LUẬN KIM CANG TIÊN
Tác giả: Luận sư Kim Cang Tiên
Hán dịch : Đại sư Bồ-đề Lưu Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản
QUYỂN 9
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Các núi chúa Tu di hiện có trong ba ngàn đại thiên thế giới vv…
Đây là đoạn kinh văn thứ mười trong phần đoạn trừ nghi. Ở đây, thí dụ về ba ngàn thế giới đã nêu dẫn bốn lần. Do đâu luôn nêu dẫn mà không trùng lặp? Là do câu văn ấy không giống nhau mà nghĩa có khác, nên không trùng lặp.
Sở dĩ lại nêu dẫn ở đây, là do có nghi vấn. Nghi như thế nào? Trong đoạn kinh trước có bốn câu giải đáp nghi.
Thứ nhất, có ba câu, nêu rõ về Niết-bàn tánh tịnh của Bồ-đề Pháp thân, bản thể tròn đủ, không phải là pháp tu tập đạt được.
Một câu sau biện minh về Niết-bàn phương tiện của Báo thân Phật, do tu tập tất cả pháp thiện làm nhân phương tiện viên mãn. Pháp thân có hoạt dụng, là pháp tu tập đạt được.
Ý vấn nạn: Nếu Pháp thân của pháp tánh không phải do tu tập đạt được, thì phương tiện nơi Báo Phật cũng không phải do tu hành đạt được. Vì sao? Trong phần đối chiếu ở trên, nêu rõ thọ trì đọc tụng kinh này, là ngôn giáo của chủ thể giảng giải, dựa vào đấy mà tu hành pháp thiện đầy đủ, nên đạt được Tam-bồ-đề. Nhưng kinh giáo này, tánh của âm thanh, trong pháp chứng đắc là không, niệm niệm sinh diệt, không có nghĩa tăng trưởng của tập nhân. Thể là vô ký, không phải là pháp thiện, nên thọ trì kinh giáo không thể phát sinh ba tuệ thiện. Do không sinh ba tuệ thiện, nên không có nghĩa của nhân, đã không có nghĩa của nhân, tức là không chứng đắc Bồ-đề. Đâu có thể nói tất cả pháp thiện đạt được Tam-bồ-đề Vô Thượng?
Vì thế, nêu dẫn thí dụ về phước đức thù thắng do bố thí bảy báu như núi chúa Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới, để giải đáp nghi vấn ấy, biện minh một kệ Bát-nhã này nơi kinh giáo, từ trong pháp chứng đắc hiện bày, không phải là vô ký, mà có thể giảng giải về Pháp thân. Nếu dựa nơi kinh làm nhân duyên tu hành, thì có thể hiển hiện tánh chứng đắc quả, đạt được Đại Bồ-đề, hơn hẳn phước đức của việc bố thí châu báu như núi chúa Tu di trong ba ngàn thế giới, phước đức như thế là không thể tính đếm. Tức là không nên vấn nạn cho kinh giáo là vô ký, nên thọ trì, tu hành không thể đạt được Đại Bồ-đề.
Nhằm trừ bỏ nghi vấn ấy, nên phần tiếp theo là nêu rõ về một đoạn kinh này.
Trăm phần không bằng một: Luận gọi là chỗ hơn của loại tính toán. Đây là biện minh về phước đức hữu lậu là pháp có cùng tận, nên số lượng cũng có giới hạn. Làm rõ pháp thiện vô lậu là Pháp không cùng tận, nên số lượng cũng vô hạn, do đó nên hơn hẳn.
Ca-la phần không bằng một: Luận gọi là chỗ hơn của lực dụng. Ca la, là phiên âm tiếng Tây Vực, tức là tách một sợi lông làm một trăm phần, lấy một phần ấy gọi là một Ca-la. Nghĩa này được dịch là lực thắng. Do công đức của pháp thiện vô lậu, uy lực hơn hẳn đối với pháp thiện hữu lậu, nên gọi là lực thắng (chỗ hơn của lực dụng).
Số phần không bằng một: Luận gọi là chỗ hơn không giống nhau.
Cũng là trong chỗ thường xuyên, luôn luôn, càng trở nên vi tế, cho đến một chút ít cũng không bằng một, nên gọi là chỗ hơn không giống nhau. Tức là làm rõ pháp thiện vô lậu này nếu có hình sắc, thì pháp giới hư không cũng không dung nạp hết. Là dùng pháp hữu vi có cùng tận để so sánh với pháp Vô Vi không cùng tận. Giả sử khiến cho đến chỉ một chút ít cũng không giống nhau. Như phân một hạt cải làm vạn phần, lấy một phần cho là núi Tu-di, là chuyện hoang đường chỉ thiệt thân, hoàn toàn không cùng loại.
Ưu-ba-ni-sa-đà phần: Trong luận, về nghĩa dịch là nhân thắng (chỗ hơn của nhân) nêu rõ về nhân quả không giống nhau. Châu báu là pháp thiện hữu lậu chỉ đạt được phước báo nơi ba cõi, là nhân quả cùng như thế, chẳng bằng pháp thiện vô lậu mới về lâu xa đạt được quả vị Phật, tức là nhân quả đều hơn, nên gọi là nhân quả không giống nhau.
Luận viết: Lại có nghi vấn tiếp xuống, đến Không thể đạt được Đại Bồ-đề, là dựa nơi kinh để nêu vấn nạn. Vì sao thế? Tức là cho pháp được nêu giảng là pháp vô ký để giải thích, xác nhận ý của vấn nạn.
Để đoạn trừ nghi vấn này tiếp xuống: Là lược nêu dẫn về ý giải đáp, phát sinh kệ sau, tức là dùng hai kệ để giải thích một đoạn kinh này.
Một kệ đầu giải thích công đức của việc thọ trì kinh hơn hẳn phước đức của việc bố thí. Vì chỗ nghi vấn cho kinh giáo là vô ký, không phải là nhân.
Kệ thứ hai giải thích bốn thứ hơn hẳn. Từ trăm phần không bằng một cho đến chỗ không thể đạt tới.
Tuy nói pháp vô ký: Là nêu lên ý của nghi vấn. Nghi trước nói: Ngôn giáo là âm thanh, tánh là pháp vô ký, dựa nơi pháp vô ký ấy, thọ trì, tu hành thì không thiện, tức là không có nghĩa của nhân, sao có thể nói do tất cả pháp thiện nên đạt được Tam Bồ-đề? Vì vậy đáp: Tuy nói pháp vô ký.
Câu này là thuận theo ý của người nghi, nên nói tuy cho là vô ký, nhưng âm thanh ngôn giáo dù là pháp vô ký, nhưng có thể giảng giải về lý của Niết-bàn, Phật tánh, dựa nơi ấy để tu hành, phát sinh thắng giải của ba tuệ, có thể khiến cho hành giả rốt cuộc đạt được quả thường hằng, có sự giảng giải về lý, tạo lợi ích cho mọi vật, bao gồm công năng của quả. Đây là biện minh về ngôn giáo, tuy là vô ký nhưng có nghĩa của nhân. Nên câu sau tiếp theo viết: “Mà nói là nhân kia”. Như thế, đâu có thể vấn nạn, cho là vô ký nên không có nghĩa của nhân, tức là không tu hành để đạt được Bồ-đề. Đây là giải thích về nửa trên của kệ.
Lại có một cách giải thích khác: Kinh không phải là vô ký. Vì sao? Do kinh giáo này, từ trong pháp chứng đắc của Chân như mà ra, là một phần của Chân như ấy, được pháp chứng đắc nơi Chân như đó huân tập, nên ngôn giáo chẳng phải là vô ký, mà có nghĩa của nhân. Như đem hoa Tu-ma-na và hoa Chiêm-bặc trộn nấu với hạt Hồ-ma, sau đem ép thì được dầu, gọi là dầu Tu-ma-na và dầu chiêm bặc. Ngôn giáo ở đây cũng như thế. Vì được pháp chứng đắc huân tập, không phải là vô ký, nên thọ trì-đọc tụng ngôn giáo của chủ thể giảng giải đó, sẽ phát sinh văn tuệ. Từ văn sinh ra tư, từ tư sinh ra tu, thứ lớp tu tập, cho đến chứng đắc Bồ-đề Vô Thượng, hơn hẳn phước thí bằng bảy báu như núi chúa Tu-di trong ba ngàn đại thiên thế giới. Do phước thí ấy là hữu lậu, nên chẳng thể đạt được Đại Bồ-đề. Do đó không bằng phước đức kia. Nên nửa sau kệ viết:
Vì thế một pháp bảo, Hơn vô lượng châu báu.
Một pháp bảo: Đây là một kệ của kinh Bát-nhã, gọi là pháp bảo.
Vì thế: Tức là vì thế nên kinh giáo chẳng phải là vô ký, mà có nghĩa
của nhân, nên hơn hẳn việc bố thí vô lượng châu báu là phước đức hữu tướng. Nghĩa này thế nào? Tuy nói pháp được thuyết giảng, cho đến Có thể làm nhân Bồ-đề: Là giải thích nửa trên của kệ.
Luận chủ lại thuận theo ý của người nghi, nêu rõ kinh giáo tuy là vô ký, nhưng có nghĩa của nhân.
Lại nói vô ký, thì nghĩa này không đúng, đến Hơn hẳn vô lượng châu báu. Đây là giải thích nửa sau của kệ. Tức là nêu dẫn kệ để tóm kết. Đó là trái với ý của kẻ nghi, chính là giải thích kinh giáo không phải là pháp vô ký.
Pháp của ông là vô ký, còn pháp của tôi là ký: Tức là trong pháp Tiểu thừa của ông cho âm thanh-ngôn giáo là vô ký. Nay, dựa nơi pháp Đại thừa của tôi nêu rõ, âm thanh-kinh giáo từ trong pháp ký của Pháp thân Phật mà ra nên là pháp ký, không phải là vô ký.
Lại nữa, hành giả với nghiệp thân-khẩu-ý có chỗ dấy khởi-tạo tác, đều có khả năng chiêu cảm, cũng có nghĩa thuận lý, tạo lợi ích cho muôn vật, nên kinh giáo do chư Phật thuyết giảng, tánh của âm thanh là khẩu nghiệp thiện, có thể thuận theo lý, tạo lợi ích cho muôn loài, không phải là vô ký.
Do đó, pháp được thuyết giảng ấy hơn hẳn việc bố thí A-tăng-kỳ Tu-di châu báu, là tóm kết về phước đức của sự thọ trì kinh giáo, hơn hẳn phước thí châu báu.
Như kinh tiếp xuống: Là dùng kinh để tóm kết về luận.
Ở đây chỉ rõ về nghĩa gì? Một đoạn này, như kinh vừa nêu Là dẫn chung về phước đức của việc thọ trì kinh để tóm kết nghĩa hơn hẳn phước thí bằng châu báu. Nhưng chưa rõ việc giải thích chỗ hơn có bao nhiêu thứ. Nên nêu rõ câu hỏi: Trăm phần này không bằng một v.v…, thì ở đây là chỉ rõ về nghĩa gì? Nên tạo ra kệ thứ hai để đáp: Số-lực, không giống-hơn. Trong một câu ấy kết hợp giải thích ba thứ hơn: Là số lượng hơn, uy lực hơn và không giống nhau hơn.
Không giống nhân cũng thế. Đây là nêu rõ về chỗ hơn thứ tư: Nhân hơn, vì để thành câu nên nêu dẫn chung, chỗ hơn không giống nhau.
Hết thảy pháp thế gian, không thể ví dụ được: Tức là pháp thiện vô lậu có thể dùng với quả vị Phật tạo nên nhân vô tận. Vì trong tất cả pháp hữu lậu thế gian không thể so sánh được, nên viết là: Không thể thí dụ được.
Đây là nói về nghĩa gì? Tức là chỉ rõ phước đức ở trước, đối với phước đức này là hơn. Một đoạn hỏi-đáp này là giải thích chung về chỗ làm rõ nghĩa hơn hẳn nơi một kệ. Thế nào là hơn hẳn? Một là số lượng hơn hẳn v.v… Số lượng nêu ra bốn thứ hơn hẳn, trong nửa trên của kệ. Do đó kệ viết v.v… là nêu nửa sau của kệ để tóm kết, tạo chỗ hơn.
Số lượng hơn tiếp xuống: Là mỗi mỗi nêu dẫn riêng về tên gọi của bốn thứ hơn hẳn, giải thích tóm lược về tên gọi, nêu kinh liên hệ, nên có thể nhận biết.
Lại nữa, pháp này là tối thắng, không có pháp thế gian nào có thể ví dụ.
Pháp này: Là giải thích nửa sau của kệ, tức là dẫn kệ để tóm kết.
Như vậy, trong phước đức này tiếp xuống: Là tóm kết về phước đức của việc thọ trì kinh là hơn hết.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả như thế nào? Tôn giả cho là Như lai khởi niệm này: Như Lai đã hóa độ chúng sinh chăng v.v…? Đây là đoạn kinh văn thứ mười một, trong phần đoạn trừ nghi.
Sở dĩ được nêu dẫn, vì ở đây có nghi vấn. Nghi vấn ra sao? Nơi đoạn kinh thứ chín ở trên, ba câu trước nêu rõ về Pháp thân bình đẳng, xưa nay đầy đủ, không hề thiếu-ít, không do tu hành mà được, lại không có cao thấp, cũng không có các tướng ngã-nhân-chúng sinh-thọ giả, bình đẳng chứng đắc tâm Bồ-đề. Đây là nêu rõ, căn cứ trong lý bình đẳng của Pháp thân, Phật tánh, xưa nay vốn trong lặng, không có hai nẻo dị biệt đây-kia, phàm-Thánh.
Vấn nạn nêu: Nếu Pháp thân bình đẳng không có phàm-Thánh sai biệt, thì cũng không có người tu đạo chứng đắc quả. Nếu không có tu đạo chứng đắc quả, thì vì sao trong kinh nói: Như lai hóa độ chúng sinh? Nếu Phật hoá độ chúng sinh, thì biết Như Lai tu hành, đoạn trừ Hoặc, có thể đạt được Pháp thân viên mãn. Chúng sinh do chưa tu tập đoạn trừ Hoặc nên không có được Pháp thân đầy đủ. Nếu thế thì do nhân duyên tu hành dứt bỏ Hoặc, chứng đắc Đại Bồ-đề, chẳng phải là có Pháp thân xưa nay tròn đủ, không do tu tập đạt được. Rõ ràng là vậy. Nơi phần trụ thứ ba ở trên cùng trong đoạn kinh thứ tư của đoạn trừ nghi ở đây đều nói: Bồ-tát nếu dấy khởi niệm: Ta hóa độ chúng sinh tức là chẳng phải là Bồ-tát. Hai nơi chốn ấy nêu rõ, Bồ-tát ở trong lý Chân như bình đẳng không thấy có chúng sinh, không thấy Pháp thân của Chân như khác với Pháp thân của Chân như nơi thân mình mà có thể hóa độ. Tuy nhiên, quả vị Bồ-tát ở nơi học địa, ứng xử với cảnh bất định, đoạn trừ Hoặc chưa hết, thấy lý chưa trọn, ở trong lý bình đẳng, hoặc thấy Pháp thân Chân như của chúng sinh không đầy đủ, khác với Pháp thân của Chân như nơi thân mình, khởi tâm hóa độ, hãy còn chẳng phải là Bồ-tát, huống chi là Như Lai hành trì viên mãn, các hoặc dứt hết, quả vị ở bậc vô học, thì sao lại nói Phật hóa độ chúng sinh? Ở đây là biện minh, Phật cùng với chúng sinh có Pháp thân bình đẳng, không có tăng giảm, cũng không cao thấp. Do đó, lìa Pháp thân, Chân như không có riêng chúng sinh có thể hóa độ. Nếu nói Phật độ chúng sinh, thì Pháp thân là pháp do tu tập đạt được, không phải là gốc thanh tịnh bình đẳng, phàm Thánh cùng có. Do đấy mà xét biết, chư Phật tu hành chứng đắc quả có thể có Pháp thân, chúng sinh chưa tu tập, tức là không có Pháp thân. Nếu chúng sinh không có Pháp thân, thì không thể nói Pháp thân bình đẳng, Thể không tăng giảm, không chỗ thiếu-ít. Cũng không thể nói Pháp thân vốn thanh tịnh, không có ta-người v.v…
Do có nghi vấn ấy, nên nơi kinh đáp, nói: “Tôn giả cho là Như Lai khởi niệm này: Như Lai hóa độ chúng sinh chăng?” Đây là Đức Phật hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả cho là Như Lai khởi tâm phân biệt: Ta do nhân duyên tu hành, đoạn trừ hết phiền não, nên có Pháp thân viên mãn. Còn chúng sinh do chưa tu hành đoạn trừ Hoặc, nên không có Pháp thân đầy đủ. Tức là là khác với Chân như, ngoài pháp giới riêng có chúng sinh để khởi tâm hóa độ, khiến được giải thoát.
Chớ nên có kiến chấp ấy! Là nhằm ngăn chận kiến chấp nơi tâm. Vì sao phải giải thích? Tức là trước nêu rõ Như Lai vì sao ngăn chận Tôn giả Tu-bồ-đề: Chớ nên có kiến chấp ấy..! Liền đáp: Thật sự không có chúng sinh để Như Lai hóa độ. Nhưng Phật cùng với chúng sinh tuy phàm-Thánh có khác, mà Pháp thân bình đẳng viên mãn không khác. Đây là nêu rõ, tức là nơi lý Chân như bình đẳng có danh tự chúng sinh, lại không định riêng là thật có chúng sinh khác với pháp giới Chân như được Như Lai hóa độ.
Như nơi kinh Văn Thù Bát-nhã nói: “Giả sử tất cả chư Phật trong mười phương, mỗi mỗi vị Phật trụ thế hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp, ngày đêm thuyết pháp, tâm không dừng nghỉ, các vị Phật ấy cũng hóa độ vô lượng Hằng hà sa chúng sinh, đều nhập Niết-bàn, nhưng cảnh giới của chúng sinh cũng không tăng không giảm. Vì sao? Vì lìa ngoài pháp giới Chân như, tướng cố định của chúng sinh là không thể thủ đắc. Do đó, cảnh giới của chúng sinh không tăng không giảm”.
Lại như kinh Hoa Nghiêm viết:
“Giới chúng sinh chẳng tăng,
Giới chúng sinh không giảm”.
Đây là căn cứ theo Pháp thân bình đẳng trong lý của pháp giới chân thật, làm rõ chỗ không tăng giảm.
Lại nữa, trong kinh Tiểu Phẩm Bát-nhã nói: “Tất cả chúng sinh xưa nay vốn thanh tịnh. Giả sử khiến chư Phật nơi trăm ngàn vạn kiếp luôn gọi lớn: Chúng sinh! Chúng sinh! Mà không nhất định thật có chúng sinh để có thể đạt được”.
Nếu dùng những phần kinh văn ấy để xét, thì ở trong lý bình đẳng, không có chúng sinh khác với chư Phật để có thể hóa độ. Lại nữa, nếu Phật hóa độ chúng sinh tức là là Phật tự độ Phật, pháp giới trở lại độ pháp giới. Do đấy nên biết, ngay nơi Pháp thân có tên gọi chúng sinh ấy, không lìa ngoài pháp giới riêng có chúng sinh có thể hóa độ. Nên kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: “Hoặc che phủ Pháp thân gọi là chúng sinh”. Tức là lại có nghi vấn: Chính đáng là không nhất định thật có chúng sinh có thể hóa độ, nhưng không phải là không có chúng sinh hư giả do năm ấm tạo thành, Như Lai vì sao không độ? Do vậy, kinh đáp: “Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Nếu thật có chúng sinh, Như Lai hóa độ, thì Như Lai có kiến chấp về tướng ngã, nhân v.v… Đây là biện minh, không phải chỉ không có chúng sinh thật sự có thể hóa độ mà thậm chí cũng không có chúng sinh hư giả để có thể hóa độ. Vì sao? Vì chính nơi pháp năm ấm gọi là chúng sinh, nhưng năm ấm này Thể là không chúng sinh. Không phải chỉ Thể là không chúng sinh, lại không khác với Phật tánh có chúng sinh năm ấm là tên gọi, hư vọng nên cũng không thể hóa độ.
Nếu Như Lai khởi tâm cho là khác với pháp giới Chân như, có chúng sinh hư giả do năm ấm tạo thành, có thể hóa độ, thì cũng còn có các Hoặc về tướng ngã-nhân chưa hết.
Nhân đấy lại có nghi: Nếu Như Lai không có các hoặc về tướng ngã v.v… thì Như Lai do đâu tự nói: Ta nơi thời quá khứ từng làm Chuyển Luân Thánh Vương-Đế Thích-Phạm Vương? Theo đấy mà xét nên biết rõ Như Lai có tướng ngã chưa dứt hết. Không nên nói Như Lai không có tướng ngã.
Do vậy, đáp nói: Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Như Lai nói có ngã, tức là chẳng phải là có ngã. Làm rõ, Như Lai tùy theo thế tục mà nói nên có ngã, chẳng phải cho là có các tướng nga- nhân chưa dứt hết.
Nhân đấy lại có nghi vấn: Nên có thần ngã? Nếu thật không có thần ngã thì vì sao hết thảy mọi người đều cho là có ngã. Quá khứ ngã từ trong thiên đạo hiện ra, từ trong nhân đạo hiện ra. Tức là đáp: Chính là nơi hàng phàm phu ngu tối đã phát sinh, cho là có ngã. Nêu rõ nơi hàng phàm phu ngu tối, tâm luôn chấp giữ nơi tướng, ở trong pháp Vô ngã mà cho là có thần ngã. Từ trong quá khứ hiện ra, không mất mà đến nơi hiện tại, nên vọng nói là có ngã chẳng phải bảo là trong lý thật sự có ngã.
Mao đạo: Nghĩa này được giải thích là ngu si, tối tăm, không có trí tuệ. Ở đây Tôn giả Tu-bồ-đề hỏi: Thế Tôn! Thế nào gọi là hàng phàm phu mao đạo? Con chưa hiểu về nghĩa này, xin Như Lai vì con mà giải thích. Nên Phật đáp: Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Phàm phu mao đạo phát sinh, Như Lai nói là chẳng phải sinh.
Đây gọi là sinh: Là sinh nơi ngôn ngữ, khởi phàm phu mao đạo, là dấy khởi về ngã kiến, nên nói là sinh. Sinh này Tây Vực gọi là Thiền na, là dựa vào thế tục để biện luận, không chính thức có tên gọi cùng phiên dịch, nên lại căn cứ nơi nghĩa mà hiểu, gọi là phàm phu mao đạo sinh khởi.
Nói là chẳng phải sinh: Biện minh phàm phu mao đạo chỉ có thể dấy khởi ngã kiến, hoặc không thể phát sinh thánh giải vô lậu xuất thế gian, nên nói chẳng phải là sinh.
Do đó nói phàm phu mao đạo sinh: Là chỉ có thể dấy khởi ngã kiến, không sinh pháp của Thánh nhân, nên tóm kết gọi là phàm phu mao đạo sinh.
Luận viết: Lại có nghi vấn: Nếu là pháp bình đẳng, tướng không cao thấp là nhắc lại ba câu kinh ở trước nơi chỗ sinh nghi thứ chín của đoạn này.
Vì sao Như Lai gọi là độ chúng sinh? Là nêu ra ý của vấn nạn.
Phần kinh văn từ đây trở xuống là nhằm đoạn trừ nghi vấn này, quảng diễn ý của kinh được nêu dẫn để dứt bỏ nghi đó. Dùng hai kệ để giải thích một đoạn kinh này.
Kệ thứ nhất, tạo ra ý giải đáp, giải thích hai nghi trước nơi kinh, ý nghĩa diễn đạt chưa hết, nên tạo sự liên kết vào ba câu trên của kệ thứ hai. Câu thứ tư giải thích hai nghi sau nơi kinh.
“Chân pháp giới bình đẳng
Phật chẳng độ chúng sinh”
Nêu rõ trong lý Chân như, Phật cùng với chúng sinh có Pháp thân bình đẳng, không có hai nẻo dị biệt phàm-Thánh. Sao có thể cho ở ngoài pháp giới của Chân như nhất định lại có chúng sinh thật, cùng với chư Phật có khác, mà có thể hóa độ? Cũng là giải thích phần trong kinh: Vì sao thật sự không có chúng sinh do Như Lai hóa độ, theo kinh văn nêu trước.
Tức là nêu vấn nạn: Nếu trong lý Chân như bình đẳng không có chúng sinh có thể hóa độ, thì không phải là không có chúng sinh hư giả, do đâu chẳng độ? Nên nửa sau của kệ viết:
“Do tên cùng ấm kia,
Không lìa nơi pháp giới”.
Đây là làm sáng tỏ, chúng sinh giả danh là do năm ấm tạo thành, mà Thể của năm ấm này cũng là hư vọng, dựa nơi Chân như mà có, nên không có riêng chúng sinh hư vọng có thể hóa độ.
Nghĩa này là thế nào tiếp xuống đến kệ nói: Chẳng lìa nơi pháp giới: Trước là giải thích nửa câu sau của kệ: Chúng sinh giả danh và năm ấm cùng có. Cũng là giải Thích-câu thứ ba của kệ.
Gọi là cùng với ấm không lìa pháp giới: Tức là giải thích chỗ tạo tên gọi ấm và nghĩa, nên dẫn câu thứ tư để chứng minh là không lìa.
Luận chủ do đâu mà trước là giải thích nửa sau kệ? Vì kẻ nghi cho là chúng sinh không có Pháp thân, mà nơi nửa sau kệ ấy nêu rõ, chúng sinh năm ấm tức là là tên gọi trong pháp giới, nên biết là cùng có Pháp thân. Do vậy, trước giải thích hai câu sau nơi kệ. Sau đấy mới giải thích hai câu trên: Trong lý bình đẳng, Phật không độ chúng sinh. Từ đây trở xuống là giải thích nửa trên của kệ.
Pháp giới kia không sai biệt: Là chính thức giải Thích-câu đầu. Tức là nêu dẫn chỗ giải thích kệ nói: Chân pháp giới bình đẳng.
Do đó Như Lai không độ một chúng sinh: Là do pháp giới bình đẳng, phàm-Thánh không khác, nên Phật hãy còn chẳng độ một chúng sinh, huống hồ là nhiều. Tức là dùng câu thứ hai của kệ để tóm kết phần Phật không độ chúng sinh.
Như kinh nói: Vì sao không có chúng sinh thật do Như Lai hóa độ? Là tóm kết về hai câu trên nơi kệ.
Phật bảo Tu-bồ-đề tiếp xuống: Là tóm kết về hai câu sau nơi kệ, lại tạo sự nối kết để sinh kệ thứ hai.
Kệ thứ hai:
“Cho ta độ là lỗi,
Do chấp nơi pháp kia,
Nên chấp độ chúng sinh”.
Ba câu này, cùng với hai câu sau của kệ trước là đồng giải thích phần trong kinh: Nếu thật có chúng sinh do Như Lai hóa độ, thì Như Lai vẫn có các tướng ngã- nhân-chúng sinh-thọ giả. Câu này là làm rõ Như Lai không có chấp giữ tướng chúng sinh để nhằm hóa độ.
Nay nói, nếu hóa độ tức là là có lỗi chấp giữ tướng: Đây là nêu dẫn chỗ có lỗi để làm rõ nơi không lỗi. Nên biết, lìa ngoài pháp giới, không có riêng chúng sinh hư giả do năm ấm tạo thành được Như Lai hóa độ.
Cho ta độ là lỗi: Là biện minh, Như Lai nếu chuyên niệm thấy có chúng sinh hư giả do năm ấm tạo thành, khác với chân pháp giới, mà cho là có thể hóa độ, là có lỗi về chấp giữ tướng. Lỗi ấy như thế nào? Đáp: “Do chấp nơi pháp kia”. Do thấy các pháp hữu vi hư vọng là năm ấm, cho là chúng sinh, nhằm hóa độ khiến được giải thoát, là lỗi lầm.
Ở trên tuy nói: Do chấp nơi pháp kia, nhưng chưa rõ đã tạo những ý tưởng gì để chấp giữ. Vì thế câu thứ ba viết: Nên chấp độ chúng sinh.
Nếu Như Lai tự cho mình là Phật, là người không còn phiền não, thấy chúng sinh là phàm phu có đủ các thứ phiền não, không có Pháp thân, cần được cứu độ khiến lìa bỏ mọi mê lầm, thì đấy là mê lầm chấp giữ tướng.
Không chấp-chấp, nên biết! Là giải thích phần trong kinh: Như Lai nói có ngã, tức là chẳng phải là có ngã. Mà hàng phàm phu ngu tối sinh khởi, cho là có ngã Là đáp lại chỗ nghi vấn thứ ba: Do đâu nói ngã?
Không chấp: Tức là làm rõ Như Lai lý giải chúng sinh sinh ấm xưa nay là hư vọng-không thật, để có thể hóa độ. Nên viết là không thấy.
Chấp: Tức là chúng sinh ngu tối, không hiểu Thể của chúng sinh ấm là hư giả, cho là thật có ngã, nên gọi là chấp.
Nên biết: Ở đây là hai hạng phàm Thánh nói về nghĩa chấp-không chấp, khuyên người nên nhận biết. Nghĩa này như thế nào? … đến Cho ta độ là lỗi: Là giải Thích-câu đầu của kệ, tức là cũng nên dẫn kệ để kết luận.
Do chấp nơi pháp kia… đến. Nên có tướng như thế: Hai câu trung gian này, trước tiên là nêu dẫn kệ ở trước, sau đấy là giải thích.
Kinh lại nói: Tu-bồ-đề: Như Lai nói có ngã v.v…; nghĩa này là thế nào? Đây là chỗ giải thích kinh của câu thứ tư làm câu hỏi.
Kệ viết: Không chấp chấp, nên biết! Là nêu dẫn chỗ hiện có liên hệ nơi kệ và kinh.
Đây là do nghĩa gì tiếp xuống là giải thích nghĩa chấp-không chấp trong kệ, biện minh Như Lai không chấp giữ, phàm phu thì chấp giữ.
Lại nữa, này Tôn giả Tu-bồ-đề! Phàm phu ngu tối sinh khởi, Như Lia nói chẳng phải là sinh khởi. Là do trong phần kinh, kệ ở đây chưa giải thích, nên nêu dẫn riêng.
Không sinh pháp Thánh nhân, nên gọi chẳng phải là sinh. Đây là
Đức Thế Tôn Di-lặc giải thích, làm rõ sở dĩ nói hàng phàm phu ngu tối sinh là chẳng sinh, là do không thể sinh khởi pháp Thánh nhân, nên gọi là chẳng phải sinh.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng?… Đây là đoạn kinh văn thứ mười hai trong phần đoạn trừ nghi. Đã sáu lần nêu dẫn, sở dĩ lại được nêu ra là vì có nghi vấn. Nghĩa là, tuy trên đây đã vì con giải thích rộng về Pháp thân Như Lai không có sắc tướng có thể thấy. Nếu không thể thấy thì phải là không có. Nhưng lại nói tuy không thể thấy mà là diệu hữu. Nếu là có tức là có thể thấy. Nay nói có nhưng không thể thấy, nên biết rõ, không có riêng Pháp thân Vô Vi, chẳng phải là pháp do tu tập đạt được. Chính là do theo phương tiện tu tập muôn pháp thiện, là nhân của ba mươi hai tướng nơi nghiệp phước đức thù thắng, quả vị Phật mới đạt được, khi vô lượng tướng tốt hiện bày nơi thân, tức là có Pháp thân, đâu có thể lìa ra ngoài sắc thân ấy mà có riêng Pháp thân. Nếu do nhân duyên tu hành thì khi đạt được thân tướng hảo, tức là có Pháp thân, nên là do nhân duyên tu tập mới đạt chân Pháp thân. Như trong kinh nêu rõ, lúc Phật tu nghiệp ba mươi hai tướng, dùng đầu đảnh lễ kính lạy Tam Bảo, sư trưởng, cha mẹ, nên có được tướng Vô kiến đảnh. Giúp kẻ khác làm điều thiện, nên trong bàn tay có được tướng màng lưới. Do các tướng phước báo ấy đã là nhân có được, nên theo chỗ tương tự mà biết Pháp thân cũng chính là có thể tu tập mà đạt được. Nếu có thể tu tập đạt được, thì trong kinh ở trước, không nên dùng ba câu đầu để biện minh Pháp thân không do tu tập chứng đắc. Một câu sau nói: Hết thảy pháp thiện đạt Tam Bồ-đề, nêu rõ Báo thân là có tu hành chứng đạt. Do đấy, đối chiếu nên biết, vì tu tập hành trì phước đức, nên thấy sắc tướng của Báo Phật tức là thấy Pháp thân. Vì thế biết Pháp thân là pháp có thể tu tập mà chứng đắc, chẳng phải riêng có Pháp thân xưa nay nhất định, chẳng phải là pháp tu đức.
Có nghi vấn như thế, nên đáp có ý làm rõ, không thể dùng sắc tướng của Báo Phật, là chỗ đạt được do nhân để thấy Pháp thân. Theo như đấy để đối chiếu, nên cũng cho Pháp thân là có thể thấy, cũng là chỗ đạt được của phước điền.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Có thể dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai chăng? Là Đức Phật hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Nơi ý thức của Tôn giả, dùng trí tuệ tư duy, lường xét, có thể dùng thân tướng trượng phu do nghiệp phước đức đạt được, để thấy Pháp thân Như Lai chăng?
Nên Tôn giả Tu-bồ-đề đáp: Theo như con hiểu về ý nghĩa Như Lai giảng nói, thì không thể dùng thân tướng thành tựu do nghiệp phước đức đạt được của Báo Phật để thấy Pháp thân Như Lai.
Phật nói: Đúng vậy! Là Như Lai chấp thuận lời đáp của Tôn giả Tubồ-đề là đúng lý. Tức là Phật dứt trừ tâm nghi của đại chúng, làm rõ, thật như Tôn giả Tu-bồ-đề đã đáp, không thể dùng thân thành tựu của tướng phước đức, đối chiếu nhận biết, để thấy Pháp thân Như Lai.
Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Nếu dùng tướng thành tựu để quán xét Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương nên là Như Lai Tức là làm rõ, nếu dùng thân có sắc tướng của Báo Phật, là nhân tu tập đạt được, cho là Pháp thân Phật cũng là nhân đạt được, do nhân duyên tu hành, sau mới có thì Luân Vương của thế gian cũng có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, há có thể cũng là Pháp thân Phật?
Ở đây chính là vấn nạn về hai thân Pháp-Báo, vì sao lại nêu dẫn về Luân Vương? Là cùng đạt đến chỗ thật. Nhưng hai loại thân Phật này, về nghĩa có đồng nhất-dị biệt, tướng riêng khó phân. Nêu dẫn Luân Vương không phải là để so sánh chỗ giống nhau, mà là giải thích khiến kẻ nghi hiểu, căn cứ nơi lý tuy là một(đồng nhất) nhưng dựa theo ThểDụng thì nghĩa khác (dị biệt), do vậy tướng khác của hai Phật hiện rõ có thể thấy.
Luận viết: Lại có nghi vấn. Tuy tướng thành tựu không thể thấy được Như Lai… đến Pháp thân là Thể: Ở đây kẻ mê lầm dối thuận theo Như Lai về chỗ giải thích nghĩa của Pháp thân, tuy giống như đã hiểu rõ, mà còn có tâm nghi chưa hết, ý lại muốn tạo nghi vấn, nên đã nhắc lại.
Pháp thân Như Lai, do thấy tướng thành tựu, trí đối chiếu mà biết, tức là biết Pháp thân Như Lai là phước tướng thành tựu: Đây là nêu bày lời vấn nạn.
Nhưng Pháp thân Như Lai. Tức là kẻ nghi nói: Như Lai khó lý giải điều này, mà ý của ta còn cho không có Pháp thân Vô Vi riêng, chẳng thể dùng tướng để thấy, chẳng do nhân đạt được.
Do thấy tướng thành tựu. Là kẻ nghi cho là do lúc thấy phước tướng thành tựu của Báo Phật thì có Pháp thân, chẳng phải là vốn có.
Trí đối chiếu tức là biết Pháp thân Như Lai là phước tướng thành tựu: Nêu rõ Báo Phật đã là chỗ đạt được của nhân phước đức, có thể dùng tướng để thấy. Trí đối chiếu về chỗ giống nhau để biết Pháp thân Như Lai cũng chính là chỗ đạt được của nhân, có thể dùng tướng để thấy, đâu có riêng Pháp thân Vô Vi, xưa nay nhất định, không phải do nhân đạt được, chẳng thể dùng tướng để thấy.
Phần kinh văn từ đây trở xuống là đoạn trừ nghi vấn ấy: Bàn rộng về ý của kinh được nêu dẫn.
Một đoạn kinh này luận dùng hai kệ để giải thích:
Kệ thứ nhất giải thích phần kinh đáp lại nghi vấn:
“Chẳng là tướng sắc thân,
Đối chiếu biết Như Lai”.
Nêu rõ: Không phải dùng thân sắc tướng, đạt được do nhân phương tiện của nghiệp phước đức là có thể thấy Pháp thân Như Lai. Nghĩa là; do đối chiếu nhận biết Pháp thân Như Lai đồng với sắc tướng, cũng là có thể thấy, lại không có riêng Pháp thân Vô tướng. Nên nửa sau kệ viết:
“Chư Phật chỉ Pháp thân
Luân Vương chẳng phải Phật”.
Chư Phật chỉ Pháp thân: Nêu rõ, Pháp thân Phật tuy chẳng đồng với sắc tướng của Báo Phật, có thể thấy, là pháp tu tập chứng đắc, nhưng có hai thứ trang nghiêm là Chân như, giải thoát đầy đủ sắc tướng.
Nếu đem Báo Phật có sắc tướng, tức là cho là Pháp thân thì Chuyển Luân Vương có ba mươi hai tướng nên là Pháp thân.
Nhưng Luân Vương có tướng, chẳng phải là Pháp thân thì Báo Phật có tướng, cũng không phải là Pháp thân. Nghĩa này là thế nào? Có người nói: Phước đức có thể thành tựu tướng ấy, đạt đến quả vị Bồ-đề Vô Thượng. Đây là luận chủ nêu dẫn lần nữa về lời của kẻ nghi.
Vì để ngăn chận điều ấy tiếp xuống. Là trở lại nêu dẫn kinh để giải thích nghi khiến thông tỏ.
Do đó, không phải là dùng tướng thành tựu để thấy Như Lai. Là nói về nghĩa Luân Vương có tướng nhưng không phải là Pháp thân, nên không phải do Báo Phật có thể dùng tướng để thấy, cũng không cho là Pháp thân Vô Vi xưa nay nhất định, cũng khiến làm nhân đạt được, có thể dùng tướng để thấy.
Nhưng phần văn xuôi nơi luận ở đây đã nêu dẫn trực tiếp ý của nghi vấn. Do chỉ rõ chỗ kinh để giải đáp nghi, với nghĩa đã hết nên không giải thích kệ. Tuy nhiên, dùng một kệ trên giải thích kinh, đáp lại chỗ nghi, đều hết, vì sao lại tạo ra kệ thứ hai? Kệ trên là dựa theo phần nghĩa của tướng riêng, toàn bộ nêu rõ sắc tướng chẳng phải là Pháp thân Phật. Lại sợ chúng sinh cho sắc tướng của Báo thân hoàn toàn khác với Pháp thân, thì lìa bỏ nghĩa của Báo Phật, nên tạo ra kệ sau, làm rõ, tuy Pháp thân không thể dùng sắc tướng của Báo Phật, đối chiếu chỗ cùng loại để chấp giữ theo một bên nghĩa; nhưng ngay nơi Pháp thân này hiển bày hoạt dụng gọi là Báo Phật, nên chẳng phải là lìa bỏ.
Ba câu trên của kệ này cũng giải thích thể của Pháp thân chẳng phải là sắc tướng, không do nhân đạt được, không khác với trên. Sở dĩ lại dẫn ra, chỉ là để lấy câu sau nói về phướng tiện nơi dị tướng, vì nhằm hình thành kệ, do vậy nên nêu rõ lần nữa.
Phương tiện nơi dị tướng. Nêu rõ Như Lai có hai thứ thân:
- Là thân trí tướng.
- Là thân dị tướng.
Trí tướng: Là tướng giải thoát của Chân như nơi Pháp thân Như Lai. Thân phương tiện dị tướng: Là thân phước đức tướng tốt trang nghiêm của Báo Phật. Là phương tiện đồng với chỗ đạt được, cùng với Pháp thân khác nghĩa, nên gọi là thân dị tướng.
Nhưng Báo thân tướng tốt này chính là Pháp thân hiển bày diệu dụng, nên gọi là Báo tướng. Là nói về Thể, vốn không có hình tướng sai khác, sao có thể nghe nói, căn cứ theo phần nghĩa dị biệt, liền biện luận Pháp thân không có tướng tốt, nên cho là lìa ngoài Pháp thân, rõ ràng là có Báo Phật với sắc tướng có thể chứng đắc, do vậy lại lìa bỏ nghĩa đồng nhất.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói hai kệ: Đây là đoạn kinh văn thứ mười ba trong phần đoạn trừ nghi. Sở dĩ nêu dẫn: Là tiếp theo đoạn kinh trước giải thích Pháp thân xưa nay trong lặng cũng như hư không, chẳng thể dùng tướng đại trượng phu của Báo Phật đạt được do nghiệp phước đức để thấy. Ở đây, sắp giải thích để xác nhận nghĩa ấy, nên nói hai kệ.
Hai câu trên của kệ thứ nhất: Biện minh về Pháp thân, Thể tánh dứt tuyệt mọi Sắc-Thanh, chẳng thể dùng sự thấy nghe mà chấp giữ.
Hai câu sau nêu rõ, nếu do nhân nơi thấy nghe mà chấp giữ nơi Pháp thân, thì người ấy đi theo nẻo tà, không thể thấy Pháp thân Như Lai.
Hai câu trên của kệ thứ hai: Chính thức nêu ra Thể của Pháp thân, có Sắc-Thanh của chân giải thoát, xưa nay trong lặng, chẳng phải hoàn toàn là không Sắc-Thanh.
Hai câu sau, làm rõ Pháp thân ấy, tuy Thể có Sắc-Thanh chân thật, mà không phải là cảnh giới của tướng thức, do vậy nên không biết. Nếu dùng sắc thấy ta.
Dùng âm thanh cầu ta. Nếu cho rằng chính vào lúc phát ra âm thanh nói kệ, là khẩu nghiệp của Ứng Phật, cũng có thể nói là khẩu nghiệp của Báo Phật. Nếu theo lý mà nói, là Pháp thân Phật thuyết, làm sáng rõ không thể dùng Sắc-Thanh đạt được Ứng- Báo của hai Phật để thấy nghe nơi Như Lai. Ở đây biện minh là can cứ nơi Pháp thân của Đức Thích-ca, không thể dùng Sắc-Thanh để thấy nghe. Giống như Pháp thân của tất cả chúng sinh, Như Lai cũng không thể dùng Sắc-Thanh để thấy nghe.
Nếu cho Pháp thân đồng với Sắc-Thanh ấy, có thể thấy nghe: Là không chánh kiến. Nên câu kệ thứ ba viết: Người ấy hành nẻo tà.
Không thể thấy Như Lai. Như thế là cho Pháp thân đồng nơi SắcThanh, nên không thể thấy Pháp thân Như Lai.
Có kẻ nhân đấy sinh nghi. Nếu Pháp thân Như Lai không thể dùng Sắc-Thanh để thấy-nghe, thì hoàn toàn là không Pháp thân. Lại nữa, Pháp thân hoàn toàn là không Sắc-Thanh, thì Sắc-Thanh này tức là rõ ràng là khác với Pháp thân. Do nghi vấn như thế, nên kệ thứ hai đáp: “Diệu Thể Như Lai kia”.
Nêu rõ Pháp thân kia tuy không thể dùng Sắc-Thanh để thấy nghe, nhưng như kẻ hướng tới Sắc-Thanh, thì Thể của Pháp thân ấy là diệu hữu, nên có Sắc-Thanh kia phần kinh ở trên nói: Không lìa nơi Pháp thân để có sắc tướng có thể thấy. Không lìa trí chứng đắc để có âm thanhngôn giáo có thể nêu giảng. Lại như trong Địa thứ bảy của kinh Thập Địa viết: “Biết Pháp thân của chư Phật tự tánh là không thân, mà khởi sắc thân với các tướng hảo trang nghiêm. Biết âm thanh của chư Phật là vô thanh, xưa nay vắng lặng, không thể nói tướng, mà tùy theo chỗ sai biệt của tất cả chúng sinh, hành âm thanh trang nghiêm. Theo các văn ấy mà xét, nên biết Pháp thân tuy không có Sắc-Thanh nhưng không lìa nơi Pháp thân mà có Sắc-Thanh ấy. Câu thứ hai của kệ viết:
“Tức là Pháp thân chư Phật”.
Biện minh Thể của Pháp thân gồm đủ muôn đức, nên có tánh của Sắc-Thanh. Hoặc giả người nghe, tức là nơi Pháp thân có tánh của SắcThanh, liền cho Pháp thân có Sắc-Thanh, có thể dùng tâm ý và ý thức phân biệt hư vọng của phàm phu để thấy nghe, nên câu thứ ba viết:
“Thể Pháp không thể thấy” Làm sang tỏ Pháp thân tuy có tánh của Sắc-Thanh, nhưng không thể dùng chỗ nghe-thấy của hàng phàm phu để thấy nghe Pháp thân kia.
Tuy cho Pháp thân là không thể thấy, nhưng chưa rõ kẻ không thể thấy ấy là ai? Nên câu thứ tư viết “Thức kia không thể biết”. Hiển bày Pháp thân kia tuy Thể có Sắc-Thanh mà không có Dụng của Sắc-Thanh.
Lại không giống với Sắc-Thanh nơi Địa hạ, nên sáu thức của hàng phàm phu không thể thấy nghe, chẳng phải chỉ hàng phàm phu không thể thấy nghe, mà Thánh trí của hàng Nhị thừa cũng không nghe-thấy được.
Hai kệ nơi kinh này, luận chủ chỉ dùng một kệ để giải thích. Hai câu đầu giải thích một kệ trước, làm rõ nếu cho Pháp thân đồng nơi SắcThanh của hai Phật mà có thể thấy-nghe thì người ấy không biết Pháp thân Phật. Hai câu sau của kệ giải thích một kệ sau nơi kinh. Biện minh, Pháp thân chân thật tuy có tánh của Sắc-Thanh, nhưng không phải là cảnh giới của sáu thức, nên không thể thấy-nghe.
Đây là chỉ rõ về nghĩa gì? Pháp thân Như Lai… đến Không thể thấy nghe như thế: Là luận chủ giải Thích-câu thứ nhất của kệ nơi luận, cũng là giải thích hai câu trên của kệ trước trong kinh.
Do những người nào không thể thấy? Tức là là hàng phàm phu không thể thấy: Là giải Thích-câu thứ hai của kệ nơi luận, cũng là giải thích hai câu sau nơi kệ trước trong kinh. Giải thích xong, nêu dẫn hai câu trên nơi kệ trong luận, giải thích hai câu sau nơi kệ trước trong kinh để tóm kết.
Người ấy: Là hàng phàm phu. Tức là nhắc lại chỗ dẫn ở trước về người ấy không thể thấy Pháp thân Như Lai. Tức là tạo sự liên kết để giải thích hai câu sau nơi kệ trong luận, cũng là giải thích kệ thứ hai trong kinh, nên dẫn đủ chỗ giải thích kinh để kết luận.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng thành tựu để chứng đắc Tam Bồ-đề chăng?… Một đoạn kinh này là đoạn kinh văn thứ mười bốn trong phần đoạn trừ nghi. Đã được nêu dẫn bảy lần. Sở dĩ lại nêu dẫn: Vì ở trên đã giải thích rộng về Pháp thân Vô Vi, xưa nay nhất định, Thể là diệu hữu trong lặng, không có các tướng, không do tu tập đạt được. Lại nữa, nơi hai đoạn kinh trước, đã nêu rõ về Pháp thân, Thể tự đầy đủ, không phải là chỗ đạt được do tu nghiệp phước đức, với tướng tốt-Sắc-Thanh có thể thấy-nghe. Hoặc giả có kẻ chấp cho chính là do Bồ-tát, khởi đầu từ phát tâm Bồ-đề, tu tập trải qua ba đại A-tăng-kỳ-kiếp, hành mười Địa viên mãn, vượt khỏi tâm Kim cang, lúc chứng đắc chủng trí, gọi là Báo Phật, có vô lượng tướng tốt, tức là là Pháp thân. Nên cho Pháp thân là do tu tập đạt được, nên cũng có thể thấy nghe.
Nay nghe nói riêng có Pháp thân Vô Vi, không phải là nhân chứng đắc, lại không thể dùng Sắc-Thanh để thấy nghe, nhân đấy sinh nghi vấn: Nếu Pháp thân là Thể không có các tướng, không thể thấy nghe, chẳng phải do tu tập nghiệp phước đức đạt được, thì các Bậc đại Bồ-tát, trải qua ba Đại A-tăng-kỳ kiếp tu tập về công đức trí tuệ, là nhân thù thắng của mười Địa được định rõ là có sở đắc hay là không sở đắc? Nếu định rõ là không sở đắc tức là nhân quả đều mất, đồng với kiến chấp Đoạn diệt của hàng Tiểu thừa, không có Bồ-đề có thể chứng đắc. Trước nói tất cả pháp thiện đạt được Tam Bồ-đề. Đây nói tức là mất hết. Nếu thế, đã không có Bồ-đề có thể chứng đắc, các vị Bồ-tát, vì sao nơi ba A-tăng-kỳ kiếp, luống tự khổ nhọc mà không đạt được kết quả gì? Chỗ tu trì phước đức là nhân thù thắng đã không mất, nhưng quả hãy còn ở chốn nào?
Có nghi vấn như thế, nên sắp giải thích nghi này, Phật hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Ý Tôn giả thế nào? Như Lai có thể dùng tướng thành tựu, chứng đắc Tam Bồ-đề chăng? Đây là Phật trở lại dùng chỗ nghi của người trước để hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề.
Chớ nên khởi niệm ấy! Là nhằm ngăn chận kiến chấp kia. Tôn giả chớ nên dấy khởi niệm ấy, cho Pháp thân Phật đồng nơi sắc tướng của Báo Phật, do tu tập phước đức có thể chứng đắc. Ở đây chưa là lời đáp chính thức. Nếu Tôn giả khởi niệm này: Bồ-tát phát tâm Tam Bồ-đề, nói tướng Đoạn diệt của các pháp. Nêu rõ Tôn giả Tu-bồ-đề nghi: Nếu không thể dùng tướng thành tựu chứng đắc Tam Bồ-đề, thì Bồ-tát với chỗ tu trì công đức trí tuệ làm nhân, rốt cuộc không có quả Bồ-đề có thể chứng đắc, như vậy thì nhân không có chỗ chiêu cảm, nên mất nhân phước, cũng mất quả báo. Nên gọi là: Nói tướng Đoạn diệt. Do vậy, ở đây chính là nói Bồ-tát phát tâm Tam Bồ-đề, lại nói tướng Đoạn diệt của các pháp.
Nhưng người của Tiểu thừa, do tự thân chứng đắc Niết-bàn thiêu thân diệt trí hoàn toàn tịch diệt, tức là do sở đắc của mình, đối chiếu nơi Bồ-tát, cho là cũng đồng sở đắc nên khởi tướng Đoạn diệt. Người Tiểu thừa này đến nơi pháp Bồ-tát, theo nơi chốn nào đến đều tạo nên ý Đoạn diệt. Có người của Đàm-vô-đức, Di-sa-tắc, hai nhà Tiểu thừa này, cho là khi lý giải được Nhẫn vô sinh của bậc Sơ Địa, xả bỏ tất cả chỗ tu tập công đức Địa tiền, cũng không thọ quả báo. Do đâu nói như thế? Người Tiểu thừa đoạn trừ phiền não nơi ba cõi, chấm dứt sinh tử phần đoạn thiêu thân diệt trí, nhập Niết-bàn vô dư. Thiện ác nhân quả, tất cả đều bỏ, đã thấy Bồ-tát Địa thứ nhất đoạn bỏ bốn trụ phiền não, ra khỏi sinh tử phần đoạn, ý cho là đồng với chỗ đã diệt thân, trí, cũng bỏ muôn hành trong nhân, cùng mất quả báo, nên nói là: Thuyết tướng Đoạn diệt của các pháp. Lại có một nhà, người của Đàm Vô Đức Tiểu thừa, chấp cho là đạt đến Địa thứ năm Địa thứ sáu, tạo mười bốn đế quán, khéo học Năm minh cùng mười thứ quán thuận nghịch về mười hai nhân duyên, mới chứng đắc Nhẫn vô sinh, đoạn trừ phiền não nơi ba cõi, ra khỏi sinh tử phần đoạn, thiêu thân diệt trí, nhập Niết-bàn vô dư. Bấy giờ, đồng với Tiểu thừa Đoạn diệt, nhân quả cùng mất.
Sau có một nhà thuộc trong phái Tát-bà-đa ( Nhất thiết hữu bộ) từ ngày ra hành đạo, cho là nơi Địa thứ bảy mới đạt được Nhẫn vô sinh, mới dứt hết phiền não nơi ba cõi, ra khõi sinh tử phần đoạn, đồng với Tiểu thừa xả bỏ thân trí, cũng không có cõi Tịnh của y báo.
Lại có một nhà Tiểu thừa, chấp cho là đến trong Địa thứ tám mới đạt được Nhẫn vô sinh, hiểu rõ chỗ không dụng công. Bấy giờ, mới ra khỏi ba cõi, xả bỏ thân trí, tất cả đều mất.
Sau cùng là một nhà, người của phái Tát-bà-đa, cho là trong Địa thứ mười mới chứng đắc A-na-hàm, đoạn trừ hết phiền não nơi ba cõi, sau tâm kim cang ra khỏi sinh tử phần đoạn, đạt A-la-hán, tức là gọi là Phật, nhập Niết-bàn vô dư, bỏ các công đức, diệt nơi thân-trí, nên nói là tướng Đoạn diệt.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Chớ khởi niệm ấy!… cho đến Nói tướng Đoạn diệt của các pháp: Đây chỉ là nhằm ngăn chận chỗ cảm nhận, nêu rõ không phải là Đoạn diệt, chưa chính thức giải đáp. Dựa trong phần luận tiếp sau thì nên có một hàng rưỡi.
Kinh nói: Vì sao Bồ-tát phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, đối với Pháp không nói tướng Đoạn diệt? Đây là chính thức đáp, giải thích vì sao ở trên, ta đã ngăn ông không nên nghĩ như vậy: Làm rõ Pháp thân Vô Vi xưa nay trong lặng, tuy lại không thể dùng tướng thành tựu do tu tập phước đức đạt được, nhưng Bồ-tát chứng đắc Nhẫn vô sinh của Địa thứ nhất, phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, cho đến phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề nơi quả vị Phật Vô Thượng, không phải là Đoạn diệt.
Nhẫn vô sinh này nơi tâm Bồ-đề Vô Thượng, sở dĩ gọi là không Đoạn diệt: Vì nêu rõ Bồ-tát, do nhân duyên trải qua một Đại A-tăng-kỳ kiếp, tu tập công đức trí tuệ với tám vạn bốn ngàn hành Ba-la-mật, đạt được Nhẫn vô sinh của bậc Sơ Địa, hiện ra rõ Pháp thân Vô Vi của Phật tánh. Do một Đại A-tăng-kỳ kiếp này, với công đức trí tuệ, tức là cùng với lý Pháp thân khế hợp sâu xa, hòa nhập nơi một quán, không thể phân biệt, nên nhân không mất.
Để được pháp Nhẫn vô sinh, nên có phần Thật báo xuất thế gian, trên Pháp thân Chân như với hai thứ Niết-bàn không còn lực dụng vuông tròn nữa, nên quả cũng không mất. Cho đến A-tăng-kỳ kiếp thứ hai-thứ ba, nhân quả đều như thế không mất. Do đấy, nói nơi các Pháp không thuyết tướng Đoạn diệt. Nay, Như Lai vừa nêu rõ Bồ-tát ở trong Địa thứ nhất chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, cho đến Địa thứ mười, với công đức vô lậu cùng quả báo tròn đủ, thảy đều không mất, không đồng với Tiểu thừa xả bỏ thân trí, mất quả báo vô lậu. Như thế, đạt được công đức vô lậu, có thể dung nạp công đức hữu lậu của hàng Địa tiền không mất. Pháp thế gian ấy, khi đạt được thắng giải xuất thế gian, nên bỏ công đức ấy, chưa rõ nhân hành Địa tiền là mất hay không mất? Nên đáp: Công đức thế gian cũng không mất. Vì sao thế? Vì chính do thiện thế gian đầy đủ mà đạt được thiện xuất thế gian rộng lớn. Công đức hữu lậu của hàng Địa tiền tạo nên công đức vô lậu của bậc Địa thượng, chuyển đổi thêm hơn. Bồ-tát, bấy giờ cảnh trí cùng hiện bày khắp, hòa nhập một quán, không thấy có thế gian-xuất thế gian, chủ thể soi chiếu, đối tượng được soi chiếu khác nhau. Chỉ có một vị Chân như; như muôn sông đổ về biển cả đồng một vị mặn, không có vị riêng của các sông, cũng không mất công đức của hàng Địa tiền, Địa thứ nhất đã thế, công đức chẳng mất. Cho đến Địa thứ mười, công đức vô lậu cùng với quả báo đều không mất. Ở đây là căn cứ nơi ba Đại A-tăng-kỳ kiếp, nơi ba thời đã biện biệt về nhân quả. Nếu lấy Địa tiền làm nhân, kiến đạo của pháp Nhẫn vô sinh nơi Địa thứ nhất là quả. Hoặc đạt được Địa thứ bảy rồi, trở lại tu đạo thắng hạnh làm nhân, trong Địa thứ tám , với pháp Nhẫn đại vô sinh, đạo không dụng công là quả. Hoặc tâm kim cang do trở lại hành không dụng công làm nhân, công đức của Phật địa là quả. Như nay giải thích rộng thì Địa-Địa cùng đối chiếu đều có nhân quả.
Nhân đấy sinh nghi vấn: Nếu chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh nơi Sơ Địa, cho đến Địa thứ mười công đức không mất, đều không phải là Đoạn diệt, thế thì có thể đạt được bao nhiêu công đức, là nhiều là ít?
Do có nghi vấn này, dẫn phước thí Hằng sa bảy báu để so sánh, làm rõ là phước đức đạt được hết sức nhiều, dùng để đối chiếu với công đức vô lậu của pháp Nhẫn vô sinh nơi bậc Sơ Địa, dù chỉ một niệm, thì trăm ngàn vạn ức không bằng một phần, nêu rõ công đức hữu lậu này hết sức là nhiều. Giả sử phước thí bảy báu là vô lậu, tức là rất nhiều, tuy nhiều, nhưng so với công đức của pháp Nhẫn vô sinh, dù chỉ một niệm thì cũng gấp trăm ngàn vạn ức hằng hà sa không thể ví dụ.
Nếu Bồ-tát nhận biết tất cả pháp Vô ngã: Tức là ở nơi pháp hữu vi như năm ấm của tất cả chúng sinh, hiểu rõ từ xưa đến nay, không có thần ngã, nhân cùng thọ giả, nên gọi là nhận biết tất cả pháp Vô ngã.
Đạt được Nhẫn vô sinh: Là hai thứ pháp nhân duyên, Chân như đều Vô ngã. Nêu rõ, Thể của pháp nhân duyên xưa nay không sinh, gọi là vô sinh. Thể của các Chân như xưa nay vắng lặng, dứt tuyệt tướng ngã, Vô ngã, gọi là vô sinh, cũng có thể gọi là không nơi ba tướng. Căn cứ nơi Địa thứ nhất mà nói nên gọi là pháp Nhẫn vô sinh. Do Bồ-tát này lý giải Nhẫn vô sinh nơi Chân như Vô ngã, không dấy khởi hai thứ tướng Vô ngã.
Lại có nghi vấn: Nếu hai thứ phước đức hữu lậu, vô lậu thảy đều không mất, thì Bồ-tát này chính là chấp giữ phước đức hữu lậu. Nếu chấp giữ phước đức hữu lậu làm nhân, thì nhận lấy quả báo của ba cõi. Nên Như Lai đáp: Do các Bồ-tát không chấp giữ phước đức. Ở đấy, lại căn cứ vào phần nổi bật mà đáp, nêu rõ Bồ-tát ở trong Địa thứ nhất không chấp giữ phước đức hữu lậu của thế gian. Tôn giả Tu-bồ-đề cũng dựa theo chỗ nổi bật để lãnh hội, nói do các Bồ-tát không chấp giữ phước đức như Phật đã chỉ rõ.
Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Bồ-tát thọ nhận phước đức nhưng không chấp giữ phước đức. Ở trên Tôn giả Tu-bồ-đề hầu như hiểu lầm ý Phật. Nghe nói Bồ-tát không chấp giữ phước đức, liền nghi cho là phước đức hữu lậu vô lậu thảy đều không chấp giữ. Nên Phật đáp: Này Tôn giả Tubồ-đề! Bồ-tát thọ nhận phước đức nhưng không chấp giữ phước đức.
Không chấp giữ phước đức: Nêu rõ chẳng phải là hoàn toàn không lấy, không nhận hết thảy phước đức hữu lậu-vô lậu mà chỉ là không chấp giữ phước đức hữu lậu, không phải là không thọ nhận phước đức vô lậu.
Nhưng Bồ-tát nếu được gọi là thọ nhận phước đức thì cũng có thể nói là giữ lấy phước đức. Nếu khiến có thể nói không giữ lấy phước đức thì cũng được nói là không thọ nhận phước đức. Vì sao nói Bồ-tát thọ nhận phước đức? Đây là biện minh cùng nương tựa trực tiếp để làm rõ tên gọi. Lại giải thích: Vì sao chỉ nói thọ nhận, không nói giữ lấy phước đức? Là sợ có sự lẫn lộn với giữ lấy của chấp giữ tướng, nên chỉ nói mỗi việc thọ nhận phước đức, không nói giữ lấy.
Do đó Bồ-tát giữ lấy phước đức. Là nêu rõ giữ lấy phước đức vô lậu xuất thế gian. Cũng có thể nói: Do đó Bồ-tát không giữ lấy phước đức.
Nhưng ở đây được nói giữ lấy phước đức: Nên biết rõ Tôn giả Tubồ-đề nói không giữ lấy, là theo chỗ nổi bật mà nói. Do đó biết cũng có thể nói giữ lấy-thọ nhận, không giữ lấy-không thọ nhận.
Luận viết: Có người khởi tâm như thế v.v… Tức là nêu chỗ sinh nghi, ý của phần đáp lại không khác trong kinh.
Một đoạn này luận dùng hai kệ để giải thích:
Một kệ đầu nêu ý hỏi đáp để giải thích nghi, nêu rõ, Bồ-tát lúc đạt được Nhẫn vô sinh, không mất nhân quả, không phải là Đoạn diệt.
Kệ thứ hai, giải thích nêu dẫn dụ để so sánh không bằng phước đức vô lậu. Trong đoạn kinh trên có nghi. Nay hỏi làm sao đoạn trừ nghi, tức là nêu kệ đáp:
“Không mất nhân công đức,
Cùng quả báo thù thắng”.
Hai câu này giải thích: Chớ nên nghĩ như thế, nói tướng Đoạn diệt của các pháp nơi đoạn kinh trước, làm rõ Bồ-tát chứng đắc Nhẫn vô sinh nơi bậc Sơ Địa, không mất chỗ tu tập muôn hạnh trong một A-tăng-kỳ kiếp. Ở đây biện biệt, chính nhờ nơi công đức của hàng Địa tiền làm nhân mới đạt được thắng giải vô lậu đích thực của Địa thứ nhất, nên không mất nhân. Tuy nhiên, từ Địa thứ nhất trở lên, là pháp Nhẫn vô sinh xuất thế gian, phước đức thù thắng vô lậu, không giống với hàng Nhị thừa thiêu thân tận diệt, nên cũng không mất quả báo. Tuy nói không mất nhân, chẳng mất quả, mà chưa rõ không mất vào lúc nào, nên câu thứ ba đáp: Đạt thắng nhẫn, không mất.
Từ đây trở xuống, nửa kệ giải thích vượt phần trong kinh: Nếu có Bồ-tát đạt được Nhẫn vô sinh thì hơn hẳn phước đức nêu trước v.v… tức là hiện rõ Bồ-tát chứng đắc Nhẫn vô sinh thù thắng của Địa thứ nhất, cho đến lúc hành trì mười Địa viên mãn, đạt được quả vị Phật, cũng không mất nhân quả.
Lúc chứng đắc Nhẫn thù thắng, vì sao không mất? Câu thứ tư nói: Do được quả vô cấu.
Là nêu rõ, Địa thứ nhất đoạn trừ hai chướng, khi đạt được pháp tánh vô lậu xuất thế gian nơi Báo thân, với cõi Tịnh chân thật, quả vô cấu, thì càng vượt hơn thêm sáng, nên không mất.
Cũng tướng phước đức thắng.
Nên lại nói thắng dụ.
Hai câu này giải thích phần kinh nói về phước đức bảy báu nơi Hằng sa thế giới ở trước, nêu rõ sở dĩ nêu dẫn dụ này là nhằm so sánh để hiển bày phước đức vô lậu thù thắng, tức là là chứng nhận phước đức vô lậu không mất.
Phước đức ấy không báo. Là nửa sau của kệ, giải thích: Do các Bồtát không chấp giữ phước đức, tiếp xuống nơi kinh. Phước đức ấy: Là phước đức vô lậu thù thắng.
Không báo: Nêu rõ phước đức vô lậu thù thắng này không có quả báo hữu lậu của thế gian.
Như vậy, nhận không giữ: Như vậy là thọ nhận phước đức vô lậu thù thắng. Như vậy là không giữ lấy phước đức hữu lậu, thọ nhận-giữ lấy, không thọ nhận-không giữ lấy, về nghĩa giống như trước.
Nghĩa này như thế nào? Tuy không dựa vào phước đức… đến Công đức trang nghiêm; là giải thích hai câu trên của kệ trước, làm lời đáp cho ý nghi, nêu rõ là không Đoạn diệt.
Vì sao dựa vào phước đức kia để nói lần nữa về thí dụ? Là dùng hai câu trên của kệ sau để hỏi về ý của dụ được dẫn. Tức là dùng hai câu sau của kệ đầu đáp lại. Kệ nói: Được thắng nhẫn không mất. Do được quả vô cấu: Làm rõ chỗ so sánh của thí dụ khi đạt được Nhẫn vô sinh, nhân quả không mất, không phải là nghĩa Đoạn diệt.
Nghĩa này như thế nào? Là hỏi dẫn phước thí châu báu ấy để đối chiếu, nói Bồ-tát lúc đắc Nhẫn vô sinh, đạt được nhiều phước đức, chẳng phải là nghĩa Đoạn diệt.
Vì sao có người khởi tâm như thế, tiếp xuống…đến Do đó không mất. Là nêu người nghi nghĩ về chỗ mất nhân quả. Vì nhằm ngăn chận, dứt bỏ nghi này, nên dẫn thí dụ để đối chiếu, làm sáng tỏ lúc chứng đắc Nhẫn vô sinh không Đoạn diệt, không mất nhân quả.
Như kinh nói: vì sao?…đến Không nói tướng Đoạn diệt: Là nêu dẫn kinh để tóm kết. Nhưng đoạn kinh văn này, người dịch kinh trước đã bỏ sót, dựa vào chỗ dẫn của luận ở đây, nên biết rõ là có.
Nếu lại có Bồ-tát, biết tất cả pháp Vô ngã, chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Tức là sắp giải thích đoạn kinh này nên nêu ra.
Có hai thứ Vô ngã, không sinh hai tướng Vô ngã: Tức là giải thích: Biết hết thảy pháp Vô ngã nơi kinh ở trước.
Vì thế nhận không giữ: Là Bồ-tát, lúc đạt được Nhẫn vô sinh, có sự hiểu biết về hai thứ Vô ngã, nhưng không sinh hai thứ tướng Vô ngã, chỉ thọ nhận công đức của Nhẫn vô sinh nơi Địa thượng, không giữ lấy công đức hữu lậu của hàng Địa tiền. Câu nầy xác nhận có ở trên sinh nghĩa dưới.
Như kinh tiếp xuống: Là nêu dẫn kinh để tóm kết.
Vì sao Bồ-tát thọ nhận phước đức, không giữ lấy phước đức? Là luận chủ hỏi về chỗ kinh vừa tóm kết.
Nếu Bồ-tát thọ nhận phước đức: Tức là là giữ lấy phước đức kia. Vì sao nói thọ nhận, mà lại nói không giữ lấy? Nên nêu kệ:
Phước đức ấy không báo,
Như vậy nhận không giữ.
Lấy đó để giải thích.
Nghĩa này là thế nào? Tiếp xuống: Là luận chủ giải thích nửa kệ vừa nêu.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Nếu có người nói: Như Lai hoặc đến hoặc lại, hoặc đi-đứng-ngồi-nằm, người ấy không hiểu nơi nghĩa ta đã giảng nói… Đây là đoạn kinh văn thứ 15 trong phần đoạn trừ nghi. Sở dĩ được nêu dẫn, vì trước đã giải thích rộng về Pháp thân Như Lai, xưa nay nhất định, Thể dứt tuyệt muôn tướng, trong lặng, thường trụ, không phải do tu tập mà đạt được. Tiếp theo đoạn trước, nêu rõ Bồ-tát đạt được thắng giải xuất thế gian, thọ nhận phước đức vô lậu, không giữ lấy phước đức hữu lậu thế gian. Có người nhân đấy sinh nghi. Bồ-tát lúc từ gốc nhân nơi Địa, phát tâm hứa độ tất cả chúng sinh, chỗ tu tập thiện căn của mình, cùng với hết thảy chúng sinh là chung. Nghi nêu: Nếu các Bồtát đạt được Pháp thân chân thật, ra khỏi thế gian, thọ nhận quả báo vô lậu, không nhận quả báo hữu lậu của ba cõi. Chúng sinh ở thế gian thọ nhận quả báo hữu lậu, không thọ nhận quả báo vô lậu. Nhưng quả báo của trời-người cũng là pháp trong ba cõi. Người hãy còn không được thọ nhận quả báo của hàng trời, huống chi là phước đức vô lậu nơi quả báo xuất thế gian, được chúng sinh thọ dụng. Như vậy, thế gian, xuất thế gian rõ ràng có khác. Vì sao các Bồ-tát, tu tập thiện căn, khiến chúng sinh thọ dụng được lợi ích ấy? Theo đấy mà xét, Bồ-tát tuy ra khỏi ba cõi, đạt được Pháp thân chân thực, cũng còn có đi-đến, hóa độ muôn vật, thọ quả báo nơi ba cõi, rõ ràng không phải là ở ngoài thế gian đi-đến. Nếu không đi-không đến, phước đức của Bồ-tát, chúng sinh không thể thọ dụng, thì Bồ-tát đối với sự phát nguyện ấy, không có lợi ích.
Vì đoạn trừ nghi vấn này, nên đáp để nêu rõ chư Phật, Bồ-tát với Pháp thân chân thật, tuy không đến, không đi, mà Ứng thân theo cảm, đến-đi để hóa độ muôn vật, chúng sinh đạt được lợi ích chân thật không dối. Như thế, tức là thiện căn của Bồ-tát, chúng sinh thọ dụng, bản nguyện là không dối. Không phải cho là Pháp thân có đến-đi-ngồi-nằm, đủ bốn thứ oai nghi để giáo hóa chúng sinh, do đấy phần tiếp theo là biện minh.
Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Nếu có người nói Như Lai hoặc đến hoặc điv.v…Người ấy không hiểu được nghĩa ta đã giảng nói: Tức là có người thấy Ứng Phật đến-đi, theo chỗ cảm mà thuyết pháp, tạo lợi ích cho muôn vật, cho tức là là Chân Phật, có đủ bốn oai nghi đi-đến v.v…theo chỗ cảm thọ nhận báo nơi ba cõi, ở đời hóa độ muôn loài. Nên nói: Người ấy không hiểu được nghĩa Như Lai đã giảng nói. Làm rõ, người ấy không lãnh hội được chỗ Như Lai nói về nghĩa đồng nhất dị biệt của ba Phật.
Nhân đấy sinh hai thứ nghi. Kệ nơi phần sau luận sinh khởi ý nghi đó, trong dụ về vi trần đã giải thích.
Vì sao, Như Lai là không nơi đi-đến, không từ đâu đến? Đây là giải thích phần kinh ở trước. Vì sao cho là Như Lai có đi-đến, ngồi-nằm?
Không hiểu được nghĩa Như Lai đã nêu giảng. Do thấy Ứng thân có đi-đến theo chỗ cảm mà hóa độ các loài, cho là Pháp thân cũng thế, nên nói là không hiểu. Tức là nêu rõ Ứng thân Như Lai có đến có đi, còn Pháp thân thì không đi không đến. Nếu căn cứ nơi hai Phật Ứng-Báo thì có thể nói là Như Lai. Còn dựa theo Pháp thân Phật mà bàn thì không nên nói Như lai, chính phải nói là Như trụ. Sở dĩ như thế là vì, nói về Báo Phật là có thể nói khởi đầu từ tâm Bồ-đề, tu tập, hành trì mười Địa, nhờ nơi nhân hướng tới quả, dùng quả đối chiếu nhân, được gọi là Như Lai, đã có Chân báo tất có ảnh tượng, nên Ứng Phật theo chân, cũng được gọi là nhờ nơi nhân hướng tới quả, gọi là Như Lai. Nhưng Pháp thân Phật xưa nay trong lặng, Thể tánh viên mãn, không phải là phải do tu tập mà chứng đắc, không thể nói là nhờ nơi nhân hướng tới quả, nên chính có thể gọi là Như trụ, không được gọi là Như Lai.
Vì sao Như Lai là không chỗ đi đến, không nơi từ đâu lại? Pháp thân Như Lai không từ đây đến kia để nhập Niết-bàn, nên nói là không chỗ đi đến. Không từ kia đến đây, tới nơi thế gian để giáo hóa chúng sinh, nên gọi là không nơi từ đâu lại.
Nên gọi là Như Lai: Dựa theo bản tiếng Phạm, gọi là Đa-đà-a-giàđộ, Hán dịch là Như trụ. Ở đây nên nói là Như trụ, song do y theo chỗ dịch của Thập Công ngày trước, nên trở lại giữ lấy hiệu Như Lai.
Một đoạn kinh này, luận dùng hai kệ để giải thích:
Kệ thứ nhất giải thích nghi, tức là giải thích phần trong kinh: Hoặc đi-đến-ngồi-nằm v.v…đến. Không hiểu được nghĩa ta đã giảng nói.
Kệ thứ hai giải thích phần trong kinh: Vì sao thế? Tiếp xuống, nêu ra hai nghi trong kinh, sinh dụ về vi trần tiếp sau nơi kinh.
Câu đầu nói: Là phước đức Ứng-Báo.
Ở trên nghi nêu: Bồ-tát đạt được Chân Pháp thân, lìa nơi thế gian, không thọ báo nơi ba cõi, không đến-đi, vậy chúng sinh làm sao thọ dụng được phước đức của Bồ-tát? Nên dùng kệ đáp:
Là phước đức ứng, báo
Vì hóa độ chúng sinh
Phước đức là do Bồ-tát tu tập thiện căn
Ứng-Báo: Vì hóa độ chúng sinh, nên hiện thân nhập nơi ba cõi, giáo hóa theo ba nghiệp, khiến chúng sinh đạt được lợi ích. Như thế, tức là là phước đức của Bồ-tát cùng với chúng sinh cùng thọ, không phải cho là Pháp thân có đến-đi.
Người vấn nạn nói, trên đây đã giải thích rộng về Pháp, Báo hai Phật trong lặng thường trụ không đến-không đi, đã không tâm đến-đi thì do đâu có Ứng Phật này, đến-đi để hóa độ muôn loài? Nếu thế, như cầu chư Phật là có tâm đến-đi, hay là không có tâm đến-đi? Nên nửa sau kệ đáp:
Nghiệp tự nhiên như thế,
Chư Phật hiện mười phương.
Biện minh: Chư Phật đã thành đạo rồi, do diệu lực của bản nguyện, nên tùy chỗ cảm của chúng sinh, tự nhiên Ứng thân hiện hữu khắp mười phương cõi, giáo hóa chúng sinh, không đợi tác ý mới có đến-đi.
Nghĩa này như thế nào? Tức là nêu rõ chư Phật hóa thân có dụng, giải thích hai câu trên nơi kệ, tạo lời đáp cho ý của nghi vấn, làm sáng tỏ tuy Pháp thân không đến-đi, nhưng diệu dụng thì hóa thân có đến-đi, tạo lợi ích cho mọi loài.
Kệ nói tiếp xuống: Là dùng nửa sau của kệ để giải thích, xác nhận nửa kệ trên.
Hai câu đầu của kệ thứ hai viết:
Hóa thân Phật đến-đi,
Như Lai thường bất động.
Hóa thân Phật đến-đi: Là nhắc lại kệ trước, làm rõ Ứng Phật có đến-đi.
Như Lai thường bất động. Chính là giải thích phần trong kinh: Vì sao Như Lai là không nơi đi-đến, không chốn từ đâu tới? Lại muốn nhân đó tạo ra ý nghi, sinh dụ về vi trần tiếp sau, đối chiếu về vô lượng bảy báu chưa bằng, nơi văn kinh nêu rõ, cúng dường Ứng Phật cùng thọ trì giáo pháp thuyết giảng, so với Chân Phật không khác. Nửa kệ sau chính là phát sinh dụ về vi trần, biện minh về ba Phật không đồng nhất-dị biệt.
Do đâu tạo ra nửa kệ trên ấy? Do kinh văn nơi phần tiếp sau so sánh về phước thí bảy báu. Có người nhân nơi đoạn kinh trước, sinh nghi thứ nhất. Nếu Pháp thân Phật không đến-không đi, còn Ứng Phật thì có đếncó đi, tùy chỗ cảm nơi thế gian, vì chúng sinh cúng dường được phước, tức là là Bồ-tát nhân nơi phước đức của Địa mình, chúng sinh thọ dụng, thì nghĩa này không đúng. Vì sao không đúng? Do Ứng Phật ấy hóa thân đến-đi không có Thể thật.
Lại nữa, trong đoạn kinh thứ năm ở trên, nêu rõ Ứng Phật có ba tướng sinh-trụ-diệt, nên không phải là Phật. Tiếp theo, nơi đoạn kinh thứ sáu, nêu rõ Ứng Phật không phát tâm, tu hành, chứng quả, thuyết pháp. Ở đây, nên là hoàn toàn không phải Phật, do ba nơi kinh ấy mà thuyết, thì Như Lai với thân một trượng sáu đúng chẳng phải là Phật. Nếu chẳng phải là Phật thì vì sao cúng dường Ứng Phật thì chúng sinh thọ dụng phước đức của Bồ-tát?
Lại nếu cúng dường Ứng Phật đạt được phước đức, thì so với cúng dường Chân Phật có khác biệt gì?
Có nghi vấn như thế, nên luận chủ đặt ra nửa kệ này, phát khởi ý của nghi. Đây là nêu rõ Ứng thân có đến-đi, còn Pháp Báo thì trong lặng, không đi-đến v.v… nên viết là: Thường bất động.
Nhân đấy nên sinh nghi thứ hai: Nếu Ứng hóa Phật có đến-đi, hai Phật Pháp-Báo thì không đi đến, vì ba Phật ấy là một xứ trụ, như chúng tăng tại tăng đường, là khế hợp ngầm nên nghĩ, làm là một, không thể phân biệt, hay là hiển nhiên với trụ xứ khác biệt, như phương Đông với Phật A-súc, phương Tây có Phật Vô Lương Thọ. Nếu kết hợp làm một, thì không nên có đến-đi, không đến-không đi khác nhau. Nếu rõ ràng dị biệt, tức là ba Phật có thể riêng. Điều ấy là thế nào? Do đó, nửa kệ sau đáp:
Nơi chốn pháp giới ấy,
Chẳng một cũng chẳng khác.
Đây là nêu rõ, ba Phật ở trong pháp giới Chân như, không thể nói nhất định là dung hợp là một, một xứ tụ tập, an trụ; cũng không thể nói là rõ ràng có khác biệt. Lại lúc lãnh hội một thì đối với pháp giới chẳng phải là một, cũng chẳng phải là khác. Đây là luận chủ giả nêu ra hỏi. Pháp: là nhằm sinh khởi thí dụ về vi trần ở sau. Vì sao sinh khởi phần sau? Ở trên đã giải thích rộng về hai Phật Pháp Báo chẳng đồng nhất chẳng dị biệt, cũng chung cho Ứng Phật, chẳng một-chẳng khác. Lại nữa, trong đoạn kinh này đã nêu rõ hai Phật pháp báo không đến không đi, còn Ứng Phật thì có đến-có đi. Nhân đấy sinh nghi: Nếu hai Phật Pháp, Báo không có đến-đi, tức là là thường trụ, Ứng Phật có đến-đi nên là vô thường. Như thế thì ba Phật này là một hay là khác? Lại nhân đấy sinh nghi: Mười phương chư Phật, lúc đoạn trừ Hoặc, chứng đắc quả, ở trong chân pháp giới, là một xứ tụ tập, an trụ, là dung hợp làm một, hay là rõ ràng có trụ xứ dị biệt, cùng với hết thảy chúng sinh hiện có Phật tánh Chân như, là một là khác, là nhiều là ít?
Có nghi vấn như vậy, nên nơi hai câu kệ này đã dẫn đủ chỗ nghi về nghĩa một-khác vừa nêu. Giả nêu hỏi-đáp là nối kết hướng đến sau. Câu: “Nơi chốn pháp giới ấy” là hỏi về ý của nghi vấn: Ba Phật này, lúc đoạn trừ hết phiền não, ở trong pháp giới Chân như, là một trụ xứ hay là khác trụ xứ? Nên câu kệ thứ tư đáp:
Chẳng một cũng chẳng khác.
Ý của người đáp nêu rõ, chư Phật tuy thành đạo, đoạn trừ phiền não, thì ba Phật này, ở trong pháp giới Chân như, không thể nói là một trụ xứ-khác trụ xứ. Đây là biện minh về không đến-không đi, đến không chỗ đi đến, không chốn từ đâu tới. Giải Thích-câu thứ hai của kệ là dùng kinh tóm kết.
Nghĩa này như thế nào? Tiếp xuống: Là nêu hỏi đáp để giải thích kinh về nghĩa Như Lai là Như trụ.