ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 22: ĐỨC VƯƠNG

Phần 1

Rộng nêu việc nghi có ba thừa, không có ba thừa…

Giải thích nghĩa nghe, không nghe, cho rằng âm thanh ba đời đều không thể nghe.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói năm môn, kế là nói về công đức đã thực hành được.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phẩm này nói rộng năm hạnh ở trước. Công đức là phần tốt đẹp trong các hạnh. Chưa đến quả Phật, đã có công đức rồi! công đức và Hạnh, chính là nghĩa nhân quả. Như pháp khổ tập, lấy nghĩa năng sinh, làm “Tập”. Từ nghĩa sinh làm “Khổ”. Nay, hạnh và công đức cũng giống như vậy. Trong mười công đức, lấy công đức đầu tiên và công đức thứ hai, đồng với hạnh Thánh rộng lớn. Công đức thứ ba, thứ tư đồng với phạm hạnh rộng lớn. Công đức thứ năm thứ sáu đồng với Thiên hạnh rộng lớn. Công đức thứ bảy, đến thứ mười, không có chỗ rộng lớn riêng, đều rộng khắp như ba hạnh trên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm hạnh mười công đức, nhờ trái phải mà có tên. Hạnh lấy từ nhân hướng về quả làm nghĩa, công đức dùng sự khen ngợi để đặt tên.

Lại, có cách giải thích khác: “Năm hạnh là nhân ngữ, công đức là quả ngữ. Vì sao? Vì tâm kim cương là cùng cực trong nhân, Niết-bàn là cùng cực trong quả. Từ một niệm trở lên, là chung cho tất cả hạnh, đều là nhân của Niết-bàn. Tuy nhiên từ tâm kim cương trở xuống, cũng có được nghĩa nhân quả, chỉ vì chưa đo lường được khoảng thời gian khởi sự thực hành điều lành đã bao lâu. Nếu gần đây, thì phải lấy một niệm trước làm nhân, mới có thể giúp cho sinh niệm sau. Niệm lành sau đã được sinh, thì phải do niệm lành trước làm nhân. Như vậy niệm trước sau nối tiếp nhau đến quả Phật, có nghĩa tức nhân tức quả. Nếu chỉ lấy niệm sau mà chờ niệm trước, hoặc giữ lấy niệm trước rồi mới đợi niệm sau là quả, thì đây là năm hạnh y cứ ở nhân, mười công đức y cứ ở quả. Nay mười công đức này lại mở rộng năm hạnh trước. Làm sao biết được? Vì hạnh Thánh lấy giới, định, tuệ làm thể. Nay công đức đầu tiên lại nói về ba tuệ, cuối cùng đều lấy lậu tận thông làm thể?

Công đức thứ hai là lấy năm thông làm thể. Tuệ là trí tuệ. Năm thông là quả của người tu định, nên lấy hai công đức này để giúp mở rộng hạnh Thánh.

Công đức thứ ba dùng từ bi làm thể. Công đức thứ tư lấy mười việc làm thể. Mười việc là hỷ, xả, nên dùng hai đức này mở rộng phạm hạnh.

Công đức thứ năm dùng năm việc làm thể. Công đức thứ sáu lấy tam-muội Kim cương làm thể. Hai công đức này trang nghiêm rộng khắp cho thiên hạnh. Thiên hạnh dùng tám thiền định làm thể, năm việc là:

  1. Các căn đầy đủ, nên có khả năng tu định.
  2. Bất sinh ở biện địa, vì không có nạn, nên có thể tu định.
  3. Các vị trời che chở.
  4. Thế gian kính mến. Vì đời trước đã gieo trồng cội đức, nên được các vị trời che chở, mọi người yêu mến, nhờ đó có thể tu định.
  5. Được túc mạng trí, tức là quả của định.

Tu năm việc này thì được Thiên hạnh. Tam-muội Kim cương, là cùng cực trong các định. Cho nên biết được thiên hạnh rộng lớn. Hai công đức thứ bảy, thứ tám, bổ sung rộng khắp cho hạnh trẻ thơ. Công đức thứ bảy dùng bốn pháp làm thể, đó là: Gần gũi bạn lành, lắng nghe chánh pháp, buộc niệm tư duy và đúng như lời dạy tu hành. Bốn pháp này vốn là đối tượng thực hành của hạnh bắt đầu.

Về cách giáo dục trẻ thơ thứ tám, lấy pháp chín nhóm làm thể. Từ “Dứt năm ấm” cho đến tâm lành giải thoát, cũng là pháp thỉ giáo. Cho nên biết hai công đức này đều bổ túc rộng cho hạnh trẻ thơ. Công đức thứ mười mở rộng cho hạnh bệnh, mà tương truyền thì dùng ba hạng người bệnh ở trước và năm hạng người bệnh như Tu-đà-hoàn… làm hành tướng bệnh. Nay công đức thứ chín lại được giải thích về ba hạng người bệnh. Công đức thứ mười nói về ba mươi bảy phẩm. Ba mươi bảy phẩm này là phương pháp thực hành của năm hạng người bệnh kia. Cho nên hạnh bệnh là rộng lớn.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đại khái một phẩm, gồm có hai ý:

  1. Nêu khen ngợi chung.
  2. Tùy nói về thể, chia thành mười, vì là pháp môn của một đường.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương” cho đến “Không có tướng mạo, ở thế gian không có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát này ưa thích tu công đức, vâng lời Phật dạy làm lời đối đáp. Một hạnh được hai công đức, năm hạnh có mười công đức.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tâm người Nhị thừa yếu kém, đâu thể nghĩ lường? Chẳng phải nội, nghĩa là chẳng phải Nhị thừa. Chẳng phải ngoại là ngoại đạo chẳng thể thực hành. Chẳng phải khó là đối với Bồtát không khó. Không phải dễ, nghĩa là người Nhị thừa không thể thực hành.

Chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng: Theo cách hiểu quên tướng của Trung đạo, thì thầm hợp với lý, là pháp xuất thế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, muốn giải thích rộng mười công đức, nên trước một phen khen ngợi chung rằng: “không chung với Nhị thừa”. Hạnh Nhị thừa vốn không gần với đạo, thì làm sao tâm được thực hành lý này? Cho nên phát tâm nói rằng: “Đều chung với Nhị thừa”.

Không thể suy nghĩa bàn luận: Chân giải của Thập địa lìa tướng hữu, vô. Đâu có tâm hữu, vô để so lường? Nghe thì sợ hãi, lý sâu xa vắng lặng, chẳng lẽ là chấp tướng ư? Vì cái có thể hiểu, nên nói là sợ. Người ngu si thấp hèn không thể biết được, nên nói là quái lạ. Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài: Nếu thuộc về hữu, vô thì sẽ thuộc trong, ngoài. Đã dứt bặt cảnh có tâm, thì đâu được là trong là ngoài ư?

Chẳng phải khó, chẳng phải dễ: Nếu tu tâm mà đạt được, thì tất nhiên, sẽ lãnh hội chẳng khó. Đối với kẻ không hành đạo mà dứt hy vọng, nên nói chẳng dễ.

Chẳng phải tướng, nhưng chẳng phải không hiện tướng chẳng phải phi tướng, vì thể dứt bặt hình, danh, nên nói chẳng phải tướng mà trang nghiêm, nên cũng nói là chẳng phải phi tướng.

Chẳng phải thế pháp: Thần giải (sự hiểu biết như thần) lấy pháp tánh làm gốc, chẳng phải do nhân sinh ra, đầu phải thế pháp. Nếu y theo thể để nói về dụng, thì về nghĩa cũng do dụng.

Không có tướng mạo: Thể đã không hữu, không vô thì đâu có tướng mạo để biểu thị ư? Cái thế gian không có: Chân thể đã dứt “Trăm phi”, “Trăm thị”, thì đâu thuộc về thế gian? Đây là khen chung về thể của công đức.”

“Đây là mười một công đức, công đức thứ nhất có năm” cho đến “việc thứ năm là biết được tạng bí mật của Như lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Danh dù có năm, nhưng lấy tánh mà ghi chép thì về lý, không ngoài ba sự: Sự thứ nhất là nói về Văn tuệ, sự thứ hai là Tư tuệ, một sự sau là Tu tuệ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về nghĩa, suy ra năm sự, dù rằng không ngoài ba tuệ, nhưng không thể nhất định cho sự đầu tiên là văn tuệ, lấy sự thứ hai làm Tư tuệ, chỉ biết lấy chung ba tuệ làm thể mà thôi. Vì sao? Vì căn tánh chúng sinh có đến hằng muôn sự khác nhau, kiến giải có lợi, độn. Về thời gian phát kiến giải lại khác, đâu thể nhất định?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sự thứ nhất, thứ hai, thứ năm trong năm sự, ba sự này tức là Văn, Tư, Tu tuệ. Thứ ba, thứ tư, hai sự này y theo tuệ, có thể có công dụng của đối tượng cắt đứt là thể. Văn dưới sẽ giải thích về Tu tuệ thứ năm rằng: “Dù biết chúng sinh thât sự không có “Ngã”. Hai câu này nói về sự khéo soi chiếu đối với “Không”, gồm thông suốt “Hữu”. Trước là chúng sinh không, sau là pháp không. Kế là các câu dưới, nói khéo soi chiếu đối với “Hữu”, gồm biết cả “Không”. Nói chung y cứ giả gọi chúng sinh, để làm rõ nghĩa.

Thế nào là không nghe mà nghe được” cho đến “Đó gọi là không nghe mà được nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Công đức thứ nhất, thứ hai đối với hạnh Thánh. Thứ nhất là nói lậu tận thông. Năm việc này là dứt sự lậu. Từ Phật tánh đến Niết-bàn có năm sự:

1. Bốn quả đều nói về pháp thường. Xưa đã không nghe mà nay được nghe. Đó là nói về nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước nêu số. Nay, nói pháp này là tuyệt diệu thường luân. Về sự, sẽ thấy trong phẩm Kim Cương Thân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là sự thứ nhất. Ngày xưa, vì căn cơ chưa thuần thục, nên chưa thể được nghe. Ngày nay cơ duyên đã phát, thì chiêu cảm thinh giáo. Đây là vì trước kia không có cảm, thành ra không nghe. Nay, vì cảm mà nghe.

Dù rằng nhờ dựa vào giáo mà nghe, tức nghe không có đối tượng nghe, nên nói “Nghe cái không nghe”. Về lý, dù như thế, nhưng từ không nghe được không nghe, từ nghe được không nghe.

Sự thứ hai, nói nghe pháp mà được hiểu. Sự thứ ba, nói về được hiểu. Về sau mới dứt trừ. Sự thứ tư, nói về bên trong hiểu tâm quyết định . Sự thứ năm, vượt ngoài cảnh đã hiểu biết kia.Từ kinh này mà biết lý, nhưng trong văn, giải thích về sự đầu tiên có hai lớp:

1. Từ “Cái gọi là nghĩa nhiệm mầu sâu xa trở xuống, chính thức nêu pháp thể không nghe, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Bát-niếtbàn. Vì tìm tòi chỉ thú của kinh này, nên được biết danh hiệu công đức. Y theo ngữ quả để nói về quả cao quý này. Trăm phi không thể cùng tận. Đây là điều mà trước kia không nghe, mà nay được nghe.

2. Từ “Lại có lúc không nghe, nghĩa là kinh sách của ngoại đạo” trở xuống, nêu ra không nghe. Nay, dùng chỗ y cứ của tà pháp để nói về các kinh như thế, đều không có nghĩa sâu kín như thế, cũng nhờ kinh này mà biết.”

Người nghe lợi ích rồi, nếu có thể nghe, nhận” cho đến “Đó gọi là nghe rồi có thể làm việc lợi ích.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là sự lợi ích, giải thích về quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghe kinh, biết được ý chỉ, được hai vô ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, bỏ bốn việc, về nghĩa so sánh tướng, suy luận có thể biết.”

“Dứt tâm nghi, nghi có hai thứ” cho đến “Đó gọi là dứt được tâm nghi “ngờ”.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sinh nghi cũng không hẳn đều do kinh này, nếu nghi ngờ người Nhị thừa là hữu, là vô, thì các kinh Pháp Hoa… đã có khả năng nhổ bỏ nỗi nghi ngờ đó, đây là dẫn chứng cùng khắp.”

“Tâm tuệ ngay thẳng không có tà vạy” cho đến “Đó gọi là sự nhận thấy ngay thẳng của Đại Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba, thứ tư, thứ năm giống nhau, là nói về quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thấy cong vạy có hai hạng: Một là ngoại đạo; hai là Thanh văn. Nay, đối với kinh này, vì được giáo hóa chỉ thú, nên nói là hiểu biết ngay thẳng.”

“Biết được nghĩa sâu kín của Như lai” cho đến “Đó gọi là nghĩa bí mật sâu xa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân quả khó biết, là nghĩa rất sâu xa. Phật tánh là chỗ rất sâu của nhân, nghĩa là “Vô ngã” trở xuống, đều nói là Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ năm, giải thích tu tuệ. Cảnh không khác với trước, chỉ năng lực hiểu biết có chuyển biến sâu sắc.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý” cho đến “Hiểu được nghĩa nghe, không nghe do Phật nói, là không đúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là không nghe mà nghe đã nói trên thì năm sự của Phật tánh đều là pháp thường. Nếu pháp thường mà nghe được thì chẳng phải Thường, nên phải thưa hỏi để phân biệt. Sau đây sẽ nêu sáu câu hỏi:

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi này sẽ được đặt ra ngay trong câu đầu tiên. Nếu câu đầu không có trở ngại, thì nghĩa là thông, thì các câu khác cũng đi suốt qua. Cho nên trước là thưa hỏi. Vả lại, vì muốn chứng tỏ các pháp không nhất định, làm rõ ý nghĩa “Không”, cho nên giả lập thưa hỏi không nhất định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phẩm Đức Vương, nay đặt ra câu hỏi nhất định là hữu, nhất định là vô, ý ở thời gian và tâm tình. Sau đây, lại có năm câu hỏi, trở thành chấp đầu tiên này, hợp thành sáu câu hỏi:

“Phàm phu chấp đắm tự ngăn cấm mình ở trong lỗi cũ. Thật đáng lo ngại! Hễ nghe nói hữu thì thành chấp tánh, nghe nói vô, thì thành chấp đoạn.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây sẽ có ba lần bắt bẻ, hai lần thưa hỏi. Nay, trong lần hỏi thứ nhất có bảy câu: Thứ nhất tạo ra câu hỏi về nhất định. Thứ hai, thứ sáu, thứ bảy, đồng nêu lên câu hỏi về “Không nghe”. Thứ ba, thứ tư, đồng đưa ra câu hỏi về “Nghe” và một câu hỏi thứ năm, để ngăn dứt câu hỏi.

“Không đúng, nghĩa là không đúng với chỉ thú nghe, không nghe.”

“Vì sao? Nếu pháp hữu, thì lẽ ra nhất định có” cho đến “Tức lẽ ra nhất định là vô, đều lẽ ra “Sinh hữu”, không nên diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại ý ở quan điểm trước kia. Nghĩa nghe và không nghe không lìa hai quan điểm này. Nếu nghe làm không nghe, thì pháp hữu lẽ ra diệt. Nếu không nghe làm nghe thì pháp vô sẽ sinh? Đây là câu hỏi thứ nhất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói hai quan hệ, làm cho pháp tướng là nhất định: Nếu nhất định hữu thì được nghe từ Thinh giáo, còn nếu nhất định là vô thì dứt bặt tướng, không thể nào nghe, lẽ ra đều phải sinh. Nếu lý dứt bặt thinh giáo, không thể nghe tiếng.

Hữu không nên diệt, nghĩa là thinh giáo là pháp để nghe, không thể làm cho không nghe.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp nhất định hữu thì thường có thể được nghe, cho nên nghe cái không nghe, nghĩa nấy không đúng.” “Như người nghe tiếng kia, đó là vì nghe” cho đến “Sao lại nói rằng: “Nghe cái không nghe?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là hợp câu hỏi về nghe, không nghe. Nói là nghe không nghe, giống như nghe thành không nghe. Về lý đã không đúng, tức là lẽ ra nghe tự là nghe, không nghe tự là không nghe.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhất định hữu, nhất định vô đã xong, kết thành câu hỏi.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu không thể nghe là vì không nghe” cho đến “Sao lại nói rằng nghe cái không nghe?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là lìa câu hỏi về nghe, không nghe. Nếu thật không bằng ở trước nói, thì tức là nghe lại nghe . Nói về nghe không thể nghe lại, cũng không thể nghe thì hẳn không thể nghe.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi lại: không có pháp thì lẽ ra không nghe được, như pháp đã nghe thì không thể nghe lại, huống chi xưa nay là vô pháp mà có thể nghe được.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây sẽ mượn liên tiếp bốn ví dụ để kết thành câu hỏi trước. Đây là ví dụ thứ nhất, nói âm thanh là pháp để nghe. Niết-bàn không phải âm thanh, thì sao lại nói rằng “nghe cái không nghe ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ hai, nghĩa là đã dứt thì không thể nghe.”

“Ví như người, đi. Đến, thì sẽ không đi, còn đi thì không đến.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ví dụ này hợp với câu hỏi trước.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì ví dụ này và hữu, vô ở trước, đều nhất định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ đã đến thì không đi. Dụ cho nghe rồi thì không nghe, tức là ví dụ không đến, không nghe là không nghe.”

“Cũng như đã sinh thì bất sinh, còn bất sinh thì” cho đến “Không nghe thì không nghe, cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng ví dụ này để ở sau hỏi lại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sinh rồi thì bất sinh, dụ cho nghe rồi thì không nghe, được rồi thì không được, cũng giống như vậy.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu không nghe mà nghe, thì tất cả chúng sinh” cho đến “Dù thấy Phật tánh nhưng vẫn chưa được, rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu không nghe lại làm cái nghe, thì một phen giống như có thể được giáo nghĩa mà nghe lại làm cái nghe, là vấp váp lớn!

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ hai”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đều quyết định thưa hỏi. Lý “Không nghe” có thể gượng gạo mà được, nghĩa là Bồ-đề cũng có thể được một cách gượng gạo, vẫn lấy ý Phật. Nếu cũng có thể gắng gượng được Bồ tát Thập Trụ thấy Phật Tánh chưa rõ sao không gắng gượng cho sáng suốt rõ ràng ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Mượn Bồ-đề để quyết đoán: Nếu Bồđề không thể được một cách gắng gượng thì lý “Không nghe” đâu thể gắng gượng mà nghe?”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu không nghe mà vẫn nghe, thì Đức Như lai thuở xưa” cho đến “Cớ sao trong kinh A-hàm Đức Như lai lại nói là

“Không có thầy”?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ ba”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu pháp không nghe thì phải được nghe, Phật lẽ ra có thầy. Nếu nói rằng: “Không có thầy, thì sao lại nói là nghe cái không nghe?”

“Nếu không nghe mà không nghe, thì Đức Như lai được thành” cho đến “Không nghe kinh này lẽ ra cũng thấy được Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lý “Không nghe” bèn không thể nghe, là vấp váp (trở ngại) lớn.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ tư.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trái với ý Phật. Nếu nói đổi lại là “Không nghe”, thì “Không nghe” này được thành Phật, càng có lỗi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu quả thật tự nhiên đắc đạo, không nghe cái không nghe thì chúng sinh lẽ ra cũng như vậy, không cần nghe cái “Không nghe” này.”

“Bạch Đức Thế tôn! Hễ là sắc thì có thể thấy” cho đến “Sao lại nói rằng có thể thấy, nghe?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là câu hỏi riêng về nghĩa “Nghe” ở trước.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ năm và thứ sáu, về đại ý thì giống nhau mà câu hỏi thứ năm thì hẹp và xa hơn, còn câu hỏi thứ sáu lại càng sát hơn.

Nay, trong đây cũng vẫn thừa nhận hiện tại có nghe.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cả bốn câu hỏi trên đây đều hoàn toàn trái lý. Hai câu hỏi dưới có thể giúp sức sát sao cho kiến giải về Phật nói muôn pháp không nhất định. Đức Phật kế thừa chính đáng về chân lý này để đáp. Y câu hỏi cho rằng: “Pháp có thể thấy, vẫn có thấy, không thấy, huống chi Niết-bàn chẳng phải sắc, thanh, thì làm sao nghe được?”

“Bạch Đức Thế tôn! Quá khứ đã diệt thì không thể nghe” cho đến

“Kinh Đại Niết-bàn này, là nghe cái không nghe?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ sáu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng nghe ý câu hỏi thứ năm, là không khác. Nếu muôn pháp có tánh chất nhất định, thì sẽ không có ba đời, vì không nhất định, nên trải qua thời gian ba đời: dĩ vãng, hiện tại, tương lai, mà đã qua thì âm thanh không thể nghe được, chưa đến cũng không nghe, còn hiện tại thì vừa sinh liền diệt, cũng không thể nghe. Vì thế nên nói rằng: “Các pháp lấy trần, không chỗ nào để so sánh với Niếtbàn được!”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Quang Minh Biến Chiếu” cho đến

“Đúng như pháp mà Bồ-tát Thập Trụ đã thấy, biết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lành thay! Câu hỏi kia!”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi về giải “Không” kia: Thường và vô thường đều từ duyên mà “Có”, mà pháp thường đã có ra từ “Duyên”, thấy pháp vô thường cũng từ duyên sinh. “Duyên” là không, mà không thì chẳng thể thấy, chẳng thể nghe, chỉ có Thập địa mà thôi!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: ““Ấn khả” hai câu hỏi sau biết cho là: “Muôn pháp không có tánh, như ảo thuật, như ngọn lửa v.v… .”

“Lúc đó, trong đại chúng, bỗng nhiên” cho đến “Ví như Tỳ-kheo nhập định Sư Tử Vương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng phải ánh sáng màu xanh mà thấy là xanh… ”, đều nói lên các pháp không nhất định. Cho nên hai vị Phật chứng minh cho nhau, là để nói rằng, pháp tướng không khác nhau. Đạo của Chư Phật đều đồng nhau. Pháp từ duyên thấy, thấy thì là thường. Mười hiệu không khác, pháp luân cũng đồng. Từ duyên mà sinh ra cõi nước vô thường, tịnh uế khác nhau, chúng sinh thiện ác cũng khác nhau.”

“Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng” cho đến “Đức Như lai im lặng không nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì Đức Phật biết tâm nghi ngờ của chúng đương thời chưa bỏ, nên Ngài không đáp. Tâm chấp của chúng sinh quá nặng. Vì thế nếu trực tiếp dùng lý để đáp, thì không cần sự dụng tâm của đại chúng, cho nên mượn tạm việc là nhằm vời lấy tình cảm của đại chúng.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Lần lượt hỏi nhau nhưng không có ai giải đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Văn-thù lẽ ra đáp ngay mà không đáp, là vì chưa nghe Đức Phật dạy.”

Bấy giờ, “Đức Thế tôn hỏi Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Chứng Vô

Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật Mãn Nguyệt kia đã ứng hiện ánh sáng này, là từ nhân mà hiện, nhân tức là tuệ. Không có nhân duyên nghĩa là pháp thường không tự sinh mà từ nhân sự sinh, cũng có nhân duyên, thấy từ “Liễu nhân”.

“Phật bảo: “Này Văn-thù-sư-lợi! Nay, ông chớ nhập” cho đến “Nên dùng Thế đế để giải đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sai khiến vì nói lý do ánh sáng này từ nơi nào soi đến?”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn từ đây đi về phương Đông” cho đến “Nhiều giống chim đẹp bay đậu trên đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật dạy pháp từ duyên sinh là vô thường!”

“Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử… ” cho đến “Tâm đại Từ bi thương xót tất cả chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh.”, tức chỉ cho chúng ta biết nhân tịnh độ.”

“Đức Phật ở cõi đó hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh” cho đến “Các Đại Bồ-tát vừa hỏi Đức Như lai bình đẳng không có khác nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì từ “Duyên” pháp thường nên là một. Mười hiệu đã đồng, thì pháp thân không khác.”

“Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo Bồ-tát Lưu Ly Quang” cho đến “Đây là nhân duyên, cũng chẳng phải nhân duyên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói đủ nhân duyên, tức là nói Thế đế có đến, đi.”

 

Phần 2

  • Bồ-tát Lưu Ly Quang và Phật nói về nghĩa sinh, bất sinh.
  • Nói về nghĩa thường, Vô thường của Bốn tướng.
  • Nêu ra nghĩa Vãng sinh về cõi Bất Động.
  • Nói về Niết-bàn vốn có, nêu các ví dụ trong bóng tối và bảy thứ báu v.v…
  • Chỉ rõ nghĩa của năm thứ nhân: Nhân sinh, Nhân hòa hợp, Nhân trụ, Nhân tăng trưởng và nhân xa.
  • Nói về nghĩa sáu Độ có khi được gọi là Ba-la-mật, có khi không được .

“Bấy giờ, Bồ-tát Lưu Ly Quang” cho đến “Cung kính đi nhiễu bên phải ba vòng rồi ngồi qua một bên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia, đã nói cõi nước này uế, ác, vì là lời lẽ bình thường của người giới hạnh.”

“Lúc đó, Đức Thế tôn hỏi Bồ-tát Lưu Ly Quang: “Này người thiện nam! Ông có đến hay không có đến?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói chúng thanh tịnh ở cõi nước Bất động kia, có thích đến đây hay không, mà hỏi, để xóa bỏ chấp đắm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Không khác với Bồ-tát Tịnh Danh và

Bồ-tát Văn-thù xưa kia, nhân đến, đi để nói về vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong đạo giả danh, có kia đây, đến, đi.”

“Bồ-tát Lưu Ly bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nếu là vô thường thì cũng không có đến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các pháp sinh diệt, không biết nhau. Hễ có đến thì sinh ở chỗ này, không đến thì diệt ở nơi khác. Lý sinh diệt đã ngăn cách, đều không có đến.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong đạo giả danh nối nhau có đến có đi, Phật pháp thì không.”

“Nếu người thấy có tánh chúng sinh” cho đến “Thường, lạc, ngã, tịnh, thì không có đến, đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói các pháp không có đi, không có đến. Nay, lại nói rằng, thấy có đến, đi là điên đảo!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gởi gắm chúng đương thời trong đây chớ chấp tướng, rồi tỏ ra kiêu căng, ngạo mạn thấy có đến đi để nghe pháp.”

“Bạch Đức Thế tôn! Xin gác việc đó lại, nay tôi có thiển kiến muốn được phép hỏi, xin Đức Như lai chấp nhận cho.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ chỗ kia đến chỗ này, chính là muốn hỏi những gì mình không biết. Vì lược đáp đã xong, nên nói xin để việc đó lại.”

Phật nói: “Này người thiện nam! Tùy ý ông hỏi” cho đến “Thế nên phải chuyên tâm, nghe nhận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có ba ý: Một là cho phép hỏi; hai là khen pháp khó gặp; ba là răn câu hỏi của người nghe pháp.”

“Đại Bồ-tát Lưu Ly Quang” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn, được nghe chỗ chưa nghe.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù không có y cứ hội họp, nhưng cũng đồng một con đường. Cho nên từ xa đến đây để thưa hỏi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nhờ ý chỉ Phật cho phép, mới được thưa hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi này đồng với Phẩm Đức Vương. Chỉ nêu câu hỏi đầu, các câu hỏi khác, về sau, lại theo thể thức như vậy.”

Bấy giờ, “Đức Như lai khen: “Lành thay!” cho đến “Đó gọi là được nghe pháp chưa được nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Lưu Ly Quang đã đến. Trong số các vị ấy, có vị đến không kịp. Vì thế, nên Phật răn, e rằng khi người đến tham dự, sẽ sinh tâm cao thấp, nên nhờ lời nói của Đại sĩ, thầm răn người khác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có thể hiểu như vậy, cũng tức là nghe mà không nghe.”

“Này người thiện nam! Có khi không nghe mà nghe, có khi không nghe mà không nghe, có khi nghe mà nghe.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói:“Phật nói là Bồ-tát kia nghe, tức chứng tỏ là nghe. Lại đặt ra bốn câu hỏi để nói hết sự tốt đẹp của chỉ thú kinh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp trước “Có” ứng định, có thưa hỏi nghĩa là pháp hữu vi, dù “Có” mà tu đạo, tức là đều tu cho nên “Có”, đâu được bắt bẻ rằng: “Có” thì chắc chắn là “Có” ư? Đáp câu hỏi đầu xong, năm câu hỏi còn lại tự giải thích.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong bốn câu này, hai câu là pháp kín đáo, không biểu lộ, hai câu sau là lý quyết định. Có kín đáo (hồn hậu) có quyết định, đâu thể hoàn toàn chấp nhất định ư?”

Có khi không nghe mà nghe: Nếu tiếng chưa sinh. “Có” thì gọi là không nghe. Khi các “Duyên” nhóm họp ở hiện tại, đó gọi là pháp trước kia chưa nghe. Về mặt lý cũng giống như vậy. Dù không thể nghe, nhưng chẳng phải không cần giải thích để thâm nhập lý, vậy thì đâu có nói nhất định ư?

Có khi không nghe mà không nghe: Đây là hoàn toàn trở về lý quyết định.

Có khi nghe mà không nghe: Lại là câu hồn hậu. Ý hỏi ở trước là muốn cho quyết định người nghe này chẳng thể không nghe, nên ở đây nói rằng: “Nghe mà không nghe, nghĩa là âm thanh đã nghe, lui về quá khứ, thì không thể nghe lại.

Có khi nghe mà nghe: Lại quyết định Thinh giáo là pháp để nghe. Nghĩa là âm thanh trước cũng sinh ở nhĩ thức, âm thanh sau cũng sinh ở tai nghe.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chính là đáp câu hỏi. Bốn câu này đều an trí lên trên Niết-bàn. Đầu tiên không nghe mà nghe: Không nghe nghĩa là Niết-bàn. Vì chưa có cơ cảm nên gọi là “Không nghe”. Ngày nay, duyên phát ra thì nghe, nên nói: “Xưa không nghe, nay được nghe.”

Có khi “Không nghe” mà “Không nghe”: “Không nghe” này và “Không nghe” ở trước, lời thì đồng mà ý chỉ thì khác. Trước kia là nêu thể của Niết-bàn không thể nghe. Ở đây nêu chúng sinh vì không có cơ cảm, nên không nghe được lý này.”

Lại có giải thích khác: Ở trước “Không nghe” là pháp thân diệt “Không nghe” sau là thân trượng sáu, nghĩa là pháp thân thường trú không hề có sinh, diệt. Nghe và không nghe, chỉ vì các chúng sinh mê lầm, nên thấy vậy thôi! Đây là dù nghe tức không nghe.

Có khi nghe mà không nghe: Vì chúng sinh có duyên cảm, nên một phen được nghe. Nếu lại không tiến đức, thì về sau, sẽ không còn nghe lại nữa, nên nói nghe mà không nghe.

Có khi nghe mà nghe: “Có nghe” ở đầu là vì có cảm, nên được nghe. Về sau, lại tiến đức, tức là có nghĩa được nghe lại.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là Phật khiển trách chung các câu hỏi. Thể dứt hết danh tướng, chẳng phải là pháp để nghe. Vì nhờ hội đủ duyên, nên mới được nghe danh hiệu kinh Đại Niết-bàn, nghĩa là người không nghe mà nghe.

Người không nghe, là không nghe lý Niết-bàn. Đối với người không có đức, là không có “Duyên” năng nghe.

Nghe mà không nghe: Tiếng là pháp nghe, hễ tiếng dứt thì không còn nghe lại.

Nghe mà nghe: Pháp để nghe có từ duyên, mà niệm trước, niệm sau đều có thể nghe.”

“Này người thiện nam! Như bất sinh mà sinh” cho đến “Không đến mà không đến, đến mà không đến, đến mà đến”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nghĩa sinh dễ hiểu, nên nêu để ví dụ về nghe. Đến mà không đến cũng như vậy.”

“Bạch Đức Thế tôn! Bất sinh mà sinh là thế nào? Này người thiện nam!” cho đến “Lúc mới ra thai, đó gọi là bất sinh mà sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hữu vi là Thế đế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Năm ấm là nhân, người tu hành là quả, nhân quả thành tựu lẫn nhau, là an trụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chưa ra thai là bất sinh. Ra thai là sinh, nên nói bất sinh mà sinh.”

“Thế nào là bất sinh mà bất sinh? Này người thiện nam!” cho đến “Đó gọi là bất sinh mà bất sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong hữu vi của pháp nội không có bất sinh, là nói Niết-bàn.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, sau tìm tướng sinh hoàn toàn không thật có.”

“Thế nào là sinh mà bất sinh?”

“Này người thiện nam! Theo Thế đế, khi chết thì gọi là sinh mà bất sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khi chết, nghĩa là niệm sau cùng. Niệm sau là sinh, sinh là sinh quá khứ, đó là chẳng phải sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì xưa có, nay không, nên nói sinh nghĩa là bất sinh.”

Thế nào là sinh mà sinh?

“Này người thiện nam!” cho đến “Vì mỗi niệm thường sinh, nên gọi là sinh mà sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niệm trước, niệm sau nối nhau không dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sinh sinh không dứt là tướng của phàm phu.”

“Bồ-tát bốn trụ gọi là sinh mà bất sinh. Vì sao? Vì sinh tự tại, nên đó gọi là sinh mà bất sinh, là pháp bên trong.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba trụ kiến đế, kiết đã hết. Bốn trụ, cõi Dục tư duy, kiết dứt hết, sinh vào cõi Dục. Dù sinh mà bất sinh, vì sinh tự tại.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì sức nguyện nên sinh, chứ chẳng phải nhắm vào sinh mà sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bốn trụ kiến đế, dứt hết phiền não, nên sinh là hiện sinh, chứ chẳng phải nghiệp sinh thật sự.”

“Thế nào là pháp bên ngoài là chưa sinh mà sinh, chưa sinh mà chưa sinh, sinh mà chưa sinh, sinh mà sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dĩ trước kia nói “Không”, mà ở đây nói chưa”, là vì pháp bên trong có Niết-bàn, được phép gọi là “Không”, vì pháp bên ngoài không có Niết-bàn, nên nói là “Chưa”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về nghĩa giống như ở trước, nhưng chưa sinh mà chưa sinh, nên nói: “Bất sinh mà sinh, sinh là dễ dàng.”

“Này người thiện nam! Ví như hạt giống lúc chưa nẩy mầm” cho đến “đó gọi là pháp bên ngoài sinh mà sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã tăng trưởng thân sau cùng, đó gọi là mọc mầm, quá thì không phải mầm, vì mầm là chưa sinh. Như mầm lớn lên, nghĩa là mầm đang mọc ra, chưa lớn lên. Đó gọi là “Sinh” mà sinh.”

“Đại Bồ-tát Lưu Ly Quang” cho đến “Là thường hay vô thường?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói Thế đế, sinh là sinh giả, nhưng người ngoài chấp bốn tướng, cho rằng sinh là pháp thật. Nay để phá chấp ngang trái của họ, bèn cho lập ra nghĩa sinh giả. Thế nên hỏi gồm có sáu câu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại lập ra sáu câu hỏi, cũng thành sáu câu hỏi trước. Trước kia Đức Như lai dùng bốn câu để giải thích. Câu đầu, hỏi về “Không nghe”, mượn sinh để so sánh với “Nghe”. Nay, dời “Nghe” qua câu hỏi “Sinh”. Nếu đối với nghĩa “Sinh” có chấp đắm, thì nghĩa nghe cũng bị bít lấp. Nếu đối với nghĩa sinh được giải thích suốt qua thì chỉ thú nghe cũng được giải thích. Ở đây có ba câu đối nhau thành sáu. Trước đã hỏi về tướng “Sinh”, chẳng thể sinh ra pháp. Đã bất sinh ra pháp thì tất nhiên pháp không thể sinh. Cũng là chấp nhất định, trở thành ý trước. Hai câu hỏi giữa là hỏi mình và người, hai câu hỏi sau là hỏi về hữu và vô. Xét ra câu hỏi này cứ nối tiếp trùng lặp nhau, vì trước đây Đức Phật đã giải thích về pháp “Chưa sinh” là vô vì thấy ở nhân duyên giả “Sinh”. Phải biết rằng về lý, “Không nghe” vì giả nói nên nghe. Để nối tiếp với lời nói trước kia, nên Bồ-tát Lưu Ly Quang mới đặt ra câu hỏi.

Nay, trước là câu hỏi về thể của “Sinh”: Nếu sinh là thường, thì trước mở ra hai câu hỏi: “Nghe” và “Không nghe”. Nói về tướng “Sinh” nếu là thường hữu lậu, thì không nên có sinh. Vì sao? Vì “Sinh” đã là “Thường”, thì thể của pháp vô thường, hóa ra hai lý đều trái với lẽ tự nhiên. Đã nói là trái với tự nhiên, thì thể nào là “Thường”, mà sinh ra pháp “Vô thường”?đây là vì muốn làm cho hữu lậu không từ “tướng sinh”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây đã nói về bốn câu sinh mà sinh…, đối với người chấp tướng thì họ cho rằng, ngoài pháp hữu lậu, còn có một tướng sinh riêng, đó là pháp hữu lậu sẽ khởi trong “Sinh” ở vị lai.

Nay, Bồ-tát Lưu Ly Quang mới nêu lên câu hỏi, để cho đại chúng đều được hội thông ý chỉ của Phật: Nếu nói theo lý luận thì ngay khi pháp khởi, gọi là pháp “Sinh”, lúc không có gọi là “Diệt”. Không chỉ có tướng sinh là pháp sinh ở vị lai.

Ý hỏi của Bồ-tát đã như vậy thì sau đây sẽ y theo việc đến, nhằm tạo ra câu hỏi về ba quan điểm:

1. Câu hỏi mở ra hai quan điểm, tức thành sáu lớp. Y theo một quan điểm, trước quyết định, sau là kết hỏi. Quyết định quan điểm đầu là “Nếu pháp hữu lậu có sinh, thì là “Thường” nên có thể sinh, hay vì vô thường nên có thể sinh trở xuống, tức là kết hỏi rằng: “Nếu “Sinh” là pháp hữu lậu “Thường” thì sẽ không có sinh. Nếu có riêng một tướng sinh là thường mà sinh ra pháp, thì pháp sinh ra đó lẽ ra cũng từ tướng sinh đều là thường? Mà hiện nay, hiện thấy pháp hữu lậu, niệm niệm vô thường. Vì thế nên biết rằng pháp này không có tướng sinh của vô thường, tức là pháp hữu lậu không có tướng sinh. Cho nên nói pháp hữu lậu thì không có sinh.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Hai câu đầu đặt ra câu hỏi về thường, Vô thường, là vì muốn cho “Thường” thì vắng lặng không dao động, vì không có năng lực của công dụng, nên đâu thể sinh ra pháp ư? Vô thường thì thể không tự lập, năng lực bất cập, pháp cũng không thể sinh ra thứ khác.

2. Hai câu kế là, tạo nên câu hỏi về tự sinh, sinh ra cái khác. Đầu tiên nói về “Sinh” là lý của pháp không tự sinh. Nếu sinh ra pháp khác là sinh thì Niết-bàn vô lậu sẽ chẳng phải tướng “Sinh”, tức là đối với sinh là cái khác, thì vì sao lại không thể sinh ra cái khác này ư? Tất nhiên là không thể, nên biết tướng sinh, sinh ra cái khác là “Sinh”. Về nghĩa thì không đúng!

3. Kế là lại có hai câu y theo “Vốn hữu”, “Vốn vô” để đặt ra câu hỏi: Nếu “Sinh” là pháp đã “Hữu”, thì sẽ không cần sinh nữa. Nếu “Sinh” là pháp vô, thì lẽ ra có thể làm cho hư không trở thành hữu. Nếu sinh là pháp hữu lậu thường thì sẽ không có sinh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì sinh khởi ngang trái cho nên có sinh, nếu sinh là thường, thì sẽ không được sinh ra hữu lậu. Hữu lậu không có sinh thì đâu có khởi?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu thứ nhất lấy “Xưa không nay có” làm “Sinh”: Nếu hữu lậu chẳng sinh thì chẳng phải hữu lậu. Hữu lậu sinh khởi ngang trái, đó gọi là “Sinh”. Vì vô lậu bất sinh khởi ngang trái, nên chẳng phải “Sinh”.

Tánh vô thường lúc sinh liền diệt. Sinh ra liền diệt thì không thể sinh ra muôn vật, tức là hữu lậu vô “Sinh”, vô sinh tức là “Thường” cũng chẳng phải hữu lậu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu pháp không do tướng sinh sinh ra, thì pháp hữu lậu sẽ không có tướng sinh. Nếu không có tướng sinh, thì chẳng phải hữu lậu.”

“Nếu sinh là vô thường, thì hữu lậu là thường.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù được sinh là hữu lậu, mà vô thường vẫn còn, còn “Sinh” thì không ở hữu lậu, nên hữu lậu là thường.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu không bị lựa chọn bởi ba tướng thì pháp hữu lậu lẽ ra là thường.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu “Sinh” có khả năng tự sinh, thì “Sinh” sẽ không có tự tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu “Sinh” biến thành đối tượng sinh (sở sinh) thì sẽ không còn tự tánh!”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu thứ ba, “Sinh” không có tự tánh, nghĩa là nếu tự sinh thì một thể sẽ có hai: Một là chủ thể sinh, hai là thọ sinh, mà đã thọ thì không phải chủ thể sinh, chủ thể sinh thì không phải thọ, mất đi tánh chất của “Sinh” kia.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng nên hỏi về quyết định trước, nên hỏi rằng: “Vì là tự tánh của “Sinh” này có công năng sinh ra các pháp, hay vì nhân duyên có công năng sinh ư?” nay sẽ liên hệ đến quyết định này.”

“Nếu “Sinh” có công năng sinh ra cái khác, thì vì sao bất sinh ra vô lậu?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là câu thứ tư: Vô lậu đối với hữu lậu là “Khác”. Nếu có công năng sinh ra cái khác, thì lẽ ra cũng có khả năng sinh ra công năng của vô lậu?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thập địa vô lậu, chẳng phải không bắt đầu xuất phát từ duyên. Cho nên không nói theo vô lậu này, mà chính là do ở diệu thể của thần minh đó thôi! Diệu thể nấy dứt hẳn hữu, vô không từ nhân sinh, đâu chẳng phải là chân thiện ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu lúc chưa sinh mà đã có sinh, thì đâu cần nay mới gọi là “Sinh”?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sáng sớm lẽ ra gọi là “Sinh”, nay, sao lại là chiều ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu thứ năm: “Nếu lúc chưa sinh, đã có pháp thì pháp có này được gọi là sinh, sao nay mới gọi là sinh ư? Pháp sư Tăng Tông nói: Câu hỏi này khiến cho pháp không từ tướng sanh mà sanh.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng nên quyết định trước, đây là mối quan hệ lúc đầu, nghĩa là nếu trước đã được tên “Sinh” rồi, thì vì sao đến thời gian sau mới gọi là “Sinh” ư?”

“Nếu lúc chưa sinh mà không có “Sinh”, thì vì sao chẳng nói hư không là “Sinh”?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hư không cũng vốn là không.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu thứ sáu: “Chưa sinh là không có pháp, hư không cũng là “Vô”. Nếu sinh vào chỗ “Vô”, thì vì sao chẳng nói hư không là “Sinh”?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu pháp hữu vi vốn ở bên cạnh vô tướng và lực, thì khi hữu vi kia khởi thì lực này cũng khởi, hữu vi kia diệt, lực này cũng diệt theo, chính là đều cùng lúc đó mà thôi, đâu thể sinh ra pháp? Nếu đều không có tướng và lực mà được sinh ra pháp hữu vi, thì vì sao chẳng nói hư không là “Sinh”?”

“Phật nói: Lành thay lành thay! “Này người thiện nam! Bất sinh mà sinh, không thể nói được.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là Phật đáp câu hỏi thứ sáu.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ sáu ở trước: “Sinh” là giả gọi, không thể nói nhất định. Bất sinh là không có, mà sinh có thể sinh ra, “Không có” cũng không thể nói nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đáp câu hỏi thứ sáu: “Bất sinh tức là hư không. Muốn làm cho hư bất sinh, nghĩa là không thể nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về sau, nói về bảy thứ chương môn. Dưới đây tự giải thích theo thứ lớp: Sáu câu đầu tạo ra câu đáp không nhất định. Một câu sau, là nói về nhân duyên, nên được “Sinh”.

“Bất sinh mà sinh chẳng thể nói”: Câu thứ nhất nói không có tánh nhất định “Bất sinh”, cũng không có tánh nhất định “Sinh”, thì làm sao có thể nói nhất định được ư?”

“Sinh mà sinh cũng không thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đáp câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu thứ năm: sinh đã là có, có rồi lại sinh, cũng không thể nói nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Kế là đáp câu hỏi thứ năm: “Không thể nói pháp sinh rồi sinh, vì có lỗi sinh lại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng không có tánh nhất định sinh, cho nên không thể nói.”

“Sinh mà bất sinh cũng không thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói về câu hỏi thứ sáu.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai câu trên nói về pháp sinh hữu, vô. Đây là nói tướng sanh có công năng sanh ra hữu vô. Bất sinh là vô, mà “Sinh” có thể sinh cái vô, nên không thể nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tình người xoay vần sinh nghi: Nếu không có đã sinh, nên sinh ở vị lai, thí tức là sinh ở chỗ không thể sinh ấy ư? Nay, nói cũng không thể nói như thế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì cũng không có tánh nhất định sinh, nhất định bất sinh, nên không thể nói.”

“Bất sinh mà bất sinh, cũng không thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói về câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu “Bất sinh” là vô, thì cũng không thể nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trái ý của Phật. Người mê lầm lại cho rằng” nếu đáp như trên thì tức là người có sinh tự sinh, người không thể sinh, thì tự bất sinh”. Nay nói: Cũng không thể nói như thế. Pháp sư Bảo Lượng nói: Cũng không nhất định là bất sinh, vì nhất định bất sanh nên nói “Do tu đạo mà được, nên không thể nhất định.”

“Sinh cũng không thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lại có sinh, bất sinh, nay lìa bỏ chúng cũng không thể được.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lìa ngoài pháp, có tướng sinh riêng, cũng không thể nói nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Không còn khiển trách “Hoặc”. Ở đây, khiển trách riêng thể của “Sinh” thôi. Mượn “Sinh” để dứt trừ “Chẳng sinh”, đâu thể “Sinh” được ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bốn câu trước là dứt một chấp, không thể cho rằng có tánh nhất định. Nay, hai câu thứ năm, thứ sáu, dứt thẳng tướng “Sinh”, không thể nói lài ngoài pháp có một tướng “Sinh” riêng.

“Bất sinh cũng chẳng thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước đã lìa “Sinh”, nay lìa “Bất sinh”.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu pháp không có tướng “Sinh” thì cũng không thể nói nhất định. Sáu câu này đáp chung hai câu sau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sinh” vốn đối lập với “Bất sinh”. “Sinh” đã không thật có thì đâu có “Bất sinh” để được ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng không thể nhất định nói là ngoài pháp, vì nếu không có tướng “Sinh” riêng thì tức làm cho thể của pháp không còn được sinh.”

“Vì có nhân duyên thì cũng có thể nói được.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nhân duyên, nghĩa là với người khác. Nhân dù không tự sinh, mà có nghĩa sinh ra cái khác, đáp câu hỏi thứ tư, thứ ba. “Sinh” là sinh cái khác, chẳng sinh ra vô lậu. Sau, lại đáp riêng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Khiển trách khá khéo léo. Lúc chuyển nhập Đệ nhất nghĩa đế, vì tình mê muộn, nên nói là có nhân duyên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sáu câu trên nói không nhất định. Câu thứ bảy này nói vì duyên hợp nên “Sinh”, không hợp thì sẽ “Bất sinh”.”

“Thế nào là bất sinh mà sinh không thể nói” cho đến “Vì sao cho là sinh?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Giải thích đáp bảy câu của ba lời hỏi. Đã nói là “Bất sinh” mà nói sinh, tức là “Bất sinh” là sinh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh” gọi là khởi. “Bất sinh” thì không khởi. Nếu gọi là “Sinh” thì tức là khởi.

“Không khởi là khởi thì đâu thể nói ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích lại lý do, thế nào là hoàn toàn đều vô mà bỗng nhiên được sinh? Nên biết có lý để sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bất sinh”: Mà nay sinh làm sao nói “Sinh” nhất định là sinh, “Bất sinh” nhất định là “Bất sinh” ư?”

“Thế nào là sinh mà sinh, không thể nói? Vì sinh mà sinh nên “Sinh”, vì sinh mà sinh nên “Bất sinh”, cũng không thể nói.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu “Sinh” trước là sinh thì nay không nên lại sinh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì “Sinh” mà sinh, nên “Sinh”, nghĩa là trước nhất định gọi là “Sinh” mà sinh, cho rằng vì “Sinh” mà sinh, nên “Sinh” mà sinh.”

Vì “sinh” nên “Bất sinh”: Vì “Sinh” nên trước sinh, vì “Bất sinh” nên sinh sau. Vì trước “Sinh” mà sinh, nên “Sinh sau” bất sinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Người hỏi muốn làm cho pháp đã có ở vị lai và sinh ở thời gian hiện tại. Nay, nói vì sinh nên bất sinh, nghĩa là vị lai bất sinh.

Vì sinh mà sinh nên “Sinh”, nghĩa là hiện tại có sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì “Sinh” mà sinh nên sinh”, nghĩa là một câu này đã được lập phần vị từ trước. Phàm phu vì sinh sinh nối tiếp nhau, nên gọi là tác sinh. “Sinh” cũng không có tánh nhất định.

Dưới đây là nói: “Vì “Sinh” nên “Bất sinh”, nghĩa là vì thân nên có tên, đâu có chỗ nào có tánh “Sinh” nhất định?”

Thế nào là sinh mà bất sinh, chẳng thể nói?” cho đến “Vì sinh không tự tại, nên không thể nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: ““Sinh” tức gọi là sinh: Trước đã nhất định gọi là “Sinh”. Sinh sinh không tự tại: Tất nhiên “Sinh” là pháp có thể sinh. “Bất sinh” là pháp bất sinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cái vô của vị lai vì khác với sừng thỏ, nên nói rằng “Sinh” tức gọi là sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì nhân duyên hòa hợp, nên gọi là “Sinh”, nhân duyên không nhóm họp thì gọi là “Bất sinh”.”

Thế nào là bất sinh là bất sinh không thể nói?” cho đến “Vì sao? Vì nhờ tu đạo mà được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Niết-bàn bất sinh nên không thể nói, nghĩa là vì học được, nên gọi là sinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp bất sinh không gì hơn Niết-bàn, còn do tu đạo mà được, há cho rằng “Bất sinh” đều là bất sinh ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Muôn điều lành đầy đủ thì được Niết-

bàn, đâu có nói nhất định?”

“Thế nào là “sinh” cũng không thể nói? Vì “Sinh” là vô.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Quả pháp tuy có mà sanh thì vô.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn câu trên là đáp câu hỏi, dứt chấp đã xong. Nay dứt thẳng thể của “Sinh”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khiển trách riêng về tướng “Sinh”.

Thế nào là “Bất sinh” không thể nói? Vì có chứng đắc”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có được thì có làm, có làm tức là sinh”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nhất định có “Bất sinh” để nói thì sẽ không bao giờ có sinh”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hữu vi thì sinh, làm sao nói nhất định được?

“Thế nào là vì có nhân duyên, nên cũng có thể nói được” cho đến “Do nghĩa này cũng có thể nói được “.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Làm tác nhân cho sinh, nghĩa là vô minh” cho đến “Hữu”, mười pháp này làm nhân tạo tác cho sinh”, nghĩa là sinh “Cái khác”, không tự sinh.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đạo Thế đế, làm nhân tạo tác cho “Sinh”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu mười nhân trước dứt mất, kế sinh pháp khởi, thì gọi là “Tác sinh” nên được gọi là “Sinh”.

“Này người thiện nam! Nay ông chớ nhập không định sâu xa, vì đại chúng căn tánh chậm lụt”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không định rất sâu, tìm tướng của pháp định, thì chẳng phải sâu”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì ngăn ý trước kia, nên nói “chớ nhập không định”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Các thuyết đã nói trên đây, đều được dùng hữu để bàn về lý, lại là lời nói thử, chớ cho rằng y theo định này mà nói”.

“Này người thiện nam! Pháp hữu vi sinh cũng là thường. Do “Trụ” vô thường, nên “Sinh” cũng vô thường”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đáp câu hỏi về thường, vô thường. Vì hữu vi nối nhau mà thường, nên nói “Sinh cũng thường”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp hai câu đầu. Hữu vi, là tên gọi của hữu lậu. Nói về pháp hữu vi sinh diệt của hữu lậu kia, từ đó mà khởi sinh. Vì nối nhau nên “Trụ”, vì thay đổi nên “Dị” vì giảm bớt nên hoại, diệt. Bốn tướng cùng lúc hiện tại, pháp khởi là hữu, nên thường do lúc khởi, có trụ, lấy sinh nối nhau diệt làm “Trụ” vô thường, nên “Sinh” là vô thường”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải hoàn toàn là thường, cũng chẳng phải hoàn toàn là vô thường, vì thường, vô thường nên được pháp “Sinh”. Vì sinh sinh nối nhau, nên gọi là thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngoài pháp không có tướng sinh riêng, chỉ thích hợp với phần vị của sinh không thay đổi, cũng được gọi là thường. Vì “Trụ” cách biệt với vị lai, nên gọi là vô thường. Bốn tướng thích hợp với nghĩa phần vị đều giống như vậy.”

“Trụ” cũng là thường. Vì sinh sinh nên “Trụ” cũng vô thường.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trụ cũng là “Có”, “Có” cũng là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do pháp thay đổi, nên gọi là “Dị”. Vì pháp vô thường, nên Dị cũng phải như vậy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng nên giống với câu trước rằng: “Dị cũng là thường. Do hoại vô thường, nên Dị cũng vô thường. Đây là lẫn lộn với văn kia.

Nay, nêu pháp: Chỉ bày đối tượng sinh (sở sinh), chủ thể sinh (năng sinh) đồng là hữu vi. Lại, trước có nói: “Nếu sinh vô thường thì hữu lậu là thường.” Vì y cứ tương quan trong lời nói, nên một câu này nói về pháp cũng là vô thường.

“Hoại cũng là thường. Do trước “Vô mà” nay hữu nên” cho đến “Vì có thể dứt, diệt nên gọi là vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chánh pháp sẽ diệt mất vào. Thể của đầu, cuối đã mãn, được tên gọi. Cái “Có” ở đây. Vì xưa vô, nay hữu nên là vô thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tánh chất của xưa vô, nay hữu, nghĩa ấy không thường. Thế nên hư hoại, hư hoại cũng vô thường!”

“Này người thiện nam! Pháp hữu lậu khi chưa sinh” cho đến “Lúc cha mẹ hòa hợp thì có “Sinh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc chưa sinh đã có tánh chất của “Sinh”: Tạo ra điều xấu ác là ngang trái, tất nhiên sẽ phải vời lấy quả báo ngang trái. Khi chưa sinh đã có lý “Sinh”. Tánh lành không ngang trái, không chiêu cảm quả báo ngang trái, đó là lý vô sinh vô lậu.” Đây là đáp câu “Vô lậu bất sinh” nói ở trên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên nói: “Vì sao bất sinh diệt đế vô lậu?” Nay nói Diệt đế không thể vì tướng mà sinh, chính là do liễu nhân chiêu cảm!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích câu thứ ba trở xuống, là bốn câu hỏi.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Lưu Ly Quang” cho đến lại muốn thưa hỏi, cúi mong Phật cho phép.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận hiểu và vì Bồ-tát Vô úy thưa hỏi.”

“Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Vô úy” cho đến “Trí nhạy bén, danh lợi có thể hiểu.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hỏi có hai ý:

  1. Do nghiệp nào mà được sinh về cõi nước thanh tịnh?”
  2. Hỏi: “Các Bồ-tát ấy do nghiệp gì mà có oai đức lớn này?”

Bấy giờ, “Đức Thế tôn liền nói kệ rằng:” cho đến “Tạng bí mật của Phật, thì sinh về cõi Bất Động.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Thế tôn Mãn Nguyệt sở dĩ không đáp câu hỏi của Bồ-tát Vô úy là vì sự hiện diện của tám muôn bốn ngàn người ở đây, hễ nghe thì liền tỏ ngộ thì làm sao không đợi Phật giải thích mà tự hiểu được. Bồ-tát ở cõi nước Bất Động lấy hổ thẹn vì sự ngu mê, chậm lụt của đại chúng, nên quyết nguyện sinh về cõi nước thanh tịnh, đó là lý do khiến Bồ-tát Lưu Ly Quang thưa hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm hai mươi mốt hàng kệ, nói tu mười điều lành, bỏ mười việc ác, nên được sinh về cõi nước thanh tịnh kia”. Trước là đáp câu hỏi thứ nhất.”

“Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Úy” cho đến “Nghiệp duyên đã gây ra, sẽ được sinh về cõi nước kia.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận hiểu.”

“Bạch Đức Thế tôn! Bồ-tát Quang Minh Biến chiếu Cao Quý Đức Vương này” cho đến “Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… .”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chính mình chưa tỏ ngộ, do thứ lớp thỉnh pháp nên vì chúng thỉnh lần nữa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Vô úy lại dùng câu hỏi của Bồ-tát Đức Vương để xin Phật đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sở dĩ xin Phật giải đáp câu hỏi: “Đến mà không đến” trước kia của Bồ-tát Dức Vương, là để khiển trách câu hỏi sau của Bồ-tát Vô úy. Về nghĩa sẽ được biểu hiện như dưới đây.”

Bấy giờ, Đức Thế tôn liền bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Vì sao không đến mà đến?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sẽ giải thích theo thứ lớp trong văn dưới đây:”

Này người thiện nam! Nói về không đến, nghĩa là Đại Niết-bàn này” cho đến “Vì nhân duyên phiền não, nên nói đến mà đến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạng căn tánh chậm lụt, mới chẳng phải một phen nghe qua, mà phải giải thích lặp đi lặp lại nhiều lần, họ mới hiểu.”

Ở trên dùng “Đảo” “Không đảo” để dụ cho “Nghe” “Không nghe”. Giờ đây trước, giải thích về dụ cho đó:”

“Này người thiện nam! Nghe chỗ không nghe, cũng giống như vậy” cho đến “Do nghĩa này, nên nói là không nghe mà nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã dùng giải thích ví dụ hợp lại bốn câu: Như nghe v.v… . Bốn câu này ở trong sáu câu hỏi. Đáp câu hỏi đầu, gồm đáp các câu hỏi thứ hai, thứ ba và thứ tư.

Không nghe mà nghe: Giải thích câu hỏi thứ hai, nhân kinh Niếtbàn nghe chỗ không nghe.

Giải thích câu hỏi thứ ba, thứ tư về danh, tự có thể nghe. Giải thích hai câu hỏi thứ năm, thứ sáu, vì chẳng phải hữu vi, cho đến “Vì không nói”. Vì ba pháp này chẳng phải âm thanh, nên không thể nghe. Bát-nhã dứt bặt các tướng, nên không thể nói hữu, nói vô. Vì pháp thân không có hình tướng cố định, không thể dùng cái thấy của trời, người mà thấy được. Cho nên Niết-bàn không thể nói.

Vì được nghe Danh nên dù thân, trí không có tên gọi nhất định, bốn danh không thể nói khác. Các danh từ thường, lạc có thể nghe.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích nghĩa đã xong. Cho nên lại nêu câu: “Nghe mà có nghe…, là để kết luận, làm gốc cho thuyết sau.”

“Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương bạch Phật” cho đến “Sao lại nói là thường, lạc, ngã, tịnh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ nhất: “Nếu dứt được phiền não, thì lẽ ra là vô thường?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nhờ âm thanh mới có câu hỏi này. Gồm có sáu câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất, nêu trước kia vô mà nay hữu để làm câu hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu trước “Không” mà nay “Có”, thì làm sao gọi là thường được?”

Lại nữa, bạch Đức Thế tôn! Do trang nghiêm” cho đến “Vì thành tựu nhân duyên Niết-bàn, nên gọi là vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ hai: “Do trang nghiêm mà được, cũng là vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế gian do trang nghiêm mà thành. Nếu bảo rằng Niết-bàn cũng nhờ dùng muôn hạnh để trang nghiêm, thì sao được gọi là thường? “

Lại nữa, bạch Đức Thế tôn! “Có” cái gọi là vô thường” cho đến “Do nghĩa này, nên gọi là vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ ba, “Nếu là cái có thể được thì tức là vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ “Có” pháp thì đều là vô thường. Trước kia, Phật nói: “Nếu bậc Thánh Ba thừa đều “Có” Niết-bàn.” Thì do nghĩa này, nên lẽ ra là vô thường!”

Lại nữa, “Bạch Đức Thế tôn! Pháp có thể thấy” cho đến “Thì sẽ dứt được tất cả phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ tư: “Vì có thể thấy, cho nên là vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu thấy Niết-bàn mà dứt phiền não, thì không chấp nhận là Thường được.”

Lại nữa, “Bạch Đức Thế tôn! Ví như biết hư không” cho đến “Nếu không như vậy, thì làm sao gọi là Thường?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ năm: “Vì không có chung, tức là vô thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã không bình đẳng, thì làm sao nói là Thường được?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu là thường thì đáng lẽ như hư không mới phải, đàng này vì còn có cái được, không được, thành ra không nên Thường.”

“Ví như có người cung kính cúng dường” cho đến “Như cái “Không có” của danh kia, làm sao nói được?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ sáu: “Vì có danh nên vô thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì không khỏi danh, nên biết là vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu có sự khác nhau giữa thường, lạc, ngã, tịnh, thì cũng không được gọi là thường.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Chẳng phải trước “Không ” mà nay “Có”, cho nên là Thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ nhất: “Niết-bàn chẳng phải vốn có: Niết-bàn lấy tánh diệt làm nhân. Thân, trí lấy diệt nối nhau làm nhân. Nhân chẳng phải vốn “Không”, nên quả chẳng phải vốn có. “Có” làm nhân là “Vô thường”, thì quả cũng vô thường. Nhân vô vi là thường, thì quả cũng thường. Pháp mà Chư Phật tôn làm thầy, vì pháp thường nên Chư Phật là thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước có sáu câu hỏi, nay chỉ đáp bốn. Còn lại hai câu hỏi sau, vì thô cạn, nên hật không đáp. Ở đây Phật giải đáp câu hỏi đầu: “Niết-bàn chẳng phải trước không , mà nay có.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chẳng phải xưa “Không” mà nay “Có”, nghĩa là vì sinh, tử nương vào Như lai tạng, nên nghĩa của một nhà nói rằng: “Thần minh là tánh của sự nghĩ biết, chỉ vì mê lầm đối với “Duyên”, nên khởi lên sinh tử! Nếu lìa duyên, phát sinh kiến giải, thì bản chất giả dối sẽ bị tiêu diệt, lý chân thật thường tồn tại, sẽ có nhiều công dụng của muôn đức!”

“Này người thiện nam! Như cái giếng trong ngôi nhà u tối” cho đến “chẳng nên nói trước không mà nay có.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì bị vô minh che lấp, nên không thấy, chứ chẳng phải nói trước không mà nay “Có.”

“Này người thiện nam! Ông vừa nói rằng, vì do trang nghiêm” cho đến “Do tự trang nghiêm, sau đó mới thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai: “Không có nơi chốn phiền não là Niết-bàn chân thật, nơi chốn này vắng lặng, không thể trang nghiêm. Ông tự trang nghiêm để mong cầu thôi, chứ chẳng phải trang nghiêm Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì dứt bỏ chướng ngại, nên chân được sáng tỏ. Chẳng phải khi mê hoặc dứt hết rồi mới có chân sinh ra.”

“Này người thiện nam! Ví như dưới lòng đất có mạch nước với tám mùi vị” cho đến “Thì Niết-bàn sẽ được cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nước trong lòng đất, vì người không biết, nên cho là không có. Đào xuyên qua đất, thì sẽ thấy có nước, há cho rằng nước mới có ư? Chân thể Niết-bàn, do tu điều lành mà có, chứ chẳng phải do nhân tạo ra, há là vô thường ư?”

Ví như người mù không thấy mặt trời, mặt trăng” cho đến “Trước đã tự “Có”, chẳng phải đến nay mới “Có”.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về danh từ Niết-bàn, về lý có hai đường: Một là y theo công dụng để đặt tên; hai là y theo thể tướng để làm tự. Ở đây y theo thể để biện luận. Cứ theo chân để nói về dụng thì muôn đức Niết-bàn cũng thường.”

“Này người thiện nam! Như người có tội bị trói, giam vào nhà tù” cho đến “Thấy lại vợ con quyến thuộc, Niết-bàn cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ năm. Dù dẫn ba thí dụ, ở đây một câu đáp này, cũng giải thích chung. Như người đới kia, nếu biết cung kính, cẩn trọng thì thường an ổn, còn hành động ngang trái thì chắc chắn sẽ rơi vào lưới, mà cha mẹ thì thường tự vốn có, chỉ vì chúng sinh sinh tử điên đảo, đâu phải Niết-bàn mới có ư?”

“Này người thiện nam! Ông nói vì nhân duyên” cho đến “Mới được gọi là nhân của Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã đáp riêng xong. Lại, giải thích về nhân Niết-bàn. Vì Niết-bàn là Liễu nhân, chẳng phải tác nhân, nên thuộc về thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nêu câu hỏi thứ hai để giải thích lại. Ở trước nói: Chẳng phải do trang nghiêm mà thành”. Nay nói: “Từ liễu nhân mà hiện, không từ nhân tố sinh mà sinh.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Đây là Niết-bàn, đây là Đại Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tu kinh thấy “Không”, hội thông hai Đế, được thành sáu Độ, đây là Đàn, đây là Ba-la-mật, nghĩa là thấy

Đệ nhất nghĩa, tức là thấy Thế đế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Đức Vương do giải thích này nên lại đặt ra hai câu hỏi:

  1. Thế nào là thực hành sáu độ, gọi Ba-la-mật mà có người không được danh.
  2. Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là Đại Niết-bàn?”

“Này người thiện nam! Thế nào là bố thí mà chẳng phải Ba-lamật” cho đến “Như trong kinh Tạp Hoa, Phật có nói rộng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chính là đáp câu hỏi đầu tiên. Nói về hạnh, thể của hạnh, thì phải quên hoài bảo. Nếu thấy có công hạnh để thực hành, thì sẽ thành phân biệt. Là vì Bồ-tát chỉ dụng tâm mà được việc, nên không thấy có chủ thể thí và đối tượng thí. Không thấy có công hạnh để thực hành, nên bố thí rộng lớn. Tu nhân, chứng quả, không trái với Trung đạo. Nếu được như thế, thì gọi là Ba-la-mật. Sở dĩ như thế, là do Bồ-tát quên ba Đạt, các pháp luống dối. Không thấy có người cho, kẻ nhận. Nhất tướng vô tánh, nếu không có “Giải không” này, thì sẽ không được gọi là Ba-la-mật. Cho nên kinh nói: “Thấy có người xin, sau đó mới cho, thì sự bố thí này chẳng phải là Ba-la-mật.”

 

Phần 3

  • Nói về nghĩa bất định của bốn hạng người tội như Hộ Pháp…
  • Nói về nghĩa Xiển-đề dứt mất gốc lành.
  • Nói rộng Chư Phật chẳng phải trời, chẳng phải không phải trời v.v…
  • Nói về nghĩa ba lậu.
  • Nói nghĩa bảy lậu.

“Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Đó gọi là không nghe mà nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói “Tác nhân” của hữu vi là vô thường, Niết-bàn từ liễu nhân” mà được nên là thường. Nếu vậy, thì mười hai bộ kinh đều là “Liễu nhân” của Niết-bàn, tức là kinh, với văn, nghĩa sâu sắc, kín đáo, người Nhị thừa chẳng nghe được.”

Trong kinh Thanh văn, Duyên giác không nói Xiển-đề có Phật tánh. Cho nên nói lại việc này là vì muốn phát câu hỏi của Bồ-tát Đức Vương.”

“Đại Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Đức Vương” cho đến “Vì sao gọi là Nhất-xiển-đề?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Đức Vương dùng hai câu hỏi: Đầu tiên, dùng câu hỏi về Phật tánh là một, thành nghĩa không nhất định của Niết-bàn thứ năm ở trước: “Nếu Phật tánh là thiện, thì lẽ ra phải ngăn ngừa địa ngục và Xiển-đề? Nếu tánh là thường, thì nên ngăn ngừa làm cho chẳng vô thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là sự phát sinh của câu hỏi do ở trước mà có. Trong sáu câu hỏi ở trước, câu đầu làm cho vốn “Không” mà nay “Có”. Đức Như lai đã giải thích về nghĩa này, đồng thời nói chẳng phải mới có, là nói lý Phật tánh, nói lên muôn hóa ở ngoài sinh tử. Chỉ thú đó đã rõ ràng. Bồ-tát Đức Vương tiếp nối với lời nói “Vốn

có”, bèn cho Phật tánh và ấm là một. Ấm đã vô thường, thì sẽ làm cho Phật tánh cũng vô thường. Trong đây có tám câu, ba câu hỏi trước làm cho không được “Đã có”. Nếu “Có” thì lẽ ra thấy được tác dụng. Nếu “không” thì lúc Kim cương lui mới “Có”. Lại trở thành trước kia không mà nay “Có”, tức là vô thường. Năm câu sau, là hỏi về vô thường. Xét về lý do câu hỏi không nhất định, trước kia, Phật đáp câu hỏi của Bồtát Cao Quý, nói về lý không nhất định. Nay, nêu câu hỏi: “Nếu lấy “không nhất định để làm cho “Không nghe” được nghe, thì lẽ ra sinh lại. Đầu tiên là hỏi: “Nếu có Phật tánh thì lẽ ra có tác dụng, tức lẽ ra phải ngăn chận địa ngục, đàng này hiện nay, người phạm bốn giới cấm, năm tội nghịch sẽ không tránh khỏi đường ác. Phải biết rằng trong thân chẳng phải “Vốn có”. Nếu không phải “Vốn có”, tức là vô thường.

Câu hỏi thứ hai: “Nếu quyển sau nói: Nếu trong “Thân có tánh, tánh này đã thường, thì lẽ ra có dụng là thường, lạc,” vì sao lại nói là không có thường, lạc, ngã ư? Nếu ngã vô thường thì trong thân sẽ không thể có tánh.”

Câu hỏi thứ ba: “Xiển-đề dứt điều lành, mà nói rằng đã có Phật tánh, tức lẽ ra đã bị xiển-đề dứt bỏ. Nếu ông nói “Dù có Phật tánh, nhưng không thể dứt”, thì lại không được nói rằng chẳng có thường, lạc, ngã. Nếu nói rằng tức thời chưa có, thì chính là nghĩa “Vốn không có”. Vả lại, nếu có tánh, thì sẽ không thể làm cho dứt được, tức là nghĩa xiển-đề, lẽ ra không thành tráo trở, nêu lên câu hỏi.

Phạm bốn tội nặng, gọi là không nhất định, nghĩa là trước kia, vì y theo bốn hạng người trong tà định, vì không nhất định nên thuộc về vô thường.

  1. Y theo vào nhóm chánh định, thì người Nhị thừa không nhất định, nên thuộc về vô thường.
  2. Y theo Như lai, nói về không nhất định.
  3. Y theo Niết-bàn nói về không nhất định.
  4. nêu chung tất cả pháp thông suốt nhân quả đều không nhất định. Dưới cho đến xiển-đề, trên cho đến Chư Phật. Xiển-đề là cội nguồn của điều ác cùng tột, vì nó không nhất định là người sẽ được thành Phật. Đức Như lai là cùng cực của điều lành, cũng do nghĩa không nhất định, trở thành sinh tử. Dù có năm câu hỏi, nhưng đại ý là hỏi về quả.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Đức Vương, quyển sau mới đáp. Vì sao? Vì ở trước đáp câu hỏi đầu, sau nói rằng: “Người phạm trọng cấm và Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh. Nay đối với kinh này mà được nghe”, Bồ-tát Đức Vương nay nhân lời nói này lại nêu ra hai câu hỏi: Đức Phật đã chính thức khiển trách, nỗi hoài nghi này trước tiên, nên sau là giả đáp, nhắm vào tướng mạo Niết-bàn của Đại thừa, Tiểu thừa.

Trong hai câu hỏi sau, câu hỏi đầu có năm quan điểm: Nếu cho rằng người phạm tội nặng và Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh, Phật tánh là thiện, vì sao đạo vào địa ngục. Quan điểm thứ hai nói: Nếu là bình đẳng thì tất nhiên có Phật tánh, không nên nói rằng chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh.

Quan điểm thứ ba nói: “Nếu dứt gốc lành thì gọi là Nhất-xiển-đề. Phật tánh là điều lành, vì sao không dứt?

Quan điểm thứ tư nói: “Nếu quả Phật tánh dứt, thì sao lại nói là thường lạc, ngã, tịnh?”

Quan điểm thứ năm nói: “Nếu Phật tánh không dứt thì lẽ ra không được gọi là Nhất-xiển-đề.

Dù có năm quan điểm này nhưng đều xoay vần làm thành tựu lẫn nhau, đút kết chung một câu hỏi.”

Pháp-Sư Trí-Tú nói: “Do Đức Phật đã đáp câu hỏi ở trước rằng: “Niết-bàn chẳng phải vốn không mà nay có, thể chẳng phải là pháp nghe”. Lượt thứ ba này lại đặt ra câu hỏi về chấp Xiển-đề không có tánh, kể cả không nhất định, khiến cho thể Niết-Bàn trở thành vốn không mà nay có, tức là pháp nghe được vô thường. Ba câu đầu là câu hỏi dù khác nhau, nhưng về ý thì vì muốn làm cho Phật tánh chẳng phải “Vốn có”, Niết-bàn lẽ ra “Vốn không” chẳng thể không phải là pháp nghe. Năm câu sau đặt ra câu hỏi không nhất định để trách cứ, làm cho các pháp đều không nhất định. Niết-bàn đã như vậy, thì lẽ ra lại là vô thường, trở thành pháp nghe.”

“Bạch Đức Thế tôn! Phạm bốn tội nặng, gọi là Bất định” cho đến “Nhất-xiển-đề… sẽ được Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai: “Xiển-đề lẽ ra không thành Phật. Vì sao? Vì bốn hạng người đều là tà định. Nếu tà định không nhất định thì chánh định lẽ ra cũng không nhất định. Nếu không nhất định thì Niết-bàn, chẳng phải thường. Nếu có thường, lạc thì xiển-đề lẽ ra không thành Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây sẽ đặt ra câu hỏi về Bất định. Ở trước đều nêu các việc bất định. Sau đó, kết các câu hỏi. Nếu xiển-đề là bất định thì sau cũng sẽ thành Phật. Muôn pháp đều như vậy. Niếtbàn đã là số của muôn pháp, lẽ ra cũng bất định, lại có thể tạo ra sinh tử.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu quả là bất định thì phải biết rằng sẽ không có thường, lạc.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Ta sẽ phân biệt, giảng nói cho ông nghe.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sẽ đáp câu hỏi, trước là khen ngợi Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu đã chứng được lý, gồm cả khuyên răn.”

“Này người thiện nam! Nhất-xiển-đề cũng không quyết định” cho đến “Vì không quyết định cho nên có thể được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước đáp, sau hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo phần đáp thì trước là đáp câu hỏi thứ tư, ở trước Bồ-tát đã dẫn chứng bốn thứ tà định để làm câu hỏi. Nay, lại nêu xiển-đề. Sau, lại trải qua bốn người xuất định. Kế là đáp câu hỏi thứ ba, thế của nghĩa là gồm đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai. Dưới đây, đáp về Nhị thừa xong, chưa đáp câu hỏi thứ năm. Trước đáp câu hỏi thứ sáu về Niết-bàn. Câu đầu, thật sự như lời ông nói, chính là do không nhất định, nên được thành Phật, chỉ vì pháp không thể có một loại, nên muốn cho Niết-bàn cũng không nhất định. Vì sao? Vì nói về pháp có đồng, khác. Nếu là hữu vi thì sẽ có ba thứ, do thể của chúng vô thường, nên là giả nối tiếp nhau, do chúng không có tự tánh, nên có nhân nhất thời trở thành giả. Vì đối đãi nhau mà được gọi tên, nên có giả đối đãi nhau. Nay, Niết-bàn chỉ đối đãi nhau trong danh từ mà thôi. Do nghĩa như thế, nên cũng là nghĩa gọi không nhất định, vì Niết-bàn kia là thường. Vì tránh khỏi tướng của hai giả, nên là thật sự không nhất định.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chưa phải đáp một cách thích đáng mà là lược nêu câu hỏi thứ hai để mở rộng tâm cho mọi người, làm sao cho thể của muôn pháp sẽ không có tướng cố định.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sở dĩ Đức Phật giải đáp riêng, là vì câu hỏi thứ tư là muốn nói về xiển-đề thành Phật, biết được việc lành đã bị dứt chứ không phải dùng Phật tánh để thành lập nghĩa của ba câu hỏi trước. Câu hỏi thứ nhất này, trước nêu câu hỏi thứ tư, về việc thứ tư, vì muốn nói là xiển-đề sau này sẽ được thành Phật, nên biết được việc lành đã bị cắt đứt, trong nhân chứ chẳng phải Phật tánh, để thành lập nghĩa của ba câu hỏi trước.”

“Như ông vừa nói Phật tánh không dứt” cho đến “Vì chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, nên không dứt được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba, xuất xứ từ lý

thì gọi là trong, không từ lý, thì gọi là ngoài. Trong, ngoài đều là tánh thì không thể dứt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây sẽ đáp câu hỏi thứ ba trong ba câu hỏi ở trước. Về ý của câu hỏi ở trước là muốn cho gốc lành của xiển-đề đã dứt, thì tánh cũng nên dứt. Nay, Đức Phật đáp rằng: “Việc lành có hai thứ: Ngoài và trong. Nghiệp của ý lành là bên trong, nghiệp của thân, miệng lành là bên ngoài. Vì Phật tánh chẳng phải trong ngoài, nên chẳng phải vô thường. Phật tánh của xiển-đề là sẽ có, không phải đã có, thì đâu thể khiển trách, ngăn ngừa địa ngục. Đã nói sẽ có thì đâu có nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh, với tư thế có thể gồm đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai.

Lại, có hai thứ, nói rộng về Phật tánh khác nhau. Ở đây nói vô lậu là nhân địa vô lậu, chẳng phải thường, nghĩa là Phật tánh khác với chỗ diệt của ba tâm và ba vô vi thường. Nếu dứt được rồi, thì gọi là xiển-đề, nói là việc lành mới khởi sự làm là có thể dứt. Về sau, vì lại được trở lại, nên do việc dứt điều lành mới bắt đầu tạo tác, thành ra gọi là xiển-đề.

Lý Phật tánh là thường. Tánh tướng thường như vậy, đâu thể dứt ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói chính là: “Nêu câu hỏi thứ nhất, để đáp lời ta nói ở trên rằng, ví dụ nêu ra có Phật tánh, chỉ có tánh của chánh nhân, vốn không có duyên nhân, vì sao lại đặt ra câu hỏi này mà làm cho vì đã dứt sự sinh rồi lại được việc lành, nên có tên là xiển-đề.

Điều lành có hai thứ: Một là trong; hai là ngoài. Nếu ý địa đã sinh ra việc lành thì gọi trong, từ thân miệng mà sinh ra việc lành là ngoài. Tánh của chánh nhân chẳng thuộc về việc lành trong ngoài này, nên không dứt hữu lậu, vô lậu: Nếu với tướng hẹp hòi mà khởi lên việc lành thì gọi là hữu lậu. Nếu đối với “Duyên” gọi là cảnh “Giải” thì sẽ không cùng có với “Hoặc”, gọi là vô lậu. Nói về tánh của chánh nhân cũng chẳng phải hai điều lành này, cho nên chẳng dứt.

Thường, Vô thường: Trước kia, điều lành trong diệt Đế gọi là Thường. Được khởi từ trong duyên gọi là Vô thường. Tánh của chánh nhân cũng chẳng phải là thiện thường, thiện vô thường, cho nên không dứt bỏ, mà chánh nhân Phật tánh nếu có thể dứt bỏ, thì lẽ ra phải đồng với điều lành đã nêu trên. Nhưng nay không phải như vậy, nên biết không dứt, mà chính là vì dứt các duyên mà sinh ra điều lành, nên được gọi là Nhất-xiển-đề.”

“Lại, có hai thứ gốc lành: Thường và Vô thường” cho đến “Phật tánh chẳng phải thường, vô thường cho nên không dứt .”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chánh nhân là thường, duyên nhân là vô thường.”

“Nếu là dứt bỏ gốc lành thì lẽ ra lại được” cho đến “Nếu dứt bỏ gốc lành rồi thì sẽ được gọi là Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về năng lực của pháp “Khởi tác”, khuynh loát nhau khởi tà kiến, dứt bỏ gốc lành, đọa địa ngục, khởi chánh kiến, thì sẽ dứt bỏ xiển-đề, ngăn dứt địa ngục. Phật tánh chẳng phải “Khởi tác”, nên không thể ngăn dứt vô thường của địa ngục. Và xiển-đề là đáp chung ba câu hỏi trước.”

“Người phạm bốn tội nặng, cũng không nhất định” cho đến “Thấy tất cả pháp, đều là tướng vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm bốn tội nặng, còn gọi là đáp câu hỏi sau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đáp câu hỏi thứ hai, nói về xiển-đề, dù ngay khi dứt bỏ gốc lành, về sau, nếu lúc gốc lành phát ra, xiển-đề kia chắc chắn sẽ thành Phật; không dừng lại giữa chừng. Nếu là nhất định, thì làm sao thành Phật được? Niết-bàn mới là số của muôn pháp, vì thể, dụng của Niết-bàn là nhất định, nên không được đồng với sự giả dối không thật của sinh tử, mà là thể chân thật không nghiêng động, dấu vết không có tướng mạo nhất định. Trước nói mười ví dụ để nói muôn pháp là luống dối, sau nói rộng về hóa độ chúng sinh.”

“Này người thiện nam! Cũng có tướng nhất định” cho đến “Được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là Niết-bàn, vì đối lập với hai mươi lăm cõi, nên thuộc về nhất định.”

“Này người thiện nam! Hôm nay, Như lai đang ở trong rừng Ta-la Song Thọ, thành Câu-thi-na” cho đến “Như lai Niết-bàn cũng không nhất định như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niết-bàn có Đại, Tiểu cũng có nhiều nghĩa. Nay, chỉ cho bốn nghĩa: Thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Niết-bàn là nhất định, nghĩa khác đều bất định. Như pháp hữu vi vô thường, khổ là nhất định, nghĩa khác không nhất định. Hai phần mở đầu không thể thiêu đốt, nghĩa là hai thân chân và ứng không thể diệt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ đây trở xuống, cho đến câu “Chẳng phải thuyết, chẳng phải phi thuyết”, phải biết rằng, thân Như lai chẳng phải Như lai, chẳng phải không phải Như lai. Cho nên, Như lai không nhất định.”

“Này người thiện nam! Nên biết rằng Như lai cũng lại không nhất định” cho đến “Do nghĩa này nên Như lai không nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một câu phi Thiên ở trước, bốn loại trời, nói Như lai đều chẳng phải. Từ phi nhân trở xuống, trước nêu xong, sau là giải thích theo thứ lớp.”

“Này người thiện nam! Vì sao Như lai không gọi là thế Thiên” cho đến “Thế nên Như lai cũng chẳng phải không nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói tướng chúng sinh; tự nói: “Ta là Sư tử trong loài người.” Các tướng đều có tướng riêng khác: Như mắt không ngửi được mùi hương, tai không thấy sắc. Chư Phật không phải như vậy, chỉ có một tướng, nghĩa là có thể dùng pháp thân làm mắt, không thể dùng sáu căn để phân biệt. Phẩm Kim Cương Thân nói: “Trừ một pháp tướng, không thể dùng một tướng trời, người để gọi. Pháp giới của Như lai nghĩa là pháp tánh của Như lai. Từ lâu đã xa lìa các tướng, nghĩa là ở trên đã nói về ba mươi hai tướng, dưới đây sẽ nói Như lai từ lâu đã lìa bỏ việc này.

Khéo biết các tướng: Tùy chúng sinh thích ứng với các tướng mạo, Như lai đã biết rõ, vì họ mà ứng hiện. Vì tướng hư không, nghĩa là hư không chẳng có phân biệt. Như lai không phải như vậy.”

“Như lai chẳng phải hữu lậu. Vì sao?” cho đến “Như lai đã dứt hẳn, cho nên chẳng phải hữu lậu.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là giải thích chẳng phải hữu lậu. Trước nói chung chẳng phải ba lậu. Từ sau ba lậu khởi bảy lậu; hai là hữu lậu, năm là nhân duyên trợ lậu. Nhân duyên đó có khi từ đạo đối trị mà đặt tên, có khi từ nhân mà đặt tên. Vì sắp nói khởi kiến, nên trước nói về tâm nghi ngờ. Đây là lý do của kiến.”

Và một cách giải thích khác: Sinh sáu thứ kiến: Đây chính là Kiến lậu, không có tự thể riêng, tư duy về nghĩa lậu, tự có thể biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chư Phật có khả năng lưu lại tích thể cùng tận như vậy không có tất cả lậu, có tất cả công đức, nên có chỗ vận dụng là dứt bặt cảnh giới trời, người, phàm phu vì đủ các lậu, nên không có thần đức này.

Dưới đây, bỏ nhân tức là nói rộng về lỗi khởi lậu của phàm phu. Nếu xét về nguồn gốc của lậu kia, không ngoài tư duy kiến đế, mà hai lậu là gốc. Chính vì có hai lậu này, nên có thể sinh nhiều các lậu. Nay, một mặt nói về lậu, phần lớn có bảy thứ. Nếu lìa ba lậu thành bảy, thì cũng không bao giờ lìa tư duy kiến đế. Bảy lậu là:

  1. Kiến đế lậu.
  2. Tư duy lậu.
  3. Căn lậu.
  4. Lìa lậu.
  5. Thân cận lậu.
  6. Thọ lậu.
  7. Niệm lậu.

Sau đây, sẽ bỏ thứ lớp, giải thích bảy môn này, nói lại lỗi lầm của lậu kia. Nếu người tu hành phải nương vào Đại Niết-bàn này để tạo ra quán giải, thì lậu kia diệt ngay, thường được vô vi.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây là bắt đầu nêu ba lậu trong bảy lậu, chính thức ra khỏi tư duy kiến đế, làm thể của chánh lậu, kế là ra khỏi kiến nghi, làm sáng tỏ riêng lậu kiến đế.”

Lại nữa, “Tất cả phàm phu không thấy hữu lậu” cho đến “Thường tu hạnh Thánh thế cho nên vô lậu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây là giải thích bảy lậu. Hữu lậu thấy lậu là lậu chân thật, năm thứ còn lại là nói nhân lậu. Trong hữu lậu được chia thành hữu lậu và kiến lậu, vì tự nghi ngờ sinh nên trước nói, bởi phàm phu không thấy lỗi của hữu lậu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hai lậu trước là chương môn. Nói ta chấp ngã: Thấy ngã giả mà chấp là ngã thật, cũng có thể Phật địa là ngã chân thật mà chấp thành cái ngã của lúa mì, dầu mè. Ngã chấp không có ngã: Đức Phật thật sự là ngã, chấp là vô ngã. Không có ngã, chấp là ngã: Đối với sinh tử, chấp ngã là thường, sinh ra sáu thứ kiến. Quyết định có ngã, khởi thân kiến. Vô ngã là chấp đoạn.

Không có ngã chấp là ngã: Như ngủ là vô ngã, thấy nơi tịnh sắc. Ngã chấp ngã, nghĩa là dùng sức định thấy vi lai nối nhau không dứt. Ngã chấp vô ngã, nếu nắm lấy bốn ấm làm “Ngã”, thấy sắc chẳng phải “Ngã”, hãy nêu một ngã, rồi tự giải thích là không tồn tại. Ngã làm cho nhận biết, ba câu này là một. Đây là dùng làm nhỏ khác, không ngoài thân kiến. Nếu không như vậy, thì quyết định ở trước là chương môn, “Ngã” ở phần sau làm biết, lại làm ba câu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là chính là phát ra thể lậu, nói bảy lậu này đều không lìa tư duy kiến đế. Nhưng vì chúng sinh si mê nặng nề, nên các thứ chấp giả dối đều không được pháp thật. Nhân là nghi, kiến sinh ra sáu thứ tâm, nghĩa là ở hai tâm bắt đầu: Quyết định có ngã và quyết định không có ngã là câu chung, e rằng chẳng phải là số sáu.

“Ngã chấp ngã, nghĩa là tâm thứ nhất chỉ có giả gọi là “Ngã”, do phàm phu chấp có pháp của một ngã tánh.

“Ngã” chấp không có ngã: Tâm thứ hai Đức Phật thật sư là chân

ngã, chấp ngang trái thành không có ngã.

Vô ngã chấp là “Ngã”: Tâm thứ ba thật sự không có thần ngã, nhưng là giả gọi là chấp ngã: Nói là ngã của thật tánh. Ba tâm còn lại dưới đây, là tác giả, thọ giả và tri giả do phàm phu chấp giả dối, cho nên thành tà kiến. Đức Như lai đã dứt hẳn nguồn gốc hữu lậu này, cho nên chẳng phải lậu.”

“Này người thiện nam! Phàm phu không thể khéo nhiếp năm căn” cho đến “Quán sát năm dục có nhiều lỗi xấu ác như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây là nói về căn lậu. Dựa vào sáu căn mà khởi, gọi là căn lậu, nếu thu nhiếp sáu căn, chế ngự không làm điều sai lầm, thì điều xấu ác sẽ chấm dứt. Nếu y theo pháp đối trị thì gọi là giới lậu.”

Lại nữa, “Đại Bồ-tát quán sát các chúng sinh” cho đến “Đã dứt hẳn cội rễ, nên chẳng phải lậu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai mươi lăm dặm dụ cho hai cõi. Dùng tướng nhiếp làm thí dụ. Vua dụ cho Phật. Một quan dụ cho Bồ-tát. Bát dầu dụ cho niệm, tuệ.”

Dứt mạng của ông, nghĩa là vì mất niệm, tuệ, nên tuệ mạng dứt. Một người rứt dao, dụ cho tinh tấn thấy tịnh, bất sinh sắc tướng” cho đến “Thức cũng như vậy”, nói về chân tục. Quán chân thì vô sắc, quán tục thì thấy khổ, không tạo ra tướng sinh” cho đến “Không tạo ra tướng nhân. Sinh diệt là hành khổ, nhân là tập. Giải thích trong chân, còn không có khổ tập, huống chi là quán sắc tịnh. Tướng hòa hợp nghĩa là hòa hợp tục, khổ này là tập.

“Lại nữa, này người thiện nam! Lại có lìa lậu” cho đến “Tư duy về ý nghĩa của sự lìa đó, đó gọi là lìa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lìa là đi, qua tức trước kia đã nói là thể lìa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là nói về lậu ác. Nếu từ đạo đối trị thì gọi là lìa lậu. Như giáo xưa đã nói về bò dữ, ngực dữ, tri thức dữ… . Nếu người lớn gặp phải pháp ác, thì khuyên bảo hãy tránh xa. Y cứ kinh nay để luận, nhìn thẳng là sinh tử không có “Ngã”, liền được xa lìa. Vì sao? Đã là thể của Chư Phật được pháp làm thầy, thì biết sinh tử là luống dối. Vì y theo Như lai tạng mà có, nên không cần phải tránh xa.

Từ câu “Thế nào là gần gũi lậu” trở xuống, là câu thứ năm: “Nếu gần gũi y phục, uống ăn, thì con người sẽ sinh lòng tham, nhiễm, dứt tuệ mạng. Nếu không mê đắm bốn việc này, thì tức là điều lành sẽ được tăng thêm suốt ngày đêm, việc xấu ác sẽ dứt dần. Nếu y cứ pháp đối trị thì gọi là lậu gần.”

“Này người thiện nam! Vì sao ta đều không thấy” cho đến “Tâm không gây ra điều ác như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói người truyền bá kinh, ở đây nói kinh là lìa.”

“Này người thiện nam! Ví như ở thế gian có người giỏi về chú thuật” cho đến “Có vô lượng công đức như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy dạy hiền lành, đệ tử cung kính. Do hai việc này, có công năng tiêu diệt điều xấu ác. “Chú thuật” trở xuống, là dụ cho công năng của kinh này.”

 

Phần 4

  • Nếu ra duyên khởi của pháp chung.
  • Nói rộng về lìa lậu.
  • Nói rộng về nghĩ đến lậu.
  • Ví dụ về bốn con rắn độc.
  • Ví dụ năm Chiên-đà-la.
  • Ví dụ giả dạng người thân.
  • Ví dụ làng xóm hoang vắng.
  • Ví dụ sáu tên cướp hung ác.
  • Ví dụ con sông.
  • Ví dụ bè cỏ.

“Này người thiện nam! Nếu có người nào có thể viết, chép kinh này” cho đến “Kinh này khó gặp hơn hoa Ưu-đàm.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trước kia nói Như lai chẳng phải trời, người, mà cũng là trời, người. Nay nêu ra việc đó để chứng minh không giả dối.”

“Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở quá khứ, vô lương vô biên” cho đến “Chỉ nhớ chắc văn cú một bài kệ.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Phát ra duyên khởi rộng khắp để chứng minh không giả dối, nói về cả bài kệ đã được nghe, để chiêm nghiệm về năng lực của kinh và mong cầu chỗ chí lý của pháp.”

“Như lai chứng Niết-bàn, dứt hẳn sinh tử” cho đến “Đức bí mật, rất sâu xa của Như lai.”

Nhận xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Khen ngợi rộng năng lực của kinh, để nói về duyên tốt lìa ác.

“Do nghĩa này, nên người nào có khả năng thọ trì” cho đến “Huống chi đối với Như lai. Cho nên chẳng phải hữu lậu.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kết thúc xa lìa hữu lậu, sinh tử tức

luống dối, vì dựa vào Như lai tạng mà có, nên không cần tránh xa.”

“Thế nào là gần gũi hữu lậu? Tất cả phàm phu” cho đến “Cho nên Như lai không gọi là hữu lậu.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu gần gũi với áo, cơm thì con người sẽ sinh ra tâm tham nhiễm, dứt tuệ mạng của con người. Ngược lại, nếu xa lìa việc tham nhiễm thì pháp lành sẽ được thêm lớn.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Tất cả phàm phu” cho đến “Như lai, Thế tôn chẳng phải hữu lậu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thọ lậu, nghĩa là do sau ba thọ sinh khởi, nếu y theo đạo đối trị, thì lẽ ra gọi là định lậu, sau khổ thọ ra sinh phiền não là “Sân giác”, sau lạc thọ khởi là tham giác.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Nếu phàm phu gặp” cho đến “Lìa bỏ các điều ác, hướng về đường lành.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ bảy là niệm lậu. Lúc khởi ba thọ, chưa phải phiền não, biết khổ vui rồi. Lại sinh ý niệm bất chánh, nghĩ đến khổ vui mới sinh phiền não, nên ý niệm là nhân của lậu. Bậc Thánh giác ngộ khổ vui rồi, bất sinh tà niệm, nên bất sinh ra lậu.”

Vì thân tâm gây ra các thứ khổ, nghĩa là vì tướng mạo của thân, tâm là tà nên không có khổ, không còn nói về lỗi của thân, kiến.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là phần bảy, nói về niệm lậu. Do nhân duyên của ý nghĩ tà vạy, nên khởi lậu, gọi là niệm lậu. Nếu y theo đạo đối trị, thì gọi là Hạnh lậu. Cho nên nói thân tâm khổ não, khởi lên các thứ ác, là vì nói về danh từ khô não, vốn là quả báo, mà phàm phu vì ngu si, không rõ do nghiệp đời trước chiêu cảm nên thở than là phi phần nghĩa là khổ không thể chịu nổi. Bên trong đã nhỏ hẹp điên đảo, không dùng lý để tự xử, đối với khổ nhẹ, phát duyên càng nặng.

Nếu nhận thức thích đáng về tự tánh của nhân quả, thì đối với nhân đời trước đã gây ra, vẫn yên tâm như thế, đâu có chấp nhận sinh lậu. Chính là do chúng sinh không hiểu về hai con đường này. Lại đối với sinh tử, giả dối nghĩ là vui, mê đắm cho là thật, vì ý nghĩ bất chánh sinh ra ngang trái, nên khởi các thứ tội ác. Nếu là bậc Thánh tâm ở trong đạo, suốt ngày ở sống với khổ, mà vẫn không có cảm giác là khổ, sống trong cảnh vui sướng, nhưng không cho là vui. Thế nên bất sinh ra lậu. Nay, Bồ-tát đã giác ngộ, nên tu giả gọi là pháp không, dứt hết gốc khổ. Do đó, từ đây trở xuống, sẽ y theo tám việc, tạo ra năm lớp ví dụ để giải thích. Nếu yên tâm mà theo lời Thánh nói, thì các lậu sẽ dứt hẳn, Niết-bàn có thể mong. Nếu không như vậy, thì dòng sinh tử sẽ nối tiếp mãi.

Tám việc, nghĩa là từ “Quán bốn đại trở đi, cuối cùng là lên đến ngọn núi lớn”.

Năm tầng bậc: Một là được giả danh không; hai là được thật pháp không; ba là nói về hai không, trở thành tám vô lậu chân thật sau, dứt kiến đế, phiền não sạch hết, được quả Tu-đà-hoàn; bốn là sau khi chứng đắc Sơ quả, lại tiến lên dứt tư duy ba cõi, dứt hết kết sử, cuối cùng là quả La-hán; năm là từ dứt hết “Hoặc” ngoài ba cõi, cho đến chứng được Đại Niết-bàn.

“Này người thiện nam! Ví như có vị vua đem bốn con rắn độc” cho đến tâm “Người ấy hoảng sợ bỏ trấp rắn, chạy trốn thục mạng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thí dụ thứ nhất, giả gọi là đứng đầu vô minh phiền não, dụ cho nhà vua. Kinh gọi là bốn Đại, dụ cho bốn con rắn độc. Đựng thân hữu lậu, dụ cho một cái hộp. Sai người canh giữ, dụ cho chăm sóc, cho ăn. Vua ra lệnh, nếu để cho một con rắn giận dữ không vừa lòng, thì ta sẽ xử tử nhà ngươi, dụ cho giết cả đô thị. Thấy nỗi khổ già chết, dụ cho sợ hãi, biết không có thật ngã, dụ cho chạy trốn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vua dụ cho Phật. Bốn con rắn độc dụ cho bốn đại. Đựng trong một cái tráp, giống như nói bốn đại để hình thành một thân. Ra lệnh cho người nuôi nấng cho ăn uống, bảo phải quán thân này đã là khổ, không, vô thường. Nếu y cứ theo kiến giải trong cái có (hữu lậu), là vì muốn nương vào thân bốn đại này, để được tu hành đạo nghiệp, tiến đức, nên phải nuôi nấng. Rửa sạch thân mình: Tức dạy thực hành“Quán không”, sao cho nhận thức được lỗi lầm của bốn đại, thì pháp lành sẽ nối nhau sanh khởi, dụ như chà xát, rửa sạch. Nếu chẳng quán bốn đại là luống dối, yêu đắm thân mình, thì sẽ dứt tuệ mạng, nghĩa giống như giết chết cả đô thị.

Người ấy nghe nhà Vua truyền lịnh khẩn cấp, nghĩa là Bồ-tát liền vâng lời Phật dạy, quán sát lỗi lầm của bốn đại, vội vất bỏ trấp rắn độc mà trốn chạy, chính là quán kỹ thân này, chỉ thấy bốn đại thường giả dối, hoàn toàn không có pháp nào là thật, nên được giả gọi là không. Muốn giải thích bốn đại, năm ấm, kể cả sáu nhập hình thành chúng sinh, đều được tạo ra, giả gọi là “Quán không”, chỉ tùy ở quán đầu, nắm lấy pháp mà nhập “Không”, đồng với phàm phu nội, mà văn vì không thể nói cùng một lúc, nên chia ra từng cấp để nói.”

“Lúc đó, nhà vua lại sai năm người Chiên-đà-la” cho đến “Năm người sau nữa, đều vội bỏ đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho thứ hai, được năm ấm không, thật pháp không, thấy ấm là thật, có thể cướp mất phép tắc lành, dụ cho Chiên-đà-la. Trí để dứt “Hoặc”, dụ cho dao, mà việc giết hại sẽ đến, dụ cho nhổ dao. Ra khỏi “Không”, thấy “Hữu”, dụ cho ngó ngoái lại. Đã thấy giả không, kiến giải chân thật thì dễ, dụ cho vội bỏ đi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dụ cho quán năm ấm, tạo nên “Quán không của pháp thật.”

Bấy giờ “Năm người lập ra kế xấu” cho đến “Ông hãy trở lại, người ấy không tin”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ ba, là phá tan hai ái đã xong, được hai pháp giả, thật, các kiết mỏng dần, chỉ có ái của pháp thật là khó bỏ, dụ cho phương tiện xấu ác nhập quán thấy không, dụ cho giấu dao. Xuất quán, khởi ái, dụ cho giả dạng người thân hiền lành. Muốn làm cho sinh khởi mê đắm, dụ cho trở lại. Quán “Không” cắt đứt ái, dụ cho không tin.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù được nhận hiểu hai thứ “Không” là giả và thật, nhưng vì xuất quán trong tâm, nên lại khởi ái trên năm ấm nêu lại nắm lấy năm ấm mà quán, chưa thể được ngay. Dụ như giấu con dao đang cầm trong tay, khởi ái từ tình, như giả dạng người thân.”

“Người ấy, chạy đến một xóm nọ để trốn” cho đến “Tìm vật không được bèn ngồi xuống đất.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ tư, đã thành tựu Sơ quả, duyên giả khởi ngạo mạn, không siêng năng tu đạo, biết trong nhập giả thật dụ cho nhóm không, đắm nhiễm giả danh không do lỗi lầm. Ẩn giấu không thấy chân ngã, dụ cho không có người. Không thấy ấm thật, dụ cho không có vật. Không còn tiến tu, dụ cho ngồi xuống đất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã được sáu nhập “Không”, nhập hạnh vô tướng, dứt hoặc thấy đế, chứng quả Tu-đà-hoàn, là một chỗ ngăn dứt.”

“Nghe trên hư không vang lên tiếng nói: “Hay thay! Này người Thiện nam! Ông làm sao để tránh khỏi?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho thứ năm, dứt tư duy kiết của hai cõi, buông bỏ kiến giải trước làm nhân, cầu tiến lên quả vị trên, dụ cho nghe tiếng nói trên hư không. Nói về sự hiểu biết trước kia, dụ cho không có người dân ở. Đắm nhiễm giả danh, dụ cho đêm nay. Nhân có “Hoặc” trong, trần ngoài mà được nhập, dụ cho sáu tên cướp. Có thể sinh ra các kiết, dụ cho mạng không vẹn toàn. Dứt ngạo mạn, thành tựu quả, dụ cho bỏ đi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau khi đắc quả Tu-đà-hoàn, xuất quán, trong tâm khởi “Hoặc” thọ sinh của môn tư duy. Đã nhờ trước kia thấy đế, kiến giải vô lậu. Thọ sinh trong môn tư duy “hoặc” là lỗi của năm dục, lại quán sáu trần là không, tiến đến dứt các kiết còn lại nên về

nghĩa nói như nghe tiếng trong hư không.”

“Bấy giờ, người ấy càng sợ hãi, lại bỏ đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại hiểu được sáu trần là không, vô lậu càng sâu, dứt “Hoặc” của môn tư duy, kiết của ba cõi đã hết, chứng quả La-hán.”

“Dọc đường gặp một con sông, nước sông chảy siết” cho đến “Tâm ý thư thái yên ổn nỗi sợ hãi đều tiêu tan,.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ sáu. Dứt tư duy và tập khí cõi Vô sắc. Phiền não kia khó dứt, dụ cho nước sông chảy gấp. Định nhiều, tuệ ít, dụ cho không thuyền bè. Cần phải dùng đạo, dụ cho lấy cỏ, gỗ. Các địa trên khổ nhẹ. Có vui của định sâu mà người tu hành ưa thích, dụ cho lại tư duy. Biết khổ này rồi, dụ cho tìm bè để qua sông. Đạo định khó sử dụng, phải nhờ các việc lành giúp đỡ, dụ cho thân, tay đều hoạt động.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dứt “Hoặc” vô minh trụ địa, được quả Phật, chính là suốt qua trong, ngoài ba cõi, đều là nghĩa sông, tức là lấy “Hoặc” vô minh trụ địa khó dứt làm sông. Liền lượm củi, gỗ làm bè, nghĩa là ở ngoài ba cõi, chưa có đạo đối trị, mà muốn tu hành muôn điều lành, để hướng về quả cùng cực. Từ “Ta lập ra trụ ở đây… trở xuống, nói bị rắn, cướp làm hại, nghĩa là nếu chỉ dứt hết kiết của ba cõi, mà cuối cùng vẫn chưa tránh khỏi bọn, cướp hung dữ. Đã gần gũi với mình, thì làm sao tránh khỏi, thà rằng sẽ gánh vác vô minh trụ địa, hoặc lôi kéo vào sinh tử, cuối cùng không bị bọn cướp, hung dữ kia giết hại. Liền tìm cỏ bè, là tư duy đã quyết định, tức là tu muôn hạnh, vận dụng Thật trí, phương tiện trí, để đạt đến bờ Niết-bàn, lên trên đỉnh núi cao. Từ “Quán thân như chiếc trắp đựng rắn độc trở xuống, lại hợp với thứ lớp, nhắm vào năm cấp tám việc.”

“Đại Bồ-tát được nghe, thọ trì” cho đến “Xả bỏ, rong ruổi tu tám Thánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán bốn đại hợp với dụ thứ nhất. Bốn thứ độc, là “Kiến” dụ cho ngủ, “Giải” dụ cho thân. Hơi thở ra từ miệng, dụ cho thinh, hương. Vị từ miệng vào dụ cho nhai ăn.”

“Năm người Chiên-đà-la, tức là năm ấm” cho đến “Bỏ đi thẳng trên đường, không dám ngoảnh lại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán năm ấm, hợp với dụ thứ hai.”

“Ngụy trang người thân, gọi là tham ái” cho đến “Và một kẻ giả làm người thân, nên băng qua đường, không quay lại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán sát ái, tham, hợp với dụ thứ ba. Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, đến sau lại nói không thấy, nghĩa là nhập quán thì hiểu rõ, xuất quán thì sinh mê hoặc. Người Nhị thừa cũng giống như vậy. Vốn vì hướng về Sơ quả làm ví dụ, nhân hỏi về ái để dứt trừ.”

“Làng xóm hoang vắng, tức sáu nhập bên trong” cho đến “Và sáu tên cướp hung dữ hoảng sợ, là chạy theo con đường chánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán sáu nhập, hợp với dụ thứ tư.

Phàm phu chẳng sinh ý nghĩ là không, nghĩa là xa lìa lý Thánh.”

“Sáu tên cướp hung dữ, tức sáu trần bên ngoài” cho đến “Bỏ làng xóm hoang vắng, men theo đường mà đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tai họa từ bên ngoài đến. Công đức trong kiếp, dụ cho tên cướp, hợp với ví dụ thứ năm.”

“Dọc đường gặp một con sông, tức là phiền não” cho đến “Và Nhất-xiển-đề, đều không nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Theo thứ lớp của thí dụ, nên quán dứt phiền não của tư duy cõi Vô sắc và tập khí là con sông, hợp với ví dụ thứ sáu.”

 

Phần 5

  • Giải thích ý nghĩa Đại Niết-bàn, Tiểu Niết-bàn, nêu ví dụ có núi, núi lớn.
  • Giải thích nghĩa tập khí của Thanh văn.
  • Giải thích ý nghĩa danh từ hữu nhân duyên và danh từ vô nhân duyên.
  • Giải thích ý nghĩa năm thần thông.

Nói về hai thứ thần thông:

    1. Chung với ngoại đạo.
    2. Chung với Nhị thừa.

Nói Niết-bàn chẳng phải âm của âm thanh.

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là Đại Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dĩ hỏi lại, là vì dù nói là dứt lậu, có thể được thường, lạc, ngã, tịnh, của Niết-bàn nhưng vì không nói về dụng của ngã, lạc, tự tại nên nghĩa Niết-bàn vẫn chưa khỏi chướng ngại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế sau đây sẽ đáp câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Đức Vương.”

Trong “Nghe mà không nghe” nói trên, Phật đáp sáu câu hỏi xong, lại, lập ra hai câu hỏi nữa, Đức Phật đã đáp một câu hỏi xong. Nay lại nêu câu hỏi thứ hai, để xin Phật giải thích.”

Bấy giờ, “Phật khen Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Đó gọi là Niết-bàn, chẳng phải Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niết-bàn dù có nhiều nghĩa, nhưng đều là tên gọi sự không khổ, được dứt hết khổ, đều được tên gọi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, mượn mười dụ để giải thích về sự khác nhau giữa Đại và Tiểu. Vì không có khổ vui nên gọi là Niết-bàn.

Nếu được một ít thức ăn để dứt đói khổ thì cũng gọi Niết-bàn, nhưng không được gọi là Đại Niết-bàn.”

Mười ví dụ như vậy. Nghĩa của chúng chỉ là một: Biển nhỏ cũng gọi là biển, biển lớn cũng gọi biển. Trong đoạn văn đó tự giải thích rộng rằng: “Người Nhị thừa tu hành từ tám muôn kiếp cho đến một muôn kiếp, gọi là tiểu Niết-bàn.”

Trên đây có ba chỗ giải thích đều nói rằng đến quả Phật. Nay ở đây gọi Tiểu Niết-bàn, nghĩa ấy thế nào? Nếu muốn đối với ta trước kia, không nói tu hành tám muôn kiếp xong, gọi là tiểu. Trước kia không nói tu hành tám muôn kiếp, tùy theo chỗ mà họ đã được, cho nghĩa này là tiểu và Tiểu thừa kia tu hành tám muôn kiếp xong, được thành Phập. Do đó gọi là Đại Niết-bàn, mà ý chí này ở trong một bộ, dù nói là khác, nhưng cũng đừng so lường như thế, phải tùy nghĩa mà đặt để.”

“Này người thiện nam! Nếu là người phàm phu, kể cả các Thanh văn” cho đến “Mới được gọi là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu nhân thế tục, các Thanh văn nhân Thánh đạo: Lại giải thích nghĩa “Phi”, lại sinh phiền não là giải thích phàm phu. Có tập khí là giải thích Thanh văn.”

“Này người thiện nam! Ví như có vùng nào có khả năng tiếp nhận các dòng chảy” cho đến “Vì đã được nên gọi là Đại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói nhân thật, sau nói pháp thật, hợp với ví dụ biển. Sông, thành… đều hợp. Trong mười thí dụ, chỉ không hợp địa và hai ví dụ Thiên, Trung Thiên (trời trong trời).”

“Thế nào gọi là Đại Niết-bàn” cho đến “Do nghĩa này, nên gọi là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tám tự tại; mỗi tự tại đều có văn:

  1. Không Tiểu mà Tiểu, không nhiều mà nhiều.
  2. Cho tiểu là đại.
  3. Cho nặng là nhẹ.
  4. Dùng thể của ba việc, sắc tâm không dời đổi, thì chẳng chỗ nào không đến. Việc làm là một, mà người thấy khác nhau.
  5. Một căn biết sáu trần.
  6. Thấy pháp như hư “Không”.
  7. Được tất cả pháp.
  8. Không thể thấy, giúp cho tất cả đều thấy.”

“Này người thiện nam! Ví như kho báu” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức của phần đầu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô vi gọi là Đại, vì giải thích thường trụ, nên gọi là Đại.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Lúc xưa chưa được, ngày nay mới được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các lậu đã hết, tức là có thần thông, đều là công đức của hạnh Thánh. Nay thấy, là nhãn thông, lại y cứ phân biệt trong sở đắc. Nay nghe là nhĩ thông. Nay đến, là như ý thông. Nay biết là Tha tâm, túc mạng thông.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Công đức thứ hai, dùng năm thông làm thể”. Năm thông ở đây là các pháp cần có của một phương, công dụng cần yếu để hóa đạo của Bồ-tát:

  1. Tu Thiên nhãn thông, phải thấy thân nghiệp của chúng sinh.
  2. Tu Thiên nhĩ thông, phải nghe miệng nghiệp của chúng sinh.
  3. Tu Tha tâm thông, biết tâm nghiệp của chúng sinh. Dù biết ba nghiệp, nhưng nếu không quán suốt quá khứ của ba nghiệp đã có bề dày, mỏng của thiện, ác để hóa độ, thì cũng sẽ thiếu sót về mặt hóa đạo. Thế nên kế là tu Túc mạng thông, mà bè phái ngu si thấp hèn, không dễ gì dùng lời lẽ sâu mầu, tất nhiên, cần phải vận dụng thân để đến chỗ ấy, rồi mới thọ lãnh sự giáo hóa. Do đó, nên thứ năm là tu thân thông. Nay, y theo văn để giải thích. Trước là nói về thân thông.

Xưa nói về Thân thông, chỉ y cứ trực tiếp sắc thân chuyển biến mà thôi. Nay, bàn về sắc, tâm tự tại, tu thời gian ngắn mà thông suốt, hợp với cơ nghi của chúng sinh và kinh cũng có nói như ý thông, cũng gọi là thân thông.

Nếu lập Thần thông thì sẽ mất đi danh từ như ý. Nếu lập như ý, tức là bỏ thân thông. Nếu như giáo xưa nói về năm thông là quả của thiền định, thì phải nhân ở sau định mới phát được thần thông. Theo kinh Niết-bàn nay, nói về năm thông, đều là dụng khác của trí tuệ. Cho nên Đại Bồ-tát dựa vào giáo học của sáu hạnh, không chấp tướng hữu, vô, chỉ làm sao cảm với căn cơ chúng sinh mà ứng, như điều mà một nhà đã giải thích. Năm thông này phải là phương tiện hóa độ của Bồ-tát chẳng phải kỹ năng của Thanh văn, phàm phu, ngoại đạo. Vì sao biết được? Vì nếu thật là phàm phu, thì làm sao có được pháp này, mà đối với ngoại đạo nói là “Có”, đều là “Ứng tích”. Ngoại đạo dù nói được thiền định, nhưng không có tu tuệ của đạo, cho nên họ vẫn không có thần đức này. Các Thanh văn quán giải đã không thành, lại không thể ở ngay trong định mà biến hóa thần thông, cũng vì đã an định pháp không, được nền tảng, lại nữa, vì chưa thể quên sự nhớ nghĩ, nên các nhà chủ trương rằng: “Thần thông mà Bồ-tát chứng được không đồng với ngoại đạo, Thanh văn Nhị thừa.”

Thông có hai thứ: “Một là trong, hai là ngoài” cho đến “Xưa không được mà nay được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm thông này khác với ngoại đạo. Một tâm là một, nghĩa là giải thích không chung với Nhị thừa và ngoại đạo, chỉ nêu Nhị thừa, còn ngoại đạo có thể biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù nói là người Nhị thừa nhưng một tâm là một, không được nhiều. Đây chính là nói lên ý Nhị thừa không được đạo. Thanh văn nhập định, phát ra thần thông, phải tác ý ở trước định. Nếu tác ý là một, thì đối với định chỉ có một biến hóa, nếu tác ý là năm việc mà có công năng phát ra năm biến thì dù ở trong định nhưng phát ra năm. Nếu là người với căn cơ nhạy bén cùng cực thì ở định cũng chấp nhận được hai biến hóa. Ở đây đều y theo dấu vết giáo pháp để tạo nên. Các Bồ-tát thì không như vậy, mà là phát ngay tu đức, lấy sự rộng khắp làm bản hoài, cùng khắp đến cơ cảnh của chúng sinh, tức hợp với bổn tâm, tùy sức mà ứng hiện, không cần tác ý. Nếu không có sáu hạnh giải thì không thể một tâm hiện ra năm thông thân.”

“Lại, thế nào là giáo xưa không được” cho đến “Giáo xưa không được, mà nay lại được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như ý gọi là tự tại. Đối với tự tại, chia ra thành biến hóa, vì đầu tiên đối với phàm phu, nên nói là “Không như vậy”.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Mà các chúng sinh, mỗi người đều thấy khác nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được khác với nhĩ căn, có ba việc khác nhau:

  1. Địa dưới nghe địa trên.
  2. Xa với cát sông Hằng.
  3. Nhĩ thức không chấp tướng, là không nghe mà nghe. Đầu tiên không có tướng âm thanh là nhĩ thức của Bồ-tát, vì chân tục gồm thấy, nên không chấp tướng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Giáo xưa đã nói không được nghe, mà giáo nay lại được nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây, là nói về Thiên nhĩ thông, mà trong văn nêu ra tướng, đều là phương pháp sơ học. Xưa Tiểu thừa nói là Thiên nhĩ thông, nhĩ thức tiếp lấy tiếng, rồi sau mới sinh ra trí. Hai tâm lại dẫn dắt, nhờ vả nhau, nên hợp hai tâm làm thông. Thiên nhãn thông cũng giống như vậy. Nay, nhờ học được Thiên nhĩ, Thiên nhãn trong kinh này, cho đến được thông. Công dụng của sáu thức tức là trí tuệ, nên trong Thiên nhãn, tạo ra hai đế quán. Kinh này với lý giáo đã chân chánh, nói về hai lý hữu vi, vô vi sáng tỏ. Tâm hạnh là pháp đại, sinh kiến giải cũng đại. Nếu là những người mới bắt đầu thực hành thì vẫn chưa theo kịp đại này.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Sao lại nói rằng không nhất định, không có quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tức là quyết định tướng của quả, nghĩa là nếu tác nhân nhất định là thiện, tức là tướng của quả, thì từ nhân lành sinh, tức là quả.”

“Bấy giờ, Đức Như lai khen: “Lành thay!” cho đến “Các pháp do Phật giảng nói, đều không nhất định tướng của quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý đáp là: “Nếu dao là nhân nhất định, mặt là quả nhất định, thì làm sao điên đảo ư?”

“Này người thiện nam! Nói về Niết-bàn, thật chẳng phải là quả của âm thanh” cho đến “Ta sẽ phân biệt nói cho ông nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói tất cả nhân quả đều không nhất định. Ở đây nói pháp thường Niết-bàn chẳng phải quả.”

“Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam” cho đến “Nên được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một chử, không làm ra tướng chữ, một câu, không làm ra tướng một câu, mà là nghe từ lý của kinh, có thể nói là thành quả của nhân nghe nếu không như vậy, thì chẳng phải nghe.”

“Này người thiện nam! Như ông vừa nói: “Vì nghe tiếng xấu ác” cho đến “Xưa không nghe mà nay được nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niết-bàn chẳng phải quả, có thể như trên đã nói. Ba ác là quả, tiếng là nhân nhất định, lại cần phải nói.”

“Này người thiện nam! Thế nào là điều mà xưa không thấy” cho đến “xưa đã không thấy mà nay được thấy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu dựa vào bốn đại cõi Dục, y theo định cõi Dục để tu, sẽ được Thiên nhãn thông, đều là tướng xương. Nhãn thức của cõi trời có thể thấy tướng “Không” của các pháp bất tịnh. Trông thấy tướng mạo của nhân duyên, là “Không” có hai kiến.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, sẽ nói về Thiên nhãn thông. Ở đây nói Thiên nhãn thông chẳng những thấy sắc, mà còn thấy rõ tâm thiện, ác của chúng sinh, cho đến biết Đệ nhất nghĩa đế, cho nên tạo ra sự nhận biết về danh thuyết.”

“Nếu thấy tất cả sắc tướng của chúng sinh cho đến “Cái xưa không biết mà nay được biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết căn đại, tiểu: Vì nhờ sắc nên biết căn. Hễ chạm đến áo là biết tâm, nghĩa là nhờ thân mà biết căn, đồng với nhờ sắc, mà biết được tâm, vì nghĩa của chúng thuộc về Thiên nhãn, nên sau đây là hai danh từ biết và thấy.”

“Này người thiện nam! Thế nào là điều xưa không biết” cho đến

“Điều xưa không biết mà nay được biết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói về Túc mạng thông.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là điều xưa không biết” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ hai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mười sáu tâm của Tu-đà-hoàn: Ba đế từ diệt kiến. Kiến diệt xưa chưa thấu suốt, ba đế không rõ ràng. Đã kiến diệt thì khắp bốn đế, khởi niệm hiện ở trước, tâm họ rất xa, là mười sáu tâm của quả.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây sẽ bỏ kế là nói về Tha tâmm thông, biết được sơ tâm của Tu-đà-hoàn. Theo thứ lớp đến mười sáu tâm: hàng Thanh văn muốn biết sơ tâm, nắm lấy pháp chẳng thật có. Nếu là người lợi căn, thì phải đến tâm thứ bảy mới biết. Nếu là người căn tánh chậm lụt thì phải đến tâm thứ mười sáu mới biết. Bồ-tát thì không phải như vậy. Mười sáu tâm, mỗi tâm theo thứ lớp khác nhau mà đều biết.”

 

Phần 6

  • Nói về bốn tâm Vô lượng.
  • Nói rộng về mười sự, dứt trừ hữu dư, dứt trừ nghiệp duyên.
  • Nói về giới có năm thứ tâm: Hạ, Trung, Thượng, Thượng Thượng, Thượng Trung Thượng.
  • Nói về một trăm phước đức, thành một tướng trong ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
  • Nói kinh Niết-bàn có công năng giúp cho chúng sinh lìa hai mươi lăm hữu.
  • Nói rộng về tam-muội Kim cương.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ ba?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh công đức thứ ba, thứ tư…. Xả từ được từ: Từ của thế gian, thì “Duyên” người thân, cho niềm vui. Nếu oán, thân bình đẳng, thì đây là “Vô duyên”. Lòng từ giả là thế đế, lòng từ thật là Đệ nhất nghĩa đế. Cũng có thể “Duyên” “Hữu tướng” là thế đế, “Duyên” vô tướng là Đệ nhất nghĩa đế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Công đức thứ ba, lấy từ bi làm thể. Bỏ lòng Từ Thế đế được lòng từ Đệ nhất nghĩa. Muốn nói Bồ-tát được lòng Từ vô tướng chân thật, hiện tiền không từ “Duyên” mà được. Nếu phàm phu thực hành lòng từ thì phải thấy duyên mới sinh. Bồ-tát không phải như vậy. Tâm thường ấp ủ Từ bi, không đợi sau duyên mới phát, cho nên bỏ lòng từ giả dối của thế đế, để được lòng từ vô tướng chân thật bậc nhất.

Đã giải thích về thể của lòng Từ xong. Sau đây sẽ nêu ra ba việc, y theo lòng Từ sáng suốt không đến, để nói về lòng Từ:

1. Bỏ lòng Từ được tướng của Xiển-đề v.v… .

2. Bỏ lòng Từ yếu hèn của huỳnh môn v.v… .

3. Bỏ lý giải không đúng như lý của Nhị thừa.

Đã bỏ ba lòng Từ này thì được lòng từ chân thật vô tướng của Như lai.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Mười là dứt trừ hai bên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có bốn đẳng, thành mười công đức, thuyết hành một vòng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói:“Công đức thứ tư, dùng mười việc làm thể, mười việc là Hỷ, Xả. Tự thân quyết định là tướng hỷ, tướng khác phần nhiều là xả.”

“Thế nào là cội lành sâu xa khó lay chuyển” cho đến “Tu gốc sâu Đại Niết-bàn, khó nhổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không buông lung nghĩa là danh từ chung của muôn hạnh. Mười căn dứơi đây là việc đó.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thể của không buông lung tức là tánh trí tuệ. Cái gọi là tín căn, là giải thích lý do khó nhổ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất nói rằng gốc sâu khó nhổ, nghĩa là không buông lung, mất không buông lung, mới có tâm khác, không có hạnh khác, như người tinh tấn, chính là trái với tất cả điều xấu, ác, không can dự đến năm dục, chỉ tu thiện làm đức. Nếu lập được tâm này thì chẳng có công hạnh nào không thành. Chỉ có Phật là người không hề buông lung, nên lại nói, không buông lung là căn bản của đạo Vô thượng. Mọi việc lành đều từ đó sinh ra. Sau đây, sẽ lập ra mười hai thí dụ, để nói về hạnh tốt đẹp không buông lung.”

“Thế nào là đối với thân mình, sinh ra ý tưởng quyết định” cho đến “ở trong thân mình, sinh ý tưởng quyết định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mười căn không nhổ, tự biết chắc chắn sẽ thành Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, tự thân sinh ra quyết định, nghĩa là từ giáo xưa đến nay, người học chưa thể nhập lý Đại, thấy pháp chưa rõ ràng, không biết thân mình là nhân Phật. Nay, đối với giáo này, nhận thức được tánh nhân quả, biết thể diệu của thần minh. Sinh tử nương vào Như lai tạng, có chí quyết định tu, gieo nhân hái quả, tâm niệm không đổi dời, cũng không chứng phi thời, chỉ lấy công hạnh vị tha rộng, khắp làm đức. Đã quyết định mạnh mẽ như thế, thì quả mai sau mới chắc chắn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, không quán ruộng phước: Nếu như giáo pháp thuở xưa, thì phải lựa chọn ruộng phước trước, rồi mới thực hành bố thí, đây vốn là lời hóa độ người ngu mê thấp hèn. Nay, với sáu hạnh, tâm Bồ-tát đã thể nhập lý, lại có niệm xứ khác với phàm phu, cho nên bất luận là ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước, chỉ lấy Xả làm đức, tất cả đều thí cho. Nếu có mảy may tồn tại thì trở thành phân biệt. Nếu không ấp ủ tâm này thì cuối cùng sẽ không hội nhập lý.”

“Thế nào là Bồ-tát không quán ruộng phước” cho đến “Không quán ruộng phước và chẳng phải ruộng phước.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm đã quyết định hạnh quan trọng Bồ-đề, chỉ trước là độ người, bất luận là ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước.” Thế nào gọi là thanh tịnh cõi nước Phật cho đến đó gọi là Bồ tát tu làm thanh tịnh cõi Phật.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người thực hành lòng từ, nghĩa là lúc đầu không lợi ích chúng sinh. Trước nêu bố thí, nói lợi ích lúc gieo nhân, giờ đây tu tịnh độ là lợi ích lúc kết quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói:“Trong đây nêu riêng về thệ nguyện. Cũng như trong kinh Duy-ma, vì hóa độ chúng sinh nên Bồ-tát đã chọn lấy cõi Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư, tu làm thanh tịnh cõi Phật, là khuyên chúng sinh tu hành mười điều lành, dứt mười việc ác. Nếu mười điều lành đầy đủ, thì mọi việc xấu ác sẽ dứt hẳn, công đức tròn đủ, đến hậu tâm Kim cương không có cõi nước của cõi nước, đây là chân tịnh, hoặc chịu phục tùng từ đây về sau, đều là nói về tịnh trong thân.

Nay Bồ-tát phát nguyện tu hành pháp này, là vì dắt dẫn người ngu mê thấp hèn và bảo cho chúng sinh biết rõ cơ bản tiến dần đến chỗ toàn thiện.”

“Thế nào là Đại Bồ-tát dứt trừ hữu dư” cho đến “Đại Bồ-tát dứt trừ hữu dư.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dĩ hai việc hợp giải thích là vì muốn nói chung có thừa. Vì sao? Vì Bồ-tát đã được lòng từ vô duyên, hiện tại không khởi ác, quá khứ có nghiệp dư thiện, ác, làm trói buộc người tu hành. Nghiệp căn nặng, được phân biệt thành hai việc có nhẹ không kể. Dù nhẹ là tai hại chung, muốn giải thích rõ. Ba việc đều gọi là nghiệp dư, đây gọi hữu dư: Là che lấp hai quả vô tri.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghiệp lành của bốn quả đâu thể diệt? Do năng thấm nhuần là diệt, nên đối tượng được thấm nhuần khô cằn, không thể chiêu cảm quả, nói là nghiệp tiêu diệt. Hữu dư, nghĩa là người Nhị thừa đều chứng được quả vô vi. Không có kiết, không có nghiệp mà chuyển hai quả, nghĩa là nói không có kiết, nghiệp của ba cõi, mà báo thân vẫn còn, chính là Niết-bàn Hữu dư, chủ yếu là bỏ báo thân để được vô dư. Nói hai, nghĩa là hai nhà đồng chuyển, cũng nói là vô dư. Về trước là hai, hoặc y theo số kinh, chuyển chậm lụt thành nhạy bén. Nay, nói Như lai khác với Bồ-tát này, do năng lực kinh nên năng diệt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là dứt trừ hữu dư, thứ sáu là dứt trừ nghiệp duyên. Nay, là ba chương môn giải thích hai việc này:

  1. Dư báo.
  2. Dư hữu.

Dư báo: Đây là nói về báo của tánh tập khí, như trong quá khứ nặng về tham dục. Dù ra khỏi địa ngục, sinh trong loài người, cũng vẫn nặng về tham dục v.v… .

Nghiệp dư: Tức là người chịu quả báo trong cõi trời, cõi người chưa hết. Hữu dư: Đây là nói về tập chướng ngoài ba cõi, như vô tri… của Tiểu thừa, chuyển chậm lụt thành nhạy bén.”

“Thế nào là Bồ-tát tu thân thanh tịnh” cho đến “Đại Bồ-tát tu thân thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm thứ tâm, là năm phẩm tâm được năm phẩm, hoặc đến chánh kiến cũng vậy. Nói sơ phát tâm, nghĩa là đủ năm mươi tâm, gọi một tâm quyết định. Gọi đầy đủ, nghĩa là đủ năm mươi tâm định, gọi là đầy đủ một phước”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Năm phẩm tâm, tu mười điều lành thành mười. Nếu tâm này thành tựu, lại có năm mươi, là do một trăm phước. Gồm hành ba ngàn hai trăm là ba mươi hai tướng”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ bảy là tu thân thanh tịnh: Giới từ đầu đến cuối không sát sinh, có năm thứ tâm. Nói về muôn hạnh, không ngoài mười điều lành, mười điều lành đầy đủ, thì được thành Phật. Bồtát đầu tiên, lúc ở tánh địa, giữ một giới có năm phẩm tâm. Nếu giữ mười giới thì sẽ thành năm mươi tâm. Ba mươi tâm đầy đủ thì lên Sơ trụ. Lại, giữ mười giới sẽ thành năm mươi tâm. Có đủ một trăm tâm, gọi là trăm phước đức. Như vậy, mười địa vô lậu đầy đủ, thời gian sau sẽ thành Phật. Vì lại ứng với ba mươi, nên có ba mươi hai tướng. Nay, nói răm phước thành trăm tướng, là nói y cứ Thập địa, có muôn phước, nên nói là thành trăm tướng. Vì sao nói là thành ba mươi hai giải? Ý nói ba mươi hai là chỗ cần thiết của một phương. Nếu mỗi tướng đều lấy đủ hết muôn phước, lại tu tám mươi thứ tướng tốt, thì do tám mươi người thờ phụng tám mươi vị thần, nhưng phàm phu đã được tướng đến lâu.

Thần được thờ phụng muốn cho mỗi phàm phu đều khác nhau. Hiện nay, Như lai muốn hóa độ những người này, nên cùng lúc làm cho mỗi người trong số người này đều thấy vị thần mà họ thờ phụng, người này ở trong thân Phật. Đã thấy trong thân Phật có một vị thần mà nhà mình thờ, bèn kéo nhau đến quy y, thọ lãnh sự giáo hóa của Phật. Dưới đây từ mười hai ngày trở đi, đều là nêu tên vị thần mà nhà mình thờ phụng.”

“Thế nào là Bồ-tát hiểu rõ các duyên” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết rõ các duyên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dứt phiền não, tu Bồ-đề, biết cắt đứt ràng buộc trong kiết duyên, để nói về các duyên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tám biết rõ các duyên, nghĩa là chính thức biết rành các cảnh giới, đối với muôn pháp không chấp tướng. Đã thể nhập nhân duyên, cho là luống dối, tức hữu vi không có, đã biết hữu, vô có thể có vô cũng chẳng thể vô. Chánh thể tánh như thế, nên nói là biết rõ các duyên.”

“Thế nào là Bồ-tát xa lìa các kẻ thù?” cho đến “đó gọi là Bồ-tát xa lìa các kẻ thù.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Liễu duyên thì phiền não hết, là do nói tướng chê bai phương đẳng, phiền não chẳng nhất định là kẻ thù, thuyết này nhất định là kẻ thù?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ chín là xa lìa kẻ thù, là tự mình không học trong kinh này, cuối cùng không thể dứt trừ được kẻ thù phiền não, nên Bồ-tát năm trụ đã dứt trừ hết các kiết cõi Sắc. “Hoặc” thô của địa dưới đã dứt, “hoặc” còn lại chưa đối trị, thì không gọi là kẻ thù, mà đều dùng làm đạo.”

“Thế nào là Bồ-tát xa lìa hai bên?” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ tư”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân quả thành hai, nghĩa là phiền não hết, nhân quả diệt, được thường trụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dứt trừ hai bên, là nhân quả của hai mươi lăm hữu, vô minh, ái đều hết.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương” cho đến “Thế giới đều trang nghiêm rất thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cõi có hai thứ, báo hạnh của Phật có báo hạnh của chúng sinh và vương độ của Phật, bắt đầu là pháp thân không có tướng mạo nhất định, không có nơi chốn nhất định. Cõi nước của chúng sinh có sạch có nhơ. Khi mới thành đạo, Đức Phật phải ở tịnh độ của chúng sinh. Vì sao? Vì hạnh chúng sinh đã thành thục, nên chúng sinh thanh tịnh, không ngoài cõi xấu ác. Tự báo độ không có phương hướng, không cần nói tên. Cõi nước vô thắng là cõi nước chúng sinh.

Nói Tịnh độ, là nơi khi mới thành Phật. Nay, thế giới này thanh tịnh, nghĩa là khi Đức Di-lặc thành Phật, thế giới Ta Bà này sẽ biến thành thanh tịnh, nên chúng sinh thanh tịnh, cũng không ngoài tịnh độ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã nêu giải thích mười việc xong. Chúng đương thời có người không thấu suốt, cho rằng, Đức Thích-ca chỉ tu chín việc, không tu tịnh độ. Cho nên Bồ-tát Đức Vương đã vì họ bày tỏ nghi ngờ mà nêu lên câu hỏi. Sau đây là Phật đáp: “Chư Phật mười phương, chẳng có vị nào không tu mười việc, đáp rằng: Một nhân không tròn đầy, thì không được thành Phật, đâu thể mỗi mình ta được thiếu công hạnh này? Vì hạng người si mê ở đời mà nói cõi này có mặt trời, mặt trăng, còn ở phương khác thì không có. Người nghi ngờ như thế đâu khác gì với người si mê kia.”

Lập ví dụ đã xong. Sau đây là hạng người ngu, thấp hèn, vì lòng tin chưa lập, nên Đức Phật xa chỉ cõi Phật vô thắng ở phương Tây, để bảo cho chúng sinh biết rằng: “Cõi nước của ta, nơi ta đang cư ngụ là hiện đến cõi này để hóa độ. Biết được rằng, tìm lời nói này là vô một Đức Phật xuất hiện ở đời, không có nhơ, không có sạch. Về việc ấy, như đã nói trong phẩm Công Đức ở đầu. Trong kinh này, đã nói tịnh độ của Mãn Nguyệt Như lai ở phương Đông. Đức Phật Mãn Nguyệt đang ngụ ở cõi nước kia, đâu có mang nỗi nghi rằng, cung vua của Đức Thíchca là ô uế? Đáp: “Ngay ở cõi nước thuần tịnh kia, tâm không có chấp, cũng không chấp nhận Bồ-tát Đức Vương nêu lên câu hỏi này, vì đồng với câu hỏi nhất định “Có”, nhất định “Không”. Nêu biết được hai nước này đều nói về một bên, làm cho chúng sinh đều được tiến tu.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “đầy đủ năm công đức như vậy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Công đức thiên hạnh thứ năm, thứ sáu mà văn kinh không nêu ra. Theo kinh khác thì bốn thiền là thiên hạnh. Năm công đức này là gốc của tu thiền.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đều là duyên của người tu định, nếu các căn và người sinh ở biên địa, đâu thể tu thiền định được?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Công đức thứ năm, dùng năm việc làm thể. Công đức thứ nhất, thứ hai do lìa các nạn, nên có thể tu định. Công đức thứ ba, thứ tư do nhân duyên đã gieo trồng từ đời trước, nên được các vị trời che chở, mọi người yêu kính. Việc thứ năm tức là quả định, giải thích năm việc đã xong.

Nay, Bồ-tát Đức Vương chấp giáo xưa làm câu hỏi: Giáo xưa nói: “Do bố thí nên được năm việc này. Nay, vì sao nói nhờ kinh Đại Niếtbàn mà được năm việc?”

Phật đáp: Ngày xưa nhân bố thí mà được năm việc là không nhất định, không thường hằng, nay, nhờ kinh Niết-bàn, được năm việc này là nhất định, là thường hằng, cho đến được vô lậu, nên biết được giáo Pháp Hoa về trước không có người nhập đạo. Dù có người thật sự đắc đạo, cũng không nên nói chẳng phải vô lậu.” Xét lời này của Phật, nên biết rằng không có người hiểu lý.”

“Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ năm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là nhất định, là thường hằng. Mỗi pháp đều đối lập với năm việc trước. Bệnh khát ái đối với bốn việc dưới không nhất định, cũng có phần có quả, là có phần quả của ba cõi, vô thường đổi khác. tam-muội Kim cương, có năm việc trên thì được bốn thiền. tam-muội Kim cương vượt hơn trong định là nói đức của tammuội đó.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đều nói về định, trước cạn, sau sâu, trong đây có ba đoạn:

  1. Y theo hạnh Không mà thành tựu muôn hạnh.
  2. Nói về các định vương này là quả của muôn hạnh.
  3. Nói chẳng những rõ biết “Không”, mà còn biết rõ muôn hữu.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Công đức thứ sáu lấy tam-muội Kim cương làm thể. tam-muội Kim cương tức là Trí nhất thiết, lúc ấy sự ràng buộc của Tập đế dứt hết, với thể do khổ, vô thường này, quả khổ cũng chấm dứt. Quả Phật vô học nhậm vận mà đến, chính là thời điểm mà tâm Kim cương bắt đầu tròn đầy trong công dụng này, gọi là học Phật, không được gọi Vô học. Cho nên nói kim cương là cùng cực của các định.

Y theo tất cả đức này, lược chia thành tám đoạn:

  1. Từ câu “Đều có công năng phá tan tất cả các pháp” trở xuống, là nói về lúc được định kim cương, đã biết rõ lý Thế đế một cách cùng tận.
  2. “Từ trụ trong địa này” cho đến “Không thấy chúng sinh thật” trở xuống, là nói đều nhận thấy lý chân đế cùng khắp.
  3. Từ câu “Tất cả tam-muội đều quy thuộc” trở xuống, là nói lúc được định này, tất cả tam-muội đều quy thuộc tam-muội Kim cương.
  4. Từ câu “Ví như người tắm biển v.v… trở xuống, là nói khi được định này thì chẳng những quy thuộc thôi, mà còn sử dụng các định này làm thể, trong một tâm vận dụng được tất cả định.
  5. Từ câu “Nếu có Bồ-tát trụ định Kim cương, thấy tất cả đều không có chướng ngại…trở xuống, là nói chứng đắc Thiên nhãn thông đầy đủ.
  6. Từ “Như do Càn-đà… trở xuống là nói đã có lậu tận thông”.
  7. Từ “Nếu Bồ-tát trụ tam-muội Kim cương, trong một niệm có khả năng biến hóa thân như Phật… trở xuống là nói về công dụng của thân thông đầy đủ.
  8. Từ câu “Ví như Kim cương, nếu vào lúc giữa trưa thì màu nó không nhất định… trở xuống, thường có ba ví dụ nhằm khen ngợi tammuội Kim cương, có công năng biến hóa, ứng hiện các thứ, đều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Cho nên khi chứng tâm Kim cương, thì các kiết buộc ràng dứt hết, lý chiếu soi cùng khắp, chính là dùng đoạn văn này làm “y cứ”.”

“Đại Bồ-tát tu Đại Niết-bàn” cho đến “đầy đủ Bát-nhã ba-lamật.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lời khen thứ nhất, y theo “Hạnh không” mà thành tựu muôn hạnh.”

“Này người thiện nam!Ví như vật gì bị Kim cương chạm phải đều vỡ tan” cho đến tu tập tất cả các tam muội khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thứ hai là nói định này đứng đầu trong các định, là quả của muôn hạnh.

Này người thiện nam! Nếu có Bồ tát an trụ như thế cho đến mười phương cũng giống như thế. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Thứ ba là nói chẳng phải chỉ rõ biết không mà còn thấy hữu.

Này người thiện nam! Như từ núi Càn-đà cho đến “Ban đầu vô

tâm nói là ta sẽ diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tư là nói về công năng dứt trừ tất cả “Hoặc”.

“Nếu có Bồ-tát an trụ tam-muội như vậy” cho đến “Đều tùy theo sự hiểu biết của mình mà được nghe tam-muội Kim cương này.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là nói có năng lực vận dụng biến hóa.”

“Bồ-tát an trụ tam-muội như vậy” cho đến “Thấy tất cả pháp như

xưa vô tướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ sáu lại nêu cảnh “Không” nói là các đức sở dĩ được thành tựu, đều do khéo biết về “Không”.

“Vì sao gọi là tam-muội Kim cương?” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đủ năm việc nói trên, thì được bốn thiền, tam-muội Kim cương, cao quý trong tất cả định, là nói tính chất của tam-muội đó, có hai thứ:

  1. Phá tan hữu.
  2. Thành sáu Độ.

Không có vật nào không bị kim cương làm vỡ tan, dụ cho vật thể có tạo tác bị kim cương hủy hoại nói trên đều tập trung quy thuộc: Sắp được thành tựu muôn hạnh làm thí dụ. Trước nói sở quy của pháp, sáu pháp sau đây là ví dụ không có chướng ngại: Nói sáu thông là giải thích rộng về công năng của Kim cương. Trước là giải thích chung các thông, sau chỉ nói riêng ba thông.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy là giải thích danh từ Kim cương.”

 

Phần 7

  • Nói rộng về nhân gần của Niết-bàn, gần gũi bạn lành.
  • Chuyên tâm nghe pháp.
  • Nêu việc Tôn giả Xá-lợi-phất bị bệnh, đến chỗ Phật nghe pháp, đúng như pháp tu hành.
  • Nói rộng về Niết-bàn, Phật tánh có tám thứ, bảy thứ, sáu thứ….
  • Giải thích nghĩa hư không, giải thích nghĩa Niết-bàn là chỗ phiền não được dứt bỏ.
  • Dẫn việc xưa, Phật bọn ma rằng, còn ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết-bàn.
  • Giải thích danh từ Niết-bàn.

“Lại nữa, này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Bốn là tu hành đúng pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quyển bảy, quyển tám giải thích rộng công đức của hạnh trẻ thơ. Bốn đức này là hạnh mới thực hành. Đức của trẻ thơ làm nhân gần, là lấy việc trái với tà làm nhân gần.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ quyển bảy đến quyển mười đều giải thích rộng hạnh trước. Nay phẩm thứ bảy này cũng dùng ba tuệ làm thể. Phẩm công đức ban đầu, nói rằng do năng lực kinh. Phẩm này nói về ba tuệ do Thiện tri thức cho đây là khác nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phẩm Công Đức thứ bảy lấy bốn pháp làm thể. Bốn pháp này là hạnh giáo hóa trẻ thơ, nghĩa là gần gũi bạn lành, chuyên tâm nghe pháp, buộc niệm tư duy và tu hành đúng pháp nên Mạng thiên tuyên bố rằng: “Chỉ có bốn pháp này là nhân gần của Niết-bàn.” Nếu nói rằng như ngoại đạo khổ hạnh cho đây là đúng, thì không có việc đó. Nhưng trong phẩm này nói bốn pháp, phán quyết đại khái có ba lượt:

1. Có ba dụ cho y cứ chung một pháp để nói về bốn pháp. Trong văn ấy tự phôi hợp.

2. Từ “Bậc Thiện tri thức, nghĩa là Bồ-tát, Phật, Thanh văn, Bíchchi-phật”… trở xuống, là lược nói riêng bốn pháp, nay trong phần lược này, dùng Nhị thừa làm bạn lành. Nhưng sự trong phần lược ở trước, vì không phân biệt, nên nói là chung. Bậc Thiện tri thức có khả năng dạy bảo đạo tốt đẹp cho con người, đồng với công hạnh mà mình đã làm. Người kia và ta đều đồng ý, đều cùng nhau được lìa khổ, đây là tướng của Thiện tri thức.”

3. “Này người thiện nam! Ví như có người thân bị các chứng bệnh” cho đến “mà thường xuyên giáo hóa, không có mệt mỏi nhàm chán.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba ví dụ này nhập chung thành bốn pháp, gần với Niết-bàn làm thí dụ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo lời khen này có hai lượt: Trước khen chung, sau khen riêng. Khen chung có bốn lớp: Đây là lớp thứ nhất, nêu bốn ví dụ, trước nói về tính chất tốt của Thiện tri thức:

“Này người thiện nam! Thiện tri thức là Bồ-tát” cho đến “Người kính tin Phương đẳng trong hàng Thanh văn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là nêu người ấy. Ngoài người này ra, chẳng phải Thiện tri thức, sơ lược cũng hết.”

“Vì sao gọi là Thiện tri thức?” cho đến “Do nghĩa này, nên gọi là Thiện tri thức.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói riêng về nghĩa bốn pháp. Lìa mười việc ác: Giải thích Thiện tri thức, người thường thực hành đúng như việc lành. Nếu ta bất sinh điều ác: Là nói đúng như Pháp, thực hành đúng pháp, lợi ích cho ta có hai: Nói đúng pháp, là lời nói có ích. Hạnh đúng pháp: Lợi ích của không nói. Vì có pháp lành, nên nói việc lợi ích càng sâu. Vì chúng sinh là thiện, chẳng phải bất thiện.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là giải thích nghĩa Thiện tri thức. Lược nêu tính chất tốt của Thiện tri thức.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói ví dụ để làm rõ pháp lành. Pháp lành ngày càng thêm nhiều: Là bốn phần giữa, nói là tướng của pháp lành, đây là thứ nhất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là khuyên người nương tựa Thiện tri thức. Dùng năm lớp để nói về sự hữu ích của nương tựa. Đây là khen chung thứ nhất.”

“Nhân là gần gũi, lại được liễu đạt” cho đến “Nghĩa rất sâu, gọi là nghe pháp.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lợi ích thứ hai.”

“Người nghe pháp, tức là nghe kinh điển Phương đẳng Đại thừa” cho đến “nhờ tu tập nên được Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là giải thích về chuyên tâm nghe pháp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba ở trước nói chung là liễu đạt mười hai bộ kinh. Phẩm này nói riêng về nghĩa mười hai bộ kinh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nói lắng nghe chánh pháp.”

“Này người thiện nam! Ví như người bệnh dù nghe lời chỉ bảo của thầy thuốc” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát buộc niệm tư duy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba là buộc niệm tư duy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là khen ngợi định.”

“Thế nào gọi là tu hành đúng pháp” cho đến “Không bao giờ rốt ráo nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tư là tu hành đúng pháp. Ở trên nói nhân của pháp, ở đây nói quả của pháp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba lời khen ở trước là nói về văn tuệ. Một lời khen thứ tư là nói về tư tuệ, lời khen thứ năm này để nói về tu tuệ.”

“Này người thiện nam! Thiện tri thức chân thật bậc nhất” cho đến “Tức là được gần với Đại Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba là nói lại trước nói về Thiện tri thức bậc nhất trong bốn pháp.”

“Thế nào là nhân duyên nghe pháp của Bồ-tát” cho đến “Tức được gần với Đại Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là giải thích rộng về chuyên tâm nghe pháp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Các thứ công đức, tức là trong phẩm này nói gần gũi thiện tri thức, cho đến tu hành đúng như lời Phật dạy. Mười thứ an ủi, nghĩa là chia tám phần Thánh đạo thành Tận trí và Vô sinh trí.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là nói rộng bốn pháp, nói về Bồ-tát và Phật, vì phân biệt chúng sinh đến bao giờ mới cùng tận? Cho nên thuộc về Thiện tri thức bậc nhất.

Y cứ đoạn văn sau nói về bốn pháp. Môn chương đều khác nhau, nghĩa sự hãy suy tìm, không thể giải thích rộng.

Nói về bốn công đức của Tu-đà-hoàn: Nêu lên việc xưa nay, để chứng minh năng lực nghe pháp rộng lớn, tức là bốn pháp đã nói trên đây.

Mười dụ an ủi: Tám Thánh đạo là tám và chánh kiến, tâm giải thoát là mười. Chánh kiến là trí vô sinh. Tâm giải thoát là tận trí. Đây tức là pháp sở tri từ trước đến nay, chỉ vì nhân duyên khổ bệnh, không thể duyên lại, làm cho lại nói, khiến mình quên khổ mà duyên pháp.”

“Thế nào là nhân duyên tư duy của Bồ-tát” cho đến “Đây là do tư duy mà được gần với Đại Bát Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba là giải thích rộng về buộc niệm tư duy.”

“Thế nào là Bồ-tát tu hành đúng pháp” cho đến “Bảy là ngã, tám là tịnh, đó gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tận là kết sứ, tập khí đều hết. Tánh thiện lý nhiệm mầu là thiện, trái với gốc là tánh . Thật: Thể là thường. Chân là vì thấy thường. Thường: không thấy thường thì không phải thường. Lạc: Vì thường; ngã: Vì thường nên tự tại. Tịnh: Vì sự nhơ bẩn đã hết.”

“Lại có tám việc, tám việc ấy là cho đến “Bảy là vô ngã; tám là vô thường.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Kiết của phàm phu đã dứt, cũng gọi là Niết-bàn. Vì thế nên trái lại, vì chưa dứt hết kết, nên không gọi là tận. Đối với sự ràng buộc có giải thoát, cũng gọi giải thoát. Tánh thiện cũng là diệu thiện. Không thật, không chân vì không thấy thường. Vô thường cho đến Bất tịnh: Vì lại khởi kết, cho nên là vô.

“Lại có sáu tướng: Một là giải thoát” cho đến “Như lai, Pháp,

Tăng, Thật tướng, hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại giải thích tu hành đúng pháp: Khéo biết các pháp chân, ngụy, có thể tạo tác thực hành. Hoặc chân, không chân đoạn văn sau sẽ nêu về chân giả).

Nói là không biết tướng của bảy pháp, nghĩa là dù tu nhưng chẳng phải chân, hoặc biết rành bảy pháp, nói là chân.

Niết-bàn, là quả địa Đại Niết-bàn, Phật tánh thông suốt nhân quả. Như lai là người của quả địa. Pháp là chia ra Phật, Tăng, ngoài ra gọi Pháp. Tăng: Cũng có cả nhân quả. Thật tướng: Gồm tất cả các pháp đều là thật. Hư không là bầu hư không. Nói biết bảy pháp này gọi là thể không thật. Tướng của bảy pháp, gọi là chân thật.

Có tám: Trước là giải thích về tám việc của quả Phật.

1. Tận: Là dứt hết tất cả “Hoặc”. Trái lại, với ác đã dứt hết, gọi là tánh thiện. Pháp không thật, giả dối đã hết, nên chỉ còn chân thật. Dưới đây đối lập với bốn thứ chẳng phải thường, chung với bốn thứ trước thành tám.

2. “Lại có tám việc: Đây là nói về Niết-bàn của ngoại đạo.”

3.  Giải thoát: Chẳng phải không chế phục kiết. Ngay khi trái với ác là tánh thiện. Không thật, không chân. Chế phục rồi lại sinh, chưa phải là chiếu lý. Bốn thứ sau đây chẳng phải thường: Đã chưa lên quả cùng cực là pháp hữu vi. Lại, có sáu tướng; là về Nhị thừa:

4. Giải thoát: Tùy phần dùng vô lậu mà được vô vi.

5. Vì trái với ác nên là thiện.

6. Không thật.

7. Không chân: Lại phải dứt khổ hữu dư, chứng diệt của hữu dư. Lại có diệt cùng cực. Vì chưa được nên thành không chân thật.

8. Yên vui: Do họ thoát khỏi khổ nặng của ba cõi, nên có một ít phần vui, giữ được vô lậu. Đây là pháp tịnh. Vì thể là dòng chảy dời đổi, nên chẳng phải thường. vì chưa được tám tự tại, ngã cho nên vô “Ngã”. Có và có thoát thoát. Nên biểu thị quả là chưa cùng cực. Nếu dựa vào đạo thế tục để giải thích ngoại đạo, cho nên chỉ thú không chân thật.

Thế nào là sáu tướng? Giải thích Nhị thừa. Sở dĩ không giải thích lại quả Phật có tám là vì đã giải thích hai thứ chưa cùng cực. Về hình tướng dễ biết. Không gọi là biết Phật tánh: Vì nghĩa Phật tánh có tên gọi khác, nên nói là không biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là thứ lớp giải thích tu hành đúng pháp. Nếu biết rõ bảy việc, là tu hành pháp chân như. Bảy việc đủ như kinh nêu:

  1. Biết Niết-bàn có ba thứ: Trước biết Niết-bàn của quả Phật có tám việc.
  2. Biết Niết-bàn do chế phục kiết của ngoại có tám việc.
  3. Biết Thanh văn chỉ đoạn diệt “Không”, tạo nên Niết-bàn có sáu việc.

Nếu biết như thế thì Niết-bàn có rốt ráo, có thể cho là người tu hành pháp chân như.”

“Thế nào là Bồ-tát biết Phật tánh” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phật tánh có sáu: Y theo phần giải thích tánh thì bốn Phật tánh trước là nhận biết riêng về quả, Phật tánh thứ năm là thấy giống như tánh “Duyên” nhân, trong đó chiếu sáng đạo, vì chẳng phải pháp ngụy, cho nên là chân. Một có thể chứng cho sáu tánh còn lại như trên, nghĩa là lại thêm trí quả để chứng được tánh này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là Phật tánh mà Cửu địa chứng được: Một là thường; nghĩa là điều lành của “Duyên” nhân:

  1. Đã được thì không mất, vì quán sát pháp thường cho nên là Thường.
  2. Vì “Tức” thể dứt trừ được “Hoặc”, cho nên là tịnh.
  3. Vì đối lại với hư, nên gọi là thật.
  4. Vì hướng lên, nên gọi là thiện.
  5. Tức là sẽ thấy được tánh quả.
  6. Vì đối với ngụy nên gọi là chân.

Lại có bảy Phật tánh: Là Phật tánh của Thập địa thêm người có khả năng chứng, nghĩa là thấy một ít tánh quả. Sáu Phật tánh còn lại, như trên đã nói.”

“Thế nào là Bồ-tát biết tướng Như lai” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết tướng Như lai.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Như lai y theo người để gọi. Giác là từ kiết sử, tùy miên mà thức tỉnh. Tướng thiện là Niết-bàn mà “Hoặc” đã hết, được vốn xứng tánh. Như lai, khéo thiện mà thôi.

Thường, lạc, ngã, tịnh: Ý nói giống như không đến mà thật ra thường đến, là tướng. Giải thoát: Con người giống như chưa giải thoát mà thật đã là tướng giải thoát.

Chân thật: Thấy thường mà thường, tức là người kia. Thị hiện đạo: Chỉ cho chúng sinh thấy con đường chân chánh. Có thể thấy, là vì thị hiện đồng với người nên thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như lai là tướng giác ngộ, nghĩa là pháp thân của quả cùng cực. Phật bảo chân thật, thể là thường, lạc, ngã, tịnh: Có đủ các đức.

Chỉ bày đạo thấy được: Kế là nói nói về Ứng với Phật Bảo, nếu chân thì nên biết chân này chính là điều lành, tu hành đúng pháp.”

“Thế nào là Bồ-tát biết pháp tướng” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết pháp tướng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không có phi pháp là Pháp, ở người thì rõ ràng mà giảng nói thông suốt cả chúng sinh, vì khiến người thực hành điều lành làm chính. Trước là nêu điều thiện, bất thiện. Chứng được lý là thiện, trái với lý là bất thiện, đều thích hợp với sự thật kia, chính là Pháp.

Thường, bất thường, cho đến tịnh bất tịnh: phải ở chỗ không có bốn điên đảo, là thể chính đáng của pháp. Hoặc biết, không biết: Vì pháp không có vô tri, nên lại dùng biết, không biết để làm pháp.

Hoặc hiểu, không hiểu: Mở mang truyền bá chánh pháp là ở lời nói. Được chỉ thú là hiểu, nên lại dùng “Hiểu”, “Không hiểu” làm pháp.

Hoặc chân, bất chân: Vì trái với chân là phi pháp, nên mới dùng chân, bất chân làm pháp.

Hoặc tu, không tu: Vì hoằng pháp là mục đích ở việc tu học, nên mới dùng tu, không tu làm pháp.

Hoặc có thầy, không có thầy: Vì pháp tiêu biểu thành thầy, nên mới dùng thầy, không thầy làm pháp.

Hoặc thật, không thật: Đã chân là thật, thật đã rõ ràng, thì nhất định là phải quấy, nên lại dùng làm tánh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thiện, bất thiện: Được chia thành hai báu. Ngoài ra tất cả pháp đều là Pháp. Xét theo văn, dường như chung riêng, chưa chia ra pháp của hai danh từ. Và danh từ thí kia, về nghĩa đã phân tích, vì hai báu khác nhau. Pháp và thật tướng, có chia ra rộng, hẹp .”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người biết pháp là người biết cả hai.

Sáu hạnh song song với hai đế chân tục.”

“Thế nào là Bồ-tát biết tướng Tăng” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết tướng Tăng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù phần nhiều là vô tướng, đều có một người, mà pháp thì không thể khác. Nhưng về sau lại thành chúng không có khác, tức thường hòa thì hằng vui, chẳng bị người ngoài phá hoại, gọi đó là “Ngã”. Không cho gây ra lậu, gọi là Tịnh.”

Tướng của đệ tử: Chúng chẳng phải là sự tỏ ngộ một mình mà rõ ràng phải có thầy, tướng thấy được: Là các lý lẽ là ở người, nên có thể thấy. Thiện: Chớ có trái phạm, đó là thiện thường.

“Chân, bất chân, cho đến thật không thật: Bản tánh là chân, toàn thể không có ngụy, chưa thể cứu xét lý thì lấy gì làm thật?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói là thường, lạc, ngã, tịnh: Trước nêu tăng của quả địa, là tướng đệ tử, là tăng ở nhân địa. Có thể thấy tướng: Tu, hiểu tu Trung đạo là thấy Phật tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu cùng cực khác với thể, mà hòa là chân tăng. Nếu là Thánh chúng ba thừa của Học địa, là tướng đệ tử. Nếu biết hai hạng tăng này khác nhau, thì cũng là người tu hành đúng pháp.”

“Thế nào là Bồ-tát biết thật tướng?” cho đến “Tướng mạo khác nhau của pháp hư không… .”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thường, vô thường cho đến tịnh, bất tịnh, nghĩa là vì thật tướng nói lý, nên khác với pháp. Con người tự mình trái với lý, có bốn điên đảo Trong bốn không có điên đảo, vì vốn là lý. Thiện, bất thiện: Vì trái lý nên bất thiện, ngược lại thì thành thiện.

“Hoặc “có”, hoặc “Không ”, hoặc “Thấy” hoặc “Không thấy”, nghĩa là về lý thì ẩn giấu, dường như “Không có”. Lại, nếu “Không”, mà có thể thấy, hoặc Niết-bàn, là giải thoát và đoạn: Trái lý thì thành ràng buộc, được lý thì Niết-bàn là giải thoát và đoạn. Hoặc biết, không biết: trong lý chẳng có không biết. Hoặc chứng, không chứng: lý tiềm ẩn, dường như khó nói mà rõ ràng chứng biết. Hoặc tu, không tu: Tu thì được dụng, đây gọi là Thật tướng, chẳng phải Niết-bàn… Bảy nghĩa này về mặt lý thì đồng mà về nghĩa thú thì chẳng phải một. Chẳng phải một, vì đều khác trước sau, hội hợp lại là đủ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thường, vô thường: hợp với tướng là thật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng không khác với nghĩa trong thật đế trên.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Vì chúng sinh, nên nói là có thế đế.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chẳng thấy hư không: Hư không tự biểu lộ, chẳng có hư không biết hư không: Vì chẳng thấy hư không. Nay dùng ví dụ lý kết câu để nói sau. Nếu không vật thể gọi là hư không, thì hư không như vậy mới gọi là thật. Có tướng hư không, tức là vật của ba cõi. Vì không có vật mới là chân thật. Vì là thật nên gọi là thường vô. Vì thường “Không có”, vật về lý không dời đổi là thường vô, vì thường vô nên chẳng có lạc, ngã, tịnh. Nghĩa là đã chẳng có tướng không, cũng chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh. Về nghĩa đã là vô thì không thể nói là có, đó là lý do “Có”. Ví như thế gian không có vật, gọi là không, nghĩa là hình tướng không, mà chấp “Không có” vật là dụ chẳng có tướng không.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ tuệ nhãn trông thấy, như vô mà thấy. Vì ánh sáng nên nói là không, nghĩa là do ánh sáng kia có tác dụng suốt qua ánh sáng thành không. Hư không là bầu hư không, là chữ vật vô. Ngoại đạo thường nói hư không có thể tạo tác. Nếu hiểu hư không, chẳng phải là pháp có thể tạo tác, cũng là tu hành đúng pháp. Chính vì vậy, nên sau đây, Đức Phật tạm mượn ví dụ để nói cũng như thế đế, thật ra không có tánh của hư không. Nói thẳng, tự vì chúng sinh nên nói có nhân duyên này. Tuy nhiên Thế đế từ xưa đến nay là không, chẳng hề tạm “Có”. Nay hư không cũng như vậy. Nói thẳng là do vật thể không có chỗ, nên gọi là hư không, thì chỗ nào lại có hư không để được ư?”

“Này người thiện nam! Thể của Niết-bàn cũng giống như vậy” cho đến “Khi chứng Vô thượng Bồ-đề, thì gọi là vui Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thể của Niết-bàn: Niết-bàn tự biểu thị không có Niết-bàn, đồng với hư không, chỗ dứt phiền não, là lấy chỗ dứt gọi là diệt, chính là vì không có diệt, tức là thường. “Diệt” của “Vô Diệt” tức là thường, lạc, không hoàn toàn đồng với hư không. Cái vui vắng lặng: Đã nói là vui, vì e lạm quá, cho nên phải nói: Như lai có hai thứ vui, đó là vui vô tri. Thật tướng có ba niềm vui: Một là cảm nhận niềm vui, nghĩa là chấp ngang trái dù chẳng phải vô vi, nhưng cũng lập ra vui này; hai là Phật tánh có một niềm vui: Phật tánh của Bồ-tát không có niềm vui, vì sẽ có vui Bồ-đề.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thể của Niết-bàn trực tiếp dứt phiền não: Nói đúng ra là giải thoát các lụy phiền trói buộc. Do không có các phiền não nên cho là Niết-bàn tức là thường, lạc: Y theo trí mà nói là không, đâu chẳng phải thường, lạc ư? Dù chẳng cảm thọ niềm vui, khác với cái vui của ba thọ, mà vì vắng lặng không có khổ, nên gọi là vui. Như lai có hai thứ vui: Vì vui đó không suốt qua nhân địa, nên không có thọ vui. Vì thật tướng chung cả nhân quả, nên có cả ba niềm vui. Phật tánh có một thứ vui là Lý thiên chân vì chẳng phải nghĩa thần minh nên chẳng phải giác biết và thọ vui. Lúc chứng được Bồ-đề, gọi là vui Bồ-đề: Tức là vui vắng lặng. Lại vì xoay vần đặt tên, nên gọi là vui Bồ-đề.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nói về thể của Niết-bàn. Cũng như hư không chẳng có chỗ ở. Diệu thể của quả Phật là chân như vô tướng, đâu có nơi chốn để tìm kiếm? Nhưng pháp tánh không có tánh tướng như hư không, chẳng khác, sở dĩ có khác là vì khác ở chỗ “Chí hư”. Đã y theo thể, tướng để soạn luận, e rằng người còn nghi ngờ, nên về sau lại y theo công dụng để nói, cho nên nêu thường, lạc, ngã, để nêu tướng của chúng. Phật có hai niềm vui: Niềm vui vắng lặng được y cứ trên thể tướng để biểu lộ lời nói. Do đó, mà biết niềm vui là y theo dụng để giải thích.

Thật tướng có ba niềm vui: thọ vui, thật là thật trong hư. Hai thứ vui còn lại không khác với vui nói trên. Quả này làm sáng tỏ vui chân thật. Phật tánh chỉ có một thứ vui, vì sẽ thấy.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương” cho đến “Thế nào là nói lời giả dối này?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có ba câu hỏi:

  1. Chứng thân trí diệt là Niết-bàn, chẳng phải dứt thẳng phiền não?
  2. Chứng tập diệt là Niết-bàn, chẳng phải dứt thẳng phiền não diệt.
  3. Chứng ba việc thân diệt, tức là Niết-bàn. Tự kỳ hạn ba tháng, nghĩa là do thời gian, việc quan trọng, nên chứng thân trí diệt là Niếtbàn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Có câu hỏi này, là do trước đây đã giải thích về Niết-bàn, nói thẳng là chỗ đoạn, nối tiếp lời nói đó để làm lời thưa hỏi. Ở đây có bốn câu hỏi về chỗ đoạn, không phải là Niết-bàn. Ý thưa hỏi là dẫn chứng giáo xưa, muốn cho Niết-bàn đồng với không vô. Lời hỏi đầu tiên rằng: “Ma đến hỏi Phật vì sao chưa nhập Niết-bàn, Phật tự đáp: “Chưa có đệ tử học rộng”, phải biết rằng do chỗ thân trí hết, chứ chẳng phải dứt thẳng hết phiền não?

Thứ hai là nêu do Bồ-tát quyết đoán, nên biết không cần chỗ đoạn, là đúng.

Thứ ba là ma lại hỏi, Phật đáp rằng: “Đến ba tháng sau, Phật sẽ nhập Niết-bàn” lời nói “sẽ nhập” này phát ra từ chính miệng Phật, há là chỗ dứt thẳng?

Ý câu hỏi thứ tư, lấy mới thành Phật, bèn là Niết-bàn, câu hỏi thứ ba trước trở ở thành câu hỏi đầu. Nay câu hỏi thứ tư lại thành câu hỏi thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây vì ở trên đã nói rằng Niết-bàn trực tiếp là chỗ mà Chư Phật dứt phiền não. Chúng sinh bèn sinh nghi rằng “Cũng là Niết-bàn Hữu dư của ngày xưa. Nay, Bồ-tát Đức Vương nêu câu hỏi này để khiển trách. Y theo ba thứ: Việc dạy bảo trẻ thơ để nói về tính chất hư thật của Niết-bàn. Thứ nhất là chấp vô dư, lẽ ra phải là hữu dư, lẽ ra là quấy. Vì sao? Vì xưa, Như lai ở bên sông Ni-liênthiền, bảo Ma vương rằng: “Hôm nay ta chưa nhập Niết-bàn.”

Câu hỏi thứ hai: Từ câu “Nếu dứt phiền não thì chẳng phải Niếtbàn, trở xuống, cho đến hết: “Nay thân này của ta tức là Niết-bàn rồi, chẳng phải chỉ vô dư mới đúng” hữu dư lẽ ra cũng lại như thế. Vì sao? Vì thuở xưa, Phật bảo Bà-la-môn Sinh Danh rằng: “Nay, thân này của Ta tức là Niết-bàn.”

“Thân Như lai chưa diệt mà nói “Tức là”, không phải dùng hữu dư làm Niết-bàn ư?”

Câu hỏi thứ ba rằng: “Lý luận không thích hợp, cả hai không như

vậy, lẽ ra một thị một “Phi”. Nếu cả hai đều “Phi” thì Đức Phật đâu phát ra lời nói luống dối này. Nhưng trong đây lời hỏi dù nhiều, nhưng ý thưa hỏi chính đáng không ngoài ba pháp này. Từ “Ở nước Tỳ-xá-ly trở xuống, đều để chứng minh câu hỏi thứ nhất. Vô dư lẽ ra nghĩa là Niết-bàn. Như lai đã tự kỳ hạn ba tháng, không phải dùng ngay tử diệt để làm Niết-bàn ư?”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu” cho đến

“Hễ đã phát ngôn, đều là lời chân thành, chắc chắn, không giả dối.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp chung bốn câu hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba, nói tự chẳng phải cơ cảm. Đức Phật thì không nói, vì muốn cho chúng sinh được thích nghi, nên có thuyết này.”

“Này người thiện nam! Như lời ông nói: “Khi xưa, ma Ba-tuần” cho đến “Bèn cho là Như lai nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Im lặng không nói năng chi cả tức là Niết-bàn, đáp câu hỏi đầu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ nhất, nói Ma vương không biết chân thể Niết-bàn, cho rằng Đức Phật im lặng không nói pháp nữa đó, là Niết-bàn.”

“Này người thiện nam! Như lai không nói Phật, Pháp, chúng Tăng” cho đến “Hai pháp thanh tịnh, không có khác nhau.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo phần lược đáp, trước là mở ra ba câu, giải thích lý do ý nói tướng che khuất để nói Đức Phật mới xuất hiện ở thế gian, chúng sinh trí thấp cạn, chưa kham pháp sâu, không được nói Tam bảo đồng thể, chính là được nói đoạn diệt vô dư, tạo nên thường trụ thanh tịnh không có khác nhau.”

“Này người thiện nam! Đức Phật cũng không nói Phật và Phật tánh” cho đến “Thường hằng không thay đổi, không có khác nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích thứ hai, cũng không nói Phật tánh và Niết-bàn là một thể, chỉ nói vô dư “Không” Niết-bàn, tạo ra thường hằng không thay đổi.”

“Này người thiện nam! Phật cũng không nói thật tướng của Niếtbàn” cho đến “Thường không thay đổi, không có khác nhau.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thứ ba, là nói vào thời bấy giờ cũng không được nói thật tướng Niết-bàn là một thể, chỉ được nói vô dư “không”, tạo ra thường có thật, không thay đổi, không có khác nhau.”

“Này người thiện nam! Lúc bấy giờ, các đệ tử Thanh văn của ta” cho đến “Phật hẹn ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sở dĩ chỉ được nói vô dư “Không” tạo ra có thật là vì có đệ tử buông lung.”

“Này người thiện nam! Do Tỳ-kheo xấu ác như vậy” cho đến

“Nhưng thật ra Ta không rốt ráo nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba: Nghĩa Tam bảo khác nhau, nhưng nghĩa thường trụ, thanh tịnh thì không khác, nên nói một, không phải ba.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quở trách rộng về lỗi của đệ tử Thanh văn, khen hiểu được sáu hạnh. Nếu hội được cái học nghiêng lệch, người đã hội được Thánh, thì trong đây không nên nói “Người Thanh văn là quyến thuộc của ma, chẳng phải là đệ tử của Ta”.

“Này người thiện nam! Như người mù bẩm sinh không thấy mặt trời, mặt trăng” cho đến “Ba tháng sau, Ta sẽ nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì Thanh văn nêu thí dụ”.

“Này người thiện nam! Như lai xa thấy Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Ba tháng sau, Ta sẽ nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói thẳng là Như lai hiện ra hạnh trẻ thơ để dìu dắt, hóa độ kẻ ngu mê thấp hèn, nên phải nói thế.”

“Này người thiện nam!Vì sao, trước kia Ta” cho đến “Ma vương Ba-tuần, không nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ tư, nêu lên chỉ thú xưa, để thành câu hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu câu hỏi thứ nhất để đáp: “Trước kia, Ta đã nói chưa có đệ tử học rộng, là muốn vì năm Tỳ-kheo…, nên nói chưa nhập Niết-bàn, chứ chẳng phải chính là Niết-bàn chân thật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là ý đáp câu hỏi trước rằng: “Bấy giờ, Ta vì một người gieo trồng gốc lành phải thành thục, cho nên không nhập Niết-bàn.”

“Này người thiện nam! Niết-bàn Hữu danh” chẳng phải Đại Niếtbàn” cho đến “cũng được gọi là Đại Bát-niết-bàn”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, nói vì thấy Phật tánh, nên được gọi là thường, lạc. Nếu không thấy Phật tánh thì tập khí sẽ chưa hết, không được “Ngã” thường, chỉ khi khổ phần đoạn hết mới được gọi là lạc, tịnh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, nói Bồ-tát mới dứt khổ phần ít, nên chưa thể gọi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi về hữu dư thứ hai.

Giáo xưa chỉ cho phiền não không có nơi chốn, vì là hữu dư, không chỉ cho thân trí cùng tận. Ngày nay, y theo thân, tâm để lập, tùy theo người tu hành mà dứt nhân, diệt quả, nên gọi là Niết-bàn” “Hữu danh”.

“Này người thiện nam! Bát-niết, ý nói là không bát, ý nói dệt” cho đến “Nghĩa vô chướng ngại, gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích rộng về nghĩa không dệt…, vì thành lập nghĩa Niết-bàn chân thật.”

“Này người thiện nam! Có đệ tử của phái Ưu-lâu-ca, Ca-tỳ-la” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ bảy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nêu việc để chứng minh rồi. Giải thích lại danh nghĩa Niết-bàn “có” ở diệt. Dứt phiền não không gọi là Niết-bàn: Dứt phiền não là trí, phiền não bất sinh là diệt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã nói Bồ-tát chưa cùng cực, chỉ có Phật là cùng cực, tức câu hỏi thứ tư, là giải thích tự nhiên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là một ít phần không khổ trong nhân, chẳng phải tất cả khổ đều hết, cho nên không gọi là Đại Niếtbàn. Diệu thể của quả Phật, sinh tử đã dứt hết. Thể không có tai họa trói buộc, không còn sinh phiền não, đủ tất cả đức, mới gọi là Đại Niết-bàn. Không phải ngay phiền não này không có nơi chốn. Thế nên dùng năm pháp đồng thể để chứng minh rằng Niết-bàn nay khác với Niết-bàn xưa. Vì sao? Vì có năm tính chất:

  1. Nói Phật không còn khởi phiền não!
  2. Nói thể cùng cực như lý.
  3. Nói xem xét cảnh đã chu đáo.
  4. Nói ứng hiện khắp, không có ngăn ngại.
  5. Nói thể là thật tướng.

Đủ năm tính chất tốt này thì diệu hữu, thường còn, đâu không phải là Niết-bàn nay khác với Niết-bàn xưa ư?”

 

Phần 8

  • Giải thích rộng về tâm tính vốn tịnh, chẳng đi chung với tham.
  • Bốn câu giải thích nghĩa tham có khi tâm, cùng tham câu sinh, không cùng tham câu diệt.

“Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gồm có chín pháp Thanh văn cầu Phật theo thứ lớp: Bốn pháp đầu, trong nhân quả của phần đoạn, ba pháp, tu hành Đại thừa, hai pháp sau là việc thành Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về chín việc, đoạn văn sau sẽ tự giải thích theo thứ lớp. Năm ấm là quả, năm kiến là nhân. Vì nhân dứt, nên nói là ấm dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về tên gọi công đức là danh xưng khen ngợi, mà công đức thứ tám đã dùng chín nhóm pháp làm thể, chỗ thực hành của người mới học, nhờ vào con đường quan trọng của Niếtbàn. Chín nhóm Đại luận không ngoài hai ý: Đầu tiên có hai nhóm nói về sự xa lìa của Niết-bàn. sau pháp bảy nhóm là bàn về đối tượng chứng đắc, là sự xa lìa nghĩa là trừ năm ấm và năm kiến. Nếu thuật lại chỗ chứng đắc của Niết-bàn, thì có bảy nhóm. Trong bảy nhóm lại không ngoài tự tu hành, giáo hóa người, nên gìn giữ một việc. Và với bốn đẳng, vì lợi ích chung cho chúng sinh. Nhưng hai việc này, chủ yếu là ở bên cứu giúp rộng rãi, tốt đẹp nương vào sự nghiệp mở mang mà tạo nên địa vị. Năm nhóm sáu niệm khác…, đều y theo đức mình mà có tên gọi.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát dứt trừ năm việc” cho đến “Do nghĩa này nên dùng phương tiện để dứt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiểu thừa chán khổ, dứt bỏ năm ấm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã nương vào sáu hạnh, về lý do quên đi hoài bão, cũng không có thiện, nhưng vì không thọ lãnh nên đã trải qua nhiều kiếp làm tâm sư, chủ yếu là dựa vào lý giáo này mà được ra khỏi. Cho nên người mới học trước phải quán năm ấm làm gốc. Đã thấu rõ thân là giả dối thì phải tu thiện mà dứt, nên hôm nay, trước quán năm ấm làm đầu.

Thọ có một trăm lẻ tám: Đây là số của một phương thọ là ba thọ. Ba thọ có hai thứ: Tịnh thọ và bất tịnh thọ. Y theo “Tác vị” trong sáu căn đủ sáu, thì sáu nhân sáu bằng ba mươi sáu. Y theo phần dĩ vãng trong ba đời thì thành một trăm lẻ tám thọ.”

“Thế nào là Bồ-tát lìa bỏ năm việc” cho đến “Thế nên Bồ-tát thường ngăn giữ không gần gũi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn diệt năm ấm, thì trước phải dứt trừ năm kiến.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhóm thứ hai, nhóm là tánh chất tìm kiếm, phần vị nặng của chấp tà. Vì năm kiến này có thể sinh rộng thành sáu mươi hai kiến. Bồ-tát biết rõ năm kiến này là gốc của sinh tử, cho nên ngăn ngừa không cho khởi.”

“Thế nào là Bồ-tát thành tựu sáu việc” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sáu việc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đạo thấy do đạo, thứ lớp nói về đạo . Nghe nói tu định trong tử thi, thường sợ hãi, giúp họ tu sáu niệm, để dứt nỗi sợ hãi đó.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba niệm trước là niệm bên ngoài, kế giới, thí là công hạnh bên trong. Niệm thiên sau là quả vị lai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhóm thứ ba, từ khi Phật ra đời đã có sáu niệm này rồi (Phẩm Phạm Hạnh đã giải thích rộng).”

Thế nào là Bồ-tát tu tập năm việc” cho đến “Do đó, Bồ-tát siêng năng tu tập.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do niệm thành định. Đầu tiên là bốn thiền, một thiền sau là tuệ. Đủ bốn pháp này lìa khổ phần đoạn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đầu tiên biết định, nghĩa là thiền định. “Dùng âm thinh kích động, khởi tâm hay biết” kế là nói về các thiền.

Tịch định: Định Nhị thiền vững chắc, không bị giác quán làm rối loạn. Các thức diệt là “Tịch định”. Thân tâm vui sướng. Cái vui của ba thiền đã mãn. Không có vui: Bốn thiền trở lên, cho đến Phi tưởng không có tướng của bốn thọ. Nhờ bốn định này mà phát định Thủ lăng nghiêm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhóm thứ tư có năm việc.”

  1. Biết định, định Sơ thiền vẫn chưa khỏi giác quán, nên thọ biết tên.
  2. Tịch định: Nhị thiền, giác quán đã diệt, tâm lự chuyển sang tĩnh. Vì duyên bên ngoài khó xao động, nên gọi là tịch định.
  3. Định của thọ vui sướng: Nhị thiền cũng bị dòng chảy trôi nổi của hỷ. Chưa bằng sự vui mừng phấn khởi của ba thiền đã dứt, vì thân tâm thư thái, nên cảm nhận danh từ vui sướng.
  4. Định không có niềm vui: Bốn thiền diệt hết vui, không còn có niệm phân biệt, vì lấy Xả thọ làm thể, nên gọi là định không có vui. Nếu được bốn định này, quên tướng ở trong duyên, thì gọi là hai đế chân, tục. Trí tuệ giải cùng cực, gọi là Định Thủ lăng nghiêm.”
  5. “Thế nào là Bồ-tát gìn giữ một việc” cho đến “Thế nên Bồ-tát gìn giữ một pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bắt đầu phát tâm cầu Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhóm thứ năm, là tâm Bồ-đề. Bồ-đề gọi là đạo. Người tu hành này mới tập tâm: Một là xa cầu mong quả Phật; hai là vì cứu vớt chúng sinh kia. Nếu gìn giữ được thì tâm này sẽ khắc sâu Bồ-đề.”

“Thế nào là Bồ-tát gần gũi bốn việc” cho đến “Thế nên Bồ-tát buộc tâm gần gũi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nuôi lớn Bồ-đề, do bốn Vô lượng”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhóm thứ sáu. Ở trước dù đã giải thích về phát tâm, nhưng nếu không tạo nên công hạnh thì kết quả sẽ không do đâu có được. Nay nói về hóa độ người ngoài, vì khởi lên ba tâm bốn đẳng, nguyện cho người ấy và ta đều yên ổn, nếu tu tập lòng từ này, thì sẽ bước lên sơ địa. Dù có bốn tâm khác nhau, nhưng chung là một tâm

Từ. Chỉ từ người bắt đầu học, y theo giai cấp mà nói.”

“Thế nào là Bồ-tát tin thuận Nhất thật” cho đến “Thế nên Bồ-tát tin, thuận không trái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn đẳng thành tựu, được nhập Đại thừa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói:“Nhóm thứ bảy, thật nghĩa là hiểu vô tướng của Đại thừa. Bồ-tát đã biết chấp tướng là lỗi, bỏ tướng là đạo lý, nên quy về Nhất thật, không còn có đường nào khác.”

“Thế nào là Bồ-tát tâm khéo giải thoát” cho đến “Xưa không đến mà nay được đến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhập Đại thừa, nên sau đó, mới có đủ hai việc.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai nhóm thứ tám, thứ chín còn lại, chỉ về nghĩa được chia làm hai tâm, cho nên không tự tại. Do yêu đắm làm trở ngại. Nếu quán sát cảnh, với ý nghĩ sáng suốt, thì sẽ không có chướng ngại, nên hôm nay, phiền não đã hết, không có “Hoặc” nào để câu thúc, tác dụng của bóng tối đều được dứt trừ, gọi là tâm giải thoát. Nếu có lúc mê thì đối với cảnh, sẽ không sáng suốt. Nay, không có sự ngăn ngại nào để che lấp trí được, nên gọi là tuệ giải thoát. Tuy nhiên người mới học, phải từ cạn đến sâu, nên trước y theo ấm làm đầu để thành trí tuệ là cuối.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương” cho đến “Tâm giải thoát, nghĩa này không đúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ tám ở trước: “Tâm không nên giải thoát?” xét ra, đầu tiên, Bồ-tát Đức Vương lấy pháp thật làm câu hỏi. Lập nhiều ví dụ, nói tâm không có ràng buộc, giải thoát. Đại ý câu hỏi thứ hai: Tham cũng là “Có”, bởi tâm vốn có tánh tham, thì không thể được giải thoát. Câu hỏi thứ ba nói là chấp tướng, rồi sau mới sinh, là dùng chứng tham này chẳng những ở trong tâm, mà ngay ở cảnh cũng có tham. Vì trong tâm đã có tham, nên cảnh cũng có tham, vì thể tánh như thế, đâu thể thay đổi ư?”

Câu hỏi thứ tư, nói là không nhất định: Nếu đối với một duyên nhất định khởi tham thì nhất định dùng quán bất tịnh để dứt bỏ. Nay, đối với một cảnh, đôi khi khởi lòng tham, hoặc sinh sân si. Tâm cũng không nhất định, hoặc khởi tham, đôi lúc nổi sân, si. Đây là tâm và cảnh, cả hai đều không nhất định. Đã là không nhất định thì không thể dứt. Đã không thể dứt thì sẽ không có giải thoát”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đối với những người chưa thấu đạt, hễ gặp việc là thành chấp, bèn cho rằng,” tâm vốn không trói buộc, không nên gọi là giải thoát”. Cho nên, nay Bồ-tát Đức Vương mới nêu ra lối chấp tánh nhất định của bốn nhà, để xin Phật giải thích, nhằm chứng minh tà là sai, mà nói lên chánh là đúng”.

Nhà thứ nhất chấp: “Sáu thức đầu tiên tạo ra duyên, thích hợp với phần vị của tâm. Nhưng tác dụng của tham, sân chủ yếu là ở hành ấm. Lúc tâm thức trước kia đã chưa có tham, thì làm sao nói là “Trói buộc trở xuống? Bèn dẫn tám việc sau để chứng thành nghĩa tâm không trói buộc?”

Nhà thứ hai chấp rằng: “Tham cũng là hữu, nói về tham, sân cho đến giải thoát, đều có cùng một lúc. Về sự, như bó trúc, chỉ vì công dụng có trước sau, nên không đặt ra hai ví dụ sau để chứng minh.”

Nhà thứ ba chấp: “Từ “Ví dụ như cọ lửa trở xuống, là nói trong các duyên, mỗi duyên đều có một ít tham, chẳng hạn như năm duyên sinh tác dụng của nhãn thức. Trong mỗi duyên đều có tánh thức, phải nhóm họp sinh chung tham”.

Nhà thứ tư chấp: “Tâm cũng không nhất định tham làm tự tánh cho giải thoát, đều không từ nhân duyên”.

“Vì sao tâm, vốn không trói buộc?” cho đến “Làm sao trói buộc được tâm? “

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói về công hạnh của hai giải thoát, được nghĩa” Không” của Trung đạo. Sắp nói Trung đạo, trước là nói không nhóm họp ở giữa, có ba: Trước, nói trong nhân không có quả, nghĩa là tâm vốn không bị trói buộc, như nhãn thức tiếp nhận sắc, chưa có phiền não, nên không bị phiền não trói buộc”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tham và tâm tịnh, một khởi, một diệt, không hề gặp nhau, cái gọi là “Các pháp không đối đãi nhau” cho đến một niệm không dừng”

“Như người vắt sừng vốn không có sữa cho đến” làm sao kiết tham mà trói buộc được tâm”?

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc tâm không tham, thì chẳng phải là nhân của tham. Nhân còn bất sinh, thì nhân nào mà trói buộc tâm?”

“Bạch Đức Thế tôn! Ví như ép cát thì không thể được dầu cho đến làm vì sao nói tâm được giải thoát. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tâm và tham là cấu, tịnh uế không đi chung, làm sao có thể tâm ô nhiễm, giả thiết tâm về sau khởi, tâm trước đã thuộc quá khứ. Một hữu, một vô, thì đâu thể ô nhiễm tâm?”

“Bạch Đức Thế tôn! Tham cũng là có, nếu tham không có” cho đến “Nếu tâm có tham thì làm sao thấy tướng mạo?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ hai, ví như có người nhìn thấy bức họa cô gái: Đây là giải thích về ngăn ngừa, chế phục. Người khác nói chung, gặp phải duyên nổi lòng tham, tham này do cảnh, đâu phải ở tâm? Nếu nói là chung, thì ở đây sao lại dùng dụ cho ngăn ngừa? Như sau khi nhìn thấy bức họa cô gái rồi mới nổi lòng tham, thì bức họa này đâu là tham ư? Phải biết là do tâm.”

“Nhưng về sau mới sinh, không thấy tướng mạo” cho đến “Chư Phật, Bồ-tát mà bất sinh tâm ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai nói: Vốn có tham, vì tham là tánh (bản chất) cũng không có giải thoát? Ở đây nói không riêng gì tâm có, mà trong duyên cũng có.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ ba. Nếu trong cảnh có tham mà tâm lại có tánh tham nữa, cả hai chỗ giúp nhau, thì tánh tham nọ càng nặng, nên đọa vào đường ác.”

“Bạch Đức Thế tôn! Tâm cũng không nhất định, nếu tâm nhất định” cho đến “Tu Đại Niết-bàn tâm được giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba là môn bất định, nói tâm nhất định thì sẽ không tham, không nhất định thì không có tâm,

đều không có giải thoát. Dưới đây so sánh giống như.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ tư.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba câu hỏi trên, tìm tướng nhất định của pháp. Tìm cầu nhất định đều không có điều lành, điều đó dễ hiểu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ nhất: “Cũng không bị ràng buộc bởi tham. Pháp thật thì không có sự trói buộc cũng chẳng phải không trói buộc, đạo giả danh có ràng buộc. Giải thoát mà chẳng giải thoát cũng giống như vậy, chẳng phải có, chẳng phải không. Thật pháp đương phần tự diệt nên lúc chẳng có dời đổi thì không diệt, vì tướng của pháp thật nối nhau, mà nói chẳng phải không có, pháp chung nhất. Chẳng phải quá khứ, là không phải có ràng buộc riêng, giải thoát ở quá khứ, cho đến thấy chế phục, vị lai cũng vậy. Nói là giả danh nối nhau. Trải qua dời đổi ba đời, được nói là trước kia ràng buộc, nay giải thoát. Chính vì như chỉ thú của giả, thật, thì câu hỏi ban đầu đã được giải thích.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sẽ nói là chẳng phải đối tượng chấp kia, nên trước giải thích sơ lược ý nghĩa thích đáng, sau phá bỏ tâm chấp kia, cũng không bị kiết tham trói buộc. Nghĩa là vì tâm thức chưa khởi tham, nên nói là không trói buộc, cũng chẳng phải không trói buộc: Lời này có hai thứ:

  1. Nói về trói buộc trong duyên thật.
  2. Nói về trói buộc trong giả danh nối nhau.

Như trước khởi niệm tham, tự chưa có cách đối trị để đổi mới, được nói tâm thường bị ràng buộc. Đây là sự trói buộc của duyên thật. Nếu sau tác dụng của ngữ đạo nối nhau, sẽ trói buộc trước là hành động, rồi tâm mới khởi tham, phải là tâm sau khởi tham, nhiễm trói buộc ở trước, cũng chẳng phải không trói buộc.

Chẳng phải giải thoát, nghĩa là khi tâm đạo khởi, vì không có “Hoặc” để dứt, nên chẳng phải giải thoát. Trước kia si mê mà nay hiểu rõ cũng chẳng phải không giải thoát. Nếu nhân duyên chưa hội ngộ, nên nói chẳng phải có. Duyên hội hợp thì khởi, nên nói “Chẳng phải không”.

Chẳng phải ba đời: Nói trong ba đời, đương thể liền diệt. Quá khứ đã không có, vị lai thì chưa khởi, hiện tại không dừng, làm sao có tham. Vì sao? Vì pháp vô tự tánh.”

“Này người thiện nam! Có các nhà ngoại đạo nói thế này” cho đến “Sắc có nghĩa mê đắm, tâm có tánh tham.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế chẳng phải là tà chấp của ngoại đạo. Trước nhà thứ ba là bắt đầu, đến nhà thứ nhất. Sau đó chẳng phải nhà thứ tư. Chẳng phải nhà thứ ba nói: “Ngoại đạo không hiểu biết nói rằng: “Trong các duyên, mỗi duyên đều có tánh tham, ở đây đều là tà chấp.”

Họ lại cho rằng: “Tâm phàm phu có tánh tham” cho đến “Các thuyết trên đây đều không đúng nghĩa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trở thành kiến chấp nghiêng lệch kia, chẳng phải là lỗi của thuyết đã nói là hữu trước đây. Đều không có quả, là thành lỗi của thuyết nói vô.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa đúng đã nói rằng, các pháp không nhất định: Duyên hội tụ thì “Có”, duyên ly tán thì “Không”. Vì không nhất định, nên hai câu hỏi của Bồ-tát tự mất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là, chẳng phải nhà chấp thứ hai.”

“Có các phàm phu lại cho rằng” cho đến “Vì nhân thô vô thường, nên quả cũng vô thường.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chẳng phải là nhà chấp thứ nhất, nghĩa là rộng tế là thường, vì thô nên vô thường, như thức tâm không có tham, nhà chấp thứ tư mới có tham.”

“Này người thiện nam! Có các phàm phu lại cho rằng” cho đến “Luân hồi trong sáu đường, chịu đủ các sinh tử.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chẳng phải nhà chấp thứ tư vì pháp hữu vi sinh, diệt đều từ duyên khởi, nên chẳng phải tự nhiên.”

“Ví như con chó bị xiềng, suốt ngày đi quanh cột” cho đến “Từ cõi Phi tưởng lui sụt, trở lại ba đường ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tế là thường, thô là vô thường. Vi trần hợp thì thành duyên, tan thì trở về gốc. Trần thường là “Duyên” vô thường thì trần không có duyên. Không thể biết nhân duyên của tâm, nghĩa là chấp đắm nhân quả hữu, vô thì sẽ không biết được nhân duyên của tâm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dùng sáu ví dụ để quở chung các chấp của ngoại đạo.”

“Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát không hề nói nhất định rằng” cho đến “chẳng phải có quả, chẳng phải không có quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói hữu, vô là nghiêng lệch. Vì muốn nói bốn chấp đều không hội nhập Trung đạo, đáp câu hỏi không nhất định thứ ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ tư là hữu, vô không thể nói nhất định, hữu là vì các duyên nên sinh. Một cảnh khởi ba, cho đến vô lượng, cũng đâu có gì nghi ngờ, chỉ làm cho thức “Duyên” với

“Giải”, “Hoặc” mà thôi!.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây bỏ cách hiểu về nghĩa chánh, vì sắp nói Trung đạo, nên trước nêu ra pháp tà. Nếu phải quyết định tạo ra bốn trường hợp này: Chấp trong nhân có quả, trong nhân không có quả, vừa có vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không, đều không khỏi sinh tử, thuộc về ma nói. Nếu từ chấp nhận xứng đáng, thích hợp với đường lối trung dung, không trái với chánh lý, tâm không chấp thì đó gọi là Trung đạo. Chư Phật, Bồ-tát dù nói các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng cũng không quyết định có. Nếu “Có” này được quyết định nói là “Có”, thì “Không có” cũng “Không”, “Không” có thể “Không”, thì thế nào là quyết định? Như năm duyên sinh ra nhãn thức, nếu thiếu một duyên, thì thức bất sinh. Nhưng thức này cũng không nhất định, lệ thuộc vào một duyên nào, lại không phải trung gian đủ duyên là sinh, chẳng phải có chẳng phải không, do từ nhân duyên khởi, nên gọi là “Có”. Vì thể của chúng chẳng có tự tánh, nên gọi là “Không”. Nếu tạo ra thuyết như thế, thì thể muôn pháp là không luống dối, lìa “Có” lìa “Không”, đó gọi là nghĩa chính.”

“Nếu nói trong nhân, trước nhất định có quả” cho đến “Không biết tướng tâm, kể cả tướng mạo của tham.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lý do không nói là vì thấy lỗi của người nói.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã nói sơ lược về pháp nhân duyên chẳng nhất định “Có”, nhất định “Không”. Sau đây sẽ phát ra thể “Hoặc” để đối trị. Từ duyên khởi cho là chẳng phải vô. Vì tham không có tự tánh, cho nên “Chẳng phải có”. Giải thoát và tham đều không có tự tánh.”

“Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát chỉ rõ Trung đạo” cho đến “Chẳng phải có, chẳng phải không”, mà không quyết định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chẳng phải không, chẳng nghiêng lệch nên gọi là Trung. Dù rằng trung, gọi là đồng, nhưng vì khác với nghĩa trung, nên nói là không nhất định.”

“Vì sao? Vì nhân mắt, nhân sắc, nhân ánh sáng, nhân tâm, nhân niệm thức nên được sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thức đối với bốn nhân, chẳng phải là không.”

“Thức này quyết định không ở trong mắt, trong ánh sáng, trong tâm, trong niệm, cũng không phải ở giữa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thức tánh là một, vì tìm kiếm năm chỗ không thật, nên chẳng phải có.”

“Chẳng phải có, chẳng phải không, vì từ duyên sinh” cho đến “Nói rằng: “Các pháp chẳng phải có, chẳng phải không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi tên, giải thích nghĩa. Tâm ở trong nhân, chẳng phải có, chẳng phải không, là Trung đạo của thế tục, tức là nói tâm tánh từ nhân sinh nên “Có”, vì chúng không có tự tánh nên “Không”, là Trung đạo chân tục. Nếu nói theo gốc “Không” thì cái “Có” này cũng “Không”, cái “Không ” này cũng “Không”, là Trung đạo chân đế.”

“Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát cuối cùng không có thuyết nhất định” cho đến “Vốn không có tánh tham, nên nói “Chẳng phải có”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói Trung đạo mới được chính nói về tâm tánh không nhất định.”

“Này người thiện nam! Vì từ nhân duyên nên tâm sinh ra tham” cho đến “Hai là theo Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm đã không nhất định, thì sự ràng buộc, giải thích đều từ duyên sinh”. Này người thiện nam! Vì có nhân duyên nên tâm sanh chung với tham, cho đến “Bất sinh chung với tham, không diệt chung với tham.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mở ra thành bốn trường hợp, nói về lý Đại thừa, suốt qua tất cả tâm:

1. Trường hợp thứ nhất: “Tâm sinh chung với tham, diệt chung với tham: Đây là nói không được chấp hạn cuộc. Nếu nói theo văn, thì giống như người tu hành khởi tham. Trải qua ba tướng dứt, lúc tướng sinh kia có trụ, diệt. Đã không có nghĩa “E” thì sẽ không đúng, nên có một nhà giải thích rằng:

“Nhỏ lại lấy lớn: Nếu người tu hành sinh ra một ý nghĩ tham thì về sau, đừng nói về tánh tham đó diệt, được nói là thường si mê. Vì sao?

Vì đã sử dụng pháp tánh làm thần giải, đứng đầu sinh tử. Tục đế sử dụng một bên, tự sẽ có ba tướng. Y theo chân đế, đã lấy nghĩa si mê thường ở đây. Đã trái với dụng chân, nếu không có “Giải” để xóa bỏ thì đâu thể được không có. Nên đoạn văn sau đây nói: “Phiền não cũng thường, vì phiền não đoạn thường nên gọi là vô thường. Sở dĩ bốn thời kinh giáo chưa phát ra diệu thể của thần minh, chỉ y theo sinh tử để giải thích, chỉ nói khởi một niệm “Hoặc” (mê lầm), thí cả ba tướng đều tan diệt ngay, nên kế là thành tựu, cũng không nói bị lệ thuộc, mà chủ trương rằng: “Thành tựu này, chính là ý ở bên chân. Giáo hiện nay mới được biểu hiện ý này, nên nói rằng: “Phiền não thường”. Được biết sau khi khởi tham, từ trước đến nay đã được đạo đối trị, lúc tướng sinh ở đời vị lai cũng si, khi trụ diệt cũng si, nên nói “Sinh chung với tham, sinh chung với tham nhưng diệt.”

2. Trường hợp thứ hai có sinh chung với tham, không diệt chung với tham: Nếu khởi “Hoặc” về sau, khi chưa được đạo đối trị, thường xuyên sinh chung với tham. Nay nói từ quán bốn niệm xứ trở đi, đến được vô lậu, không bao giờ đi chung với tham nữa., thành ra “Giải” sau hiện ở trước, vì không còn si mê ở trước, nên không diệt chung với tham, cũng không nói là pháp sinh, diệt của ba tướng.”

3. Trường hợp thứ ba: Có khi bất sinh chung với tham, diệt chung với tham, nghĩa là nếu Bồ-tát đã có kiến giải chân thật thì sẽ không tham nữa, mà vẫn thị hiện có tham để dẫn dắt chúng sinh, hoặc vì giúp cho đạo tâm được sớm hoàn thành, thì đây gọi là bất sinh chung với tham, diệt chung với tham.

4. Trường hợp thứ tư: “Bất sinh chung với tham, không diệt chung với tham”, nghĩa là Chư Phật, Bồ-tát ở địa vị bất động, từ bậc La-hán, Bích-chi, đều được chánh quán hiện ở trước, đều không còn đi chung với tham!”

“Thế nào là tâm sinh chung với tham, diệt chung với tham” cho đến “Tâm sinh chung với tham nhưng không diệt chung với tham?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh chung, diệt chung là từ chết, sinh chung không diệt chung là từ hai pháp sinh tử và Niết-bàn.”

“Thế nào là bất sinh chung với tham, nhưng diệt chung với tham?” cho đến “Tâm tánh vốn tịnh, tánh vốn bất tịnh?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai trường hợp chỉ có Niết-bàn, trừ địa Bất động: Địa vị Bất Động đầu tiên có sinh chung với tham, mà không diệt chung với tham cho nên dứt trừ.”

“Này người thiện nam! Tâm này không hòa hợp với kiết tham, cũng không hòa hợp với sân, si.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đây, nói “Sinh chung”, có người cho rằng: Tâm tham hòa hợp cùng lúc” nay nói là không đúng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quyết định phần vị của tâm: Nếu tâm ở chỗ này mà tham lại ở chỗ khác, thì sẽ làm cho cả hai hợp chung. Về lý đã không đúng thì làm sao hòa hợp được? Cũng chẳng phải không hòa hợp, gặp cảnh liền khởi, nhưng không có pháp hòa hợp riêng để được. Nếu tâm tịnh vận hành duyên thì gọi là thiện, ngược lại, tâm bất tịnh vận hành cảnh, thì gọi là ác. Cho nên Chư Phật, Bồ-tát đã đập tan hết tham dục, vì không còn bị “Hoặc” che lấp nữa, nên tâm được giải thoát, phàm phu còn đầy dẫy kiết tham dục, nên thường bị phiền não ràng buộc và thường xuyên bị giam hãm mình ở trong đó!”

“Này người thiện nam! Thí như mặt trời, mặt trăng dù bị khói bụi, mây mù” cho đến “Vì từ nhân duyên nên tâm được giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Con người cho rằng: “Vì không phải cùng lúc, nên tham không thể che lấp tâm. Đức Phật dùng khói, mây làm thí dụ, dù ở xa mà vẫn che chướng được.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Các ví dụ dưới đây nói ngoại đạo, phàm phu và ma vương, đều ưa thích năm dục sinh tử, không lúc nào ra khỏi.

Sau đây, tự có hợp dụ.”

Này người thiện nam! Thí như chỗ cao chót vót của núi Tuyết” cho đến “Con người lập thế bắt khỉ vượn cõng họ về nhà.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Núi Tuyết: Với ràng buộc giải thoát làm thí dụ. Người, khỉ đều không thể trèo lên, dụ cho giải thoát. Con người không thể đi, dụ cho lúc đầu bị ràng buộc, về sau được giải thoát. cả hai người và khỉ đều có thể đi, dụ cho “Câu sinh”, “Câu diệt” ở trong sinh tử.”

Này người thiện nam! “Ví như vị vua ở trong nước mình” cho đến “Lệ thuộc vào ma thì tâm không thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ chung không từ lý là ràng buộc, từ lý là giải thoát, đại khái nói về sự ràng buộc, giải thoát.”

Lại nữa! “Này người thiện nam! Nếu thấy các pháp” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ tám.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng tỏ sự mê lầm của việc thấy pháp là không từ lý. Nói kiến có ba: Đầu tiên là kiến đoạn, thường rộng. Giữa chỉ nói “Có”, về sau nói ngã kiến là gốc.”

 

Phần 9

  • Nói về Tín.
  • Nói về tâm ngay thẳng.
  • Nói về giới.
  • Nói về bạn lành.
  • Nói về học rộng.
  • Nói về nghĩa Xiển-đề có Phật tánh.
  • Giải thích danh từ Xiển-đề.
  • Giải thích: Bồ-tát Cửu địa thấy pháp có tánh, cho nên không thấy Phật tánh.
  • Nói Phật pháp có hai thuyết: Một là có tánh; hai là vô tánh. Vì chúng sinh nên nói là pháp tánh. Vì các Hiền, Thánh nên nói là không có pháp tánh.
  • Nói Bồ-tát không có chấp, tức tất cả pháp.
  • Nói về Đại Niết-bàn là “Không”.
  • Nêu ra việc Tôn giả A-nan chẳng thấy “Không”.
  • Nói tướng của Tín, Bất tín.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Bốn là gần gũi bạn lành, năm là học rộng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ chín là công đức của hạnh bệnh. Thuyết hạnh bệnh đứng đầu năm hạnh. Vì Tín là hạnh đứng đầu, nên nói trước. Ngay thẳng: Tin điều ác thì không làm, tin điều thiện thì siêng thực hành, nên kế là nói tâm ngay thẳng. Việc xấu ác của thân, miệng vì cần có giới nên kế là nói giới. Thực hành điều lành vì cần có thầy nên kế là nói bạn lành. Vì gần gũi bạn lành để được nghe pháp nên kế là nói về học rộng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã nói rộng chung ba hạnh trước, tùy nói về giới định có chỗ giống nhau, tức nói rộng lẫn lộn về nghĩa trên.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lấy pháp này làm thể, từ lòng tin là bước đầu, cho đến học rộng.”

“Thế nào là Đại Bồ-tát tin” cho đến “Tu Đại Niết-bàn, thành tựu việc ban đầu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tin Tam bảo, biết chỗ quy y. Nhưng quy y, thì phải thực hành, lấy thí làm công hạnh đầu, kế là nói bố thí. Hạnh tức là thừa, thừa có giả thật, nên kế là nói hai đế. Do nhất thừa là thứ nhất, Nhị thừa là thế đế. Sau đây, giải thích rằng: “Mau được giải thoát: Người Tiểu thừa là chậm, nay nói là mau. Đối với Tiểu thừa là nhanh, nếu không nói tiểu thì mãi mãi ở trong sinh tử, vì nói là lìa, nên gọi là nhanh. Tánh của bậc Thánh là đức tin không hư hoại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tín có ba phẩm. Từ ngoại đạo, phàm phu, đến người trong văn tuệ, đều gọi chung là Tín, Tín có muôn cấp bậc, vì chủ yếu là ở phần vị không nhất định, nên gom thành phẩm hạ. Nếu tín đứng đầu năm căn đã lập, đến pháp Thế bậc nhất, thì gọi là Tín phẩm trung. Từ được “Giải” vô sinh chân thật trở đi, cho đến Cửu địa gọi chung là Tín phẩm thượng. Nhưng trong phẩm này nói rằng Tín ở phẩm trung. Vì sao? Vì nhờ tín này mà lập, nhờ tín này mà nhập “Không”, lên đạo kiến đế. Từ đây về trước, tín của phẩm hạ chẳng phải không nhờ từ xa, chỉ vì chưa phải là phần vị vững chắc, vì chưa nhất định, nên không ghi chép. Nếu vì đường xa mà nối nhau, thì về mặt lý, nên quên lời nói, nhưng vào biển Phật pháp, phải lấy đức tin làm đầu. Tâm này cũng lập của báu trong Phật pháp, tự nhiên kế là sinh, cho nên hôm nay, trước là nêu quy y Tam bảo là bước đầu, nói lên niềm tin, bắt đầu được thiết lập. Dù rằng tin có Tam bảo, nhưng nếu không tin thực hành nhân sáu Độ thì công hạnh sáu Độ cũng không thành. Cho nên văn kinh nêu rộng việc kính tin. Nhưng trong đây nêu cảnh của tín ngoài hai thứ: Bậc nhất nghĩa đế, trước là tin hai đế: Tin sinh tử là luống dối mà có, tức thể của nó không có tánh. Đây là theo Đại phẩm về sau, triển khai “Không” có hai môn. Về sau lại hợp với Tín. Bậc nhất nghĩa đế, nghĩa là vì tin vào bậc nhất chân như, diệu thể thần minh, nên biết được chân mà giáo nay nói chẳng phải tánh “Không” của giáo ngày xưa. Hễ lập được tín này, thì nhận thức được sinh tử luống dối. Dựa vào Như Lai tạng, có tu đạo dứt si mê, trừ nhân, diệt quả, phát ra rõ ràng Niết-bàn của pháp tánh.”

“Thế nào là? Đại Bồ-tát có Trực tâm” cho đến “Nếu sinh phiền não thì sẽ đọa vào đường ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước y theo phương tiện hóa độ chúng sinh để nói về trực tâm. Sau y theo sự để nói rằng chỉ làm cho lý quan hệ, bất luận tà chánh đều gọi là “Trực”.”

“Bồ-tát như thế, nếu thấy chúng sinh” cho đến “Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không bao giờ nói: Nói điều ác thêm hai tội, khen việc lành, sẽ thêm lớn hai phước. Thế nào là việc lành? Cái gọi là Phật tánh, nghĩa là một ít trong việc lành, chỉ là xiển-đề.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nghĩa là tánh của chánh nhân, chỉ cho tánh này là chân thiện, chẳng phải cái sinh trong duyên, nghĩa là nếu nêu công dụng để nói, thì tánh này có công năng được quả lành, cũng gọi là Thiện. Vì chúng sinh mà nói rằng: “Trong thân có Phật tánh, làm cho tâm vui mừng, phát tâm hành đạo.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu” cho đến “Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý hỏi rằng: “Nếu xiển-đề nghe khen Phật tánh mà phát tâm nhanh chóng thì nghĩa bất trị ở trên đã nói là sai? Vì nêu điểm bắt đầu của năm hạnh trên, đoạn văn đã nói xiểnđề là người không thể chữa trị, đây là câu hỏi thứ nhất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ nhất có ba hạng người bệnh: là hỏi về trực tâm, nói là không nên khen Phật tánh, vì phát tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì ở trên nói ba hạng người bệnh có thể tự nhiên lành bệnh, không cần khen Phật tánh, cũng thừa biết người bệnh kia sẽ phải chết, nên dù có khen, cũng có ích lợi gì? Dù dẫn chứng ba người bệnh, nhưng ngụ ý muốn dùng hai người để hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Đức Vương vẫn đặt ra năm câu hỏi. Cho nên chương kiến lập nói rằng: “Đầu tiên phát ra năm việc đều được thành tựu, vì nếu năm việc này thành, thì sẽ trừ được bệnh, còn nếu không thành, thì không thể trị bệnh. Nay lại nói ba hạng người bệnh, nên biết hạnh bệnh là rộng lớn: Câu hỏi thứ nhất rằng: “Như Lai ở trên đã nói ba hạng người bệnh, người thư ba nghe pháp, không nghe pháp, tự nhiên được thành Phật. Nay, sao lại nói khen ngợi Phật tánh, làm cho chúng sinh mới phát tâm ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu gặp bạn lành, Chư Phật” cho đến “Chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ hai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ hai: “Không thể phát tâm, cũng lại không đúng. Nếu nói có tánh thì tất nhiên sẽ thành Phật?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai: “Người thứ nhất, nếu nghe pháp hoặc không nghe pháp đều không thể phát tâm thì cũng không đúng, vì người này có Phật tánh. Phật tánh là thiện, tự họ có thể hướng về Phật. Vì sao Phật nói đều không thể phát tâm ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Như Phật vừa nói, thế nào gọi là” cho đến

“Sao Phật lại nói là dứt các gốc lành?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ ba nói: “Không thể chữa trị. Nếu gặp hay không gặp bạn lành, đều không thể chữa trị, vì làm ác không ai hơn xiển-đề?”. Người này đã có Phật tánh, Phật tánh này không thể dứt. Phải biết rằng lời nói dứt điều lành chưa phải là lý thật. Như thuở xưa, Đức Phật nói mười hai bộ kinh khéo có hai thứ, đây là lời nói của con nhà thứ ba: “Đã không dứt Phật tánh, tức là tánh ở trong thân. Đã ở trong thân thì lẽ ra phải ngăn dứt được địa ngục? Đây là y theo tác dụng của Kiến để thưa hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba: Lẽ ra “Không được gọi là xiển-đề?” y theo câu hỏi này, mở ra thành hai trường hợp: Nếu xiểnđề có Phật tánh, Phật tánh là thiện, vì sao lại nói là dứt các gốc lành, gọi Nhất-xiển-đề ư?” trường hợp sau nói: “Như Phật xưa nói mười hai bộ kinh, nói điều thiện có hai thứ: Một là thường; hai là vô thường. Đại ý câu hỏi: Dùng tánh thiện của chánh nhân làm thường, “Duyên” nhân thiện làm vô thường. Nếu trong duyên này sinh ra điều thiện, thì sẽ luống dối không có sức mạnh không thể ngăn dứt được địa ngục? Tánh của chánh nhân là thường, lực dụng lẽ ra mạnh mẽ, vì sao không ngăn dứt Nhất-xiển-đề không vào địa ngục ư?”

“Như thuở xưa, Phật nói mười hai bộ kinh” cho đến “Vì sao Đức Phật lại nói là Nhất-xiển-đề?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ tư.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu nhờ Phật tánh mà phát tâm Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác” cho đến “Tam-bồ-đề thì không có việc ấy!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ năm, nói: Nhờ Phật tánh mà tự nhiên thành Phật, thì không cần nói rộng mười hai bộ kinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ tư nói: Nếu nhờ Phật tánh, mà phát tâm vô thượng đạo?” Dưới đây là nói về sức mạnh của Phật tánh, lẽ ra tự nhiên thành Phật, đâu cần phải nói rộng mười hai bộ kinh? Khen ngợi người tu hành, sau đây sẽ dẫn hai ví dụ để giúp thành câu hỏi, dụ cho năng lực của chánh nhân, lẽ ra tự đến địa vị Phật.”

Bạch Đức Thế tôn! Chư Phật, Như Lai nói tánh nhân quả” cho đến “Nghĩa như thế làm sao tương ưng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ sáu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm vì chấp trong nhân đã có Phật tánh, nên được thành Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ năm: “Nói tánh nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không, cũng lại không đúng. Nếu trong nhân không có quả thì làm sao sinh ra cây Bồ-đề Phật được? Chính vì có quả nên sẽ sinh.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn khen rằng: “Lành thay!” cho đến “Có thể xô ngã ngọn cờ mà vua Ba-tuần đã dựng lên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ đáp câu hỏi, cho nên Đức Phật khen trước.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong phần đáp, trước đáp câu hỏi thứ hai, kế là, đáp câu hỏi thứ ba, rồi đáp câu hỏi của con nhà thứ ba. Nhân đáp câu hỏi của người con, thế nghĩa giống như đáp câu hỏi thứ nhất, thứ tư, rồi đáp riêng câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Muốn đáp câu hỏi thì Đức Phật khen ngợi trước. Nói Bồ-tát đã nêu câu hỏi đúng lúc, hai thầy trò khen ngợi lẫn nhau.”

“Này người thiện nam! Như trên ta đã nói ba hạng người bệnh” cho đến “Nếu không gặp thầy thuốc, thì bệnh không lành.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích người Nhị thừa. Vì sao? Vì người này có chín nhân duyên không thể bỏ, nếu không có chín việc này thì bỏ. Chín việc đó là:

1. Biết ăn không được mà lại ăn.

Người Nhị thừa tự biết đã đắc quả, không như đối với người khác mà gượng chấp là đúng.

2. Ăn nhiều: Người Nhị thừa tâm cầu quả tha thiết nên không thể xa cầu quả Phật.

3. Thức ăn cách đêm chưa tiêu hóa mà lại ăn: Bốn đảo trong hữu lậu, chỉ hàng phục mà chưa đứt, nay lại khởi bốn đảo đối với Phật.

4. Đại tiện, tiểu tiện không đúng giờ giấc: Tâm chấp tướng bền chắc, dứt kiết không đúng lý.

5. Lúc bệnh, không nghe theo lời chỉ dẫn của thầy thuốc, không thực hành đúng theo lời giáo hóa của Bồ-tát Đại thừa.

6. Không vâng theo lời dạy bảo của người săn sóc bệnh, không nghe lời thiện tri thức.

7. Gượng gạo chịu đựng, không thổ lộ ra: Chấp chặt quả Nhị thừa là đúng, không bỏ Tiểu để theo Đại.

8. Đi đêm là: Nặng về Tâm vô minh.

9. Lỗi của phòng, thất: Muốn mau diệt được thân này, để tìm niềm vui vô dư.

Chính là có chín bệnh. Nếu nghe pháp liền hồi tâm, nếu không hồi tâm thì khó có thể khai mở, hóa độ.

“Này người thiện nam! Như ta đã nói trên, nếu gặp hay không gặp cho đến” nếu không gặp thì sẽ không thể phát”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi đầu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nêu ba hạng người bệnh, chưa phải là lời đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước là giải thích về người thứ ba quyết định bỏ. Người này đã gieo trồng nhân từ lâu, tự do hướng về Phật, không cần nghe pháp.”

“Như trên ta đã nói, nếu gặp bạn lành, Chư Phật, Bồ-tát” cho đến “Vì sao? Vì mạng đã cùng tận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ hai rằng: “Đã gặp và không gặp, đều không thể phát, người này sẽ được Bồ-đề?” Nay đáp khi xiển-đề dứt mất gốc lành và về sau khi sinh điều lành thì không còn là xiển-đề. Người này gặp và không gặp, đều không lìa tâm xiển-đề.

Cho nên nói không thể chữa trị, không nói là dứt đương tánh”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ hai: “Nếu Xiểnđề có Phật tánh, quyết định không bỏ, thì điều này cũng không đúng?”

Phật đáp ý rằng: “Ta nói không thể bỏ, là nói khi còn tâm xiển-đề, chứ không phải nói sau khi xả bỏ tâm xiển-đề, cũng không thể bỏ, vì khi họ chưa bỏ giai vị xiển-đề, thì cho dù có Phật tánh, vẫn chẳng phải thiện. Nếu khi đã bỏ tâm này, thì không còn là Nhất xiển-đề, sao lại không thể bỏ ư?”

“Này người thiện nam! Nhất-xiển là tín, đề là bất cụ” cho đến “pháp lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ ba, hỏi rằng: “Không dứt Phật tánh, sao lại nói là dứt gốc lành?” Nay đáp: “Nhấtxiển là tín, đề là bất cụ (không có). Vì không có lòng tín, nên gọi Nhấtxiển-đề, há gọi Phật tánh không thầy là xiển-đề ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi thứ ba, hỏi rằng: “Xiển-đề có Phật tánh, sao gọi là dứt gốc lành?” nay, Phật đáp: “Vì không có lòng tin, nên gọi là Nhất-xiển-đề.”

Nói không tin Phật tánh thì việc thiện cũng không từ đâu sinh, năm ấm của chúng sinh, là phát tín tâm. Chánh nhân Phật tánh đã không phải là điều lành, lại không từ năm ấm sinh, thì làm sao dứt được. Nếu chánh nhân Phật tánh từ năm ấm sinh, thì năm ấm của chúng sinh phát Phật tánh, kinh cũng không nên nói là không tin Phật tánh, chúng sinh chẳng có đủ. Do nghĩa này suy ra, phải biết rằng, năm ấm của chúng sinh dựa vào tánh của chánh nhân mà có, chứ chẳng phải tánh của chánh nhân. Dựa vào năm ấm mà có, nhưng trong đây tìm tòi, xem xét, với kinh Thắng Man nói về một thứ nghĩa sinh tử, dựa vào Như Lai tạng mà có, chứ chẳng phải Như Lai tạng. Vì dựa vào sinh tử nên biết được nghĩa văn vi chứng lý rõ ràng. Sau đây, sẽ bỏ các cú nghĩa, so sánh cũng như vậy. Nhưng Phật tánh chẳng phải là điều lành do duyên sinh ra. Lại, chẳng phải bất thiện. Vì sao? Vì tánh của chánh nhân đã không từ phương tiện mà được thì làm sao dứt bỏ được? Nhưng có thể được quả lành, lại chẳng phải bất thiện. Xiển-đề từ đoạn duyên sinh ra, nên được gọi là Nhất-xiển-đề”.

“Này người thiện nam! Như ông vừa nói” cho đến “Chính vì đọa vào ba đường nên gọi là Nhất-xiển-đề”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi năm”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ ba. Vì sẽ có nên nói “Có”. Đã chẳng phải có, thì làm sao trách cứ, ngăn chặn việc đọa vào địa ngục ư? Ví như nhà vua nghe tiếng đàn, điều này trở thành đáp câu hỏi ở trước rằng: Muốn nghe tiếng đàn đó, phải có phương tiện, không thể được dễ dàng Phật tánh cũng như thế, phải nhờ phương pháp. Do đó, vẫn đáp câu hỏi thứ nhất, thứ tư. Câu hỏi thứ tư rằng: “Nếu có Phật tánh, thì về lý, rõ ràng tự thành, đâu cần phải nói mười hai bộ kinh?” Nay, Đức Phật đáp: “Dù có tánh nhưng cần phải nói, cũng như âm thanh của cây đàn”. Câu hỏi thứ nhất rằng:

“Nếu mắc bệnh không lành thì không cần chữa trị?”

“Nay, Phật đáp: “Dù bệnh không thể lành, nhưng không dứt mất Phật tánh, nếu nghe nói mười hai bộ kinh, thì sẽ được lợi ích của duyên bên ngoài”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đưa đến trường hợp sau của câu hỏi thứ ba, vẫn đáp câu hỏi thứ tư.”

“Nhất-xiển-đề thật ra không có tánh quả. Nếu làm cho họ có điều lành duyên nhân ngăn ngừa được tội lỗi thì không bị đọa vào địa ngục.

Tức là không có điều lành của duyên nhân, thì làm sao ngăn ngừa ư?

Lên tức là dẫn dắt, để nói phàm phu ngu si, không có trí tuệ, nghe Phật nói thân chúng sinh có Phật tánh, bèn cho rằng, thân năm ấm này đã có “Trí Nhất thiết chủng”, mười Lực, vô úy, rồi không cần tu hành, nằm đất mà tự thành Phật, trách Phật hiện có việc bất ổn này là không có tâm dụng đạo. Nhưng thân chúng sinh tức thời là có chánh nhân, mà cần phải chứa đức tu đạo, tiêu diệt sự che lấp của vô minh, bóng tối đều tan biến hết, Phật tánh mới hiển bày, đó là lúc “Duyên” đầy đủ, bấy giờ mới có công dụng. Việc đó, cũng giống như tiếng đàn, phải có điều kiện đầy đủ thì tiếng đàn mới phát ra. Nay Nhất-xiển-đề chính vì đã dứt lòng tin, nên phải đọa vào ba đường ác”.

“Này người thiện nam! Như lời ông nói: “Nếu trong sữa không có tánh lạc” cho đến “không rao nói điểm thiếu sót của người khác, thì đó gọi là tâm ngay thẳng Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là đáp câu hỏi thứ sáu “.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ năm, nay nói: “không được một bề “Đã có”, vì “Sẽ có” cho nên nói là “Có”. Như nước pha với sữa rồi nằm chờ đến một tháng, cũng không thành lạc. Nếu dùng một giọt sữa, rồi tìm nhựa cây nhiểu vào, liền thành lạc, vì duyên của sữa kia đầy đủ. Nếu trong sữa trước đã có lạc, thì đâu cần nhờ vào duyên ư?

Hỏi về sự tạo tác, chủ thể tạo tác: Vì có đủ năm việc của ngay thẳng này, nên có thể làm những việc khó nhẫn này, cho đến không tiếc thân mạng, vì đã biết sâu về tướng “Không”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ năm: “Chấp trong nhân có quả?” Nay nói muôn pháp từ duyên, không có tự tánh. Nếu “Duyên” họp thì “Có”, chưa hợp thì “Không”, đâu thể cho rằng trong nhân đã có quả? Vì nếu đã có quả thì đâu cần các duyên? Do không có tánh nên được thành Phật.”

Đáp câu hỏi đã xong, lại nêu câu kiết trước: “Do nghĩa này, nên Bồ tát thường khen việc lành của người, nên gọi là tâm ngay thẳng. Về câu kiết, đến thiên sau sẽ y cứ tâm Bồ-tát, dựa vào sự việc để nói về tâm ngay thẳng.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát ngay thẳng” cho đến “Đó gọi là tâm ngay thẳng của Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trước giải thích chưa đầy đủ, nên mới có câu hỏi. Đã đáp xong, lại còn phải tu tông chỉ trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi rồi, nêu việc trước để kết thúc ý chỉ.”

“Thế nào là Bồ-tát tu trì giới cấm” cho đến “Tu Đại Niết-bàn là giới thứ ba.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thi ba-la-mật”: Bốn điều ác không gì hơn trên, gọi là có khả năng vượt qua biển khổ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giới từ đức tin chánh trực. Tâm đã chánh mà phát ra giới thì không chấp giới tướng là Ba-la-mật.”

“Thế nào là Bồ-tát gần gũi bạn lành” cho đến “Đầy đủ Thiện tri thức chân thật thứ tư.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đối với người giặt y phục, vì biết nhơ, sạch nên dạy họ quán Bất tịnh. Đối với người thợ kim hoàn, biết hơi gió, lửa nên dạy họ quán sổ tức.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chân thiện hữu, chỉ cho Chư Phật. Nay, thiên này nêu Bồ-tát vì có đủ ba tâm trên, có thể gần gũi bạn lành, lại có khả năng làm bạn lành cho người. Vì chưa đầy đủ nên mới dẫn việc để làm chứng.”

“Thế nào là Bồ-tát có học vấn rộng?” cho đến “Thành tựu đầy đủ học rộng thứ năm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Học rộng, vốn để dứt khổ, không cần văn rộng, sự nhiều, chỉ cần lý sâu, dứt mê hoặc mà thôi!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là đầy đủ học rộng. Nếu y theo lời nói thì chỉ là văn tuệ, không cầu Tư, Tu. Nhưng ý giải thích trong đây, e rằng bao gồm cả ba tuệ. Nay, nói về học rộng có sáu cấp, từ cạn đến sâu, đều gồm thâu trong đó.

  1. Y theo mười hai bộ của Tiểu thừa để nói về học rộng.
  2. Đặt nặng ở mười một bộ, chỉ lấy kinh Phương quảng, cũng gọi là đầy đủ học rộng.
  3. Trừ kinh Pháp Hoa về trước, mười hai bộ chỉ cần thọ trì. Nay, kinh Niết-bàn là học rộng.
  4. Y cứ một bài kệ bốn câu, như đã nói trong Tuyết Sơn Bồ-tát.
  5. Y cứ trực tiếp hai chữ “Thường trụ”. Thứ sáu là nói riêng về diệu thể của pháp tánh, như như thường, không nói pháp, dứt tướng ngôn ngữ, cho là học rộng. Nếu hiểu được như thế, thầm hợp với chí lý, mới thật là học rộng bậc nhất.”

“Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào” cho đến “Nhẫn được việc khó nhẫn, thí cho điều khó cho, cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khó thí mà thí được: Nghĩa làm là chung, nghĩa thí cho là riêng. Vì sao? Vì việc bên ngoài xảy ra, ngang trái, mà vẫn có thể yên ổn là nhẫn. Xả do khởi bên trong, mà có thể yên định là thí cho.”

“Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con trai” cho đến “Vì sao? Vì đã khéo tu “Tam-muội Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu ra hai việc: Một là Từ bi; hai là “Giải không”. Do hai việc này, không thấy sự khó khăn của người kia, nên mới làm được những việc khó làm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là từ “việc khó làm mà làm được trở xuống, mở ra thành ba việc. Khen ngợi người thành tựu năm pháp trên, chính là do đã hiểu pháp trên, tức là tỏ ngộ muôn pháp luống dối, mới có hành vi thí cho, bất luận mình hay người, không còn phân biệt. Nếu có cái tồn tại thì trái với lý. Vì sao? Vì chính là góp sức của “Không trí”, nên mới được như vậy. Suốt ngày vì chúng sinh mà không làm gì cả.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Dù rằng tu “Không”, nhưng chẳng thể làm cho “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì muốn nói tu “Không” được lợi ích, nên mượn việc khó khăn để làm rõ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tất cả các pháp tánh tự “Không”: Tiếp nối lời nói trước là câu hỏi. Trước nói: “Do khéo biết “Không”, nên nhẫn được những việc khó nhẫn”. Nay hỏi: “Nhận biết được ý chỉ của “Không”, nên đặt ra hai câu hỏi: “Nếu tự tánh là “Không”, thì cho dù co tu cũng đâu có lợi ích gì?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng đương thời đối với lý “Không” này, tâm thường sanh sợ hãi, chưa thể quên ngay. Vì cho nên Bồ-tát Đức Vương vẫn đặt ra hai câu hỏi, nhằm xoá bỏ tâm chấp của chúng sinh. Ở trên, Đức Phật nói tu “Tam-muội Không”, chẳng còn giận, mừng nữa. Nay, vì sắp mở ra hai trường hợp, nên trước quyết định nói: “Tất cả các pháp đương thể tánh tự “Không”, thì cần gì phải tu “Không” ư? Vẫn kiết câu hỏi ban đầu rằng: “Nếu tánh tự “Không” thì cần gì phải tu “Không” ư? Câu hỏi thứ hai: “Nếu tánh tự không là không thì làm sao tu “Không”, làm sao cho pháp kia không ư?”

“Này người thiện nam! Tất cả các pháp, tánh của chúng vốn tự không” cho đến “Không được hiện tiền thấy Chư Phật, Bồ-tát, người đó là quyến thuộc của ma.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng phải đất, nước, lửa, gió, đây là căn một mà đại bốn. Bậc nhất nghĩa không, chẳng lìa bốn, mà nói là tục đế “Không”. Vì tục đế “Không”, nên một bằng với bốn, chấp là “Không”. Chẳng phải màu xanh, chẳng phải màu vàng, là phá sắc thật cũng như vậy. Chẳng phải có, chẳng phải không, đủ ba Trung đạo “Không”. Do tương tự nối nhau, dường như là thường, phàm phu không hiểu, nói “có”, nói “Thường”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo lời Phật đáp dưới đây, trước, khiển trách câu hỏi thứ hai rằng: “Tất cả các pháp tánh vốn tự “Không”, nếu vạn hữu có thể được bất không, thì có cái cuối cùng là “Không” thể “Có”, há có thể được cái “Có” ư?” Đã không thể được, nên biết xưa nay chẳng khác “Không”, chỉ đối với người bệnh là “Có”, còn đối với người tỉnh ngộ thì thường “Không”. Cho nên một nhà đã dẫn như hoa đốm trong hư không, đối với người mắt không bị nhặm thì không hề thấy có hoa đốm. Dù đối với người bệnh là có, nhưng đối với người không bệnh thì “Không”, mà người không bệnh cũng chẳng phải không biết. Vì người bệnh thấy luống dối, nên mặt trời của bậc Thánh so với hai trí không thiếu, đó là lý do trong phẩm Phạm Hạnh chép: “Tất cả Thế đế đối với Như Lai đều là Bậc nhất nghĩa đế.”

Từ “Tánh sắc chẳng thật có” trở xuống, là y cứ vào pháp để nói: Trước là phá danh sắc giả, chẳng phải bốn đại, nghĩa là nói đất, nước, lửa, gió xưa nay tánh chúng là “Không”, chẳng có tự thể. Đây là nói chân đế không lìa đất, nước, lửa, gió. Không lìa bốn đại mà có công dụng. Đây là nhân duyên hư cấu. Chỉ có công dụng của sắc, là nói về tục đế.”

“Chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng: Kế là phá sắc của pháp thật, nói các màu xanh, vàng… xưa nay không có. Đây là chân đế. Không lìa màu xanh, vàng… cũng là nhân duyên hư cấu mà vọng có, chỉ có tác dụng của danh. Đây là nói về tục đế. “Có” rốt ráo là chẳng thật có, cũng chẳng có cái “Có” để “Có”. “Không có” cái cuối cùng chẳng phải “Không”, cũng “Không có” cái vô để vô. Pháp tướng như thế há chẳng phải “Không” ư? Vì Bồ-tát có đủ năm việc trên, nên thấy muôn pháp là “Không”, cho nên chẳng có giận mừng.”

“Này người thiện nam! Tất cả các pháp tánh vốn tự Không” cho đến “Thấy tất cả pháp tánh đều vắng lặng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nêu trước hỏi, sau đáp. Pháp dù tự nó là “Không”, nhưng nếu chẳng tu “Không” thì sẽ chẳng biết được hữu vi là “Không” thật có, chủ yếu phải là tự thể “Có”, mới lãnh hội được “Không”.

“Do đó trở xuống, là mượn ví dụ để giải thích, như tất cả pháp vì tánh vô thường nên diệt, chủ thể diệt là chẳng riêng một chủ thể diệt của pháp diệt, tức khi thể của pháp khởi thì gọi là sinh, khi thể của pháp diệt thì gọi là diệt. Nói về muôn pháp cũng thế. Thể của ngay thẳng, tánh nó là “Không”, cho nên tu “Không” thấy “Không”, cũng chẳng có một pháp “Không”, cho đến “Không” cái “Không” này. Dù dẫn ví dụ để chứng minh rằng thể tướng là “Không”, nhưng vì tâm người vẫn hoài nghi đối với ví dụ trên. Nay y cứ theo ẩn dụ trước để nói.”

“Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Không” là không có pháp, thì cái được thấy là gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không” lại tiếp nối tiếng làm câu hỏi. Vật khác vốn không có tánh mặn, mà khiến tạo ra chất mặn, nghĩa là chẳng phải “Không” tức là điên đảo. Nếu chỉ có “Không”, lại chẳng có cái nhìn thấy, thì sẽ thành câu hỏi trước.”

“Này người thiện nam! Tam-muội Không này, thấy pháp bất không “Không”“ cho đến “Đêm là tướng đêm, thì vì sao điên đảo?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì pháp vô thường, nên diệt có chủ thể diệt, nghĩa là như gỗ vô thường, lửa có thể đốt củi. Sinh là cái năng sinh: Mầm có tướng sinh, nước, lúa là năng sinh.

“Này người thiện nam! Thấy được bất “Không”, là đáp câu hỏi đầu của Bồ-tát Đức Vương: “Không nói là tánh chẳng thể không. Y cứ vào công dụng giả của thế đế, đối với cái mà tâm chúng sinh thấy là bất không. Nay nếu giả mà biết, tức là chiếu “Không”, cho nên chẳng phải điên đảo, Như tham v.v… y theo thế đế là có, bị quả báo xấu, cho đến tánh sắc cũng như thế. Nếu phàm phu nhất định chấp là thật thì có thể khiến cho điên đảo nói Bồ-tát không tạo ra lối hiểu biết này, nên chẳng phải điên đảo. Lấy đêm làm ngày tức là điên đảo. Ở đây nói như giả mà biết, như “Không” mà biết, há là điên đảo ư?”

“Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát trụ ở bậc Cửu địa” cho đến “Do không thấy nên tức thấy Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy pháp có tánh, nghĩa là thấy “Không”, thì thấy “Thường”, Cửu địa chẳng thấy “Thường”, vì chẳng thấy “không”. Cho nên Thập địa chỉ thấy một ít.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Văn kinh chính tự như thế, nên biết Cửu địa trở xuống, chỉ thấy vô ngã không, chẳng phải là lý chân vô tướng. Sở quán đã là sự, vì đều là chân ngã “Không”, nên nói là thấy pháp có tướng, chẳng phải chấp tánh thấy “Có”, chính vì tu vô ngã nhiều, nên chưa thể thấy Phật tánh.”

“Chư Phật, Bồ-tát có hai thuyết” cho đến “Do nghĩa này nên tu “Không” thấy “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù Tiệm Giáo nói là “Có” (hữu) nhưng cuối cùng là “Không”, nên tu “Tam-muội Không”, giúp cho được thấy “Không”.

Không có tánh của pháp: Cũng tu “Không”, vì nghĩa này, nên tu “Không” thấy “Không”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có tánh của pháp, nói là có công dụng của thế đế. Không có tánh của pháp, nghĩa là nói xưa nay là không, chính là vì chẳng thấy “Không”, nên bảo phải tu “Không” để được “Không”, là do tu “Tam-muội Không”. Cũng nhờ tu “Không”, nên thấy các pháp là “Không”.

“Này người thiện nam! Ông nói thấy không, không là vô pháp” cho đến “Thấy tánh tất cả các pháp là “Không”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh của pháp là không có, Bồtát thì không hề chấp trước, hợp với lý của pháp, giả gọi là thấy, thật ra chẳng phải thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là đáp trường hợp sau, Đức Phật nói: “Thật như ông hỏi, nếu còn có chấp, thì chẳng phải thấy, vì chỗ thấy của Bồ-tát là thấy Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Bồ-tát chẳng những nhờ thấy Tam-muội” cho đến “Thấy tất cả pháp đều là “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng những Tam-muội thấy “Không”, mà ngay cả sáu Độ cũng “Không”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trãi khắp sáu độ muôn hạnh, nói không có tánh tướng.”

“Cho nên, lúc ở thành Ca-tỳ-la” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ chín.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu việc để chứng minh giải thích.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu Đại Niết-bàn cho đến nậhp Đại Niết bàn thường, lạc, ngã, tịnh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do tự Niết-bàn, lại có thể giáo hóa người sao cho được Niết-bàn làm thể. Ở đây trước nói tự chứng đắc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Công đức thứ mười là dùng ba mươi bảy phẩm làm thể. Ba mươi bảy phẩm này tức có giới, định, tuệ, đã nói rộng ở trước, tùy trong ba hạnh, có nói về lĩnh vực giới, định, tuệ, đều đã giải thích rộng. Các chúng sinh nào không sinh lòng tin đối với kinh này? Nói là người nào đối với kinh này sinh tâm kính tin, tức là thực hành ba mươi bảy phẩm, cuối cùng được thành Phật. nếu ai không sinh tâm kính tin, thì sẽ đắm chìm mãi mãi trong biển sinh tử.

Đã nói về mười công đức xong. Thầm khuyên răn chúng sinh ở đời vị lai được vô nhiễm, sinh tâm kính tin.”

“Phân biệt giải thích cho các chúng sinh hiểu” cho đến “Nếu người nào không tin, sẽ phải luân hồi mãi trong sinh tử!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khuyên bảo người giúp cho có được sự kính tin đối với kinh Đại Niết-bàn này.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Không sinh tâm cung kính đối với kinh này?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên vừa nói người có lòng tin thì được, kẻ nào không tin sẽ không được. Nay, hỏi về tướng mạo của tin không tin.”

“Này người thiện nam! Sau khi Ta nhập Niết-bàn, có Thanh văn” cho đến “Đó gọi là vị đổi Cam lộ lấy thuốc độc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về kẻ phá giới, không tin.”

“Các Tỳ-kheo tội ác như thế” cho đến “Không thể tin thuận kinh Niết-bàn này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phá kiến thì không tin.”

“Này người thiện nam! Vào thời bấy giờ, nếu có chúng sinh nào” cho đến “Thì sẽ thấy Phật tánh, nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại kiết niềm tin, không trị mà bệnh tự lành.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương” cho đến “Thành tựu đầy đủ công đức thứ mười.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đó là “Nhận hiểu.”