LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP V
QUYỂN 88

Phẩm thứ bảy mươi bảy
Lục Dụ
(Sáu Thí Dụ)

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các pháp là vô tướng (chẳng có tướng), là tự tướng không, là vô phân biệt (chẳng có phân biệt), mà ở nơi đó lại có thể tu đầy đủ sáu pháp Ba La Mật? Vì sao ở nơi các pháp chẳng có phân biệt, mà lại phân biệt nói có các pháp tướng dị biệt? Vì sao Bát Nhã Ba La Mật dung nhiếp tất cả năm Ba La Mật kia? Vì sao hành các pháp tướng dị biệt nhau, mà cũng đều đến nơi đạo “ Nhất tướng”, dẫn đến được quả Phật?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa1, mà hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Bồ Tát dùng trí huệ, biết năm ấm là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa; biết năm ấm như mộng là vô tướng… dẫn đến năm ấm như hóa là vô tướng.

Vì sao? Vì mộng chẳng có tự tánh… dẫn đến hóa cũng chẳng có tự tánh. Nếu pháp chẳng có tự tánh thì đó là pháp vô tướng. Nếu pháp nhất tướng (chỉ có một tướng), thì đó cũng là pháp vô tướng.

Bởi nhân duyên vậy, nên biết Bồ Tát bố thí là bố thí vô tướng: người thí vô tướng, người thọ cũng vô tướng.

 Biết như vậy là có thể được đầy đủ bố thí Ba La Mật… dẫn đến đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, đầy đủ bốn niệm xứ… dẫn đến đầy đủ tám thánh đạo, đầy đủ nội không… dẫn đến đầy đủ vô pháp hữu pháp không, đầy đủ ba tam muội “không, vô tướng và vô tác”, đầy đủ tám bối xả,  đầy đủ chín thứ đệ định, đầy đủ năm thần thông, đầy đủ 500 đà la ni, đầy đủ mười Phật lực, bốn  vô sở úy, bốn vô ngại trí… dẫn đến đầy đủ 18 bất cộng pháp.

Bồ Tát an trú trong pháp vô lậu, đi từ cõi nước này đến cõi nước khác ở khắp mười phương để cúng dường chư Phật và làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu thấy chúng sanh nào cần được bố thí, thì Bồ Tát liền dùng bố thí để nhiếp độ họ. Nếu thấy có chúng sanh nào cần phải dùng trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ mới nhiếp độ được thì Bồ Tát liền dạy cho họ tu trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Dẫn đến nếu có chúng sanh nào phải dùng các thiện pháp để nhiếp độ họ, thì Bồ Tát liền dùng các thiện pháp để nhiếp độ vậy.

Bồ Tát Thành tựu hết thảy thiện pháp, thọ thân thế gian, mà chẳng bị thế gian làm nhiễm ô. Dù hưởng thọ sự giàu sang, phú quý ở cõi trời hay cõi người, Bồ Tát cũng đem phước lạc đó để nhiếp thủ chúng sanh.

Bồ Tát biết hết thảy pháp đều là vô tướng, nên chẳng trú nơi các quả Thanh Văn và Bích Chi Phật. Vì sao? Vì Bồ Tát dùng hết thảy chủng trí, biết hết thảy pháp, ắt sẽ được nhất thiết chủng trí, nên chẳng đồng với hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

 Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát biết hết thảy pháp là vô tướng, biết sáu pháp Ba La Mật là vô tướng… dẫn đến biết hết thảy Phật pháp đều là vô tướng.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, nên thường đầy đủ “giới vô tướng Ba La Mật” còn gọi là “Thánh giới vô lậu” dẫn vào tám thánh đạo. An trú trong giới này, Bồ Tát trì hết thảy giới, gồm: Danh tự giới, tự nhiên giới, luật nghi giới, tác giới, vô tác giới, oai nghi giới, phi oai nghi giới.

Bồ Tát thành tựu các giới như vậy, chẳng nguyện sanh vào các đại gia, đại tộc; Chẳng nguyện sanh làm tiểu vương hay chuyển luân thánh vương; Chẳng nguyện ở các cõi trời; Chẳng nguyện được các quả Thanh Văn và Bích Chi Phật. Vì sao? Vì hết thảy tướng pháp là vô tướng, là nhất tướng; Vì pháp vô tướng chẳng thể được pháp vô tướng, pháp hữu tướng, chẳng thể được pháp hữu tướng, pháp hữu tướng chẳng thể được pháp vô tướng, pháp vô tướng chẳng thể được pháp hữu tướng.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, được đầy đủ trì giới Ba La Mật, vào Bồ Tát vị, được vô sanh pháp nhẫn, hành đạo chủng trí, được quả báo đắc năm thần thông, trú trong 500 Đà na li, được bốn vô ngại trí. Lúc bấy giờ, Bồ Tát đi từ cõi phật này đến cõi phật khác để cúng dường chư Phật, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh phật độ, vào trong năm đường chúng sanh, mà chẳng bị nghiệp báo sanh tử làm nhiễm ô.

Này Tu Bồ Đề! Ví như vị hóa chuyển luân thánh vương, tuy có ngồi, có nằm, có đi, có đứng, mà chẳng thấy chỗ ngồi, chỗ nằm, chỗ đi, chỗ đứng; Tuy có làm các việc lợi ích cho chúng sanh mà chẳng thấy có chúng sanh. Bồ Tát cũng là như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Ví như đức Phật Tu Phiến Đa được Vô Thượng Bồ Đề chuyển ba thừa pháp luân mà chẳng có Bồ Tát được tho ký nên đã xả thọ mạng, tự diệt độ, vào Vô Dư Niết Bàn, để lại Hóa Phật làm các Phật sự. Cũng như vậy, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, được đầy đủ trì giới Ba La Mật, và nhiếp hết thảy thiện pháp.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, được đầy đủ “vô tướng nhẫn nhục Ba La Mật”

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong hai thứ nhẫn là sanh nhẫn và pháp nhẫn, mà được đầy đủ nhẫn nhục Ba La Mật. Từ sơ phát tâm, cho đến khi thọ tọa đạo tràng, nếu có chúng sanh nào đến mắng nhiếp, đánh đập, đâm chém mình, Bồ Tát vẫn tu đầy đủ hạnh nhẫn nhục Ba La Mật, chẳng sanh oán giận dù chỉ mống lên trong một niệm. Bồ Tát tự hỏi rằng, “có ai mắng nhiếc, đánh đập, đâm chém… ta đâu?”.

Vì sao? Vì ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát được “vô tướng nhẫn” nên được đầy đủ nhẫn nhục Ba La Mật. Do được đầy đủ nhẫn nhục Ba La Mật, nên được vô sanh pháp nhẫn.

 Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Thế nào là “ vô sanh pháp nhẫn”?Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Chẳng sanh tâm bất thiện, dù chỉ là một niệm, thì được gọi là vô sanh pháp nhẫn.

Bồ Tát dùng trí huệ đoạn sạch các phiền não, và quán biết hết thảy pháp đều là vô sanh (chẳng có sanh)

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vô sanh pháp nhẫn của hàng Nhị Thừa và vô sanh pháp nhẫn của hàng Bồ Tát có gì sai khác nhau chăng?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Vì sao? Vì đầy đủ đạo chủng trí nên Bồ Tát chẳng xa rời ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, chẳng xa rời ba tam muội “không, vô tướng và vô tác”… dẫn đến chẳng xa rời năm thần thông. Do chẳng xa rời năm thần thông nên thành tựu được chúng sanh, thanh tịnh được Phật độ… dẫn đến được nhất thiết chủng trí.

Như vậy là Bồ Tát được đầy đủ “Vô tướng nhẫn nhục Ba La Mật”. Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, nên thường đầy đủ “vô tướng tinh tấn Ba La Mật”.

Bồ Tát hành thân tâm tinh tấn, khởi các thần thông đi khắc các cõi nước, để cúng dường chư Phật và làm các việc lợi ích cho chúng sanh, khiến họ an trú trong ba thừa đạo.

Như vậy là Bồ Tát đầy đủ “vô tướng tinh tấn Ba La Mật”.

Bồ Tát lại dùng tâm tinh tấn  vào vô lậu thánh đạo, được đầy đủ tinh tấn Ba La Mật. Do đầy đủ tinh tấn Ba La Mật, mà nhiếp được hết thảy thiện pháp, tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo… dẫn đến mười tám bất cộng pháp. Do hành các thiện pháp như vậy mà Bồ Tát được đầy đủ nhất thiết chủng trí, đoạn sạch các tập khí phiền não, được ba mươi hai tướng tốt, phóng đại quang minh, chuyển mười hai hành pháp luân, khiến khắp cõi đại thiên thế giới đều dấy lên sáu điệu chấn động. Chúng sanh khắp cõi Đại thiên thế giới nhờ nghe thuyết pháp mà vào được ba thừa đạo…dẫn đến được giải thoát. Như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong tinh tấn Ba La Mật, thường làm lợi ích cho chúng sanh, thường được đầy đủ nhất thiết chủng trí.

 Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, nên thường đầy đủ thiền Ba La Mật.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát vào sơ thiền… dẫn đến đệ tứ thiền, vào bốn vô lượng tâm “từ, bi, hỷ, xả”, vào hư không vô biên xứ định…dẫn đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định, vào ba giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”, vào điện quang tam muội, vào Kim Cang tam muội, vào Thánh chánh tam muội vv…. Ngoại trừ các tam muội của chư Phật ra, còn hết thảy các tam muội của các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật thì Bồ Tát đều vào cả. Thế nhưng, dù vào các tam muội, mà Bồ Tát chẳng có thọ các quả tam muội.

Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ các tam muội là vô tướng (chẳng có tướng), là vô sở hữu tánh (chẳng có tánh sở hữu).

Như vậy làm sao ở nơi pháp vô tướng mà có thể thọ mùi vị của pháp vô tướng, làm sao ở nơi pháp vô sở hữu mà có thể thọ mùi vị của pháp vô sở hữu.

Nếu chẳng thọ mùi vị của thiền định thì chẳng bị các lực thiền định dẫn sanh lên các cõi trời. Vì sao? Vì Bồ Tát chẳng thấy các cõi ấy, chẳng thấy các thiền định, chẳng thấy người vào thiền định, cũng chẳng thấy người dùng các pháp ấy.

Vì chẳng đắc các pháp ấy nên Bồ Tát thường đầy đủ “vô tướng thiền Ba La Mật”, vượt qua các Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Bồ Tát làm thế nào để được đầy đủ “Vô tướng thiền Ba La Mật”?.

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát khéo học nội không, ngoại không… dẫn đến kheó học vô pháp hữu pháp không, biết rõ ở nơi đó chẳng có chỗ để an trú, chẳng có các quả Thanh Văn… dẫn đến chẳng có nhất thiết chủng trí. Tất cả các pháp không đó cũng đều là không.

Bồ Tát hành các pháp không như vậy mà vào Bồ Tát vị.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát vị? thế nào là chẳng phải Bồ Tát vị?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Tất cả vô sở đắc (chẳng chỗ đắc) là Bồ Tát vị. Tất cả hữu sở đắc (có chỗ đắc) là chẳng phải Bồ Tát vị.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những gì là vô sở đắc, những gì là hữu sở đắc?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Sắc là hữu sở đắc, thọ, tưởng, hành, thức là hữu sở đắc; nhãn, nhỹ, tỷ, thiệt, thân, ý là hữu sở đắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí là hữu sở đắc. Đây chẳng phải là Bồ Tát vị.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát vị là các pháp bất khả đắc (chẳng có thể đắc), bất khả thuyết (chẳng có thể nói ra), bất khả thị (chẳng có thể thấy được). Hết thảy các pháp, từ sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều là như vậy cả.

Vì sao? Vì sắc tánh là chẳng thể thuyết ra được, chẳng thể thấy được… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng chẳng thể thuyết ra được, chẳng thể thấy được vậy.

Này Tu Bồ Đề! Như vậy goi là Bồ Tát vị. Vào trong Bồ Tát vị, Bồ Tát được đầy đủ các tam muội, mà chẳng tùy theo lực dẫn của các tam muội.

Bồ Tát an trú trong như huyễn pháp, chứng như huyễn vị, độ như huyễn chúng sanh. Bồ Tát làm lợi cho chúng sanh như vậy, mà chẳng thấy có chúng sanh khả độ (có thể độ). Vì sao? Vì như huyễn pháp là bất khả đắc. Bồ Tát ở nơi vô sở đắc mà thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Như vậy là Bồ Tát đầy đủ “vô tướng thiền Ba La Mật”, thường chuyển pháp luân. Pháp luân đó cũng là bất khả đắc pháp luân.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Bồ Tát hành bát nhã Ba La Mật làm sao để biết hết thảy pháp đều là như mộng… dẫn đến đều là như hóa?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng… dẫn đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy người hóa.

Vì sao? Vì mộng, hưởng, ảnh, diệm, huyễn và hóa, đều là những pháp điên đảo của phàm phu, ngu muội.

Hết thảy pháp đều là tánh vô sở hữu, chẳng sanh, chẳng định.

Nếu các pháp là tánh vô sở hữu, là chẳng sanh, chẳng định, thì làm sao Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật lại thủ lấy tướng sanh, tướng định nơi các pháp! Thật chẳng thể nào có như vậy được.

Vì sao? Vì các pháp chẳng có tánh, nên khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng chấp sắc…dẫn đến chẳng chấp thức, chẳng chấp cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc; chẳng chấp các thiền giải thoát; Chẳng chấp bốn niệm xứ … dẫn đến chẳng chấp tám thánh đạo; chẳng chấp ba giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”; chẳng chấp đàn Ba La Mật … dẫn đến chẳng chấp Bát Nhã Ba La Mật.

Vì chẳng chấp trước nên Bồ Tát được đầy đủ sơ địa… dẫn đến được đầy đủ thập địa, mà ở nơi các địa cũng chẳng chấp trước . Vì sao? Vì Bồ Tát chẳng thấy mình đắc các địa, huống nữa là khởi tâm chấp các địa.

Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy mình đắc Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy các pháp vào trong Bát Nhã Ba La Mật, lại cũng chẳng thấy mình đắc các pháp.

Vì sao? Vì hết thảy các pháp cùng với Bát Nhã Ba La Mật là chẳng phải hai, chẳng phải khác vậy. Vì khi đã vào trong pháp như, pháp tánh, thật tế, thì các pháp chẳng còn có sự phân biệt nữa.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Nếu các pháp đều là vô tướng, vô phân biệt, thì làm sao lại nói đến thiện và ác, đến hữu lậu và vô lậu, đến thế gian và xuất thế gian, đến hữu vi và vô vi?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? ở nơi thật tướng pháp, thì có pháp nào được gọi là thiện hay ác, là hữu lậu hay vô lậu, là thế gian hay xuất thế gian, là hữu vi hay vô vi chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Chẳng thể nói như vậy được.

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Bởi nhân duyên vậy, nên phải biết hết thảy pháp đều là vô tướng, vô phân biệt, chẳng có sanh tướng, chẳng có định tướng, chẳng thể thấy, chẳng thế nói ra được.

Này Tu Bồ Đề! Trước kia, khi ta còn hành Bồ Tát Đạo ta cũng chẳng thấy có pháp nào có tánh đắc , dù đó là sắc, là thọ, là tưởng là hành, là thức, là hữu vi, là vô vi…dẫn đến dù đó là Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề! Từ khi sơ phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật phải khéo học các pháp tánh như vậy.

Khéo học các pháp tánh như vậy là được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Hành đạo như vậy là được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Bồ Tát an trú trong pháp Vô Thượng Bồ Đề, dùng ba thừa giáo độ thoát chúng sanh, mà cũng cũng chẳng chấp ba thừa.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dùng pháp vô tướng phải như vậy mà học Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN:

Ở đoạn Kinh trên đây, ngài Tu Bồ Đề đã dùng pháp KHÔNG để hỏi Phật rằng, “nếu hết thảy các pháp là vô tướng, vô phân biệt,thì làm sao Bồ Tát có thể được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật?.

Phật cũng đã dùng pháp KHÔNG để trả lời lại rằng, “Bồ Tát an trú trong năm ấm như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, nên được đầy đủ sáu pháp Ba La Mật”.

Hỏi: bên hỏi và bên đáp y cứ nơi pháp KHÔNG. Như vậy hai bên sai khác nhau ở chỗ nào?

Đáp: Ngài Tu Bồ Đề đã thâm nhập vào pháp KHÔNG, chẳng còn nghi ngờ gì nữa cả. Thế nhưng vì hàng phàm phu mà ngài phải nêu lên câu hỏi trên để xin Phật giải đáp.

Phật dạy: hàng phàm phu, do xa rời thật trí huệ, do còn chấp các pháp tướng, nên mới thấy Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật sẽ đến được Vô Thượng Bồ Đề, sẽ được làm Phật, do tâm chấp như vậy, nên mới nạn hỏi.

Còn Bồ Tát biết rõ năm ấm đều là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm,như huyễn, như hóa nên thường dùng tâm KHÔNG mà hành bố thí… dẫn đến hành trí huệ. Bởi vậy nên tuy hành đầy đủ các pháp Ba La Mật mà chẳng hề bị chướng ngại.

Ví như mây mù hay các bụi trần ngăn che tầm mắt khiến người phàm phu chẳng có thể thấy được hư không, cũng như vậy, do bị các phiền não tập khí che tâm, nên phàm phu chẳng thấy được thật tướng pháp.

Phàm phu do xa lìa thật tướng pháp, nên thấy có mây mù, có bụi trần ngăn che hư không. Còn chư Phật và chư đại Bồ Tát, ở nơi thật tướng pháp, thấy hư không mà chẳng thấy có mây mù hay bụi trần.

Vì Bồ Tát thường tự tại, vô ngại, nên ở nơi một niệm mà được đầy đủ các thiện pháp; ở nơi một Ba La Mật mà được đầy đủ cả sáu Ba La Mật.

Lại nữa, vì Bồ Tát thường tu thanh tịnh Vô lậu Ba La Mật, nên khi chuyển thân vẫn được đầy đủ qủa báo vô lậu.

Do được quả báo vô lậu, nên Bồ Tát thường biến thân thành vô lương thân, đi đến vô lượng cõi nước để nghe chư Phật thuyết pháp, để giáo hóa chúng sanh.

Hỏi: nếu các pháp đều là không, là vô tướng, thì làm sao có thể biết được hành bố thí Ba La Mật mà đầy đủ các Ba La Mật kia.

Đáp: người tu hành tuy chẳng thể tự phân biệt mình có hành Ba La Mật nào, mà vẫn đầy đủ cả sáu Ba La Mật.

Ví như người tu theo Thanh văn, khi đã vào được “kiến đế đạo”, đã thấy được các pháp vô lậu, vô tướng, vô phân biệt rồi, là đã có được chánh kiến. Được chánh kiến rồi là có chánh hạnh, chẳng làm não hại chúng sanh, chẳng khởi niệm ác… dẫn đến có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tuy chẳng có chỗ nói, chẳng có chỗ làm, mà vẫn gọi là có chánh ngữ, chánh nghiệp. Do đã thâm nhập vào chánh ngữ, chánh nghiệp, đã rốt ráo chẳng làm phiền nhiễu chúng sanh, mà thường phát tâm tinh tấn duyên niệm, nên gọi là có chánh niệm. Do thường nhiếp tâm tại một chỗ, nên gọi là có chánh định. Lại nữa, ở thân thọ, tâm và pháp đều đã biết rõ thật tướng, nên được gọi là được đầy đủ bốn niệm xứ.

Bồ Tát hành bốn niệm xứ cũng vào tám thánh đạo… dẫn đến cũng thường hành “vô tướng bố thí Ba La Mật”, thường đầy đủ trì giới Ba La Mật, thường đầy đủ các thiện pháp. Vì sao? Vì bố thí và trì giới  nhiếp hết thảy các thiện pháp.

Hỏi: ở phẩm trước nói, “trong một niệm mà nhiếp hết thảy các Ba La Mật”. Ở phẩm này nói, “Vô tướng Ba La Mật nhiếp hết thảy các pháp”. Như vậy có gì khác nhau chăng?

Đáp: ở phẩm trước nói, “trong một niệm mà đầy đủ cả sáu pháp Ba La Mật”; còn ở phẩm này nói, “các pháp tuy là không, là vô tướng, mà tướng đầy đủ các pháp Ba La Mật”.

Như vậy là có khác nhau.

***

PHẨM THỨ BẢY MƯƠI TÁM
Tứ Nhiếp Pháp
(Bốn Pháp Nhiếp Độ Chúng Sanh)

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Nếu các pháp mà như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, chẳng thật có, là tánh vô sở hữu , là tự tướng không, thì làm sao phân biệt được các pháp là thiện, là bất thiện, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phàm phu ngu muội khi nằm mộng liền  thấy có mộng, có người thấy mộng… dẫn đến khi được hóa liền thấy có hóa, có người được hóa. Do vậy mà khởi nghiệp thiện, nghiệp ác hay nghiệp vô ký ở nơi thân, khẩu và ý… dẫn đến tạo nghiệp phước, nghiệp tội hay nghiệp bất động.

Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thường an trú trong hai pháp không, đó là tất cánh không và vô thỉ không, để rồi vì các chúng sanh thuyết pháp rằng, “Hỡi các ngươi! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là không, là vô sở hữu; mười hai nhập, mười tám giới cũng đều là không, là vô sở hữu. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mười hai nhập, mười tám giới đều là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa. Các pháp vốn chẳng có. Chẳng có năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới; Chẳng có mộng cũng chẳng có người thấy mộng… dẫn đến chẳng có hóa, cũng chẳng có người được hóa. Hết thảy các pháp đều chẳng có nguồn gốc, vì thật tánh là vô sở hữu. Do nghiệp dẫn sanh mà các ngươi mới thọ thân năm ấm, nhưng năm ấm vốn là không. Đã chẳng có năm  ấm, thì cũng chẳng có mười hai nhập, mười tám giới. Hết thảy pháp đều do nhân duyên hòa, hợp, sanh, đều do chấp tâm điên đảo mà khởi, và đều thuộc về nghiệp quả báo vậy. Vì sao nơi “pháp không” chẳng có nguồn gốc, mà các ngươi lại chấp lấy tướng nguồn gốc?”.

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Hành Bát Nhã Ba La Mật dùng các lực phương tiện, ở nơi pháp xan tham mà nhổ gốc xan tham, đưa chúng sanh ra khỏi xan tham, dạy cho họ tu bố thí Ba La Mật, khiến họ được đại phước báo. Nương theo phước báo đó, Bồ Tát lại dạy chúng sanh tu trì giới, khiến họ được sanh lên cõi trời. Rồi Bồ Tát lại dạy chúng sanh an trú nơi sơ thiền… dẫn đến nơi đệ tứ thiền, an trú nơi không vô biên xứ định… dẫn đến nơi phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định.

Khi chúng sanh đã hành bố thí và được quả báo bố thí, hành trì giới và được quả báo trì giới, hành thiền định và được quả báo hành thiền định rồi, thì Bồ Tát lại dẫn dắt họ vào đạo vô dư Niết Bàn. Vào trong đạo Niết Bàn, Bồ Tát lại dạy họ tu ba mươi bảy  Phẩm Trợ Đạo, tu ba giải thoát môn, tu tám bối xả, tu chín thứ đệ tịnh, tu mười  Phật lực, tu bốn vô sở úy, tu bốn vô ngại trí… dẫn đến tu mười tám bất cộng pháp.

Khi chúng sanh đã được an ổn rồi, Bồ Tát lại dạy họ an trú nơi pháp vô lậu. Đây là thánh trú, nên là chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, và chẳng có chỗ đắc vậy.

Nếu chúng sanh nào còn hữu sở đắc, thì Bồ Tát an ổn giáo hóa họ khiến họ được quả Thanh Văn và Bích Chi Phật. Nhưng rồi sau đó, Bồ Tát cũng dẫn dắt họ vào Vô Thượng Bồ Đề, an ổn giáo hóa họ khiến họ an trú nơi Vô Thượng Bồ Đề.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát rất là hy hữu, khó có ai bì kịp. Các ngài hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thường ở nơi các pháp vô sở hữu tánh, rốt ráo không, vô thỷ không, mà vẫn phân biệt được các pháp là thiện, là bất thiện, là hữu lậu, là vô lậu… dẫn đến những hữu vi, là vô vi.

Phật dạy: đúng như vậy, đúng như vậy! này Tu Bồ Đề! Chư đại Bồ Tát rất là hy hữu, khó có ai bì kịp, thường hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, thường ở nơi các pháp vô sở hữu tánh, rốt ráo không, vô thỉ không, mà vẫn phân biệt được các pháp.

Này Tu Bồ Đề! Ông phải biết chư đại Bồ Tát rất là hy hữu. Các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật còn chẳng có thể bì kịp huống nữa là những người khác.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hành pháp của chư đại Bồ Tát như thế nào mà các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật khó có thể bì kịp?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Ông hãy nhất tâm lắng nghe.

Có Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong quả báo đắc sáu Ba La Mật, cũng an trú trong quả báo đắc năm thần thông, đắc ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, đắc các Đà la ni, đắc các vô ngại trí, mà đi từ cõi nước này đến cõi nước khác ở khắp 10 phương, dùng bố thí để nhiếp độ chúng sanh.

Có Bồ Tát dùng trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, tùy chúng sanh hợp với pháp nào thì nhiếp độ họ theo pháp đó.

Có Bồ Tát dùng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hoặc dùng không vô biên xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định… dẫn đến phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định, tùy theo chúng sanh hợp với pháp nào, thì nhiếp độ họ theo pháp đó.

Có Bồ Tát dùng từ, bi, hỷ, xả để nhiếp độ những chúng sanh mà phải cần đến các pháp đó mới nhiếp độ họ được.

Có Bồ Tát dùng bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, hoặc dùng ba tam muội “ không, vô tướng và vô tác”. Để nhiếp độ những chúng sanh mà phải cần đến các pháp đó mới nhiếp độ họ được.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát dùng bố thí làm lợi ích cho chúng sanh?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát bố thí rộng khắp cho hết thảy chúng sanh. Thấy chúng sanh cần gì, thì Bồ Tát liền cung ứng cho họ đầy đủ, từ các thức ăn uống, các đồ mặc… dẫn đến xe ngựa, hương hoa, anh lạc vv….

Bồ Tát bố thí cho chúng sanh như cúng dường chư Phật, chư Bích Chi Phật, chư Thanh Văn, chẳng có sai khác; Bố thí cho người đã nhập vào chánh đạo, cho người phàm phu… dẫn đến bố thí cho chim thú đều đồng như nhau, chẳng có sai khác.

 Vì sao? Vì hết thảy pháp đều chẳng pháp, chẳng có phân biệt, nên Bồ Tát bố thí cũng chẳng khác, chẳng có phân biệt.

Bồ Tát bố thí như vậy nên sẽ được quả báo vô phân biệt; Đó là nhất thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Đề! Khi Bồ Tát thấy kẻ ăn xin, mà dấy niệm nghĩ rằng, “Phật là phước điền ta mới phải nên cúng dường. Còn các hạng bần cùng, hạ tiện, các chim thú chẳng phải là phước điền, ta chẳng nên bố thí”. Nếu nghĩ như vậy là xa lìa pháp Bồ Tát.

Vì sao? Vì Bồ Tát đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì chẳng nên nghĩ rằng, “ta nên bố thí cho chúng sanh này, chẳng nên bố thí cho chúng sanh kia”. Lại cũng chẳng nên nghĩ rằng, “do nhân duyên bố thí mà ta sẽ được sanh vào các đại gia, đại tộc. Do nhân duyên bố thí dùng ba thừa đạo độ chúng sanh mà ta sẽ vào vô dư Niết Bàn vv…”.

Bởi vậy nên, khi thấy có chúng sanh đến xin được bố thí, Bồ Tát chẳng nên sanh tâm phân biệt, sai khác.

Vì sao? Bồ Tát vì chúng sanh mà cầu Vô Thượng Bồ Đề. Nếu thấy chúng sanh đến xin được bố thí mà còn lựa chọn, còn phân biệt, thì Bồ Tát ắt sẽ bị thế gian phiền trách rằng, “hết thảy chúng sanh đều cần đến sự che chở, sự cứu giúp của ngài. Nay có chúng sanh đến xin bố thí, sao ngài còn phân biệt, còn lựa chọn nên cho ai, chẳng nên cho ai?”.

Lại nữa, khi hành Bát Nhã Ba La Mật, nếu có chúng sanh nào đến xin mình bố thí thân thể hoặc đầu, mắt, tay, chân… Bồ Tát cũng chẳng nên do dự là nên cho hay chẳng nên cho.

Vì sao? Bồ Tát vì chúng sanh mà thọ thân nhằm cứu độ chúng  sanh, phải nên nghĩ rằng: “vì lợi ích chúng sanh mà ta thọ thân này. Nay có chúng sanh đến xin ta bố thí thân này, ta phải nên cho họ, chẳng nên từ khước”.

 Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Khi thấy có chúng sanh đến xin được bố thí, Bồ Tát phải tự hỏi rằng, “ai cho? Ai xin? Cho gì và xin gì? Hết thảy các pháp đều chẳng có tự tánh, đều là rốt ráo không, nên chẳng có cho, chẳng có xin. Hết thảy pháp đều là rốt ráo không, nên đều là nội không, là ngoại không, là nội ngoại không, là đại không, là đệ nhất nghĩa không.., dẫn đến là tự tướng không vậy.

Bồ Tát an trú trong “không” mà được đầy đủ bố thí Ba La Mật. Do được đầy đủ bố thí Ba La Mật, nên khi gặp chúng sanh đến mắng nhiếp, đánh đập, đâm chém…hay đến cướp giựt tài vật, Bồ Tát liền tự hỏi, “ ta là ai? Kẻ đến mắng nhiếc đánh đập, đâm chém ta là ai? Kẻ đến cướp giựt tài vật của ta là ai?.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, thấy ở phương Đông có hằng sa Bồ Tát vào tận chốn địa ngục, dùng 3 pháp để giáo hóa chúng sanh. Đó là: dùng thần thông-quán tâm niệm của chúng sanh – tùy chúng sanh thuyết pháp.

Bồ Tát dùng lực thần thông dập tắt lửa địa ngục, làm lạnh nước đang sôi…, dùng tha tâm trí quán biết tâm niệm của chúng sanh kế đến lại dùng “từ bi, hỷ xả” tùy chúng sanh thuyết pháp khiến họ được tâm thanh tịnh. Nhờ vậy mà họ thoát khỏi cảnh địa ngục, sau đó Bồ Tát lại đem ba thừa pháp giáo hóa chúng sanh, khiến họ dứt được các khổ sanh tử.

Ở khắp 10 phương đều là như vậy cả.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán trong hằng sa cõi nước ở khắp 10 phương thấy các Bồ Tát hầu hạ, cung kính, cúng dường các đức Phật. Nếu được các đức Phật dạy bảo điều gì thì các Bồ Tát ấy liền thọ trì đầy đủ. Dẫn đến khi được Vô Thượng Bồ Đề cũng chẳng có quên sót.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán trong hằng sa cõi nước ở khắp 10 phương, thấy các Bồ Tát vì các loài chúng sanh mà xả thân mạng, tự phân cắt thân thể mình đem rải khắp nơi.

Súc sanh nào ăn được thịt của Bồ Tát đều sanh lòng kính mến. Nhờ vậy mà họ thoát khỏi kiếp súc sanh, được gặp Phật, được nghe Pháp, được tu tập theo ba thừa pháp, dần dần được tâm thanh tịnh,… dẫn đến có thể được vào Vô Dư Niết Bàn.

Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm rất nhiều việc lợi ích cho chúng sanh, giáo hóa cho chúng sanh, khiến họ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, đúng như pháp tu hành… mãi cho đến khi họ vào được vô dư Niết Bàn.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán trong hằng sa cõi nước ở khắp 10 phương, thấy các Bồ Tát đang trừ nỗi khổ đói khát của hàng ngạ quỷ khiến họ chúng sanh lòng kính mến Bồ Tát. Nhờ vậy mà họ thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được gặp Phật, được nghe Pháp, được tu tập theo 3 thừa pháp, dần dần được tâm thanh tịnh,… dẫn đến có thể được vào vô dư Niết Bàn.

Bồ Tát vì muốn độ chúng sanh mà hành tâm đại bi như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán thấy các Bồ Tát ở trên cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Đao Lợi, cõi trời Dạ Ma, cõi trời Hóa Lạc, cõi trời Tha Hóa Tự Tại, vì hàng chư Thiên thuyết pháp. Chư thiên ở các cõi trời này nghe Bồ Tát thuyết pháp dần dần vào được ba thừa đạo…dẫn đến được diệt độ.

Này Tu Bồ Đề! Trong hàng chư Thiên, nếu có vị nào còn tham đắm năm dục, thì Bồ Tát liền nổi lửa thiêu cháy cung điện của họ, rồi vì họ thuyết rằng, “này chư Thiên Tử! hết thảy pháp hữu vi đều là vô thường. Chẳng có nơi nào được an ổn cả”.

Này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán trong hằng sa cõi nước ở khắp mười phương, thấy có các vị Phạm Thiên chấp tà kiến, được các Bồ Tát giáo hóa, khiến họ xa lìa tà kiến. Bồ Tát dạy rằng, “Vì sao ở nơi các pháp hư vọng, chẳng có tự tướng mà các ngài lại khởi sanh tà kiến?”.

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát an trú trong đại từ, vì chúng sanh thuyết pháp. Thật là hy hữu khó có ai bì kịp.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật nhãn, quán trong hằng sa cõi nước ở khắp mười phương, các Bồ Tát dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp độ chúng sanh. Đó là: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

* Thế nào là dùng bố thí để nhiếp độ chúng sanh?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dùng tài thí và pháp thí để nhiếp độ chúng sanh.

a/ Tài thí: Bồ Tát đem các tài vật để bố thí cho chúng sanh và nói với chúng sanh rằng  “các ngươi cần vật dụng gì, ta sẽ cung ứng cho đầy đủ, chớ có nghi ngại”.

b/ Pháp thí: bố thí tài vật xong, Bồ Tát lại dạy cho chúng sanh quy y Tam Bảo; dạy họ thọ năm giới, thọ tám trai giới; dạy họ tu bốn thiền, tu bốn vô sắc định, tu bốn vô lượng tâm; dạy họ tu sáu niệm, gồm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm Thiên; Dạy họ tu quán bất tịnh, tu quán hơi thở ra vào; dạy họ tu bốn niệm xứ dẫn đến tu tám thánh đạo; Dạy họ tu ba tam muội “không, vô tướng và vô tác; Dạy họ tu tám bối xả, tu chín thứ đệ định; Dạy họ tu 10 Phật lực, tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại trí; Dạy họ tu đại từ, đại bi; Dạy họ tu 32 tướng tốt, tu 80 vẻ đẹp. Bồ Tát cũng dạy họ tu bốn quả Thanh Văn, tu đạo Bích Chi Phật… dẫn đến dạy họ tu Vô Thượng Bồ Đề.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật dùng các phương tiện tài thí để nhiếp độ chúng sanh. Bố thí tài vật cho họ xong rồi Bồ Tát lại dạy cho họ tu tập, khiến họ được an ổn nơi pháp Niết Bàn vô thượng. Thật là hy hữu, khó có ai bì kịp.

* Thế nào là dùng pháp thí để nhiếp độ chúng sanh?

 Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dùng “pháp thí thế gian” và “pháp thí xuất thế gian” để nhiếp độ chúng sanh.

a/ Pháp thí thế gian: trước đây đã nói rõ về “pháp thí thế gian như dạy cho chúng sanh quan bất tịnh, quán hơi thở ra vào, tu bốn thiền, tu bốn vô lượng tâm, tu bốn vô sắc định vv…vì dạy các pháp tu nêu trên đây hợp với chỗ sở hành của phàm phu, nên gọi là “pháp thí thế gian”.

b/ Pháp thí thế gian: Bồ Tát hành “ pháp thí thế gian” như vậy rồi, lại dùng các nhân duyên phương tiện giáo hóa họ, khiến họ xa rời thế gian.

Khi chúng sanh đã xa rời pháp thế gian, Bồ Tát lại dùng các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, đưa họ vào nơi “vô lậu thánh pháp”, dẫn đến “vô lậu thánh quả”.

* Thế nào là “vô lậu chánh pháp” và “vô lậu thánh quả”?

Này Tu Bồ Đề! “vô lậu thánh pháp” và “vô lậu thánh quả” là những pháp tu và những quả vị vô lậu, xuất thế gian.

a/ Vô lậu thánh pháp: vô lậu thánh pháp là 37 Phẩm Trợ Đạo, 3 giải thoát môn, cùng tất cả trí huệ thế gian và xuất thế gian… dẫn đến nhất thiết chủng trí.

b/ Vô lậu thánh quả: Vô lậu thánh quả là Tu Đà Hoàn… dẫn đến quả A La Hán; quả Bích Chi Phật… dẫn đến quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: bạch Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát có được nhất thiết chủng trí chăng?

Phật dạy: đúng như vậy, đúng như vậy! Các đại Bồ Tát có được nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nhất thiết chủng trí của Bồ Tát và nhất thiết chủng trí của Phật có gì khác chăng?

Phật dạy: này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát được nhất thiết chủng trí, thì được gọi là Phật.

 Vì sao? Vì tâm Bồ Tát cùng tâm Phật chẳng có sai khác.

 Bồ Tát an trú trong nơi nhất thiết chủng trí, như thật biết hết thảy các pháp,; chẳng có pháp nào mà chẳng thấu suốt.

Bồ Tát do nơi thế gian pháp thí, mà được xuất thế gian pháp thí. Như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát giáo hóa chúng sanh khiến họ được pháp thế gian, rồi dùng lực phương tiện dạy họ được pháp xuất thế gian.

* Thế nào là Pháp xuất thế gian?

Này Tu bồ Đề! Pháp xuất thế gian là pháp chẳng đồng vơi pháp của phàm phu.

Nên biết rằng bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực,bảy giác chi, tám thánh đạo, ba giải thoát môn, tám bối xả, chín thứ đệ định, mười Phật lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, 500 Đà la ni… đều được gọi là pháp xuất thế gian.

* Thế nào là 4 niệm xứ?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát quán nội thân theo thân, quán ngoại thân theo thân, quán nội ngoại thân theo thân. Bồ Tát siêng năng, tinh tấn dùng nhất tâm trí huệ mà quán nhân duyên thân tập, quán thân diệt, quán hành sanh diệt của thân. Hành đạo như vậy là chẳng có chỗ sở y nơi thế gian, chẳng có chỗ sở thọ nơi các pháp. Như vậy là “thân niệm xứ”.

Đối với “thọ, tâm và pháp niệm xứ” cũng là như vậy.

* Thế nào là 4 chánh cần?

Này Tu Bồ Đề! Đó là:

Điều ác đã sanh, phải trừ dứt.
Điều ác chưa sanh, phải ngăn đừng cho sanh.
Điều lành chưa sanh, phải khiến cho sanh.
Điều lành đã sanh, phải khiến cho tăng trưởng.

* Thế nào gọi là 4 như ý túc?

Này Tu Bồ Đề! Đó là:

Dục tam muội, quyết hành thành tựu

Niệm tam muội, quyết hành thành tựu.

Tinh tấn tam muội, quyết hành thành tựu

Tư duy tam muội, quyết hành thành tựu.

* Thế nào là 5 căn?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, và huệ căn.

* Thế nào là 5 lực?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: tín lực, tấn lực, niệm lực,định lực và huệ lực.

* Thế nào là 7 giác chi?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: niệm giác chi, trạch giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi (còn gọi là trừ giác chi), định giác chi và xả giác chi.

* Thế nào là 8 thánh đạo?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

* Thế nào là 3 giải thoát môn?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: không tam muội, vô tướng tam muội và vô tác tam muội.

“Không tam muội”: hành không, hành vô ngã, để nhiếp tâm gọi là hành “không tam muội”.

“Vô tướng tam muội”: hành tịch diệt, hành ly để nhiếp tâm gọi là hành “vô tướng tam muội”.

“Vô tác tam muội”: hành vô thường, hành khổ để nhiếp tâm gọi là hành “vô tác tam muội”.

* Thế nào là 8 bối xả?

Này Tu Bồ Đề! Đó là tám pháp quán  nhằm xả bỏ các cảnh giới thiền định thế gian, và thành tựu thiền định xuất thế gian.

Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc, nhằm xả bỏ cảnh giới sơ thiền là bối xả thứ nhất.

Trong chẳng có sắc tướng, ngoài quán sắc, nhằm xả bỏ cảnh giới nhị thiền là bối xả thứ hai.

Quán thanh tịnh sắc, thân tác chứng, nhằm xóa bỏ cảnh giới tam thiền và tứ thiền là bối xả thứ ba.

Vượt qua hết thảy sắc tướng, diệt hết thảy tướng có đối ngại, chẳng niệm hết thảy tướng dị biệt khác mà quán hư không vô biên xứ, nhập hư không vô biên xứ định , nhằm xả bỏ cảnh giới này là bối xả thứ tư.

………….dẫn đến vượt qua phi hữu tưởng phi vô tướng xứ định, nhập vào diệt thọ tưởng định, rồi xả bỏ cảnh giới này là bối xả thứ tám.

* Thế nào là 9 thứ đệ định?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: bốn thiền (sơ thiền…dẫn đến tư thiền); bốn không (không vô biên xứ định… dẫn đến phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định), và diệt thọ tưởng định.

Hành giả ly dục, ly các ác bất thiện pháp, ly sanh hỷ, lạc vào sơ thiền; Lần lượt vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định; Rồi vượt qua phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định mà vào diệt thọ tưởng định.

* Thế nào là 10 Phật lực?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: 10 trí lực của Phật, gồm có:

Thị xứ phi thị xứ trí lực. Do lực này mà biết rõ các sự lý là đúng chỗ hay là chẳng đúng chỗ.

Nghiệp báo trí lực. Do lực này mà biết rõ các nhân duyên nghiệp báo của từng chúng sanh ở cả ba đời.

Thiền giải thoát tam muội trí lực: Do lực này mà biết rõ từng chúng sanh đã vào thiền định tam muội nào; trong khi tham thiền tư duy cấu hay tịnh vv…

Thượng hạ căn trí lực: Do lực này mà biết rõ căn cơ của từng chúng sanh lợi độn như thế nào?

Chủng chủng dục trí lực. Do lực này mà biết rõ chúng sanh ham muốn gì, thiện dục hay ác dục.

Chủng chủng tánh trí lực. Do lực này mà biết rõ tánh đức của từng chúng sanh; biết rõ họ sẽ hướng tâm về cảnh giới nào.

Đạo trí lực: Do lực này mà biết rõ tầm mức hiểu đạo và hành đạo của từng chúng sanh.

Túc mạng trí lực. Do lực này mà biết rõ đời trước của các chúng sanh, từ một đời… dẫn đến nhiều đời.

Sanh tử trí lực. Do lực này mà biết rõ các chúng sanh đã thành tựu nghiệp thiện, nghiệp ác như thế nào, và sau khi mạng chung sẽ về đâu trên đường sanh tử.

Lậu tận trí lực. Do lực này mà biết rõ chúng sanh nào đã được lậu tận, đã được tâm vô lậu giải thoát, đã được trí vô lậu giải thoát.

* Thế nào là 4 vô sở úy?

Này Tu Bồ Đề! Đó là bốn đức chẳng có sợ hãi của Phật, gồm:

Nhất thiết trí vô sở úy:

Phật nói lên lời thành thật rằng, “ta là đấng nhất thiết chánh trí, nếu có Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên hoặc bất cứ người nào khác nói ta chẳng biết pháp ấy, dẫn đến chẳng thấy, chẳng nói ra được, thì ta chẳng chút sợ hãi. An trú trong thánh xứ, ta được an ổn, chẳng sợ hãi, nên ở giữa đại chúng ta thuyết pháp, chuyển pháp luân, mà các hàng Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên… đều chẳng thể chuyển được.

Lậu tận vô ở úy:

Phật nói lên lời thành thật rằng, “ta là đấng lậu tận, nếu có Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên hoặc bất cứ người nào khác nói ta chẳng biết pháp ấy, dẫn đến chẳng thấy, chẳng nói ra được, thì ta chẳng chút sợ hãi. An trú trong thánh xứ, ta được an ổn, chẳng sợ hãi, nên ở giữa đại chúng ta thuyết pháp, chuyển pháp luân, mà các hàng Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên… đều chẳng thể chuyển được.

Thuyết chướng đạo vô sở úy:

 Phật nói lên lời thành thật rằng, “Ta đã được như thật pháp, khiến các chướng pháp chẳng có thể  làm chướng ngại đạo của ta. Nếu có Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên hoặc bất cứ người nào khác nói các pháp chướng mà ta chỉ ra chẳng chướng ngại đạo, dẫn đến ta chẳng thấy, chẳng nói ra được, thì ta cũng chẳng chút sợ hãi. An trú trong thánh xứ, ta được an ổn, chẳng sợ hãi, nên ở giữa đại chúng ta thuyết pháp, chuyển pháp luân, mà có hàng Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên… đều chẳng thể chuyển được”.

Thuyết thánh đạo vô sở úy:

Phật nói lên thành lời thành thật rằng, “ ta có thánh đạo, vượt ra khỏi thế gian. Chúng sanh nào hành theo đạo của ta sẽ thoát được các khổ. Nếu có Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên, hoặc bất cứ người nào khác nói hành đạo của ta chẳng thể vượt ra khỏi thế gian, chẳng thoát được các khổ,  thì ta cũng chẳng chút sợ hãi. An trú trong thánh xứ, ta được an ổn, chẳng sợ hãi, nên ở giữa đại chúng ta thuyết pháp, chuyển pháp luân, mà có hàng Sa Môn, Bà La Môn, Phạm Thiên… đều chẳng thể chuyển được”.

* Thế nào là 4 vô ngại trí?

Này Tu Bồ Đề! Đó là:

Nghĩa vô ngại trí. Do có trí huệ này mà biết rõ nghĩa lý của các pháp, chẳng có gì ngăn ngại.

Từ vô ngại trí. Do có trí huệ này mà biết rõ các danh tự, ngôn ngữ, chẳng có gì ngăn ngại.

Pháp vô ngại trí. Do có trí huệ này mà biết rõ hết thảy các pháp chẳng có gì ngăn ngại.

Lạc thuyết vô ngại trí. Do có trí huệ này mà vui vẻ thuyết pháp, chẳng hề thối chuyển, chẳng có gì ngăn ngại.

* Thế nào là 18 bất cộng pháp?

Này Tu Bồ Đề! Đây là 18 công đức mà chỉ riêng Phật thừa mới có. 18 bất cộng pháp gồm có:

  1. Thân chẳng có lỗi.
  2. Miệng chẳng có lỗi.
  3. Niệm chẳng có lỗi.
  4. Chẳng có khác tưởng.
  5. Tâm thường ở trong định.
  6. Xả bỏ tất cả.
  7. Tâm lợi sanh chẳng có thối chuyển.
  8. Tinh tấn chẳng có thối chuyển.
  9. Niệm chẳng có thối chuyển.
  10. Huệ chẳng có thối chuyển
  11. Giải thoát chẳng có thối chuyển.
  12. Giải thoát tri kiến chẳng có thối chuyển.
  13. Thân nghiệp tùy theo huệ hành.
  14. Khẩu nghiệp tùy theo huệ hành.
  15. Ý nghiệp tùy theo huệ hành.
  16. Trí huệ biết quá khứ vô ngại.
  17. Trí huệ biết hiện tại vô ngại.
  18. Trí huệ biết vị lai vô ngại.

* Thế nào là 32 tướng tốt?

Này Tu Bồ Đề! 32 tướng tốt, nêu sau đây, là 32 tướng của bậc đại nhân. Người có 32 tướng tốt, nếu ở tại gia sẽ thành chuyển luân thánh vương; nếu xuất gia sẽ thành Phật. Đó là:

  1. Tướng bàn chân bằng phẳng.
  2. Tướng dưới bàn chân có hai vành xa luân.
  3. Tướng ngón tay dài, thon và thẳng.
  4. Tướng ngón chân rộng và bằng.
  5. Tướng ngón tay, ngón chân, khi xòe ra, có màng da mỏng dính liền, như chân chim nhạn.
  6. Tướng bàn chân cao và dày.
  7. Tướng tay và chân mềm mại.
  8. Tướng tay dài. Khi đứng thẳng, tay sờ đến đầu gối.
  9. Tướng bắp tay và bắp chân thon như đùi nai chúa.
  10. Tướng âm tang (nam căn) điều hòa.
  11. Tướng thân cao và rộng.
  12. Tướng lông xoáy lên phía trên, và mịn.
  13. Tướng ở mỗi lỗ chân lông có một sợi lông xoáy vòng qua phải và xoáy lên phía trên.
  14. Tướng thân sắc vàng. Sắc vàng của thân chẳng có loại vàng nào sánh kịp.
  15. Tướng ở các phía thân đều có hào quang một trượng. Thân Phật ở giữa vòng hào quang, trang nghiêm, rực rỡ vào bậc nhất.
  16. Tướng làn da mỏng và mịn.
  17. Tướng có bảy phần trong thân thể bằng phẳng và đầy đặn ( hai vai, gáy, hai bàn tay, hai bàn chân).
  18. Tướng dưới hai nách no đầy, chẳng có cao, chẳng có sâu.
  19. Tướng thân to lớn và thẳng.
  20. Tướng vai tròn và đẹp.
  21. Tướng có 40 cái răng.
  22. Tướng răng đều đặn và sít sao.
  23. Tướng răng trắng như tuyết.
  24.  Tướng hai má vuông bầu như hai má của sư tử.
  25. Tướng được hưởng thượng vị. Các thức ăn vào miệng đều có thượng vị thơm ngon.
  26. Tướng lưỡi dài và rộng.
  27. Tướng Phạn âm. Tiếng nói phát ra trong trẻo, vang dội đi rất xa, nghe chẳng bao giờ nhàm chán.
  28. Tướng mắt xanh biếc như đóa sen xanh.
  29. Tướng lông mi dài và đẹp, chẳng có tạp loạn.
  30. Tướng có “nhục kế” ở đỉnh đầu.
  31. Tướng có lông trắng nằm giữa 2 chân mày.
  32. Tướng mình trên như mình sư tử.

Thân Phật thành tựu đủ 32 tướng tốt, phóng quang minh chiếu khắp cõi đại thiên thế giới. Có lúc Phật phóng quang minh đến vô lượng thế giới ở khắp 10 phương. Thế nhưng, tùy thuận chúng sanh, nên Phật thường chỉ thọ thân quang minh tỏa xa một trượng. Âm thanh của Phật vang khắp cõi đại thiên thế giới. Có lúc âm thanh của Phật vang đến tận vô lượng thế giới ở khắp 10 phương. Thế nhưng, tùy nghiệp cảm của chúng sanh, tùy số lượng chúng sanh nhiều hay ít, mà Phật phát âm thanh đến với họ cho họ vừa đủ nghe.

LUẬN:

Hỏi: Trước đây ngài Tu Bồ Đề đã có lần hỏi Phật, “Nếu các pháp đều là tự tánh không, thì làm sao có thể phân biệt được thiện ác?”. Nay vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi nữa? Nghĩa lý có gì khác chăng?

Đáp: Vì từ vô thỉ đến nay, chúng sanh tâm chấp sâu dày, khó tin, khó hiểu, nên ngài Tu Bồ Đề phải thưa hỏi Phật nhiều lần về một vấn đề.

Lại nữa, khi muốn nói về Bát Nhã Ba La Mật, thì cốt yếu phải đề cập đến nghĩa “không”, nên ngài Tu Bồ Đề phải thưa hỏi Phật nhiều lần.

 Khi Phật còn tại thế, thì số chúng sanh lợi căn, thượng trí rất nhiều, nên rất dễ được ngộ. Thế nhưng 500 năm sau khi Phật diệt độ, thì chúng sanh thường ái chấp Phật pháp; họ vào trong các pháp mà lại chấp các pháp đều là không, là như mộng, như huyễn, nên khởi tâm nghi. Họ nghi rằng ở nơi các pháp không, như mộng, như huyễn, thì chẳng sao có thể phân biệt được thiện ác.

Ngài Tu Bồ Đề thương xót chúng sanh ở đời vị lai, phần đông chẳng có căn trí thông lợi, nên khó tin, khó hiểu pháp “không”, nên ngài phải hỏi lại Phật, “Nếu các pháp đều là tự tánh không, thì làm sao có thể phân biệt được thiện ác?”.

Ở đây, Phật nêu lên các nhân duyên cho thấy rằng do tâm điên đảo mà khởi sanh các chấp điên đảo. Phàm phu khi nằm mộng liền chấp cảnh mộng, chấp các sự việc thấy trong mộng. Lại nữa, người chẳng tin tội phước, thì khởi sanh ba bất thiện nghiệp; người tin tội phước, thì khởi sanh ba thiện nghiệp. Thiện, bất thiện cũng như bất động đều dẫn sanh các quả báo thế gian : Thiện dẫn đến các quả báo thiện; bất thiện dẫn đến các quả báo ưu bi, khổ não; còn bất động nghiệp thì dẫn sanh lên các cõi Sắc và Vô Sắc.

Bồ Tát biết rõ cả ba nghiệp đều là hư dối, chẳng thật có, nên thường an trú trong hai pháp không, là tất cánh không và vô thỉ không, để vì chúng sanh thuyết pháp. Bồ Tát dùng tất cánh không, để phá các chấp về pháp tướng; Lại dùng vô thỉ không, để phá các chấp về chúng sanh tướng.

Bồ Tát an trú trong đạo, vì chúng sanh thuyết pháp, nói với chúng sanh rằng, “5 ấm, 12 nhập, 18 giới… đều là không, là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa”; lại nói với chúng sanh rằng, “Ở trong mộng chẳng có mộng, chẳng có người thấy mộng… dẫn đến ở trong hóa chẳng có hóa, chẳng có người thấy hóa”; Lại nói với chúng sanh rằng, “Các người ở trong pháp không, mà tâm các người điên đảo, nên mới khởi sanh các chấp điên đảo”. Trong kinh nói rằng Bồ Tát dùng các lực phương tiện dẫn dắt chúng sanh thoát ra khỏi lưới tà chấp điên đảo.

Bồ tát dạy chúng sanh tu bố thí nhằm phá chấp xan tham điên đảo, rồi lại dạy họ tu trì giới. Thế nhưng chúng sanh lại chấp quả báo bố thí và trì giới, mà chẳng biết rằng quả báo ấy là vô thường, là chẳng thật có. Do vậy, Bồ Tát nói chúng sanh rằng, “Chư Thiên do quả báo bố thì và trì giới mà được hưởng phước lạc ở cõi trời. Nhưng khi đã hưởng hết phước đức rồi, thì cũng sẽ bị đọa lạc, sẽ phải thọ khổ đau”.

Bồ Tát lại dạy chúng sanh tu ly dục, hành thiền định, và nói với họ rằng, “Quả báo thiền định cũng là hư dối, chẳng thật có, thường dẫn hành giả vào trong điên đảo”.

Vậy nên các quả báo bố thí, trì giới, thiền định đều là vô thường, là chẳng thật có; chấp các quả báo đó là tội lỗi vậy.

Bồ Tát lại dạy chúng sanh trú trong pháp Niết Bàn tịch tịnh; Dùng lực phương tiện của pháp Niết Bàn mà tu bốn niệm xứ … dẫn đến tu 18 bất cộng pháp.

Như vậy, trước hết Bồ Tát tán thành công đức bố thí và trì giới, dạy chúng sanh tu bố thí, trì giới để xa lìa tội lỗi, nhưng liền nói tu bố thí và trì giới cũng chưa thoát khỏi vô thường, đau khổ. Rồi Bồ Tát lại dạy chúng sanh tu thiền định, nhưng liền nói quả báo thiền định cũng là hư dối, chẳng thật có. Sau cùng, Bồ Tát tán thán thật tướng pháp, dạy cho chúng sanh tu pháp không, dẫn họ vào vô dư Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề hoan hỷ, tán thán Bồ Tát rằng, “Hy hữu thay Bồ Tát biết rõ thật tướng pháp là rốt ráo không, mà vẫn vì chúng sanh thuyết pháp, khiến họ vào được vô dư Niết Bàn”.

Phật dạy : Chư đại Bồ Tát rất là hy hữu. Các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng sao có thể bì kịp.

Hỏi: Phật là phước điền vô thượng. Như vậy vì sao nói bố thí chúng sanh và cúng dường chư Phật bình đẳng, chẳng có phân biệt ?

Đáp: Bồ Tát dùng lực Bát Nhã Ba La Mật mà hành Bồ Tát đạo, nên ở nơi hết thảy pháp vẫn thường giữ tâm rốt ráo không, vô phân biệt.

Ví như thân chúng sanh do năm ấm, 12 nhập, 18 giới hòa hợp sanh. Thân Phật cũng là như vậy. Do các thiện pháp hòa hợp mà giả danh gọi là thân Phật. Kinh dạy, “Người trải rộng tâm từ bi thương xót hết thảy chúng sanh được phước đức vô lượng, thì người ở nơi Phật mà khởi tâm chấp cũng phải thọ vô lượng tội”.

Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều rốt ráo không, nên chẳng khinh chúng sanh, chẳng chấp tâm kính Phật. Vì sao? Vì ở nơi tướng pháp, các pháp đều là vô tướng, mà ở nơi vô tướng thì chẳng có phân biệt Phật và chúng sanh. Nếu có phân biệt là còn chấp tướng, nên phải thường quán bình đẳng vậy.

Hỏi : Thân Bồ Tát chẳng phải là gỗ, là đá. Như vậy, Bồ Tát làm sao có thể chẳng sanh sân tâm khi bị kẻ khác đến đâm chém mình ?

Đáp : Có thuyết nói Bồ Tát tu nhẫn nhục Ba La Mật, nên chẳng còn sanh phiền não. Ví như vị tiên nhân Sẵn Đề, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật, bị vua Ca Lỵ cắt đứt chân tay mà chẳng sanh lòng hờn giận. Đây là do Bồ Tát từ bi muốn độ chúng sanh, lại do đã thâm nhập vào Bát Nhã Ba La Mật, nên mới được tâm bất động, được quả báo như hư không, chẳng cảm thấy có đau đớn vậy. Như vậy gọi Bồ Tát đã vào được nơi “vô phân biệt Bát Nhã Ba La Mật”.

Có thuyết nói Bồ Tát an trú nơi pháp thân, chẳng nghĩ đến sắc thân nên chẳng thấy có đau đớn. Bồ Tát được tâm vô lậu thanh tịnh, nên mới được quả báo thanh tịnh, thánh thiện như vậy.

Bởi vậy nên biết “xả thân bố thí” là pháp rất hy hữu. Trong kinh có nói đến trường hợp Bồ Tát xả thân, vào tận chốn địa ngục để cứu độ chúng sanh, thật là hy hữu vậy.

Hỏi : Như vậy vì sao vẫn còn địa ngục?

Đáp : Có vô lượng chúng sanh thì cũng có vô lượng cõi địa ngục?

Hỏi : Chúng sanh ăn thịt Bồ Tát có mang tội chăng?

Đáp : Đây là bổn nguyện của Bồ Tát. Bồ Tát tự phân cắt thân thể mình để bố thí cho các loại súc sanh. Súc sanh nào ăn được thân của Bồ Tát sẽ kính mến Bồ Tát, khởi từ tâm, dẫn đến sẽ được độ. Do vậy mà chẳng bị tội.

Như kinh Duy Ma Cật nói, “Ăn hương phạn2 vào người, thì 7 ngày sau sẽ được giải thoát”. Như vậy, người ăn thịt chúng sanh mà phát từ tâm cũng có thể được độ vậy.

Lại như kinh Pháp Hoa nói, “ Bồ Tát Dược Vương3 đem trân bảo cúng dường Phật mà chưa được vừa lòng, nên đã đem thân cúng dường xá lợi Phật”. Đây là việc rất hy hữu. Vì sao ? Vì chúng sanh thường rất quý thân mạng, hơn tất cả các vật sở hữu khác. Bởi vậy nên cúng dường thân mạng là việc hy hữu, khó có ai có thể làm được.