LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO
Vô Trước Bồ-tát tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 19

Phẩm 11 – 3: NHIẾP THẮNG QUYẾT TRẠCH

Luận nói: Như vậy đã nói giới sự quyết trạch xong. Trong tạp nhiễm sự thắng quyết trạch, nay sẽ nói trước phiền não tạp nhiễm thắng quyết trạch.

Luận nói:

Ý tương ưng 4 hoặc,

Biến hành mà câu khởi.

Vô ký diệt sau cùng,

Tùy chỗ sinh ra tính.

Luận nói: Phải biết ý tương ưng phiền não, biến hành khắp các vị, cùng tất cả tâm hữu lậu thiện, đồng thời khởi hiện hành mà không mâu thuẫn. Lại nữa phiền não này đồng thời cùng sinh, không phân biệt khởi. Tính của nó là hữu phú vô ký, không phải tính bất thiện. Cuối cùng đến định Kim cương dụ thì đoạn dứt một cách mau chóng. Lại nữa phiền não này có 4 thứ đó là vô minh, Tát-ca-da kiến, ngã mạn, ngã ái. Nếu Bổ-đặc-già-la sinh trong thế giới này thì ý này tương ưng phiền não, tức gồm nhiếp trong thể tính của thế giới này.

Lại nữa tụng nói:

Tất cả sinh liên tục,

Hiện khởi cùng với duyên.

Tùy miên cảnh thô trọng,

Sai biệt có 20.

Luận nói: Nếu sinh ở cõi này, tức cõi đất này thì tất cả phiền não sinh liên tục. Lại nữa, phiền não tạp nhiễm này hoặc hiện hành, hoặc duyên, hoặc tùy miên, hoặc duyên cảnh, hoặc thô trọng, phải biết có 20 tướng phiền não. Hiện hành có 20 thứ:

1. Tùy sở dục trói buộc hiện hành, là người tại gia.

2. Không tùy sở dục trói buộc hiện hành, là người xuất gia.

3. Không rõ ràng, là ở người thuyết pháp tồi.

4. Rõ ràng, là ở người thuyết pháp giỏi.

5. Tăng thượng lẫn nhau, là tham v.v… các hành.

6. Đều bình đẳng, là đẳng phần hành.

7. Vi bạc, là bạc trần hành.

8. Ngoại môn trói buộc hiện hành, là người chưa ly dục.

9. Nội môn trói buộc hiện hành, là người do thế gian đạo ly dục.

10. Tăng thượng trói buộc hiện hành, là các phàm phu.

11. Mất niệm trói buộc hiện hành, là các hữu học.

12. Phân biệt trói buộc hiện hành, là người chấp trước cứng nhắc.

13. Câu sinh trói buộc hiện hành, là người không chấp trước cứng nhắc.

14. Quán sát hiện hành, là người thích quán sát.

15. Không tự tại hiện hành, là người ngủ.

16. Tự tại hiện hành, là người giác ngộ.

17. Không thể cứu được hiện hành, là người không có pháp Niết-bàn.

18. Có thể cứu được hiện hành, là người có pháp Niết-bàn.

19. Thủ tướng hiện hành, là người tư duy tìm kiếm tùy theo pháp mà thủ lấy tướng mạo.

20. Không thủ lấy tướng mạo hiện hành, là người không tư duy tìm kiếm theo pháp thủ lấy tướng mạo.

Phiền não có 20 thứ: 1. Vui. 2. Khổ. 3. Không khổ không vui. 4. Dục. 5. Tìm kiếm. 6. Xúc. 7. Trước đã tập quen. 8. Tùy miên. 9. Không gần gũi bạn lành. 10. Không nghe chính pháp. 11. Không tác ý như lý. 12. Không tin. 13. Biếng nhác. 14. Mất niệm. 15. Tán loạn. 16. Không biết đúng. 17. phiền não phóng túng. 18. Tính phàm phu. 19. Do ly dục. 20. Do thụ sinh.

Phiền não tùy miên có 20 thứ: 1. Tùy miên trong bất định. 2. Tùy miên trong định. 3. Tùy miên trong cảnh của chính nó. 4. Tùy miên theo cảnh khác. 5. Tùy miên bị tổn. 6. Tùy miên chưa bị tổn. 7. Tùy miên tùy thuận. 8. Tùy miên không tùy thuận. 9. Tùy miên đầy đủ. 10. Tùy miên khuyết giảm. 11. Tùy miên có thể hại. 12. Tùy miên không thể hại. 13. Tùy miên tăng thượng. 14. Tùy miên bình đẳng. 15. Tùy miên mong manh. 16. Tùy miên có giác tỉnh. 17. Tùy miên không giác tỉnh. 18. Tùy miên sinh nhiều khổ. 19. Tùy miên sinh ít khổ. 20. Tùy miên không sinh khổ.

Phiền não duyên cảnh có 20 thứ: 1. Duyên cảnh có sự. 2. Duyên cảnh không sự. 3. Duyên cảnh tự tướng. 4. Duyên cảnh tướng chung. 5. Duyên cảnh hiện thấy. 6. Duyên cảnh không hiện thấy. 7. Duyên cảnh ngoại môn. 8. Duyên cảnh nội môn. 9. Duyên cảnh phiền não tự loại. 10. Duyên cảnh phiền não loại khác. 11. Duyên cảnh chính nó. 12. Duyên cảnh khác. 13. Duyên cảnh không. 14. Duyên cảnh hữu lậu. 15. Duyên cảnh vô lậu. 16. Duyên cảnh hữu vi. 17. Duyên cảnh vô vi. 18. Duyên cảnh tự tâm phân biệt. 19. Duyên cảnh nghĩ nhớ phân biệt. 20. Duyên cảnh sự tướng.

Thô trọng có 20 thứ: 1. Tính chấp thô trọng. 2. Tính phiền não thô trọng. 3. Tính nghiệp thô trọng. 4. Phiền não chướng thô trọng. 5. Sở tri chướng thô trọng. 6. Định chướng thô trọng. 7. Nghiệp chướng thô trọng. 8. Báo chướng thô trọng. 9. Cái chướng thô trọng. 10. Bất chính tầm tư thô trọng. 11. Sầu não thô trọng. 12. Sợ sệt thô trọng. 13. Mệt nhọc thô trọng. 14. Ăn thô trọng. 15. Ngủ chiêm bao thô trọng. 16. Dâm dục thô trọng. 17. Đại chủng nghịch nhau thô trọng.18. Giờ giácthay đổi thô trọng. 19. Chết thô trọng. 20. Biến hành thô trọng.

Lại nữa, nếu lược nói biết phiền não là do 5 thứ tướng. Đó là tướng tự thể, tướng nhân, tướng phẩm loại, tướng tâm loạn cảnh và tướng quả.

Lại nữa thế nào là phiền não tùy miên và bất thiện?

Tụng nói:

Là tùy thuận tự sinh,

Là chủng tử cố sự,

Là sinh 4 lầm lỗi,

Là 3 nhân bất tịnh.

Luận nói: Do 4 nhân nên gọi là tùy miên: 1. Tùy thuận tự sinh. Nghĩa là nếu phiền não tùy thuận với phiền não này. 2. Chủng tử tùy trói buộc. 3. Kia tăng thượng. 4. Sinh 4 lỗi lầm. Bốn lỗi lầm là: 1. Lỗi lầm không tịch tĩnh. 2. Lỗi lầm sai biệt. 3. Lỗi lầm phát hành. 4. Lỗi lầm tiếp nhận nhân. Trong đây 1 do 2 được rõ, 3 do 4 được rõ.

Hỏi: Làm sao biết tướng của bất thiện phiền não?

Đáp: Do 3 nhân. Đó là vì mãnh liệt quá, vì não loạn hữu tình, vì có khả năng chướng ngại thiện pháp.

Lại nưa, nay sẽ nói đến nghiệp tạp nhiễm thắng quyết trạch.

Tụng nói:

Nghiệp tư và tư dĩ,

Sai biệt có 13.

Quả kia 6, 3 vị,

Nghiệp quyết định 5 thứ.

Luận nói: Nếu lược nói, nghiệp có 2 thứ là tư và tư dĩ. Nghiệp này lại có 13 thứ khác nhau: 1. Nghiệp thân. 2. Nghiệp ngữ. 3. Nghiệp ý. 4. Nghiệp gồm trong luật và oai nghi. 5. Nghiệp không gồm trong luật và oai nghi. 6. Nghiệp đều không gồm cả hai. 7. Nghiệp phúc. 8. Nghiệp chẳng phải phúc. 9. Nghiệp bất động. 10. Nghiệp hắc hắc dị thục. 11. Nghiệp bạch bạch dị thục. 12. Nghiệp hắc bạch hắc bạch dị thục. 13. Nghiệp phi hắc bạch không dị thục có thể hết các nghiệp.

Như vậy nghiệp có 6 thứ quả và 3 thứ vị. Sáu thứ quả là quả khả ái, quả không khả ái, quả thanh tịnh, quả dị thục, quả đẳng lưu, quả tăng thượng. ba vị là tác dụng vị, tập khí vị, quả vị. Lại nữa, như vậy nghiệp có 5 thứ quyết định: 1. Hiện pháp chịu quyết định. 2.Sinh chịu quyết định. 3. Sau sai biệt chịu quyết định. 4. Chịu báo quyết định. 5. Tác nghiệp quyết định.

Lại nữa tụng nói:

Tự nghiệp có 4 thứ,

Đây tiên thục cũng 4.

Lại phải biết 9 thứ,

Tức 2 thứ sai biệt.

Luận nói: Như Bạc-già-phạm nói: Ma-nạp-bà phải biết tất cả hữu tình tự nghiệp, sở tác nghiệp là tránh bản, tùng nghiệp, sở sinh nghiệp là y thú. Như vậy nghiệp này , tự sở tác nghiệp có 4 thứ: tự có khả năng tương tục với quả, năng trị sở trị hiện tiền, từ đời quá khứ sinh đời hiện tại, vì vị lai hữu. Vì nghiệp hết nên gọi là nghiệp y thú.

Lại nữa nghiệp báo này có 4 thứ trước sau báo thục: Tiên hậu báo thục, tức là nghiẹp năng trước nhất báo thục. Tiếp đến là gần nhất. Tiếp đến là tập quen thường xuyên. Sau là tiên tác giả.

Lại nữa nghiệp không thể đoạn là dị thục quyết định, nếu bất định nghiệp báo thì ở ly dục đoạn không thể gây chướng ngại. Lại nữa các ngoại đạo khởi kiến như vậy, luận nói như vậy, tùy các chúng sinh tạo tác các nghiệp, hoặc lạc câu hành, hoặc khổ câu hành, chỗ chịu quả dị thục cũng như vậy. các ngoại đạo kia đều vọng chấp. Bởi vì sao? Vì đều chịu đủ cả hai. Nghĩa là các nghiệp thiện cũng chịu quả báo khổ cũng được quà báo vui, và nghiệp bất thiện cũng vậy.

Lại nữa, phải biết nghiệp dựa vào 2 căn nên thành tính thiện và bất thiện. Nghĩa là dựa vào thiện căn nên khởi các nghiệp thiện, dựa vào bất thiện căn nên khởi nghiệp bất thiện.

Lại nữa, phải biết tướng sai biệt của nghiệp thiện bất thiện là do 9 nhân: 1. Do nhân và ruộng, nghĩa là do căn thiện bất thiện và tôn trọng v.v… mà ruộng có sai biệt. 2. Do sự, nghĩa là do sự viên mãn không viên mãn. 3. Do phương tiện, nghĩa là do phương tiện ân trọng không ngớt. 4. Do y chỉ, nghĩa là do y chỉ tịnh hoặc bất tịnh. 5. Do tác ý, nghĩa là do mãnh lợi tịnh tín và tăng thượng triền. 6. Do dục giải, nghĩa là hồi hướng nguyện cầu quả báo hơn kém. 7. Do trợ bạn, nghĩa là do nhiếp thụ các pháp thiện bất thiện khác. 8. Do nhiều tu tập, nghĩa là tự tu hành và dạy người tu hành, tán thán tùy hỷ, thấy người đồng đạo tâm sinh vui mừng. 9. Do nhiều người, nghĩa là cùng nhiều người cùng hành nghiệp này.

Lại nữa, nay sẽ nói về sinh tạp nhiếm thắng quyết trạch.

Tụng nói:

Mạng chung định bất định,

Trung yểu do 6 nhân.

Minh liễu vị 3 tâm,

Trung hữu hoặc hữu vô.

Luận nói: Có 2 thứ mạng chung: một quyết định, là Bắc thắng thượng châu, hai không quyết đinh, là các nơi khác. Lại nữa trung yểu là do 6 nhân: 1. Vi không lánh, bất bình. 2. Vì quên mất niệm. 3. Vì ý uất giận. 4. Vì thọ mạng chấm dứt. 5. Vì hết nghiệp. 6. Vì hết phúc. Lại nữa khi mạng chung có 3 thứ tâm là tâm thiện tâm bất thiện và tâm vô ký. Đây là trường hợp tâm đang sáng suốt rõ ràng. Nếu đến lúc không sáng suốt rõ ràng thì chắc chắn chỉ có vô ký. Lại nữa sau khi mạng chung hoặc có trung hữu, nghĩa là người sắp sinh cõi có sắc, hoặc không có trung hữu là người sắp sinh cõi vô sắc.

Lại nữa tụng nói:

Y dư hữu sở duyên,

Tâm nhiễm ô sinh khởi,

Trong 4 thứ loài sinh,

Và tam giới ngũ thú.

Luận nói: Y chỉ các trung hữu, duyên sinh xứ là cảnh. Tâm nhiễm ô sinh khởi khiến sinh có tương tục. Lại trong 4 loài sinh chịu các sinh tử là sinh trứng, sinh bào thai, sinh nơi ẩm ướt, biến hóa sinh. Lại nữa ở trong 3 cõi Dục, Sắc, Vô sắc và ở địa ngục v.v…ngũ thú chịu các sinh tử.

Như vậy hoặc chết, hoặc sinh, hoặc nơi ở, đã nói rõ nghĩa sinh tạp nhiễm thắng quyết trạch. Nay sẽ nói đến đế sự quyết trạch.

Tụng nói:

Phải biết thế tục đế,

Ý giải nghĩa và nói.

Tịnh sở duyên tính kia,

Phương tiện là thắng nghĩa.

Luận nói: Tất cả ngôn thuyết và nhân đó ý hiểu được nghĩa, đều gọi là thế tục đế. Nếu thanh tịnh sở duyên, nếu tính thanh tịnh, nếu phương tiện đó , đều gọi là thắng nghĩa đế. Thanh tịnh sở duyên, là 4 thánh đế và chân như. Tính thanh tịnh, là diệt đế thanh tịnh. Phương tiện, là đạo đế.

Lại nữa tụng nói:

Phải biết 4 thứ đây,

Gồm có tịnh và nhiễm.

Chưa thấy chưa từng thụ,

Như bệnh, bệnh diệt nhân.

Luận nói: Phải biết 4 đế gồm 2 pháp nhiễm ô và thanh tịnh. Hai thứ nhiễm ô như quả, như nhân, thì thanh tịnh cũng vậy. Như vậy 4 đế, tất cả hữu tình từ vô thủy đến nay chưa như thật thấy 2 đế diệt đạo, cũng chưa từng trải. Lại như bệnh, bệnh diệt và 2 nhân kia kiến lập 4 đế: khổ đế như bệnh, tập đế như nhân của bệnh, diệt đế như bệnh diệt, đạo đế như nhân của bệnh diệt.

Lại nữa tụng nói:

Phải biết 4 đế này,

Đều 4 tướng 4 hành.

Biết khắp cả 4 thứ,

Tính nhân quả sai biệt.

Luận nói: Phải biết 4 thánh đế mỗi mỗi có 4 tướng.

Khổ đế có 4 tướng: 1. Khởi khổ. 2. Nội duyên khổ. 3. Ngoại duyên khổ. 4. Thô trọng khổ. Ban đầu là sinh khổ. Thứ 2 là lão, bệnh, tử khổ. Thứ 3 là oán ghét gặp nhau khổ, thương yêu chia lìa khổ, sở dục thiếu thốn khổ. Thứ 4 là 5 thủ uẩn khổ.

Tập đế có 4 tướng: 1. Tổng ái. 2. Hậu hữu ái. 3. Hỷ tham đồng hành ái. 4. Các xứ hỷ ái.

Diệt đế có 4 tướng: 1. Ái hết. 2ư. Lìa dục. 3. Diệt. 4. Niết-bàn.

Đạo đế có 4 tướng là khổ, chậm, thông, đẳng 4 thứ hành tích đã nói ở trước. Lại nữa phải biết mỗi đế đều có 4 hành, như đã nói trong phẩm Thành hiện quán. Lại nữa phải biết trong các đế có biến tri, vĩnh đoạn, tác chứng, tu đạo thể tính nhân quả. Ba cái trước là quả. Tu đạo là nhân. Nghĩa là nhân biến tri khổ, nhân vĩnh đoạn tập, nhân của chứng diệt.

Vì sao thế tục v.v… gọi là đế?

Tụng nói:

Cái biết không trái nghịch,

Tự nhiên. Chứng cũng vậy.

Đế 3 thứ chỉ thiện,

Lại phải biết 2 thứ.

Luận nói: Cái biết tự nhiên không trái nghịch, nghĩa là ngu phu trong thế gian do pháp là tự nhiên nên cái biết đối với các pháp không trái nghịch, là tự nhiên của thế tục đế. Chứng cũng vậy, nghĩa là người đã kiến đế thì sự chứng pháp tính cũng không trái nghịch, đó là thắng nghĩa đế. Đạo lý này, đức Bạc-già-phạm nói: “Tấ cả Thánh giả lấy đây làm chân lý nên gọi là thánh đế.” Lại nữa, phải biết khổ v.v… 4 đế thì 2 thứ đầu thông cả 3 tính thiện bất thiện vô ký. Kỳ dư chỉ có thiện. Lại nữa thiện có 2 thứ là thế gian và xuất thế gian. Đây lại có 2 thứ là đoạn và đạo sở nhiếp.

Như vậy là đã nói về đế sự quyết trạch. Nay sẽ nói đến y chỉ quyết trạch.

Tụng nói:

Phải biết 7 y chỉ,

Ba thứ tính sở y.

Thiện xảo ấy 2 thứ,

Bốn câu v.v…nói rộng.

Luận nói: Phải biết do 3 thứ tính sở y nên đức Bạc-già-phạm nói 7 thứ y chỉ. Những gì là 3 thứ sở y? 1. Sở y của lậu tận. 2. Sở y của công đức phát khởi. 3. Sở y của hiện trụ pháp lạc. Lại nữa phải biết y chỉ này có 2 thứ thiện xảo: 1. Tam-ma-địa thiện xảo. 2. Tamma-bát-để thiện xảo. Ở đây có 4 câu sẽ phân biệt rộng, như Bạc-giàphạm nói trong Ôn-đà-nam Già-tha:

Hoặc có người tĩnh lự,

Tam-ma-địa thiện xảo,

Hoặc Tam-ma-bát-để,

Hoặc câu, hoặc bất câu.

Luận nói: Thế nào là Tam-ma-địa thiện xảo chẳng phải Tamma-bát-để thiện xảo? Nghĩa là nơi không v.v… 3 Tam-ma-địa thiện xảo nên chẳng phải thắng xứ, biến xứ, diệt tận định v.v… thiện xảo. Thế nào là Tam-ma-bát-để thiện xảo chẳng phải Tam-ma-địa thiện xảo? Nghĩa là nơi thắng xứ, biến xứ, vô tưởng định v.v… hoặc nhập hoặc xuất Tam-ma-để thiện xảo, nên chẳng phải nơi 3 Tam-ma-địa thiện xảo. Thế nào là câu thiện xảo? Nghĩa là đối với việc giải thuyết sự sai biệt của Tam-ma-địa và Tam-ma-bát-để đều thiện xảo. Thế nào là câu phi thiện xảo? Nghĩa là đối với việc giải thuyết sự sai biệt của Tam-ma-địa và Tam-ma-bát-để đều không thiện xảo. Lại nữa, Tam-ma-địa thiện xảo chẳng phải Tam-ma-bát-để thiện xảo, là khéo biết rõ sự sai biệt về danh cú văn của sở nhập Tam-ma-địa, nên không khéo biết rõ tướng hành trạng của năng nhập Tam-ma-địa. Tam-ma-bát-để thiện xảo chẳng phải Tam-ma-địa thiện xảo, nghĩa là như có người có khả năng khéo biết rõ tướng hành trạng của sở nhập Tam-ma-địa mà nhập định ấy. Không khéo biết rõ sự sai biệt danh cú văn của Tam-ma-địa này, mà nói ta nay nhập như thế như thế là Tam-ma-địa. Lại có Bồ-tát có khả năng nhập trăm Tam-ma-địa ngàn tam-ma-địa v.v… nhưng Bồ-tát ấy không có khả năng hiểu rõ sự sai biệt danh cú văn của định ấy mà nói ta nay nhập như thế như thế là Tam-ma-địa, cho đến chưa theo chư Phật và được nghe đệ nhất cứu cánh Bồ-tát Ma-ha-tát, hoặc tự mình chưa được đệ nhất cứu cánh.

Hỏi: Thế nào là trụ định?

Đáp: Nghĩa là như có người có khả năng nhập định, có khả năng hiểu rõ thủ lấy tướng hành trạng, khéo hiểu rõ thủ lấy nên tùy chỗ muốn mà trụ vào định. Lại nữa khi nhập các Tam-ma-địa không thoái mất. Như vậy có 2 thứ trụ: 1. An trụ nơi định nên gọi là trụ. 2. Có khả năng không thoái mất nên gọi là trụ.

Hỏi: Thế nào là khởi định?

Đáp: Nghĩa là như có người có thể nhập định tướng hành trạng không tư duy nữa, chỉ dùng tướng phân biệt của bất định địa trong định địa đồng phần tác ý tư duy các pháp, nên từ Tam-ma-địa này khởi, hoặc nhân tùy sở tác khởi, hoặc nhân quyết định sở tác khởi, hoặc nhân kỳ nguyện sở tác khởi. Tùy sở tác, là nghiệp y bát các vật dụng. Quyết định sở tác, là các hạnh như đại tiểu tiện, cung kính sư trưởng, khất thực v.v… Kỳ nguyện sở tác, là như có một thời kỳ hứa vì người theo làm một việc gì, hoặc lại vì nhập một định khác, nên từ định khởi.

Hỏi: Thế nào là hành?

Đáp: Hành cảnh sở duyên mà nhập vào định nên gọi là hành, nghĩa là dựa vào Tam-ma-địa khởi các hành như thô tĩnh, bệnh, ung nhọt, tên bắn, vô thường v.v…

Hỏi: Thế nào là trạng

Đáp: Như có người sắp nhập định, bấy giờ chắc chắn có định tướng sinh khởi. Do tướng này nên hành giả tự biết mình không lâu sẽ nhập định tướng như vậy như vậy. Hoặc là đã nhập. Lại nữa giáo thụ sư cũng biết hành giả này có khởi tướng như vậy như vậy, không bao lâu sẽ nhập định như vậy như vậy.

Hỏi: Thế nào là tướng?

Đáp: Tướng có 2 thứ: Một là cảnh tướng. Hai là nhân tướng. Cảnh tướng là tướng phân biệt, do duyên đó nên nhập định. Nhân tướng, là có những tư lương có thể nhập định, như tùy thuận ngôn giáo có đủ tâm chứa nhóm, tu tập, câu lạc, yếm ly, hiểu biết hết sức rõ ràng tướng loạn, không loạn, và không bị người xúc não, hoặc người hoặc phi nhân, hoặc do âm thanh hoặc do tác dụng tạo ra.

Hỏi: Thế nào là điều thuận?

Đáp: Nếu Tam-ma-địa bị các hành tướng câu chấp, giống như trì thủy tự nhiên bị chấp. Không tĩnh, không diệu chẳng phải đạo an ổn, không thể chứng đắc tâm định đạo. Phải biết bấy giờ Tam-ma-địa này không gọi là điều thuận. Không tùy ý trụ, mâu thuẫn với đây gọi là điều thuận.

Hỏi: Thế nào là sở hành?

Đáp: Nghĩa là cảnh giới Tam-ma-địa, nếu quá cảnh này chắc chắn không thể biết. Như nhập sơ tĩnh lự không thể tri kiến các việc của đệ nhị tĩnh lự. Như vậy căn độ và Bổ-đặc-già-la độ cung không tri kiến.

Hỏi: Thế nào là dẫn phát?

Đáp: Nghĩa là có khả năng lược nhiếp rộng nghiac của văn cú và có thể phát khởi các thắng công đức.

Hỏi: Những Tam-ma-địa nào gọi là khả ái?

Đáp: Nghĩa là đủ tàm quý, ái kính, tịnh tín, như lý tác ý, ức niệm chính tri, giữ gìn các căn, trì giới không hối v.v…, cho đến cái vui tối hậu là vui nhập Tam-ma-địa. Phải biết ngược lại đây gọi là phi khả ái.

Hỏi: Thế nào là khả ái, không khả ái, gọi là tàm quý v.v…thiểu phần thành tựu thiểu phần không thành tựu? Nghĩa là đủ tàm quý, phi ái kính tương ưng v.v…. Cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là tăng?

Đáp: Nghĩa là Tam-ma-địa đã được tăng trưởng. Hỏi: Thế nào là giảm?

Đáp: Nghĩa là Tam-ma-địa đã thoái mất.

Hỏi: Thế nào là phương tiện?

Đáp: Là đường lối hướng đến hai.

Hỏi: Thế nào là Xa-ma-tha?

Đáp: Nghĩa là tướng tác ý không phân biệt ảnh tượng.

Hỏi: Thế nào là chấp thụ?

Đáp: Nghĩa là do tùy một, hoặc tướng thanh tịnh, hoặc tướng quanng minh, khởi chấp thủ tướng.

Hỏi: Thế nào là xả bỏ?

Đáp: Nghĩa là đối với thiện phẩm đã được tướng bình đẳng tăng thượng xả.

Lại nữa dựa vào các tĩnh lự, nay sẽ nói về thắng quyết trạch.

Tụng nói:

Tĩnh lự nhiều chướng phần,

Và kiến lập rộng rãi.

Xa lìa nơi hkổ động,

Sau phân chia thắng dị.

Luận nói: Như trên có nói 4 thứ tĩnh lự. Vì sao chỉ có 4, không nhiều không ít? Do cứu cánh việc khổ lạc. Sở dĩ vì sao? Vì lần lượt cho đến tĩnh lự thứ tư, ưu khổ hỷ lạc được siêu độ.

Hỏi: Sơ tĩnh lự trị chướng như thế nào?

Đáp: Có 5 thứ: 1. Tham nhuế hại tầm. 2. Khổ. 3. Ưu. 4. Phạm giới. 5. Tán loạn.

Hỏi: Tĩnh lự thứ hai trị chướng như thế nào?

Đáp: Cũng có 5 thứ: 1. Sơ tĩnh lự tham. 2. Tầm tứ. 3. Khổ. 4. Trạo. 5. Định hạ liệt tính.

Hỏi: Tĩnh lự thứ ba trị chướng như thế nào?

Đáp: Có 4 thứ: 1. Tham của tĩnh lự thứ hai. 2. Hỷ. 3. Dũng dước. 4. Định hạ liệt tính.

Hỏi: Tĩnh lự thứ tư trị chướng như thế nào?

Đáp: Cũng có 5 thứ: 1. Hơi thở ra vào. 2. Tham của tĩnh lự thứ ba. 3. Lạc. 4. Lạc tác ý. 5. Định hạ liệt tính.

Hỏi: Trong các tĩnh lự có bao nhiêu chi?

Đáp: Sơ tĩnh lự có 5 chi.

Những gì là 5? Là tầm, tứ, hỷ, lạc, tâm nhất cảnh tính. Tĩnh lự thứ 2 có 4 chi là nội đẳng tịnh, hỷ, lạc, tâm nhất cảnh tính.

Hỏi: Nội đẳng tịnh lấy pháp gì làm thể?

Đáp: Lấy niệm, chính tri và xả làm thể. Tĩnh lự thứ 3 có 5 chi là niệm, chính tri, xả, lạc, tâm nhất cảnh tính. Tĩnh lự thứ 4 có 4 chi là xả thanh tịnh, niệm thanh tịnh, bất khổ bất lạc, tâm nhất cảnh tính.

Hỏi: Vì sao niệm, chính tri, xả, nhất thiết xứ hữu không nói trong sơ tĩnh lự?

Đáp: Mặc dầu không nói nhưng trong sơ tĩnh lự do tầm, tứ dẫn phát. Trong tĩnh lự thứ 2 có dũng dước, sở tác nghiệp của tự thể và tâm sở có một phần ít phiền não che lấp, cho nên dùng tên chung là nội đẳng tịnh để hiển thị. Trong tĩnh lự thứ 3 tâm sở có phần ít phiền não kia đều xa lìa nên hiển lộ tự tướng của nó. Cho nên trong kinh nói “ xa lìa hỷ tham” . Trong sơ tĩnh lự, tuy xa lìa dục tham chưa lìa hỷ tham. Trong tĩnh lự thứ 2 tuy xa lìa tầm, tứ tham chưa lìa hỷ tham. Trong tĩnh lự thứ 4 tức xả niệm đây hiển rõ cực kỳ thanh tịnh. Cho nên trong các tĩnh lự tùy chỗ thích hợp mà có sai biệt.

Hỏi: Vì sao trong 4 tĩnh lự lập ra 4 chi 5 chi?

Đáp: Vì trụ ở sở y, trụ thuận ích, trụ tự thể. Lại nữa vì cảnh giới tư duy, vì cảnh giới thụ dụng nên không tán loạn đối với cảnh. Lại nữa vì sở y thuận ích, vì sở y của tâm tăng thượng, vì sở y của tuệ tăng thượng. Lại nữa, vì đối trị 3 thứ não loạn trụ chướng. Ba thứ não loạn trụ là o nhiễm trụ, khổ trụ, mê loạn trụ. Lại nữa, như thụ dụng 5 dục thì có 3 thứ tác sự hiển thị các dục của thụ dụng kia: 1. Lấy chính phương tiện cầu thụ dụng. 2. Cầu được rồi chính thụ dụng. 3. Tự tại tùy chuyển. Như vậy người tu tĩnh lự dựa vảo 3 thứ chính tác sự, tùy theo thích hợp mà kiến lập các chi phần. Lại nữa để đối trị sự tự khổ hành nên người tu tĩnh lự kiến lập các chi phần. Ở đây lại có 3 thứ đối trị: 1. Đối trị lìa dục. 2. Đối tri chấm dứt sự bức não thân tâm. 3. Đối trị ngoại tâm tán loạn sự tịch tĩnh.

Hỏi: Vì sao trong sơ tĩnh lự nói lìa dục rồi, lại npí xa lìa pháp ác bất thiện?

Đáp: Vì để hiển thị tự tướng các dục và hiển thị tướng tội lỗi. Tướng tội lỗi nghĩa là các dục kia khởi ác hành rồi đọa nơi cực thấp, nên gọi là ác, sinh ra pháp trái với thiện nên gọi là bất thiện. Lại nữa, vì hiển thị khả năng đoạn phiền não tạp nhiễm, và hiển thị khả năng đoạn nghiệp tạp nhiễm tích tập từ trước. Lại nữa để hiển thị sự đoạn trừ các việc thụ dụng khiến phát sinh tham dục của người tại gia, và hiển thị việc đoạn trừ pháp khiến sinh tầm, tứ của người xuất gia. Lại nữa, để hiển thị sự đoạn trừ dục tầm, và hiển thị đoạn trừ nhuế tâm, hại tầm. Lại nữa, để cho thấy đồng với tướng sở đắc của tiên ngoại đạo kia, nên hiển thị đoạn trừ kia thoái rồi khởi ác chú.

Hỏi: Trong sơ tĩnh lự nói chưa đoạn khổ căn?

Đáp: Vì phẩm ấy thô trọng chưa xa lìa. Nếu người sơ tĩnh lự đã đoạn khổ căn thô trọng phẩm thì khi trụ tĩnh lự thứ 2 phải không sai biệt. Cho nên phải biết trong sơ tĩnh lự chưa đoạn khổ phẩm thô trọng.

Hỏi: Các pháp tầm tứ ở trong sơ tĩnh lự có khả năng làm thuận ích, nhiếp thụ tự tha khiến được thanh tịnh. Vì sao Như Lai nói nó là động?

Đáp: Vì nó cứ mong ngóng những cái khác nên nói là động, không phải trông vào tự địa.

Hỏi: Vì sao từ Dục giới và ở trong sơ tĩnh lự v.v… kiến lập các chi sau?

Đáp: Sơ lược có 3 nhân là năng trị sở trị, chứng lợi ích, chứng tự thể. Ba nhân này trong 4 tĩnh lự gồm có 5 chi, tùy theo thích ứng.

Hỏi: Tĩnh lự thứ 2 nhìn sơ tĩnh lự có gì khác có gì hơn?

Đáp: Tam-ma-địa viên mãn khác hơn.

Hỏi: Tĩnh lự thứ 3 nhìn tĩnh lự thứ 2 có gì khác hơn?

Đáp: Thuận ích viên mãn khác hơn.

Hỏi: Tĩnh lự thứ 4 nhìn tĩnh lự thứ 3 có gì khác hơn?

Đáp: Thanh tịnh viên mãn khác hơn.

Lại nữa tụng nói:

Cận phần hỷ có động,

Chỉ sơ mới tận lậu.

Cũng 2 thứ duyên thanh,

Tám đẳng chí xả 8.

Luận nói: Cận phần hỷ của sơ tĩnh lự có động, không như hỷ của căn bản tĩnh lự. Lại nữa sơ cận phần chưa đến sở nhiếp định, có thể hết các lậu không sót. Lại nữa sơ cận phần có 2 thứ là thế gian và xuất thế gian. Dư cận phần chỉ thế gian. Do đã được sơ căn bản vô lậu tĩnh lự nên không phải vô lậu hiện tiền như các cận phần định ở thượng địa. Lại ở trong định khi thủ âm thanh bên ngoài có 2 thứ thủ: 1. Do hiểu rõ cảnh sở duyên của định và ý thức của các thứ cảnh sở duyên. 2. Do đây câu sinh với nhĩ thức. Tám đẳng chí xả 8, nghĩa là 8 thứ Tam-ma-để có thể xả bỏ 8 việc. Những gì là 8? Là xả bỏ ngữ, tầm, hỷ, lạc, chứng 4 tĩnh lự Tam-ma-bát-để. Là xả bỏ sắc, không, thức, vô sở hữu xứ tưởng, chứng 4 vô sắc tam-ma-bát để.

Lại nữa tụng nói:

Hiện pháp an lạc trụ,

Nhập được vào hiện quán.

Ca ngợi tưởng giải thoát,

Phải biết 4 thứ nhân.

Luận nói: Chỉ cos các tĩnh lự là có tính hiện pháp an lạc trụ, có đủ 2 thứ an thân và tâm, không phải như vô sắc định không có thân an. Lại nữa dựa vào tĩnh lự có thể nhập hiện quán, không phải như vô sắc định, bởi Tì-bát-xá-na của các tĩnh lự cực kỳ mạnh mẽ sắc bén. Lại nữa tu tĩnh lự và các định, trong vô sắc giải thoát thường nhập thường xuất ca ngợi tướng ấy cực kỳ tịch tĩnh. Lại nữa các ngoại đạo, trong vô sắc định khởi tưởng giải thoát nên thường thường ca ngợi. Lại nữa, dựa vào hữu tưởng Tam-ma-địa giải thoát có thể hết các lậu, cho đến vô sở hữu xứ Tam-ma-địa cực kỳ mạnh mẽ sắc bén. Cho nên đức Bạc-già-phạm nói: “Chỉ dựa vào hữu tưởng Tam-ma-bát-để lãnh hội hiểu rõ thông đạt, chẳng phải ở các địa khác.” Bốn thứ nhân là các Tam-ma-bát-để có thể làm 4 thứ y nhân của hiện pháp an lạc trụ. Nên biết theo thứ tự của nó.

Lại nữa tụng nói:

Phải biết ái vị v.v…

Mười thứ, 6, 3 thứ.

Thoái tương tục chướng trị,

Có nhiều thứ sai biệt.

Luận nói: Ái vị tương ưng, thanh tịnh, vô lậu 3 thứ tĩnh lự. Theo thứ tự của nó có 10 thứ, 6 thứ và 3 thứ. Thế nào là 10 thứ? Như trong phẩm Nhiếp sự đã nói. Thế nào là 6 thứ? Là 6 thứ thanh tịnh: 1. Dẫn phát thanh tịnh. 2. Thượng luyện thanh tịnh. 3. Hậu đắc thanh tịnh. 4. Cấu nhiễm thanh tịnh. 5. Nhiếp thanh tịnh. 6. Kham nhiệm thanh tịnh. Thế nào là 3 thứ? Là xuất thế gian vô lậu, ly hệ vô lậu và hậu đắc vô lậu.

Lại nữa từ ly dục thoái mất sự tương tục, thoái mất sự đối trị chướng kia đều có nhiều trường hợp. Nghĩa là hoặc do chỗ nương tựa bất bình đẳng nên thoái mất. Nghĩa là như có người gặp bệnh nặng mà thoái mất định. Như Tôn giả Phạt-lặc-ca-lê nói: “Tôi nay không thể chứng nhập Tam-ma-địa này, sẽ không ở trong Tam-mađịa này vì nhiều thô trọng mà thoái mất ư? ” Lại như có người vì tính nhiều thô trọng, do túc tập đời trước, bởi nhiều thô trọng này mà thoái mất Tam-ma-địa. Hoặc do cảnh giới thắng diệu nên thoái mất. Nghĩa là như có người được cảnh giới thắng diệu hiện tiền nên thoái mất định. Như nghe có một người tiên ngoại đạo đã đạt được đến định phi tưởng phi phi tưởng xứ, do chạm vào thân một thiếu nữ đẹp đẽ khả ái mà thoái mất định kia. Hoặc do kính dưỡng mà thoái mất. Như có người hiện tiền được kính dưỡng thắng diệu liền thoái mất định, như khen bằng trời. Hoặc do khinh chê mà thoái mất, như có người bị người giận chê bai trách mắng liền mất định, như các tiên ngoại đạo giận dữ bị thoát mất rồi hành các ác chú. Hoặc do kiêu mạn nên thoáin mất. nghĩa là như có người nhân được định cao ngạo lăng mạ người khác mà thoái mất định. Hoặc do tăng thượng mạn mà thoái mất. Nghĩa là như có người, mình chưa được định mà khởi tăng thượng mạn nói là đã được, nên thoái mất định đã được. Hoặc do không tác ý nên mất. Nghĩa là như có người trước do các hành trạng tướng như vậy được nhập các định, người ấy về sau lại không tư duy hành trạng tướng này nên thoái mất định. Hoặc do không thuần thục nên thoái mất. Nghĩa là như có người tu tập thủy nghiệp sáng phát thiện phẩm, hoặc do tự phiền não nhiều hiện ra nên thoái mất định. Nghĩa là như có người yêu thích thượng tĩnh lự, cho đến nghi hoặc thượng tĩnh lự nên thoái mất định. Hoặc do thọ mạng hết, phúc hết, nghiệp hết nên thoái mất. Nghĩa là như có người từ cõi trên xả mạng sinh xuống cõi dưới. Lại nữa, nếu hạ phẩm phiền não, hạ phẩm thiện căn thì Bổ-đặc-già-la do nhiều sát-na dụng công mới thoái, do nhiều sát-na dụng công mới được nhập định. Nếu hạ phẩm phiền não thượng phẩm thiện căn thì Bổ-đặc-già-la, do nhiều sát-na dụng công mới thoái, do một sát-na mau được nhập định. Nếu thượng phẩm phiền não, hạ phẩm thiện căn thì Bổ-đặc-già-la do một sát-na mau thoái mất định, nhiều niệm dụng công mới có thể nhập định. Nếu thượng phẩm phiền não thượng phẩm thiện căn thì Bổ-đặc-già-la do một sát-na mau thoái mất định, do một sát-na mau có thể nhập định.

Lại nữa tụng nói:

Lợi căn và sinh chuyển

Phải biết không có thoái.

Y hạ địa phát định,

Vì ly dục hậu sinh.

Luận nói: Như vậy người lợi căn thì không thoái định. Nếu chuyển sinh đời khác thì tuy người độn căn cũng không thoái mất. Lại nữa các định tĩnh lự ắtvtrước dựa vào hạ địa phát khởi. Bởi trước ở đây nhập định nhiên hậu mới sinh kia. Bởi vì sao? Vì trước phải lìa dục sau mới được sinh nơi kia.

Nhứ vậy đã nói xong về y chỉ quyết trạch. Nay sẽ nói đến giác phần quyết trạch.

Tụng nói:

Y nhị thừa Đại thừa,

Do 27 tướng.

Phải biết chính phương tiện,

Kiến lập nơi giác phần.

Luận nói: Dựa vào Thanh Văn, Độc Giác 2 thừa, và dựa vào Đại thừa kiến lập giác phần. Phải biết do 27 thứ tướng chính phương tiện. Những gì là 27 thứ chính phương tiện? Là phương tiện chính quán hệ thuộc sở duyên, phương tiện nhiếp tịnh lìa bỏ nhiễm ô, phương tiện tu trị nội tâm điều thuận, phương tiện dẫn phát xuất thế chính pháp, phương tiện kia không gián khuyết, phương tiện hiện giác chân thật hiện, phương tiện chứng các tịch diệt, phương tiện nhập sở tri, phương tiện nhập đoạn, phương tiện thông đạt bất tịnh không vui có khổ, phương tiện học viên mãn, phương tiện đối với cảnh quán sát không tán loạn, phương tiện khôngn phá hoại Thánh giáo, phương tiện nhiếp tri sở tri quả, phương tiện nguyện, phương tiện thương xót hữu tình, phương tiện trí tu trị, phương tiện quán hiện pháp, phương tiện tiến đến năng trị sở trị, phương tiện tích tập hành trang phúc đức, phương tiện thành thục hữu tình, phương tiện nhiếp thụ tất cả Bồ-tát đạo, phương tiện dẫn phát oai đức, phương tiện dẫn phát ngôn giáo, phương tiện tích tập tâm rộng lớn rất sâu, phương tiện xa lìa nghiệp pháp không chán đủ, phương tiện an trụ 2 cõi hữu tình Niết-bàn.

Lại nữa tụng nói:

Thân v.v… 3 sai biệt,

Ảnh tượng tùy quán kia.

Do nghe v.v… 3 trí,

Niệm pháp không mê hoặc.

Luận nói: Phải biết thân v.v… đều có 3 thứ sai biệt. Ba thứ của thân là hoặc có phần của thân tự tính là bất tịnh, như phần nội tạng của thân. Hoặc có phần của thân tựa như thanh tịnh, như phần da của thân. Hoặc có phần của thân biến đổi rã nát bất tịnh, như thân người chết đã xanh bầm. Ba thứ của thụ là khổ, vui, không khổ không vui. Tâm có 3 thứ là vui v.v… Pháp tương ưng với thụ có 3 thứ là đen, trắng, xen lẫn, ảnh tượng tùy quán kia, như tầm, tứ. Kinh nói: “ Thân kia v.v… ảnh tượng tùy quán, loại đồng phần với sở tri nên gọi là ảnh tượng.” Nói “tùy” nghĩa là tương tự. Lại nữa , tùy quán này tức là 3 trí: do nghe sinh trí, do tư duy sinh trí, do tu sinh trí. Như vậy 3 trí là do niệm lực, nên đối với các pháp Tu-đa-la tăng thượng duyên kia không mê hoặc. Cho nên gọi là niệm trụ, vì nơi thân thụ tâm pháp là do niệm lực trụ.

Lại nữa tụng nói:

Sở trị kia 9 thứ,

Phải biết tác ý 2.

Tu sai biệt có 2,

Hai thứ không hoại mất.

Luận nói: Phải biết các niệm trụ có 9 thứ sở trị chướng: 1. Không chán bỏ. 2. Không tác ý. 3. Chỉ quán tùy phiền não. 4. Trầm hạ. 5. Không kham chịu. 6. Thiếu kém đối với tri túc. 7. Quên mất chỗ dạy dỗ. 8. Vi phạm giới hạnh. 9. Xả bỏ dục lạc tăng thượng mãnh liệt các diệu thiện hành. Lại nữa, nơi niệm trụ có 2 thứ tác ý là tác ý không hoãn, tác ý không nhiễm. Kinh nói: “ Người xí thịnh là hiển thị cái thứ nhất. Người chính trí nhớ nghĩ trừ tham ưu thế gian là hiển thị cái thứ hai.” Lại nữa cái thứ hai có thể trừ 3 thứ tạp nhiễm. Những gì là 3 thứ tạp nhiễm? 1. Nhân duyên phạm giới, tâm sinh thay đổi hối hận. Do chướng này, có thể khiến lúc đầu tâm không được định. 2. Nội tâm hôn trầm. Do chướng này nên tuy đã được định tâm nơi sở duyên nhưng rồi chìm sauu qên mất. 3. Ngoại tâm tán loạn. Do chướng này nên tuy chứng thắng pháp mà đắm trước tiếng tăm lợi dưỡng thế gian, hoặc chưa thể chứng pháp thắng tiến, tâm sainh sầu não. Tu sai biệt có 3 là tu các niệm trụ đều có 3 thứ. Nghĩa là ở trongn cũng như ở ngoài đều là thân v.v… tùy quán. Lại nữa, ở nơi thân hoặc chỉ quán ảnh tượng, hoặc dùng ảnh tưởng so sánh như thân, hoặc hòa hợp quán chung như 3 thứ ở nơi thân. Như vậy cho đến đối với pháp cũng vậy. Lại nữa, có 2 thứ đối với các niệm trụ không hoại mất: 1. Ban đầu không hoại mất. Nghĩa là không tán loạn. Do sức này có thể phát khởi thiện. 2. Sau không hoại mất. Nghĩa là không tăng thượng mạn. Do sức này nên khéo tu cứu cánh.

Lại nữa tụng nói:

Vì đoạn nơi trầm, trạo,

Tương ưng đạo 2 thứ.

Quán sát xả phiền não,

Và để hết 3 ái.

Luận nói: Trong tu niệm trụ, để đoạn hôn trầm và trạo cử phải tu 2 thứ tương ưng đạo. Như Kinh Tì-kheo-ni và Kinh Thủ Tự Tâm Tướng nói. Kinh Tì-kheo-ni nói thế nào? Kinh ấy nói:” Vì đoạn sự hôn trầm nên phải tư duy một phần ít tướng mạo khả ái thanh tịnh. Vì đoạn trừ trạo động nên phải lược giữ lấy.” Kinh Thủ Tự Tâm Tướng nói thế nào? Kinh ấy nói:” Do không thủ tướng tự tâm nên khiến tâm chìm lặn. Do thủ lấy một phần ít tướng khả ái bên ngoài nên tùy phiền não hôn trầm tạm thời đoạn dứt.” nhưng tâm chưa được định lại phải lược giữ tâm ấy. Thấy lỗi hôn trầm thì phải thủ lấy tướng bên ngoài. Thấy lỗi trạo động thì phải thủ lấy tướng của tự tâm. Bấy giờ có thể đoạn dứt được tùy phiền não hôn trầm trạo cử, tâm được chính định, vì lược giữ tâm ấy, thủ lấy tướng tự tâm, lìa hôn trầm trạo cử.

Lại nữa, do tương ưng đạo quan sát nên có thể xả bỏ phiền não như Kinh Yến nói: Nói yến là dụ cho tâm người tu hành. Đi không nơi chốn nhất định dụ cho người hành giả kia tư duy cảnh giới đáng yêu thích. Bị con diều hâu bắt dụ cho người hành giả kia bị cái tham trói buộc. Con chim yến kêu than dụ tâm hành giả kia sinh hối hận. Tạm phóng thả dụ hành giả kia cái tham trói buộc tạm dứt. Cục đất dụ 5 thủ uẩn. Đại trường long dụ vô thường quán. Hang động dụ thông đạt chân như quán. Người kêu con dièu hâu dụ quan sát tác

ý. Con diều hâu nhanh chóng đến dụ cái tham trói buộc kia sắp hiện tiền. Vào hang động dụ tư duy chân như quán. Con diều hâu tự khổ hại dụ tùy miên đoạn dứt.

Lại nữa, tương ưng đạo này có thể hết 3 ái là trợ bạn ái, lợi dưỡng ái, hậu hữu ái. Để đối trị đây nên hiển thị ngã và pháp không có sai biệt.

Lại nữa tụng nói:

Vì đoạn tăng thượng mạn,

Vị sở y điên đảo.

Và 3 tâm nhập vào,

Tu tập nơi niệm trụ.

Luận nói: Vì muốn đối trị tăng thượng mạn, vì muốn đối trị ái vị sở y định, và vì đối trị 4 điên đảo nên tu tập niệm trụ. Vì đối trị tăng thượng mạn, như kinh nói:” Chỉ nên nơi thân thụ tâm pháp này, nếu trụ ức niệm cho đến hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ buộc niệm.” Tăng thượng mạn này có 2 thứ là ở nơi thân chưa đoạn v.v… chướng thô trọng khởi, và nơi chưa viên mãn chỉ quán câu phẩm trị khởi. Vì đối trị điên đảo nên, như kinh nói:” Trong các thế gian không ít chấp thủ, do điên đảo đoạn nên không chấp trở lại 5 thủ uẩn là thường, là lạc, là ngã, là tịnh.” Lại nữa, vì 3 tâm hướng vào tu tập niệm trụ, nghĩa là khi đi du hành nơi làng xóm thì tâm hướng ra ngoài, khi ở nơi huyên náo ồn ào thì tâm hướng xa lìa, ở nơi tĩnh thất thì tâm hướng đến Niết-bàn. Lại nữa hướng đến ra khỏi sinh tử, hướng đến lìa phiền não, vui tịch diệt nên tâm hướng đến Niết-bàn.

QUYỂN 19 HẾT