LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP II
QUYỂN 40

Phẩm thứ tư
Vãng Sanh
(Tiếp theo)

KINH:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát thanh tịnh pháp nhãn?

Phật dạy: Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát dùng pháp nhãn, biết rõ người tùy tín hành, người tùy pháp hành, người tùy vô tướng hành, biết rõ người hành Không giải thoát môn, người hành Vô Tướng giải thoát môn, người hành Vô Tác giải thoát môn, mà   có được 5 căn; do có được 5 căn mà được vô gián tam muội, do có được vô gián tam muội mà được giải thoát trí, khiến đoạn được 3 kiết sử, đoạn được các kiến chấp, trì trai giới, được quả vị Tu Đà Hoàn.

Lại Biết rõ người được tư duy đạo, đã mỏng tham sân si, được quả vị Tư Đà Hàm.

Lại Biết rõ người tăng tấn tư duy đạo, dứt trừ tham sân si cõi Dục, được quả vị A Na Hàm.

Lại biết rõ người tăng tấn tư duy đạo, dứt trừ các nhiễm cõi Sắc và các nhiễm cõi Vô Sắc, dứt trừ vô minh, mạn nghi, trạo cử, được quả vị A La Hán.

Lại biết rõ người hành 3 tam muội Không, Vô Tướng và Vô Tác mà có được 5 căn, được vô gián tam muội, được giải thoát trí. Do vậy mà biết rõ chỗ tập pháp và chỗ diệt pháp, được quả vị Bích Chi Phật.

Như vậy gọi là Bồ Tát thanh tịnh pháp nhãn.

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát dùng pháp nhãn, biết rõ người, từ sơ phát tâm đã hành 6 pháp Ba La Mật, thành tựu tín căn và tấn căn, được thiện căn thuần thục, rồi vì lợi ích chúng sanh mà đã thọ sanh thân vào các dòng họ lớn, như dòng Sát Đế Lợi, dòng Bà La Môn, dòng cư sĩ, hoặc thọ sanh lên các cõi trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Thiên… Bồ Tát ở nơi các trú xứ ấy, hành Bồ Tát đạo, nhằm thành tựu chúng sanh, tùy chúng sanh cần gì thì cung cấp cho họ đầy đủ, đồng thời cũng nhằm thanh tịnh Phật độ, cung kính cúng dường chư Phật, mãi cho đến khi được đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Như vậy gọi là Bồ Tát thanh tịnh pháp nhãn.

Này Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tát dùng pháp nhãn biết rõ ở nơi đạo Vô Thượng Bồ Đề, có vị Bồ Tát nào thối tâm, vị Bồ Tát nào chẳng có thối tâm, vị Bồ Tát nào đã được thọ ký, vị Bồ Tát nào chưa được thọ ký, vị Bồ Tát nào đã được đầy đủ thần thông, vị Bồ Tát nào chưa có đủ thần thông.

Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào đã được đầy đủ thần thông rồi, thường bay đến các thế giới khắp 10 phương cúng dường chư Phật. Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào đã thanh tịnh Phật độ, vị Bồ Tát nào chưa thanh tịnh Phật độ.

Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào đã thành tựu chúng sanh, vị Bồ Tát nào chưa thành tựu chúng sanh, vị Bồ Tát nào đã được thân cận chư Phật, vị Bồ Tát nào chưa được thân cận chư Phật, vị Bồ Tát nào đã được Phật tán thán, vị Bồ Tát nào chưa   được Phật tán thán.

Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào đã được thọ mạng vô lượng, vị Bồ Tát nào chưa được thọ mạng vô lượng.

Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào sau khi thành Phật, sẽ có chúng Tỷ Kheo nhiều hay ít, trong tăng chúng gồm toàn là Bồ Tát hay chẳng có Bồ Tát.

Lại biết rõ vị Bồ Tát nào đã được nhất sanh bổ xứ.

Lại biết rõ vị Bồ Tát nào đã được thân rốt sau (tối hậu thân), vị Bồ Tát nào chưa được thân rốt sau.

Lại cũng biết rõ vị Bồ Tát nào đã tọa đạo tràng, vị Bồ Tát nào chưa tọa đạo tràng, vị Bồ Tát nào đã pháp được ma chướng, vị Bồ Tát nào còn bị ma chướng.

Như vậy gọi là Bồ Tát thanh tịnh pháp nhãn.

LUẬN :

Bồ Tát sơ phát tâm, dùng nhục nhãn thấy chúng sanh ở khắp các thế giới phải thọ vô lượng khổ đau, nên sanh tâm thương xót. Do vậy mà Bồ Tát tu 5 thần thông, dùng thiên nhãn quan sát chúng sanh trong 6 đạo đều thọ tâm khổ và thân khổ nên càng thêm thương xót. Do vậy mà Bồ Tát cầu được huệ nhãn để cứu độ chúng sanh. Khi được huệ nhãn rồi, Bồ Tát lại thấy căn tánh chúng sanh không đồng, khó đưa họ vào được nơi thật tướng pháp. Do vậy mà Bồ Tát cầu được pháp nhãn. Bồ Tát dùng pháp nhãn dẫn đạo chúng sanh, khiến họ vào được nơi thật tướng pháp.

Vì sao? Vì người tu vào vô lậu đạo có 2 hạng, đó là:

– Hạng tùy tín hành.

– Hạng tùy pháp hành.

Người độn căn nhờ có tín lực, tinh tấn tu hành mà vào được đạo. Đây là hạng tùy tín hành.

Người lợi căn do phân biệt rõ các pháp mà vào được đạo. Đây là hạng tùy pháp hành.

Cả hai hạng trên đây nếu vượt qua được 15 tâm rồi thì cũng đều được gọi là Vô Tướng hành. Nếu vượt qua được 15 tâm thì lần lượt được các quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Người tu khi vượt qua được 15 tâm sẽ tu rất mau, vì chẳng còn chấp tướng nữa, nên gọi là Vô Tướng hành.

Hạnh tu của các Bồ Tát sai khác nhau.

– Có vị từ vô thỉ đến nay, tâm tánh thường chân trực chỉ thích các sự việc chân thật.

– Có vị thường hành hạnh xả ly.

– Có vị đời thường thích thanh tịnh, hành Không giải thoát môn mà vào được đạo.

– Có vị khéo tu tịch tịnh, hành Vô Tướng giải thoát môn mà vào được đạo.

Hỏi: Thế nào gọi là được 5 căn?

Đáp: 5 căn là căn bản. Khi thành tựu được 5 căn rồi thì sẽ có thêm 3 vô lậu căn, lập thành 8 căn.

Lại nữa, khi đã được 5 căn rồi, thì gọi là được vô gián tam muội. Được vô gián tam muội rồi thì được giải thoát trí. Dùng giải thoát trí trừ được 3 phần kiết sử, chứng được các đạo quả.

Lại nữa, cũng nên biết rằng hết thảy các kiết sử đều duyên khởi từ 5 ấm. Do thọ ấm mà sanh ra có ngã và ngã sở. Do vậy, nếu sanh tâm nghi Tam Bảo, nghị 4 Thánh Đế, chẳng có trì trai giữ giới, thì sẽ rơi vào trong 96 pháp môn tu của Ngoại Đạo. Vì sao? Vì ở trong pháp mà thủ pháp thì dù thấy được các khổ mà chẳng được giải thoát khỏi các khổ vậy.

Hỏi: Người tu kiến đế đoạn là người đoạn cả 10 phần kiết sử, chứng được quả vị Tu Đà Hoàn. Vì sao ở trên đây chỉ nói đến việc đoạn trừ 3 kiết sử mà chẳng nói đến 7 kiết sử kia?

Đáp: Khi nói về kiến chấp là đã nói chung các kiết sử rồi.

Trong kinh nói: Thấy được kiến chấp là rõ biết về 62 kiến chấp căn bản. Ví như chấp nhã và ngã sở là thường, hay là vô thường thì cũng đều là kiến chấp cả. Vì sao? Vì nếu chấp nhã là vô thường thì sẽ rơi về đoạn diệt, sanh tà kiến, cho là chẳng có tội phước. Còn nếu chấp nhãn là thường thì rơi về thường kiến. Tất cả đều là kiến thủ. Còn các kiến chấp đó là còn rơi về biên kiến và tà kiến. Nếu chấp giới thủ thì bị trói buộc bởi kiến thủ ấy nên cũng vẫn còn ở trong hai kiến chấp căn bản.

Nếu ở trong 3 cõi, ở nơi 4 Đế mà khởi phân biệt thì sẽ sanh ra 88 kiết sở. Còn nếu đoạn được các tâm chấp thì sẽ được các quả vị Thanh Văn và quả vị Bích Chi Phật.

Như trước đây đã nói rằng có 2 trường hợp được pháp nhãn. Đó là:

– Do phân biệt rõ các phương tiện của Thanh Văn và của Bích Chi Phật, mà tu tập vào được đạo.

– Do phân biệt rõ các phương tiện của Bồ Tát mà tu tập vào được đạo.

Nay nói rằng muốn biết rõ tâm hạnh của Bồ Tát, thì phải học Bát Nhã Ba La Mật.

Do đã mỏng phiền não nên Bồ Tát dùng tín căn và tấn căn làm các phương tiện độ sanh. Bởi vậy nên Bồ tát dùng phương tiện thọ sanh thân, ở trong sanh tử tu đạo Bồ Đề. Khi chưa được pháp tánh sanh thân, thì ở trong thế gian, hành các công đức bố thí, dùng tín căn và tấn căn làm lợi cho chúng sanh. Nhờ vậy mà đời sau sẽ được sanh vào các dòng họ lớn.

Có hai hạng Bồ Tát bất thối chuyển. Đó là :

– Hạng Bồ Tát đã được thọ ký.

– Hạng Bồ Tát chưa được thọ ký. (Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội phân biệt có 4 trường hợp thọ ký ).

Bồ Tát thực hành hạnh Bồ Tát được chia ra làm hai hạng. Đó là :

– Hạng Bồ Tát cụ túc.

– Hạng Bồ Tát chưa cụ túc.

Bồ Tát đã được đầy đủ pháp thân, ở nơi một niệm có thể biến thành vô lượng thân, đi khắp 10 phương cúng dường chư Phật, nghe chư Phật thuyết pháp và cũng thuyết pháp độ sanh. Bồ Tát đầy đủ thuyết pháp thân như vậy gọi là Bồ Tát cụ túc.

Ở nơi mỗi địa, nếu Bồ Tát tu hành chẳng thiếu pháp môn nào cả thì cũng được gọi là Bồ Tát cụ túc.

Trái lại thì gọi là Bồ Tát chưa cụ túc

Bồ Tát tu được thần thông cũng được chia làm hai hạng. Đó là:

– Hạng Bồ Tát dùng được thần thông,

– Hạng Bồ Tát chưa dùng được thần thông.

Bồ Tát chưa dùng được thần thông là hạng Bồ Tát sơ phát tâm, chưa ly dục, còn giải đãi.

Bồ Tát tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh cũng được chia ra làm hai hạng. Đó là:

– Hạng Bồ Tát chưa tịnh Phật quốc độ và chưa thành tựu chúng sanh. Đó là hạng Bồ Tát chỉ mới tu tập để tự độ, thành tựu cho riêng mình trước đã rồi sau đó mới độ sanh.

– Hạng Bồ Tát tịnh Phật quốc độ và thành tựu chúng sanh là Hạng Bồ Tát thành tựu chúng sanh trước đã, sau đó mới thành tựu cho chính mình.

Trong kinh có ghi mẫu chuyện sau đây:

Khi sắp nhập Niết Bàn, đức Phật Phất Sa thấy Bồ Tát Di Lặc đã thành tựu công đức, mà các đệ tử của ngài chưa thành tựu, còn Bồ Tát Thích Ca Văn thì chưa thành tựu công đức mà các đệ tử của ngài đã thành tựu rồi.

Vì việc thành tựu cho người rất khó, còn thành tựu cho chính mình thì dễ hơn, nên đức Phật Phất Sa đã vào hang núi Tuyết Bảo Sơn, nhập vào Hỏa Định phóng quang minh sáng ngời.

Lúc bấy giờ Bồ Tát Thích Ca Văn thấy được quang minh của Phật, liền sanh tâm thanh tịnh, đứng một chân suốt 7 ngày 7 đêm chiêm ngưỡng Phật, và dùng kệ tán thán Phật.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát Thích Ca Văn vượt qua được 91 kiếp mà thành đạo Vô Thượng Bồ Đề. (Xem thêm ở quyển 4 bộ luận này )

Các đức Phật thường tán thán các vị Bồ Tát phát đại tâm, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ.

Các Bồ Tát này thường thân cận các đức Phật, được vô lượng công đức, được thọ mạng vô lượng, và khi được thành Phật, sẽ được vô lượng Tỷ Kheo Bồ Tát trong tăng chúng của mình.

Lại nữa, có các vị Bồ Tát, như các Bồ Tát Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… do hạnh nguyện độ sanh, không muốn tọa đạo tràng, và không muốn thành Phật.

Thế nhưng nhìn tướng tốt trang nghiêm của chư vị Bồ Tát ngay tợ như tướng Phật, cũng biết là các ngài sẽ tọa đạo tràng và sẽ thành Phật.— —o0o— —

 Lại nữa, có Bồ Tát thấy chỗ đi chỗ đứng của mình như đất Kim Cang. Có Bồ Tát thường được các Long Vương, các vị quỷ thần cúng dường.

Xem như vậy, thì biết rằng các nhân duyên tu hành của các Bồ Tát có sai khác nhau.

Ví như, có Bồ Tát chẳng thích hành “từ tam muội”, mà chỉ thích hành “không tam muội”; có Bồ Tát đời trước phá hoại người hành đạo, nên đời nay thọ nghiệp báo bị ma quấy nhiễu; có Bồ Tát thích phá hoại các ma sự v.v…

Hỏi: Làm thế nào để biết được rằng Bồ Tát, khi thọ thân sau, có thọ nghiệp báo bị ma quấy nhiễu?

Đáp: Bồ Tát tu hành vào Phật đạo theo nhiều môn khác nhau. Có Bồ Tát hành bi tâm mà vào Phật đạo. Có Bồ Tát hành Tinh tấn, hành nhẫn nhục, hành Thiền định, hành trí huệ v.v… mà vào Phật đạo.

Bồ Tát nào hành tinh tấn, trí huệ, mà chẳng có hành bi tâm, thường sanh tăng thượng mạn. Các Bồ Tát này nếu chẳng sanh về cõi trời Trường Thọ Thiên mà sanh làm người thì thường bị thọ báo. Vì sao? Vì chúng sanh thấy người đã làm các ác hạnh mà chẳng có thọ báo, thì sẽ rời về chấp đoạn diệt.

Bởi vậy nên Phật đã thị hiện ra có thọ báo, có hiện các ma sự, để nhằm dẫn dắt chúng sanh vào đạo. Như trước đây đã nói, đây cũng chỉ là phương tiện vậy.

Chư đại Bồ Tát biết rõ các sức phương tiện đó, gọi là được pháp nhãn thanh tịnh.

KINH:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát thanh tịnh Phật nhãn?

Phật dạy: Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát cầu Phật đạo, vào được Kim Cang tam muội, được nhất thiết trí, thành tựu đầy đủ 10 Phật lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, đại từ, đại bi. Bồ Tát dùng nhất thiết trí vào hết thảy các pháp. Chẳng có pháp nào mà chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết cả.

Như vậy là Bồ Tát thanh tịnh Phật nhãn, được Vô Thượng Bồ Đề. Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát muốn được đầy đủ 5 nhãn, phải tu tập 6 pháp Ba La Mật. Vì sao? Vì 6 pháp Ba La Mật nhiếp hết thảy các thiện pháp, nhiếp hết thảy pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát và pháp Phật.

Nếu có thật ngũ có thể nhiếp hết thảy các thiện pháp, thì đó chính là Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Này Xá Lợi Phất! 6 pháp Ba La Mật hay sanh 5 nhãn. Bồ Tát tu tập 6 pháp Ba La Mật, thành tựu được 5 nhãn thanh tịnh mau được Vô Thượng Bồ Đề.

LUẬN :

Bồ Tát trú thập địa, đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, vào Kim Cang tam muội, phá sạch các phiền não. Tức thời ở nơi hết thảy các pháp, được vô ngại, giải thoát. Bồ Tát tu tập được như vậy, sẽ sanh được Phật nhãn, được vô ngại trí, dẫn đến được đại từ, đại bi, đầy đủ các công đức.

Hỏi: Trí huệ như thật thấy biết các sự vật là tướng của nhãn. Còn đại từ đại bị chẳng có thể thấy biết được các sự vật, sao cũng gọi là nhãn?

Đáp: Nên biết từ bi có 3 duyên, là: Duyên chúng sanh, duyên pháp, và vô duyên.

Bồ Tát lúc ban đầu, duyên chúng sanh. Sau đó, lại duyên pháp. Khi đã khéo tu hành, đã được rốt ráo không, thì là vô duyên. Bởi vậy nên từ bi cũng gọi là nhãn.

Hỏi: Bồ Tát khi đã có được Phật nhãn rồi, thì chẳng có gì mà chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết cả. Như vậy giữa Phật và Bồ Tát chẳng có gì khác biệt hay sao?

Đáp: Có thuyết nói rằng Bồ Tát thập trú cùng Phật chẳng có gì khác. Ví như các Bồ Tát Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều đã được đầy đủ công đức như Phật. Nhưng, do đại nguyện rộng độ chúng sanh, mà các ngài không thành Phật.

Lại có người thấy chư vị đại Bồ Tát ấy đã thành tựu vô lượng công đức, mà chẳng thành Phật, chẳng được như Phật, nên khởi tâm nghi. Bởi nhân duyên vậy, nên Phật dạy: “Phật nhãn khắp chiếu hết thảy chúng sanh và hết thảy các pháp ở trong khắp 10 phương; chẳng có gì mà chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết”. Thế nhưng Bồ Tát chỉ ví như mặt trăng, Phật ví như mặt trời. Mặt trăng, tuy cũng tỏa rộng ánh sánh cùng khắp, nhưng gặp ánh sánh mặt trời, thì ánh sáng mặt trăng chẳng sao hiện rõ được.

Hỏi: Nhãn dùng để thấy. Sao nay lại nói nhãn cùng nghe?

Đáp: Trí tuệ của chúng sanh nương theo 6 thức mà sanh khởi, mới phân biệt có 6 trần.

Đối với chư Phật, chư đại Bồ Tát, thì các thức đều đã sanh trí huệ, đều theo trí huệ hành. Trí huệ đó khắp thấy, khắp nghe, khắp biết tất cả.

Bởi vậy, để giải nghi cho những người tin theo Ngoại Đạo, nghĩ rằng Phật cũng còn nhiều chỗ không thấy, không nghe, không biết, nên Phật dạy: “Trí huệ của Phật như thật biết hết thảy các pháp, chẳng có pháp nào mà chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết cả”

Hỏi: Chỗ biết của nhãn thức, nhĩ thức và ý thức đều riêng khác. Sap nay hợp lại thành một?

Đáp: Nếu chỉ xét về mặt thấy, nghe, biết các sự việc ở thế gian, thì có thể hợp lại làm một.

Thế nhưng, khi 3 thức nhãn, nhĩ và ý trở thành lanh lợi, duyên cả các sự việc thế gian và xuất thế gian, duyên cả các pháp thiện, bất thiện và vô ký, làm trợ đạo pháp, dẫn sanh 3 thừa đạo, thì phải nói riêng. Ví như mắt thấy Phật cùng các đệ tử của Phật, tai nghe chánh pháp, tâm trù lượng, tư duy, khởi chánh niệm, thì phải nói riêng. Vì sao? Vì trong trường hợp này 3 thức có 3 công năng riêng khác, nên phải nói riêng vậy.

Còn 3 thức còn lại, là tỷ thức, thiệt thức và thân thức, chỉ duyên các pháp hữu lậu ở thế gian, nên chẳng cần phải nói riêng.

Bởi vậy nên chỗ biết của 6 thức thường được chia ra làm 4 phần : 1 phần cho nhãn thức, 1 phần cho nhĩ thức, 1 phần cho ý thức, 1 phần còn lại dành cho 3 thức kia.

Phải nên biết rằng chỉ có bậc Nhất Thiết Chủng Trí mới như thật hay biết được hết thảy các sự việc. Các chúng sanh chỉ hay biết có hạn lượng mà thôi.

– Có người chỉ biết gần, mà chẳng có biết xa.

– Có người chỉ biết xa, mà chẳng có biết gần.

– Có người chỉ biết ngoài, mà chẳng có biết trong.

– Có người chỉ biết trong, mà chẳng có biết ngoài.

– Có người chỉ biết thô, mà chẳng có biết tế.

– Có người chỉ biết tế, mà chẳng có biết thô.

– Có người có thiên nhãn, mà chẳng có huệ nhãn.

– Có người có huệ nhãn, mà chẳng có pháp nhãn.

– Có người có pháp nhãn, mà chẳng có Phật nhãn.

– v.v…

Bồ Tát, nếu đã có được các sức phương tiện độ sanh, tuy chưa được huệ nhãn, mà đã được nhục nhãn, và thiên nhãn thanh tịnh rồi. Khi đã được vô sanh pháp nhãn, tuy chưa thọ pháp nhãn, chưa được pháp tánh sanh thân, mà Bồ Tát có được huệ nhãn thanh tịnh, được đạo, chứng trí. Khi chưa thành Phật, chưa được Phật nhãn, mà chư vị đại Bồ Tát đã được 4 nhãn kia thanh tịnh.

Khi được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì Bồ Tát thường quán các nhân duyên khiến chúng sanh vào được đạo, dùng mọi pháp môn để hóa độ chúng sanh.

Khi được 6 thần thông rồi mà chưa xả nhục thân, thì Bồ Tát vẫn chưa khắp thấy, nghe, hay biết.

Khi có Phật nhãn rồi, thì Bồ Tát mới thấy đầy đủ hết các pháp, tùy nghĩa mà phân biệt các trần.

Bởi nhân duyên vậy, nên phải lấy 6 pháp Ba La Mật làm gốc để tu tập 5 nhãn, như kinh dạy: “6 pháp Ba La Mật thành tựu 5 nhãn thanh tịnh, mau chứng được Vô Thượng Bồ Đề.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà tu được các thần thông Ba La Mật, nên muốn làm việc gì     cũng đều được như ý. Ví như có thể làm chấn động đại địa; biến một thành vô số thân; biến vô số thân trở lại thành một thân; ẩn hiện tự tạo; xuyên qua vách tường, vách đá đều được vô ngại; đi giữa hư không như chim bay; đi trên mặt nước như đi trên đất bằng; lặn sâu xuống nước; biến thân thành sóng, thành băng, thành tuyết, thành núi cao, rừng rậm v.v…

Oai đức của Bồ Tát tợ như mặt trăng, mặt trời, chẳng ai có thể sánh được. Bồ Tát được như ý thần thông như vậy, mà chẳng thấy có như ý thần thông, có sự hành như ý thần thông, vì biết rõ tất cả đều là bất khả đắc, là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được như ý thần thông, trừ trường hợp vì tâm Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát, thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được như ý thần thông trí.

Này Xá Lợi Phất! Lại có Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được thiên nhĩ thanh tịnh hơn nhĩ căn của loài người, nghe được cả tiếng nói của loài Trời và tiếng nói của loài Người. Bồ Tát được thiên nhĩ như vậy, mà chẳng thấy có âm thanh, có sự nghe âm thanh, vì biết rõ tất cả đều là bất khả đắc, đều là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được thiên nhĩ thông, trừ trường hợp vì tâm Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được thiên nhĩ thông trí.

Này Xá Lợi Phất! Lại có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được tha tâm thông, như thật biết tâm của chúng sanh, biết rõ những chúng sanh có tâm giải thoát, những chúng sanh có tâm chưa giải thoát. Bồ Tát được tha tâm trí như vậy? Mà chẳng thấy có các tâm ấy. Vì sao? Vì tướng tâm chẳng phải là tướng tâm (tâm tướng phi tâm tướng). Tất cả các tướng tâm đều là bất khả đắc, đều là tự tướng không, tự tướng ly, tự tướng vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được tha tâm thông, trừ trường hợp vì tâm Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được tha tâm thông trí.

Này Xá Lợi Phất! Lại có Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được túc mạng thông, nhớ biết được các niệm của mình, từ một niệm dẫn đến 100 niệm, các niệm trong một ngày dẫn đến trong 100 ngày, trong 1 năm dẫn đến trong 100 năm, trong một kiếp dẫn đến trong 100 kiếp … Bồ Tát cũng biết rõ đời trước mình có họ như vậy, có tên như vậy, có nếp sống như vậy… Bồ Tát cũng biết rõ đời trước mình thọ mạng được bao nhiêu tuổi; ở trên khắp các nẻo đường sanh tử, mình đã hưởng vui, đã thọ khổ như thế nào; biết rõ mình sanh ở đâu, chết ở đâu. Bồ Tát biết rõ tất cả các tướng nhân duyên như vậy, mà chẳng sanh tâm chấp, chẳng thấy có túc mạng thông, có sự niệm nhớ nương theo túc mạng thông. Vì sao? Vì biết rõ thân cùng là tất cả các pháp đều là bất khả đắc, là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được túc mạng thông, trừ trường hợp vì tâm   Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được túc mạng thông trí.

Này Xá Lợi Phất! Lại có Bồ Tát, do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được thiên nhãn, thấy chúng sanh chết đây, sanh kia; thấy chúng sanh sống đoan chánh hay tham đắm dục vọng; thấy chúng sanh ở chỗ tốt hay chỗ xấu; thấy những chúng sanh do khởi các ác nghiệp ở thân, khẩu, ý mà phải đạo vào 3 đường ác; thấy những chúng sanh do thành tựu được các thiện nghiệp ở thân, khẩu, ý mà được sanh về các đường thiện, như sanh lên cõi Trời. Bồ Tát biết tất cả như vậy, mà chẳng sanh tâm chấp, chẳng thấy có thiên nhãn thông, có các sự việc thấy được nhờ nương theo thiễn nhãn thông. Vì sao? Vì biết rõ thân cùng tất cả pháp đều là bất khả đắc, là tự tướng không, tự tướng ly, tự tướng vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được thiên nhãn thông, trừ trường hợp vì tâm Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát, thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được thiên nhãn thông trí.

Cả bốn thần thông, nêu lên sau, ở trên đây đều có công năng thấu suốt như vậy đó.

Này Xá Lợi Phất! Lại có Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật mà được lậu thận thông. Bồ Tát được lậu tận thông chẳng lạc về Nhị Thừa địa, mãi cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng y nơi pháp nào khác, mà cũng chẳng chấp lậu tận thông. Vì sao? Vì biết rõ thân cùng tất cả pháp đều là bất khả đắc, là tự tướng không, tự tướng ly, tự tướng vô sanh vậy. Cho nên, Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta được lậu tận thông, trừ trường hợp vì tâm Tát Bà Nhã.

Như vậy gọi là Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng được lậu tận thông trí. Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, được đầy đủ 6 thần thông. Do vậy mà tâm Vô Thượng Bồ Đề được tăng ích.

LUẬN :

Ví như trong biển lớn có rất nhiều thứ châu báu: có thứ khử được các độc chất, có thứ ngăn chận ma quỷ quấy nhiễu, có thứ trừ được các bệnh tật, có thứ trừ được nóng lạnh, có thứ trừ được đói khát v.v… Bồ tát tùy nguyện chúng sanh, hóa tác ra đầy đủ của cải vật chất, khiến ai mong cầu gì cũng đều được như ý nguyện.

Châu báu vô số lượng thì hạnh nguyện của Bồ Tát cũng vô số lượng. Có Bồ Tát hay phá các đường ác, có Bồ Tát hay khai mở các đường thiện, có Bồ Tát hay sanh 5 nhãn, có Bồ Tát hay hành các thần thông Ba La Mật.

Bởi vậy nên kinh nói rằng chư vị Bồ Tát thường làm những việc hy hữu, tùy ý làm chấn động đại địa, biến từ một thân thành vô số thân, biến vô số thân trở lại thành một thân v.v…

Ví như hư không chưa nhóm vô lượng vi trên, người ly dục chứa nhóm vô lượng nhân duyên phước đức, nên Bồ Tát có thể từ một thân biến hóa ra vô lượng thân giống như thần mình vậy.

Các vị Chuyển Luân Thánh Vương chưa ly dục mà còn hưởng được rất nhiều phước báo, còn sai sử được các quỷ thần, huống nữa là Bồ Tát đã hoàn toàn ly dục, đã thành tựu đầy đủ 4 vô lượng tâm.

Lại nữa, tâm tướng chẳng có chỗ trú xứ, nên Bồ Tát có thể biến ha trong thành ngoài, ngoài thành trong, xa thành gần, gần thành xa, lớn thành nhỏ, nhỏ thành lơn v.v… một cách vô ngại.

Lại nữa, do có định lực thâm hậu, nên Bồ Tát có thể chỉ trong 1 niệm biến hóa từ 1 thân thành vô lượng thân, đi khắp 10 phương thế giới.

Các vị Long Thần còn có thô thân mà đã tự biến thân có 1000 đầu, 2000 tai, 2000 mắt… huống nữa là Bồ Tát đã chứng được thanh tịnh pháp thân.

Lại nữa, người vào thâm thiền định có các lực chẳng thể nghĩ bàn được, có thể từ một thân biến thành vô lượng thân, có thể đi xuyên vách đá chẳng có gì nhăn ngại cả. Vì sao ? Vì đất đá… cũng đồng như hư không, đều là tự tướng không cả. Bởi vậy đối với Bồ Tát thì khai và hợp chẳng có gì ngăn ngại nhau cả.

Hỏi: Phải vào đệ tứ thiền mới có được các sức thần thông. Vì sao nói Phạm Thiên Vương cũng được thân tự tại?

Đáp: Trước đây đã có nói rằng thế giới Phạm Thiên là cửa ban đầu dẫn vào các cõi trời Sắc Giới. Loài người nghĩ Phạm Thiên Vương là vị hóa chủ tạo ra thế giới, nên kinh thường nói đến Phạm Thiên.

Lại nữa, có Bồ Tát không muốn ở cõi Dục vì sợ tâm bị loạn động nên hiện sanh làm Phạm Thiên Vương.

Nên biết hàng Ngoại Đạo phạm 2 lầm lỗi lớn, đó là:

– Khởi tâm chấp ngã, thường tự cho mình khởi sanh ta muôn vật.

– Đắm chấp các thần thông, như người tam đắm các của báo.

Bởi vậy nên thần thông của Ngoại Đạo không bằng được thần thông của các bậc Thánh.

Bồ Tát có thần thông, biết rõ hết thảy pháp đều bất sanh, bất diệt nên chẳng có chấp pháp, Bồ Tát chỉ niệm Nhất Thiết Chủng Trí nhằm độ thoát chúng sanh.

Bồ Tát dùng các thần lực thần thông để rộng độ chúng sanh, trước thuyết về tướng rồi dần dần dẫn họ vào vô tướng, khiến họ được nhiều lợi ích. Do vậy mà Bồ Tát làm tăng ích đạo Vô Thượng Bồ Đề.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong Đàn Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng sanh xan tham.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La mật, an trú trong Thi La Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng chấp tội, cũng chẳng chấp không tội.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong Sẵn Đề Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng sanh xan tham.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La mật, an trú trong Thi La Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng chấp tội, cũng chẳng chấp không tội.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong Sẵn Đề Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ tát thường tinh tấn, chẳng sanh giải đãi.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong Thiền Na Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng loạn, chẳng muội,         chẳng tham đắm thiền vị.

Này Xá Lợi Phất! Có Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong Bát Nhã Ba La Mật, thanh tịnh Tát Bà Nhã. Do vào được nơi rốt ráo không, nên Bồ Tát chẳng sanh ngu si.

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát an trú trong 6 pháp Ba La Mật, thanh     tịnh Tát Bà Nhã, vào được rốt ráo không, nên chẳng thấy có đi hay đến, chẳng thấy có thí hay thọ, chẳng thấy có trì giới hay phạm giới, chẳng thấy có nhẫn nhục hay sân nhuế, chẳng thấy      có tinh tấn hay giải đãi, chẳng thấy có định hay loạn, chẳng thấy có trí huệ hay ngu si.

Lúc bấy giờ Bồ Tát chẳng còn phân biệt bố thí với không bố thí, trì giới hay phạm giới, nhẫn nhục với sân nhuế, tinh tấn với giải đãi, định với loạn, trí huệ với ngu si. Bồ Tát cũng chẳng   phân biệt khinh khi, não hại với cung kính cúng dường.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, an trú trong 6 pháp Ba La Mật như vậy nên được vô lượng công đức.

Các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng có được những công đức như vậy, nên chẳng sao sánh kịp Bồ Tát.

Đại Bồ Tát đầy đủ các công đức thành tựu chứng sanh và thanh tịnh Phật độ như vậy, mau được Vô Thượng Bồ Đề, mau thành bậc Nhất Thiết Chủng Trí..

LUẬN :

Bồ Tát từ sơ phát tâm, đã vì Tát Bà Nhã mà thật hành Bát Nhã Ba La Mật, quán hết thảy các pháp đều là tự tánh không, nên chẳng sanh tham tâm.

Hai công đức này mở đường vào Tát Bà Nhã. Vì sao? Vì ở nơi rốt ráo không thì chẳng còn có xan tham, nên xan tham được đoạn trừ tận gốc rễ. Có như vậy mới được đầy đủ Đàn Ba La Mật… Dẫn đến biết rõ Bát Nhã Ba La Mật cũng là rốt ráo không, nên chẳng còn sanh si tâm. Vì sao? Vì ở trong Phật pháp chẳng có đi hay đến, chẳng có thí hay thọ, chẳng có trì giới hay phạm giới, chẳng có nhẫn nhục hay sân nhuế, chẳng có tinh tấn hay giải đãi, chẳng có định hay loạn, dẫn đến chẳng có trí huệ hay ngu si. Tất cả đều bình đẳng không khác.

Hỏi: Nếu nói như vậy, thì hành Bố Thí Bát Nhã Ba La Mật đâu có lợi ích gì?

Đáp: Phật dạy: “Bồ Tát hành bố thí chẳng niệm có người thí, có kẻ thọ, có vật thí”. Vì sao? Vì nếu chấp có ta là người hành bố thí thì sanh kiêu mạn, nếu niệm chỗ sở thí thì rơi về tà kiến.

Hỏi: Vì sao nói Bồ Tát từ khi sơ phát tâm đến khi tọa đạo tràng, chẳng niệm “có-không” là hạng Bồ Tát có trí huệ Bát Nhã, có tâm kiên cố như núi Tu Di, dù gió thổi mạnh cả 4 bên cũng vẫn chẳng có lay động?

Đáp: Ở trong bất kỳ tình huống nào, dù được tán thán hay cúng dường, dù bị khinh hay bị não hại, Bồ Tát vẫn giữ tâm bình thản, chẳng hề lay động. Vì sao? Vì theo như lời Phật dạy, thì chẳng có ai tán thán cúng dường, chẳng có ai bị khinh khi não hại cả.

Bởi vậy nên khi được người tán thán cúng dường, Bồ Tát chẳng sanh cao tâm, chẳng sanh tự mãn, khi bị người có ác tâm đến phỉ báng, khinh khi, hại não, Bồ Tát chỉ nhẫn nhục chịu đựng, hoặc im lặng xa lánh họ, chẳng chút oán ghét thù hận. Hơn thế nữa, đối với hạng người ác tâm nói nơi đây, Bồ Tát lại còn tham tâm từ niệm họ, dùng mọi phương tiện cứu độ họ, thương họ như thương con dại. Vì sao? Vì nhẫn nhục và từ bi là nhưng phương tiện lực thậm thâm vi diệu, nên Bồ Tát thường tùy thuận thanh tịnh nghiệp mà duyên chúng sanh nhằm hóa độ họ.

Bồ Tát làm các việc rất khó làm, thắng hơn các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Bồ Tát có đầy đủ Phật pháp như vậy mới có thể thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, mau được Vô Thượng Bồ Đề, mau thành bậc Nhất Thiết Chủng Trí.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, giữ tâm bình đẳng ở nơi hết thảy chúng sanh và ở nơi hết thảy pháp.

Bồ Tát đưa hết thảy chúng sanh vào trong các pháp bình đẳng. Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, nên ở hiện đời được chư Phật ở khắp 10 phương thường hộ niệm, được chư Bồ Tát, Bích Chi Phật và Thanh Văn phò trợ, được mọi loài chúng sanh thương mến, kính trọng.

Dù sanh ở chỗ nào thì mắt của Bồ Tát cũng chẳng thấy sắc, chẳng ái sắc… dẫn đến ý của Bồ Tát cũng chẳng biết sắc, chẳng ái sắc.

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, chẳng làm tổn giảm tâm Vô Thượng Bồ Đề.

LUẬN :

Nếu Phật nói về các tướng của Bồ Tát, thì suốt cả một kiếp cũng chẳng sao nói hết được. Nay Phật chỉ lược nói về tướng của Bồ tát thường hành đại từ đại bi mà thôi. Bồ Tát đã phát thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh, nên ở nơi hết thảy chúng sanh khởi tâm bình đẳng, vô phân biệt, đưa chúng sanh vào trong các pháp bình đẳng.

– Niệm chúng sanh bình đẳng,

– Quán 4 niệm xứ bình đẳng,

– Hành 4 chánh cần bình đẳng,

– Hành 4 như ý túc bình đẳng.

Bồ Tát hành tâm từ bi bình đẳng, nhằm làm 4 việc lợi ích cho chúng sanh:

– Thường nhớ nghĩ đến hết thảy chúng sanh, ở trong 6 đạo, đang chìm đắm trong vô thường, trong sanh, già, bệnh, chết… Như vậy là niệm chúng sanh bình đẳng.

– Hành 5 căn, 5 lực…,5 thần thông làm các phương tiện lực để độ thoát hết thảy chúng sanh; hành từ bi, nhẫn nhục… nhằm đem lại sự an lạc cho chúng sanh.

Như vậy là niệm chúng sanh bình đẳng.

– Hành thâm thiền định, được tâm nhu nhuyến, thanh tịnh, lại dạy chúng sanh hành thiền định, khiến họ cũng được tâm nhu nhuyến thanh tịnh. Do tâm nhu nhuyến thanh tịnh mà phá được các chấp về pháp tướng, biết rõ hết thảy các pháp đều bình đẳng.

Như vậy là niệm phát bình đẳng.

Khi đã được biết rõ hết thảy các pháp đều bình đẳng thì biết rõ hết thảy các pháp đều chỉ là một tướng (nhất tướng) là chẳng có tướng (vô tướng), nên vào được nơi thật tướng pháp.

Như vậy là niệm pháp bình đẳng.

Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy nên ở hiện đời được chư Phật ở khắp 10 phương thường hộ niệm, được chư Bồ Tát, Bích Chi Phật và Thanh Văn thường phò tợ, được mọi loài chúng sanh thương mến và kính trọng.

Trải qua vô lượng kiếp Bồ Tát đã tu ly dục, đã thành tựu vô lượng nhân duyên phước đức, nên được 2 quả báo tốt. Đó là :

– Chẳng thấy các ác sắc, nên chẳng thọ các khổ não.

– Chẳng chấp sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp nên chẳng sanh ưu tâm. Ví như chư Thiên ở cõi trời Lục Dục Thiên được tùy ý sanh tâm hoan hỷ, vì 5 căn thường duyên các tịnh diệu cảnh.

Do Bồ Tát thành tựu được vô lượng vô biên công đức trí huệ, nên được chư Phật ở khắp 10 phương thường hộ niệm, được chư Bồ Tát và chư Thánh Hiền thường phò trợ, được mọi loài chúng sanh thương mến, kính trọng

KINH:

Lúc đức Phật thuyết phẩm kinh này, trong pháp hội có 300 vị Tỷ Kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, dâng y cúng dường Phật. Vì sao? Vì nghe được các lời Phật dạy, các Tỷ Kheo này đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Lúc bấy giờ Phật mỉm cười, và từ kim khẩu của Phật hiện ra các hào quang nhiều sắc.

Ngài A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, quỳ gối, và thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?

Phật dạy: Này A Nan! 61 kiếp sau, 300 vị Tỷ Kheo này sẽ thành Phật hiệu Đại Tướng. Sau khi xả thân, 300 vị Tỷ Kheo này sẽ sanh về cõi nước của đức Phật A Súc Bệ, tiếp tục tu hành. Lại có 6 vạn chư Thiên ở cõi trời Dục Giới đồng phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, và về sau, trong thời chánh pháp của đức Phật Di Lặc sẽ xuất gia hành Phật đạo.

Lúc bấy giờ Phật dùng thần lực phóng quang minh, khiến cả 4 bộ chúng trong pháp hội thấy được các thế giới Phật ở khắp10 phương đều trang nghiêm thanh tịnh. Liền khi đó, có 10 vị cư sĩ phát nguyện tu tịnh hành, nguyện được sanh về các thế giới đó.

Phật biết rõ chư vị thiện nam này đã được tâm nhu nhuyến, thanh tịnh, nên lại mỉm cười và từ kim khẩu của Phật lại hiện ra các quang minh chiếu sáng.

Ngài A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn lại mỉm cười?

Phật dạy: Này A Nan! Ông có thấy 10 ngàn vị thiện nam đó không?

Ngài A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con đã có thấy!

Phật dạy: Này A Nan! 10 ngàn vị thiện nam đó, sau khi mạng chung sẽ sanh về các thế giới Phật kia, trọn chẳng ly các đức Phật và ở đời rốt sau sẽ thành Phật, cùng một hiệu là Trang Nghiêm Vương.

LUẬN :

Hỏi: Phật đã kiết giới cho các Tỷ Kheo phải có đủ 3 y, không được thiếu. Nay vì sao các Tỷ Kheo lại phá giới, đem y của mình mà dâng cúng dường Phật?

Đáp: Có thuyết nói việc Phật kiết giới chỉ xảy ra 12 năm sau khi Phật thành đạo. Như vậy việc đem y của mình cúng dường Phật là chẳng có lỗi lầm.

Lại có thuyết nói rằng khi Tỷ Kheo hành thanh tịnh thí, đem y của mình ra bố thí cúng dường là chẳng có lỗi lầm. Chỉ có những người có tâm tương ưng mới có thể thọ nhận được.

Lại có thuyết nói rằng trong các hạnh Bồ Tát thì hành bố thí Ba La Mật có được vô lượng công đức, khiến tâm được tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật. Các vị Tỷ Kheo đó sanh tâm hoan hỷ, đem y của mình cúng thí mà chắng nghĩ gì khác, nên chẳng có lỗi phá giới vậy.

Lại có thuyết nói rằng chư vị Tỷ Kheo đó đã biết rõ Phật pháp là rốt ráo không, là vô sở hữu, nên chẳng còn chấp pháp, chẳng còn ái pháp, lại biết rõ việc kiết giới nhiếp về Thế Đế, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Đế nên cho việc cúng thí y là đại bố thí.

Lại có thuyết nói rằng chư vị Tỷ Kheo này do nghe Phật thuyết về bố thí Ba La Mật, do lòng thương xót chúng sanh bị các phiền não che tâm, mà phát Bồ Đề Tâm, đem y của mình dâng cúng Phật.

Hỏi: Vì nguyên nhân gì mà Phật mỉm cười?

Đáp: Cười do nhiều nguyên nhân khác nhau, như:

– Có sngười nghe ca nhạc vui nhộn mà cười.

– Có người do ác tâm, do sân nhuế, thấy mình đã hại được người khác… mà cười.

– Có người vì kiêu mạn mà cười.

– Có người hoàn tất được công việc mà cười.

– Có người vì điêu ngoa, gian trá, giả vờ làm người lương thiện để đánh lừa người khác mà cười.

– v.v…

Phật chỉ mỉm cười khi có đại sự nhân duyên. Vì Phật thấy chư vị Tỷ Kheo phát tâm thanh tịnh, đem cà sa của của mình cúng thí, mà đời sau sẽ viên thành được Phật sự v.v… mà mỉm cười vậy.

Những việc làm của 300 vị Tỷ Kheo cũng như của 10 ngàn vị cư sĩ nêu trong đoạn kinh trên đây, là những việc làm hy hữu, nên Phật mỉm cười.

Hỏi: Vì sao ngài A Nan hỏiPhật mà các vị Tỷ Kheo khác chẳng có hỏi Phật ?

Đáp: Các vị Tỷ Kheo khác chẳng được thân cận Phật như Ngài A Nan, nên chẳng dám thưa hỏi Phật.

Lại nữa, Ngài A Nan biết rõ tâm niệm của các Tỷ Kheo, biết rõ các vị ấy sanh tâm nghi, khi thấy Phật mỉm cười, vì họ cho rằng chúng sanh đã là không, pháp đã là không, 3 cõi đã là như huyễn, như hóa thì chẳng có gì để mỉm cười cả. Do biết rõ như vậy nên Ngài mới thưa hỏi Phật để Phật giải nghi cho họ.

Như đã nói trên đây, Phật chỉ mỉm cười khi có đại sự nhân duyên, chẳng phải do tiểu nhân duyên vậy.

Phật dạy: “61 kiếp sau, 300 vị Tỷ Kheo này sẽ thành Phật, hiệu là Đại Tướng. Như vậy là người lợi căn thượng trí, vừa nghe thuyết pháp là liền được tương ưng, nên mau được thành Phật. Thế nhưng, Phật lại biết 300 vị Tỷ Kheo này chưa về đâu, nên Phật lại dạy tiếp: “Bỏ thân này, 300 vị Tỷ Kheo này sẽ sanh về cõi nước của đức Phật A Súc Bệ, tiếp tục tu hành”.

Lại có 6 vạn chư Thiên cũng phát tâm bồ đề, sẽ được đức Phật Di Lặc độ, nên Phật dạy: “6 vạn chư thiên này về sau trong thời chánh pháp của đức Phật Di Lặc sẽ xuất gia hành đạo”.

Lại nữa, khi Phật thọ ký cho 300 vị Tỷ Kheo sẽ sanh về cõi nước của Phật A Súc Bệ, thì cả 4 bộ chúng trong pháp hội đều muốn được thấy cõi Phật ấy, nên Phật phóng quang minh của Phật, 4 bộ chúng liên thấy các thế giới của Phật ở khắp 10 phương đều trang nghiêm thanh tịnh. Có người trông thấy như vậy rồi, tự thấy mình đang ở cõi nước uế trược, hèn hạ, nên phát tâm sanh về các thế giới thanh tịnh kia. Đây là nhân duyên Phật mỉm cười và phóng quang minh lần thứ 2. Phật thọ ký 10 ngàn ngời, do thấy các thế giới thanh tịnh mà phát tâm Bồ Đề. 

Phật dạy 10 ngàn người này, sau khi mạng chung sẽ sanh về các thế giới ấy để tu tập các tịnh hạnh, trọn chẳng ly các đức Phật và ở đời rốt sau sẽ thành Phật, cùng một hiệu là Trang Nghiêm Vương.

Sau lần thọ ký này, Phật nhiếp lại thần lực và cảnh tượng các thế giới thanh tịnh trang nghiêm ấy đều tan biến cả.

***

Phẩm thứ năm
Tán Thán 6 Ba La Mật

KINH:

Lúc bấy giờ, các vị huệ mạng Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ma Ha     Ca Diếp, cùng chúng đại Tỷ Kheo, các Ưu Bà Tắc, các Ưu Bà Di đều đứng dậy, chấp tay, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật là Ba La Mật tối đại, tối tôn, đệ nhất, thắng diệu, vô thượng, vô đẳng đẳng.

Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật là Tự Tướng Không Ba La Mật, Tự Tánh Không Ba La Mật, Vô Pháp Hữu Pháp Không Ba La Mật. Bát Nhã Ba La Mật khai thị hết thảy các công đức Ba La Mật, thành tựu hết thảy các công đức. Bát Nhã Ba La Mật là như hư không, là chẳng thể hoại.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật là thật hành vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ vô đẳng đẳng Đàn Ba La Mật, được vô đẳng đẳng thân, được vô đẳng đẳng pháp. Đây chính là Pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Cả 5 Ba La Mật kia cũng đều là như vậy cả.

Thế Tôn xưa kia, cũng thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà được đầy đủ 6 Ba La Mật, được vô đẳng đẳng pháp, được vô đẳng đẳng sắc, thọ, tưởng, hành, thức; mà được thành Phật, chuyển vô đẳng đẳng pháp luân.

Chư Phật quá khứ, chư Phật vị lại cũng do thật hành Bát Nhã Ba La Mật mà được vô đẳng đẳng bố thí… dẫn đến chuyển vô đẳng đẳng pháp luân.

Bởi vậy nên Bồ Tát muốn vượt qua hết thảy pháp để đến bờ bền kia, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, thì ở trong thế gian tất cả các hàng Trời, Người, A Tu La đều cung kính cúng dường.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy, này các thiện nam tử! Tất cả hàng Trời, Người, A Tu La ở trong thế gian đều phải cung kính, cúng dường người thật hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì do nhân duyên có Bồ Tát ra đời mới có các đường thiện, có hàng Trời, Người, có Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo, Bồ Tát đạo, dẫn đến có Phật đạo. Lại cũng do nhân duyên có Bồ tát ra đời mà có các thức ăn uống, có quần áo, có nhà cửa, có đèn đuốc, có các thứ ngọc ngà, châu báu.

Này Xá Lợi Phất! Hết thảy các thứ an lạc ở thế gian đều do Bồ Tát vận hành mới có. Vì sao? Vì hành Bồ Tát đạo là thật hành 6 pháp Ba La Mật, là hành bố thí và cũng lấy bố thí để thành tựu chúng sanh… dẫn đến là hành Bát Nhã Ba La Mật, và cũng lấy Bát Nhã Ba La Mật để thành tựu chứng sanh.

Này Xá Lợi Phất! Bởi nhân duyên vậy, nên đại Bồ tát ra đời, để tự hành bố thí và dạy cho người hành bố thí… dẫn đến tự hành Bát Nhã Ba La Mật và dạy cho người hành Bát Nhã Ba La Mật, để an lạc thế gian.

LUẬN :

Hỏi: Phật có 5000 vị Tỷ Kheo, trong đó có 1200 vị Hòa Thượng. Như vậy vì sao chỉ nêu tên 4 vị mà thôi?

Đáp: Vì 4 vị đại Tỷ Kheo này có vô lượng công đức.

– Ngài Mục Kiền Liên là cánh tay phải của Phật. ngài là bậc Thần Thông Đệ Nhất.

– Ngài Xá Lợi Phất là cánh tay trái của Phật. Ngài là bậc Trí Huệ Đệ Nhất.

– Ngài Tu Bồ Đề là bậc Vô Tránh Hành Không Đệ Nhất.

– Ngài Ma Ha Ca Diếp là bậc tu hạnh Đầu Đà Đệ Nhất. Ngài là vị được đức Thế Tôn chọn để truyền y bát. Về sau này, y bát của Phật truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp sẽ được truyền lại cho đức Phật Di Lặc.

Ở hiện đời, những ai có phước báo cúng dường 4 vị đại Tỷ Kheo này, thì đều được như ý nguyện.

Hỏi: Chư vị A La Hán đã được thân rốt sau rồi. Như vậy các ngài còn tán thán Bát Nhã Ba La Mật làm gì nữa?

Đáp: Người đời chỉ biết A La Hán được vô lậu đạo, mà chẳng biết đến trí huệ của Bồ tát.

A La Hán tuy có tâm từ bi, tuy có giúp Phật trong việc giáo hóa chúng sanh, nhưng chưa hành Bát Nhã Ba La Mật, là trí huệ đệ nhất.

Bát Nhã Ba La Mật dẫn đạo cả 5 Ba La Mật kia, nên là Ba La Mật tối đại, tối tôn, là Ba La Mật đệ nhất, là Ba La Mật tối thắng. Bát Nhã Ba La Mật thành tựu cả tự lợi lẫn lợi tha, nên Ba La Mật tối diệu. Trong các Ba La Mật, thì Bát Nhã Ba La Mật chẳng có lỗi lầm, nên là Ba La Mật vô thượng. Lại nữa, chẳng có pháp nào sánh kịp với Bát Nhã Ba La Mật, nên Bát Nhã Ba La Mật là Ba La Mật vô đẳng đẳng. Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật. Chư Phật trong 3 đời đều theo Bát Nhã Ba La Mật sanh, nên Bát Nhã Ba La Mật là vô thượng Ba La Mật, là vô đẳng đẳng Ba La Mật.

Vào trong Bát Nhã Ba La Mật, thì hết thảy các pháp tướng đều là không, nên Bát Nhã Ba La Mật là Tự Tướng

Không Ba La Mật. Lại nữa, hết thảy pháp đều do duyên hòa hợp sanh, nên Bát Nhã Ba La Mật là Tự Tánh Không Ba La Mật. Lại nữa, chẳng có pháp, chẳng có danh tự pháp nên là pháp không, chẳng có chúng sanh, chẳng có danh tự chúng sanh nên là chúng sanh không. Do pháp không và chúng sanh không mà phá được hết thảy pháp, khiến được vô sở hữu, nên Bát Nhã Ba La Mật là Vô Pháp Hữu Pháp Không Ba La Mật.

Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, chẳng thấy có các công đức, cũng chẳng thấy có chúng sanh nào được độ.

Ví như có mặt trời mọc lên thì trăm hoa đua nở. Có Bồ Tát ra đời thật hành Bát Nhã Ba La Mật, thì thế gian mới đượm nhuần công đức, nên nói Bát Nhã Ba La Mật khai thị hết thảy công đức Ba La Mật.

Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật là gốc của hết thảy các thiện pháp, nên nói Bát Nhã Ba La Mật thành tựu hết thảy các công đức Ba La Mật.

Lại nữa, ví như hư không chẳng thể hoại, ở trong thế gian chẳng có pháp nào khuynh đảo được Bát Nhã Ba La Mật, phá hoại được Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy nên gọi Bát Nhã Ba La Mật là Bất Khả Hoại Ba La Mật.

Chư vị A La Hán tán thán chư Phật trong 3 đời là tán thán Bát Nhã Ba La Mật. Vì hành Bát Nhã Ba Mật là hành vô tỷ bố thí… dẫn đến hành vô tỷ trí huệ.

Ở trong thế gian chẳng có gì có thể so sánh được với 6 pháp Ba La Mật, chẳng có gì có thể bằng được 6 pháp Ba La Mật. Vì sao? Vì 6 pháp Ba La Mật là rốt ráo thanh tịnh, chẳng có lỗi lầm nên gọi là vô tỷ, là vô đẳng đẳng vậy.

Hỏi: Có vô lượng chư Phật trong 3 đời. Vì sao chỉ nói đến đức Phật Thích Ca Mưu Ni mà thôi?

Đáp: Ở thế giới này, chúng sanh chỉ thấy được Đức Phật Thích Ca Mưu Ni mà được độ.

Ví như ngài Xá Lợi Phất, do cảm kích ân đức của Phật, đã nói: “Nếu Thầy chúng ta không ra đời, thì chúng ta chẳng sao có được ánh sáng trí huệ, chúng ta cũng chỉ như người mù chẳng sao thấy được ánh sáng của mặt trời vậy”.

Chư vị A La Hán do đã biết rõ chư Phật trong 3 đời đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật, nên đã có lời tán thán rằng: “Đại Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật thông rõ hết thảy các pháp”.

Chư vị A La hán tán thán như vậy rồi, liền sanh tâm thanh tịnh, nên lại nói: “Đại Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba la Mật được các hàng Trời, Người đều cung kính cúng dường”.

Phật ấn chứng lời tán thán của chư vị A La hán và dạy rằng: “Đúng như vậy, đúng như vậy… Các ông phải nên cung kính cúng dường người thật hành Bát Nhã Ba La Mật. Dù chưa được Nhất Thiết Trí, mà nói như vậy, là đã chẳng còn lầm lạc nữa”.

Hỏi: Nếu nói rằng do nhân duyên Bồ Tát ra đời, mà có các thức ăn uống, có quần áo, có nhà ở,… dẫn đến có các bảo vật thì vì sao ở đời vẫn có nhiều người phải lao nhọc lắm mới kiếm được miếng ăn, manh áo?

Đáp: Có người sanh vào thời không có nạn đói khát, lại đem rất nhiều công sức ra để mưu cầu sự sống hằng ngày, mà vẫn phải chịu đói rách, cực khổ. Vì sao? Vì những người đó đã phạm trọng tội ở đời trước, nên đời nay phải lãnh chịu các nghiệp quả nhân duyên như vậy.

Bởi vậy nên ở thế gian, Bồ Tát thường tán thán bố thí, trì giới. VÌ sao ? Vì thiện tâm là nhân duyên sanh phước đức.

Bậc thượng thiện làm việc gì cũng đều được như ý nguyện, được người kính mến tôn trọng.

Ở đoạn kinh trên đậy, Phật nói đến 3 thứ vui. Đó là: Vui ở cõi người (nhân lạc), vui ở cõi trời (thiên lạc), vui ở Niết Bàn (Niết Bàn lạc). Tất cả đều do nhân duyên Bồ Tát ra đời mà có vậy.

Hỏi: Vui Niết Bàn là giải thoát. Còn vui ở cõi người và vui ở cõi trời đều do nhân duyên tham dục mà có, đều là vui của chúng sanh (chúng sanh lạc). Như vậy, vì sao nói có Bồ Tát ra đời mới có các thứ vui đó?

Đáp: Bồ Tát đem tâm từ bi thanh tịnh, dạy dỗ chúng sanh trong loài người phải hòa thuận, thương yêu nhau… Như vậy là vui ở cõi người (nhân lạc). Bồ Tát lại dạy chúng sanh tu phước để được sanh lên cõi trời. Như vậy là vui ở cõi trời (thiên lạc).

Nếu chúng sanh chẳng nghe theo lời chỉ dạy của Bồ Tát, khiến phải bị đọa lạc, thì đó chẳng phải là lỗi lầm của Bồ Tát. Ví như có người có lòng tốt đào giếng cho bà con trong xóm dùng, mà có người mê muội nhảy xuống giếng chết, thì chẳng phải là lỗi lầm của người đào giếng.

Lại ví như người đem cúng dường các thức ăn ngon, mà người thọ sự cúng dường ăn quá nhiều, đến phải bị trúng thực, thì chẳng phải lỗi của người cúng dường vậy.

Phải nên biết rằng do nhân duyên có sự giáo hóa của Bồ Tát, mà chúng sanh khởi được chánh niệm, tinh tấn tu hành, dẫn đến hưởng được nhiều phước lạc.

Bồ Tát do chưa có được Phật nhãn, nên chỉ đem lại cho chúng sanh 3 thứ vui. Đó là:

– Vui ở cõi người (nhân lạc).

– Vui ở cõi trời (Thiên lạc).

– Vui ở cõi Niết Bàn (Niết Bàn lạc).

Còn chư Phật chỉ dùng đạo giải thoát để giáo hóa chúng sanh, đem lại cho chúng sanh niềm vui giải thoát (giải thoát lạc).


Phẩm thứ sáu

Thiệt Tướng
(Tướng Lưỡi)

KINH :

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả đại thiện thế giới. Từ nơi tướng lưỡi phóng ra vô số hào quang nhiều màu sắc, chiếu đến tận các thế giới Phật ở khắp 10 phương.

Ở các thế giới Phật phương Đông có vô số Bồ Tát thấy đại quang minh này, đều bạch với các đức Phật của mình rằng: Bạch Thế Tôn! Có vị nào đang dùng thần lực phóng đại quang minh chiếp khắp cả 10 phương thế giới như vậy?

Các đức Phật đều dạy rằng: Này các thiện nam tử! Ở phương Tây có thế giới Ta Bà. Ở nơi đấy có Đức Phật Thích Ca Mưu Ni đang hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng đại quang minh để vì chư đại Bồ Tát, thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật.

Ở thế giới Phật về phương Tây, phương Nam, phương Bắc, hai phương Trên Dưới và bốn phương chéo cũng đều như vậy.

Các Bồ Tát ở cá thể giới Phật đó đều bạch với các đức Phật của mình rằng: Bạch Thế Tôn!

Chúng con đều muốn đến cõi Ta Ba để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mưu Ni, và để được nghe thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật.

Các đức Phật đều dạy rằng: Này các thiện nam tử! Các người nên tự biết đến thời mà đi.

Lúc bấy giờ, chư vị Bồ Tát ở các thế giới đó, đem vô lượng hương hoa, tràng phan, bảo cái, chuỗi anh lạc v.v… đến cõi Ta Bà để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mưu  Ni. Từ các thế giới đó còn có vô lượng hương hoa, vàng bạc, châu báu… bắn về hướng cõi Ta Bà, để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mưu Ni. Hàng chư thiên ở các cõi trời cũng đem vô lượng hoa sen xanh, đỏ, vàng, trắng, và đủ thứ hương thơm đến cõi Ta Bà để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mưu Ni.

Các hoa quý do chư Bồ Tát và chư Thiên rải để dúng dường Đức Phật Thích Ca Mưu Ni đều trụ giữa hư không, kết thành các đài hoa quý, tợ như các tòa lâu đài muôn sắc trang nghiêm.

Trong pháp hội của Đức Phật Thích Ca Mưu Ni, lúc bấy giờ, có 10 vạn ức người, từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay và bạch với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện ở trong đời vị lại, sẽ có được thần lực biến hóa, sẽ có được chúng đệ tử, sẽ thuyết pháp như Phật hiện nay ở đạo tràng này.

Phật biết rõ các vị này đã vào được pháp tánh bất sanh, bất diệt, bất khứ, bất lại, bất xuất, bất nhập của hết thảy pháp, đã được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Do vậy, Phật mỉm cười và từ kim khẩu của Phật phóng ra vô lượng diệu sắc quang minh.

Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn lại mỉm cười?

Phật dạy: Này A Nan! Trong pháp hội này, hiện có 10 vạn ức người đã được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Những người này, trong đời vị lai, trải qua 68 kiếp nữa sẽ thành Phật. Các vị Phật ấy đồng một hiệu là Giác Hoa Như Lai, và kiếp ấy gọi là Hoa Tích.

LUẬN :

Hỏi: Ở phẩm thứ nhất đã có lần nói về tướng lưỡi rộng dài của đức Phật rồi. Nay vì sao còn nói nữa?

Đáp: Các sự việc chẳng phải xảy ra cùng thời, cùng nơi. Khi nào Phật muốn hòa hợp đại chúng, muốn độ hết thảy chúng sanh, thì Phật hiện tướng lưỡi rộng dài.

– Trước đây theo lời thưa hỏi của ngài Xá Lợi Phất mà Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, và phóng quang minh chiếu khắp 10 phương thế giới để chứng thật ngữ.

– Nay, ở vào một thời điểm khác, và do một đại sự nhân duyên khác mà Phật lại hiện tướng lưỡi rộng dài, và phóng quang minh chiếu khắp 10 phương thế giới. Lần này, Phật muốn ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề thuyết về pháp Không, nhằm giáo hóa chúng Bồ Tát sơ phát tâm về giáo hóa chúng hội.

Hỏi: Ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong hàng đại đệ tử của Phật. Vì sao Phật lại bảo ngài Tu Bồ Đề thuyết về pháp “không”?

Đáp: Các ngài đều là đại đệ tử của Phật. Phật tùy theo công hạnh của mỗi vị mà bảo các bị ấy thứ lớp nói pháp.

Hỏi: Vì sao các ngài Mục Kiền Liên và Ma Ha Ca Diếp không được Phật bảo nói pháp trong hội Bát Nhã này?

Đáp: Kinh Bát Nhã Ba La Mật là kinh điển này trí huệ của Phật. Bởi vậy nên những câu hỏi nêu lên nhằm làm duyên khởi cho việc thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật đều do ngài Xá Lợi Phất khởi xướng. Trong hàng Thanh Văn, thì ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất.

Còn ngài Tu Bồ Đề đã thành tựu được 2 công đức lớn. Đó là:

– Ngài khéo tu định Vô Tránh, có tâm từ bi đối với chúng sanh. Tuy nhài không có rộng độ chúng sanh, nhưng ngài thường giúp các Bồ Tát trong việc giáo hóa chúng sanh.

– Ngài khéo tu hành pháp “không”. Vì Bát Nhã Ba La Mật chủ yếu nói về pháp “không” nên Phật giao phó cho ngài vậy.

Ngài Tu Bồ Đề nương theo thần lực của Phật, thuyết giảng về pháp “không” cho đại chúng nghe.

Lúc bấy giờ, Phật hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng quang minh chiếu sáng, khiến các vị Bồ tát ở khắp 10 phương thế giới vân tập về để nghe thuyết Bát Nhã Ba La Mật.

Chư Bồ tát và chư Thiên rải hoa cúng dường Phật. Các hoa trụ giữa hư không, kết thành các đài hoa muốn sắc trang nghiêm.

Nương theo thần lực của Phật, cả chúngs hội đều thấy được các thế giới Phật ở khắp trong 10 phương, thấy được các đức Phật ở các thế giới đó cũng đang thuyết pháp.

Tức thời trong chúng hội có 10 vạn ức người được Vô Sanh Pháp Nhẫn, đồng thời phát nguyện rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện ở trong đời vị lai, sẽ có được thần lực biến hóa, sẽ có được chúng đệ tử, sẽ thuyết pháp như Phật hiện nay ở đạo tràng này.

Phật biết rõ các người này đã được Vô Sanh Pháp Nhẫn, nên mỉm cười và phóng quang minh muôn sắc.

Ngài A Nan hỏi Phật về lý do Phật mỉm cười và phóng quang, Phật dạy rằng: Trải qua 68 kiếp nữa, những người này sẽ thành Phật, đồng một hiệu là Giác Hoa Như Lai, và kiếp ấy gọi là Hoa Tích.

Tất cả 10 vạn ức người này do thấy chư Phật và chư Thiên ở các thế giới xa xăm đến cúng dường Phật, lại thấy các tán hoa Phật đều trụ giữa hư không, kết thành các đài hoa muôn sắc, trang nghiêm mà phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đây là một đại sự nhân duyên, nên Phật mỉm cười, phóng quang và thọ ký như đã nêu ở đoạn kinh trên đây.

(Hết quyển 40)
Hết tập II