định tâm mình.”

“Bấy giờ, Phật bảo vua A-xà-thế rằng” cho đến “Tâm thì buông lung, không có việc gì ác mà không gây ra.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhà vua không phát tâm Bồ-đề, tội không thể tiêu diệt. Phát tâm, là do thấy lỗi lầm của phàm phu, hai mươi việc này nói về lỗi lầm của phàm phu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ sáu, là Phật nói pháp cho vua nghe, gồm có mười một lượt. Đây là lượt thứ nhất, trước là dạy quán hai mươi việc. Y theo thân là tướng mạo của hai mươi việc đó cạn thấp, tương tự như hàng phục “Hoặc”.

Vua “A-xà-thế bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như tôi đã hiểu nghĩa mà Phật nói” cho đến “Chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Atỳ!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên dù đã nói năm pháp như giới v.v… là vô thường, che lấp tội chướngcũng vẫn chưa yên.”

Phật bảo Đại vương! Tất cả các pháp” cho đến “Thế nên, phải biết rằng, tội giết hại không có tướng nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bỏ chấp chặt tội kia, tức là từ lý sẽ được hiểu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây, xả một phen đều nói pháp cho vua nghe, để mở rộng tâm vua.”

“Này đại vương! Như lời ngài đã nói, vua cha không có tội” cho đến “Nếu chín thứ ấy là sai, thì lẽ ra không có tội?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thứ hai Phật vì vua nói sinh “Không”, pháp không. Quán hai “Không” ấy sâu xa, tương tự như dứt trừ “Hoặc”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, sẽ nói pháp riêng cho vua nghe. Trước mở ra năm môn, sau lại dùng năm bậc để giải thích môn này. Đây là môn thứ nhất, y theo nghĩa giả danh mà nói pháp, để dứt trừ tội của vua. Nghĩa là nếu hiểu rõ muôn pháp đều là hư giả, tức “Không”, mà hữu vi là giả có, thì tội từ đâu sinh? Vì tâm như hư không thì không có tội thật.”

“Này đại vương! Sắc có ba thứ: Quá khứ, vị lai” cho đến “Sao nhà vua lại nói là chắc chắn đọa địa ngục?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng năm môn để đả phá tướng tội nhất định, trở thành điều mà nhà vua hiểu.

Môn thứ nhất nói là giả danh, không có tướng nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ ba, y cứ ba đời để phân chia thì không có tội.”

“Này đại vương! Tất cả chúng sinh đã gây ra nghiệp tội” cho đến vì “Sao chỉ riêng đại vương lại mắc tội ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ hai, là nói về:

  1. Có tâm xúi dục giết người.
  2. Tâm, miệng giết.
  3. Đủ thân, miệng giết.

Nhà vua không đủ ba nghiệp, nên tôi nhẹ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư, nói đủ ba nghiệp thì tội nặng, chỉ có tâm, miệng mà không có thân nghiệp, thì tội nhẹ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ hai, là nói tội, phước không ở trong nhân duyên.”

Này Đại vương! Trước kia, tiên vương Tần-bà-ta-la có tâm ác” cho đến “Vì sao nói rằng chắc chắn đọa vào địa ngục?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba, nói điều ác có hạ, trung, thượng. Phẩm hạ: Người kia oán ghét ta, ta lại dùng việc ác để trả. Phẩm Trung: Người kia không biết ân ta, ta dùng việc ác để hại họ. Phẩm thượng: Người có ân với ta, lại gieo điều ác cho người. Nhà vua là ác phẩm hạ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm, là nêu việc của Phú-la-sơn duyên khởi của nghiệp xưa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ ba nói Tiên vương do nghiệp đời trước chiêu cảm, chứ cũng phải mới gây ra tội kia.”

“Này đại vương! Sự mê hoặc của chúng sinh, gồm có bốn thứ” cho đến “Nếu không phải do bổn tâm gây ra tội nghịch đó thì sao lại bảo là mắc tội?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ tư, nói về giết hại có ba: Tội nặng do tà kiến mà giết, tội vừa, là do giận dữ mà giết, tội nhẹ, vì lòng tham mà giết. Nhà vua thì do tâm điên loạn mà giết, nên chẳng nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ sáu, nêu tham lam, điên loạn để trách là do tâm của vua.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chúng sinh gây ra tội, đều do không tự tại. Nếu nhận thức được nguồn gốc của tội này thì sẽ không có tội.”

“Này Đại vương! Ví như nhà ảo thuật, ở ngã tư đường” cho đến

“Chư Phật, Thế tôn biết chúng chẳng phải thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn “Không” thứ năm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ bảy có sáu ví dụ, chứng minh sinh “Không”, pháp không thứ hai ở trên, nên tội không thật có.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ năm, có mười thí dụ, thể tánh của pháp là không vô tự tánh, nên sự giết hại không nhất định.”

“Này Đại vương! Cách thức giết, nghiệp giết, người giết, kết quả giết” cho đến “Dù rằng do vua, nhưng thật ra vua không có tội.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói lại hai môn trước.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tám, chứng minh môn thứ tư ở trên: Nhà vua chỉ biết giết mà bản thân không tự giết, thì vô tội.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích tánh chất vô tội trong nhân duyên thứ hai ở trên.”

“Này đại vương! Như trong cung vua, thường truyền lệnh cho người mổ dê làm thịt dê” cho đến “Đối với vua cha lại sinh tâm lo lắng khổ sợ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lại về hai môn trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích môn thứ ba ở trên: Trong nghiệp đời trước không có tội.”

“Này đại vương! Người thế gian là tôi tớ của sự tham ái” cho đến “Vua không tự tại thì sẽ bị tội lỗi gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại giải thích môn thứ tư ở trước Pháp sư Tăng Tông nói: Thứ chín là thành tội thứ sáu ở trên do tham cuồng. Pháp sư Bảo Lượng nói: Giải thích môn thứ tư là tham cuồng.

“Này đại vương! Ví như Niết-bàn là pháp chẳng phải có, chẳng phải không,” cho đến “Không có người ười thấy, thì không có quả báo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ mười là nêu Niết-bàn của thế đế, là có nói có tội.”

“Người chấp thường thì chẳng phải có” cho đến “Chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng là có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rõ lại môn thứ năm ở trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích môn thứ năm ở trên: Thể của vạn hữu là “Không”, không có tánh tội. Đối với người có hổ thẹn thì chẳng phải có. Vì sao? Vì đã sinh tâm hổ thẹn, vì thấu rõ thể của muôn pháp là luống dối, nên đối với người là vô tội. Nếu đối với người không có tâm hổ thẹn thì chẳng phải là vô. Người đang thọ quả báo thì gọi là hữu. Nghĩa là người vô trí, suốt ngày gây nhân được quả. Vì lẽ đó, nên chẳng phải vô.

Đối với người chấp “Không” thì chẳng phải có, nghĩa là đối với người này, tức là quả báo vô tánh. Người chấp hữu chẳng phải vô, nghĩa là đối với tướng quả báo, thì đều là quả báo.

Người có chấp hữu, nghĩa là người chấp thường là hữu. Người không chấp hữu, thì nếu không có chấp tướng thì không bao giờ có quả báo. Người chấp thường, thì đây là tâm hiểu thường, nên đối với người này là vô.

Người chấp vô thường, nếu quán sinh tử, làm cho Phật đều là vô thường, thì đều là quả báo sinh tử.

Người thường chấp thường thì đây là người chấp thường, chẳng phải “Không có” quả ác.

Do nghĩa chấp, kinh nói rằng: “Đối với người hiểu là “Chẳng phải có”, còn đối với kẻ không hiểu, thì “Chẳng phải không”.

“Này Đại vương! Nói về chúng sinh gọi là hơi thở ra vào” cho đến “Không đọa vào địa ngục, sao Đại vương lại bị đọa?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lại môn thứ nhất ở trước.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lượt thứ mười một, chính là nói về tông chỉ của pháp.”

“Bấy giờ, Vua A-xà-thế đúng theo lời Phật dạy” cho đến “Các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã được hiểu, tức là đối với pháp mà Đức Phật đã chứng đắc, không hoại đức tin.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu hiểu giả danh là không thật có thì vô tội, mà không diệt mất.”

“Bạch Đức Thế tôn! Con thấy trong thế gian, từ hột Y lan” cho đến chịu khổ não lớn không cho là khổ. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Phế bỏ chẳng phải phần.

Bất giờ ,vô lượng người dân nước Ma-già-tha cho đến “Là đệ tử của tất cả Chư Phật.” tức là đệ tử của tất cả Chư Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã được thân trời, nghĩa là nói quả trong nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói là Xa-thế trụ, về nghĩa hiện ở đây.”

“Nói xong, nhà vua liền đem các thứ” cho đến “Thấy rõ Phật tánh, giống như Bồ-tát Văn-thù v.v… .”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chín hàng rưỡi kệ ở đầu là khen ngợi Phật. Sau hàng kế là tự phát tâm. Trong chín hàng rưởi trước, khen chung bốn nghiệp của miệng. Kế là, một hàng rưỡi, là khen riêng không có ác miệng.

Một hàng kế là, khen không nên nói thêu dệt. Hai hàng kế nói lợi ích chúng sinh của ngữ. Hai hàng kế là khen ngợi lòng từ bi của Phật.

“Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Vua A-xà-thế” cho đến “Phẩm Thiên

Hạnh, như trong kinh Tạp Hoa có nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khen lại lời đã khen.”