LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP II
QUYỂN 37

Phẩm thứ ba
( Tiếp theo)
Tập Tương Ưng
(Tiếp theo)

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy Tát Bà Nhã cùng với quá khứ hợp, chẳng thấy Tát Bà Nhã cùng với hiện tại hợp, cũng chẳng thấy Tát Bà Nhã cùng với vị lai hợp. Vì sao ? Vì cả ba đời đều chẳng thể thấy được (bất khả kiến) huống nữa là hợp với Tát Bà Nhã.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy Tát Bà Nhã (tức Nhất Thiết Chủng Trí) cùng quá khứ hợp. Vì sao ? Vì quá khứ là hư vọng, mà Tát Bà Nhã là thật pháp; quá khứ là tướng sanh diệt, mà Tát Bà Nhã chẳng phải là tướng sanh diệt. Tầm cầu quá khứ đã là chẳng thể được (bất khả đắc) rồi, nên quá khứ chẳng sao có thể hợp với Tát Bà Nhã được.

Lại nữa, Phật đã nói các nhân duyên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng thấy có quá khứ, huống nữa là thấy quá khứ hợp với Tát Bà Nhã.

Đối với các đời hiện tại và vị lai cũng là như vậy.

Phàm phu, do tâm vọng chấp, mà điên đảo chia thời gian làm ba đời, nhưng nghĩa của thời gian chỉ có một, vì thời gian là bất khả đắc.

Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật là chân trí huệ của chư Phật ở cả ba đời trong khắp mười phương, bởi vậy nên Tát Bà Nhã chẳng thể hợp với bà đời. Vì như kim cương chẳng đồng tướng với cặn bã thiếc được.

Hỏi : Trong mục Tỳ Hỷ Công Đức có nói đến sự việc Bồ Tát niệm chư Phật trong ba đời. Lại, Tát Bà Nhã là trí huệ bình đẳng, là công đức hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Như vậy, vì sao lại nói ba đời chẳng thể hợp với Tát Bà Nhã ?

Đáp : Người còn tâm chấp mà niệm Tát Bà Nhã, thì chẳng có thể gọi là hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề được. Ví như món ăn ngon mà có lẫn chất tạp, có thể làm hại người. Người không biết lúc ban đầu ăn nhằm vào, cũng có thể hưởng hương vị thơm ngon, nhưng về sau sẽ bị chất độc gây nguy hại đến tánh mạng.

Nếu còn phân biệt ba đời cùng Tát Bà Nhã hòa hợp, là còn chấp tướng. Trái lại, nếu chẳng còn tâm chấp tướng nữa, thì sẽ chẳng thấy ba đời cùng Tát Bà Nhã hòa hợp.

Hỏi : Nếu Bồ Tát có niệm ở đời sau sẽ được thành Phật, thì cũng đã niệm đời sau sẽ được Tát Bà Nhã rồi. Như vậy, vì sao lại nói ba đời chẳng có hợp với Tát Bà Nhã ?

Đáp : Tát Bà Nhã là trí huệ siêu xuất cả ba đời, là rốt ráo thanh tịnh. Nếu người tu hành mà ức tưởng phân biệt rằng “Ta sẽ được Tát Bà Nhã”, thì cũng chỉ như người thế gian ức tưởng phân biệt về các sự việc có thể được (hữu sở đắc) trong tương lai. Thế nhưng, nay các sự việc đó chưa sanh, thời tiết chưa đến, các nhân duyên chưa hội đủ nên là chưa có, thì làm sao có thể hợp được ?

Ví như người nghe nói ngày mai mình sẽ được ăn ngon, thì ngày hôm nay chỉ ức tưởng đến thức ăn ngon đó, mà chưa thể ăn được. Cũng lại ví như có một vị đệ tử của ngài Ma Ha Ca Chiên Diên nói với một vị trưởng gia rằng: “Ông hãy thu dọn nhà cửa cho thật trang nghiêm đi. Khi tôi thành Phật, tôi sẽ đến nhà ông để hóa độ ông”.

Nói như vậy là chẳng có tương ưng.

Hỏi : Có rất nhiều pháp. Như vậy sao chỉ nói đến Tát Bà Nhã ?

Đáp : Vì Tát Bà Nhã là chỗ quy thú của Bồ Tát. Bồ Tát trải qua nhiều đời, chỉ nhất tâm tu hành cầu Tát Bà Nhã.

Hỏi : Vì sao Bồ Tát chẳng có tầm cầu nơi các pháp hữu vi và các pháp vô vi ?

Đáp : Trong quá trình tu tập, Bồ Tát phải tầm cầu hết thảy các pháp mới vào được Tát Bà Nhã. (Ở các phẩm trước đã có nói rõ

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy sắc cùng với Tát Bà Nhã hợp, dẫn đến chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức cùng với Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì ngũ ấm chẳng thể thấy được (bất khả kiến).

Lại chẳng thấy nhãn cùng Tát Bà Nhã hợp, dẫn đến chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì lục căn chẳng thể thấy được.

Lại chẳng thấy sắc cùng Tát Bà Nhã hợp, dẫn đến chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì lục trần chẳng thể thấy được.

Lại chẳng thấy nhãn thức dẫn đến ý thức cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì lục thức chẳng thể thấy được.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Vì sao ở đoạn kinh trên có nói đến ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới mà chẳng nói đến thập nhị nhân duyên ?

Đáp : Phật vẫn thường nói đến ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhân duyên, cũng thường nói đến hết thảy các pháp đều có cấu, có tịnh mà cũng chẳng phải quyết định là thật có cấu, thật có tịnh. Vì sao ? Vì ở nới các pháp có khi có các kiết sử sanh ra, mà lại cũng có khi chẳng có các kiết sử sanh ra. Ví như ở nới ruộng lúc có lúa mọc lên, mà cũng có cỏ dại mọc xen vào nữa.

Phải biết rằng ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, thập nhị nhân duyên đều là sự. Còn sáu pháp Ba La Mật dẫn đến Tát Bà Nhã (tức Nhất Thiết Chủng Trí) mới là tịnh chủng. Bồ Tát do đã mỏng kiết sử, chẳng còn dùng các sự việc dẫn sanh phiền não nữa, nên ở đây chẳng có nói đến thập nhị nhân duyên.

Lại nữa, Bồ Tát có trí huệ thâm sâu, rõ biết về pháp “không”, nên chẳng còn khởi các phiền não, mà chỉ tu luyện các công đức.

Bởi nhân duyên vậy, nên chẳng thấy ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới… cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì ở trong cả ba đời, Tát Bà Nhã cũng là bất khả đắc.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy Đàn Ba La Mật, dẫn đến chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì sáu pháp Ba La Mật chẳng thể thấy được.

Lại chẳng thấy Tứ niệm xứ, Bát Thánh đạo cùng Tát Bà Nhã hợp, dẫn đến chẳng thấy thập Phật lực, thập bát bất cộng pháp cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì Tứ niệm xứ, Bát Thánh đạo dẫn đến thập Phật lực, thập bát bất cộng pháp chẳng thể thấy được.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Nói ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới… là nhưng pháp thế gian chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp, thì còn hợp lý. Nhưng vì sao nói sáu pháp Ba La Mật cũng chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp ?

Đáp : Sáu pháp Ba La Mật được phân ra làm hai loại. Đó là :

– Ba La Mật thế gian.

– Ba La Mật xuất thế gian.

Ba La Mật thế gian chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp. Ba La Mật xuất thế gian mới cùng Tát Bà Nhã hợp.

Lại nữa, khi hành sáu pháp Ba La Mật mà chưa sạch kiết sử thì chẳng có thể cùng Tát Bà Nhã hợp được.

Lại nữa, sáu pháp Ba La Mật cùng đều là “không”, đều chẳng thấy được (bất khả kiến) nên chẳng thể cùng Tát Bà Nhã hợp được.

Hỏi : Sáu pháp Ba La Mật có tục, có đạo. Vì sao Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo là pháp dẫn đến Niết Bàn, mà cũng chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp được ?

Đáp : Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo là pháp môn tu của hành Nhị Thừa, dẫn đến Niết Bàn Nhị Thừa. Niết Bàn của Bồ Tát mới dẫn đến Phật đạo, nên Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo chẳng có thể cùng Tát Bà Nhã hợp được.

Hỏi : Vì sao trong kinh nói Bồ Tát cũng học Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo ? Như vậy vì sao nói Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo chẳng cùng với Tát Bà Nhã hợp

Đáp : Bồ Tát tu tập Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo mà chẳng chấp. Nếu chấp thì sẽ hồi hướng về đạo Thanh Văn. Bởi vậy nên nói Ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp được.

Hỏi : Vì sao thập Phật lực, thập bát bất cộng pháp cũng chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp được ?

Đáp : Thập Phật lực, thập bát bất cộng pháp, tuy là diệu pháp, là Tát Bà Nhã, nhưng vì Bồ Tát chưa lậu tận nên chẳng cùng với Tát Bà Nhã hợp được vậy.

Nói về thập Phật lực, nên phân biệt có ba trường hợp. Đó là :

– Bồ Tát tuy chưa được Phật đạo, nhưng do tu tập thập Phật lực mà dần dần sẽ vào được Phật đạo.

– Bồ Tát do tu tập thập Phật lực đã vào được Phật đạo, và đang cầu được tâm Tát Bà Nhã.

– Bồ Tát do tu tập thập Phật lực đã vào được Phật đạo, và đã tương ưng với Tát Bà Nhã.

Chỉ có hạng Bồ Tát sau cùng mới hợp với Tát Bà Nhã. Còn hai hạng Bồ Tát trên chưa hợp được với Tát Bà Nhã.

Lại nữa, Tát Bà Nhã là rốt ráo không, là chẳng thấy được nên chẳng có hợp, cũng chẳng có không hợp.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy Phật và Bồ Đề cùng Tát Bà Nhã hợp, cũng chẳng thấy Tát Bà Nhã cùng Phật và Bồ Đề hợp. Vì sao ? Vì Phật tức là Tát Bà Nhã, và Tát Bà Nhã tức là Phật; vì Bồ Đề tức là Tát Bà Nhã và Tát Bà Nhã tức là Bồ Đề.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải do tu tập đúng như vậy mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Bồ Tát và pháp Bồ Tát cũng chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp hay sao?

Đáp : Trong loài người, Phật là đấng đại giác ngộ, là đấng Vô Thượng. Trong hết thảy pháp, Tát Bà Nhã là pháp vô thượng. Cho nên nói Bồ Tát và pháp Bồ Tát chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp được. Vì sao ? Vì được Tát Bà Nhã rồi, mới được gọi là Phật, chưa được Tát Bà Nhã thì chẳng được gọi là Phật.

Lại nữa, Phật tức là Tát Bà Nhã, Tát Bà Nhã tức là Phật. Lìa Phật ra chẳng có Tát Bà Nhã, lìa Tát Bà Nhã ra chẳng có Phật.

Hỏi : Nói Phật là người nên chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp, thì còn hợp lý. Nhưng Bồ Đề là pháp vô thượng sau cũng chẳng hợp với Tát Bà Nhã ?

Đáp : Có thuyết nói Bồ Đề là trí huệ của Phật, nhưng Tát Bà Nhã mới thật là Nhất Thiết Trí Huệ của Phật. Lại có thuyết nói ở trong mười một trí thì trí thứ mười một là Tát Bà Nhã; còn mười trí kia nhiếp về Bồ Đề.

Lại nữa, thập Phật lực là pháp của Phật, còn Bồ Đề là do Bồ Tát ức tưởng phân biệt mà có, chẳng phải là thật.

Chỉ có chỗ sở đắc của Phật, tức là Tát Bà Nhã mới là thật pháp. Nếu nói Bồ Đề là pháp của Bồ Tát, thì pháp ấy cũng chỉ là hư vọng, chẳng thật có. Bởi vậy nên nói Bồ Đề chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp được.

Trong đoạn kinh nêu trên đây, Phật nói rằng Phật cũng như Bồ Đề chẳng cùng Tát Bà Nhã hợp. Vì sao ? Vì Phật tức là Tát Bà Nhã, Tát Bà Nhã tức là Phật. Bồ Đề của Phật tức là Tát Bà Nhã, Tát Bà Nhã tức là Bồ Đề của Phật. Bồ Tát phải tu tập đúng như vậy mới được cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng tu tập sắc là có (hữu), hay là không (vô), chẳng tu tập sắc là thường hay vô thường, chẳng tu tập sắc là khổ hay là lạc, chẳng tu tập sắc là ngã hay là vô ngã, chẳng tu tập sắc là tịch diệt hay là chẳng phải tịch diệt, chẳng tu tập sắc là không hay là chẳng phải không, chẳng tu tập sắc là hữu tướng hay là vô tướng, chẳng tu tập sắc là hữu tát hay là vô tác. Dẫn đến chẳng tu tập thọ, tưởng, hành, thức cũng đều là như vậy.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

Lại nữa, khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng dấy niệm có hành, hay chẳng có hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì hành Bát Nhã Ba La Mật là chẳng hành, mà cũng chẳng phải chẳng hành.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Tát Nhã Ba Mật tương ưng.

LUẬN :

Bồ Tát phải quán ngũ ấm là chẳng phải có (hữu), chẳng phải không (vô), mới cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng. Vì sao ? Vì thế gian, do chấp hai chấp hữu và vô, mà cứ phải trôi lăn mãi trong sanh tử, luân hồi. Nếu thuận dòng sanh tử là chấp hữu ngã. Nếu nghịch dòng sanh tử để giải thoát cho riêng mình, thì vẫn còn chấp vô ngã.

Lại nữa, ngã kiến nhiều là chấp hữu; tà kiến nhiều là do chấp vô. Chấp bốn ngã kiến là chấp hữu; chấp bốn tà kiến là chấp vô. Bị tam độc trói buộc là chấp hữu; bị vô minh trói buộc là do chấp vô. Chẳng biết ngũ ấm do các duyên chứa nhóm sanh là chấp hữu; chẳng biết tập sanh là chấp vô. Gần ác tri thức và ngoại đạo, khiến phải đọa về đoạn diệt, chẳng có tin có tội phước là chấp vô. Nghĩ các pháp đều là không, rồi chấp tướng không ấy là chấp vô. Nghĩ lục căn cùng hết thảy các pháp đều là thật có là chấp hữu.

Tóm lại, ái kiến nhiều, thì chấp hữ. Tà kiến nhiều, thì chấp vô. Như vậy hữu hay vô đều là hư vọng, chẳng phải thật có.

Nếu phá được cả hai chấp hữu và vô, thì mới vào được trung đạo. Ví như người đi trên con đường hẹp, một bên là hồ nước sâu, một bên là khu rừng lớn đang bốc cháy, thì người ấy phải khéo giữ mình, chẳng để bị trượt chân ngã về bất cứ bên nào. Vì sao ? Vì nếu để bị trượt chân, ngã về bất cứ bên nào cũng đều nguy hiểm cả.

–oOo–

Người chấp hữu và người chấp vô đều có lỗi. Vì sao ? Vì nếu chấp các pháp là thật có, thì chẳng có các nhân duyên sanh pháp. Nếu đã biết các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh, nên đều là tự tánh không, là vô pháp; nhưng nếu lại chấp vô pháp là thật có, thì chẳng có tội phước, chẳng có các pháp vậy.

Do có người chấp hữu, có người chấp vô mà sanh ra có tranh chấp hơn thua, phải trái, dẫn đến có sanh ra các kiết sử phiền não. Rồi do có kiết sử phiền não, mà sanh ra có tạo nghiệp, dẫn vào ba đường ác. Trái lại, khi vào được thật tướng pháp, thì chẳng còn có tranh chấp hơn thua, phải trái gì nữa cả.

Lại nữa, chấp hữu là chấp có các pháp hữu vi; mà các pháp hữu vi đều là vô thường, đều dẫn đến khổ đau. Còn chấp vô thì tin chẳng có tội phước, nên tự do tạo tội ác, khiến phải đọa vào địa ngục, thọ các quả báo khổ đau.

Người chẳng chấp hữu, chẳng chấp vô, mới xa được các lỗi lầm, vào được nơi thât tướng pháp.

Lại nữa, ngũ ấm chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.

Nếu chấp ngũ ấm là thường, thì chẳng có sanh, chẳng có diệt. Do vậy mà chẳng có tội phước, chẳng có các quả báo thiện ác. Những cảnh chết chóc hằng ngày, cảnh bà con thân thuộc than khóc trước phút biệt ly xa cách, cho thấy rõ thân người cũng như vạn vật đều là vô thường. Trong kinh có nói đến thời kiếp tận, thì hết thảy đều bị tiêu diệt, là đại vô thường. Bởi vậy, chẳng có thể nói ngũ ấm là thường.

Thế nhưng, chỉ nên dùng vô thường để phá chấp về thường, mà chẳng nên chấp tướng vô thường. Vì sao ? Vì chấp vô thường cũng là có lỗi. Nên biết rằng các pháp niệm niệm sanh diệt, nên là không. Lục tình cũng niệm niệm sanh diệt, nên chẳng thủ được lục trần. Vì sao ? Vì nội tâm cũng như ngoại trần đều chẳng có trú (vô trú).

Do chẳng trú, nên là chẳng có duyên (vô duyên), là không vậy. Nếu tư duy như vậy, mà tu tập các nhân duyên và quả báo, thì sẽ thấy nhân duyên và quả báo cũng luôn luôn biến chuyển. Từ đó, giữa người chấp hữu và người chấp vô ắt sẽ có tranh chấp, nên trong kinh nói “ngũ ấm vô thường là bất khả đắc”.

Lại nữa, ngũ ấm chẳng phải khổ, chẳng phải lạc; chẳng phải ngã; chẳng phải vô ngã. Vì sao ? Vì ở trong khổ có lạc, ở trong lạc có khổ, nên khổ và lạc đều là bất khả đắc; dẫn đến ngã và vô ngã cũng đều là bất khả đắc.

–oOo–

Lại nữa, do các pháp đều là tự tánh không, nên nói các pháp dù là hữu tướng, thì cũng là vô tướng; dù là hữu tác thì cũng là vô tác. Trước đây đã nói nhiều về ngũ ấm do duyên sanh, nên là tự tánh không, là tịch diệt, là như như Niết Bàn tướng.

Ngũ ấm cũng như hết thảy các pháp vốn là tự tánh không, là tịch diệt. Chỉ khi nào tam độc dấy khởi, thì mới chẳng tịch diệt. Lại do lửa vô thường thiêu đốt mà các pháp vốn tịch diệt đã trở thành không tịch diệt. Do chấp tam độc là thật, mà tam độc vốn tịch diệt đã trở thành không tịch diệt.

Bởi vậy nên không và bất không, hữu tướng và vô tướng, hữu tác và vô tác, tịch diệt và phi tịch diệt đều là bất khả đắc cả.

–oOo–

Lại nữa, Bồ Tát ly được cả hai bên “Hữu và Vô”, hành trung đạo là hành Bát Nhã Ba La Mật mà cũng chẳng chấp Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì Bồ Tát là bất khả đắc, Bát Nhã Ba La Mật cũng là bất khả đắc, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng chấp Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát quán thật tướng các pháp, nên dù có hành Bát Nhã Ba La Mật, dù chẳng có hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát cũng chẳng chấp, vì đã rõ biết chấp Hữu cũng như chấp vô đều có lỗi cả.

Bồ Tát tu tập như vậy, nên được cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phải vì Bát Nhã Ba La Mật mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì Đàn Ba La Mật, Thi La Ba La Mật, Sẵn Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Gia Ba La Mật, Thiền Na Ba La Mật mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì quả vị bất thối chuyển mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì thành tựu chúng sanh mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì thanh tịnh Phật độ mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì thập Phật lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư pháp không, tự tướng không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì như pháp tánh thật tế mà hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phá hoại các pháp tướng.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Sáu pháp Ba La Mật và như pháp tánh thật tế đều là pháp của Phật. Nếu nói chẳng vì các pháp ấy mà hành Bát Nhã Ba La Mật, thì Bồ Tát phải dùng pháp gì để hành Bát Nhã Ba La Mật ?

Đáp : Như Phật nói : “Do chẳng phá hoại các pháp tướng mà Bồ Tát chẳng có phân biệt bố thí với xan tham, dẫn đến như pháp tánh thật tế trong ba cõi cũng chẳng có phân biệt”. Vì sao ? Vì hết thảy các pháp đều là tự tánh không, đều là như mộng, như huyễn, nên Bồ Tát chẳng có đắm chấp các pháp. Bồ Tát chẳng vì pháp hữu vi mà vẫn hiện hành pháp hữu vi. Bồ Tát hành pháp hữu vi mà tâm chẳng chấp đắm, dẫn đến hành Bát Nhã Ba La Mật, hành như pháp tánh thật tế cũng như vậy. Vì hạng Bồ Tát này mà kinh nói ; “Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, dùng các phương tiện hành các sự việc, mà tâm chẳng hề chấp các sự việc ấy”.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phải vì như ý thần thông mà hành Bát Nhã Ba La Mật; chẳng phải vì thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông mà hành Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao ? Vì khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng thấy Bát Nhã Ba La Mật, huống nữa là thấy các thần thông.

Bồ Tát Ma Ha Tát, phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Trước đã nói về Thiền Na Ba La Mật và năm thần thông rồi. Sao nay còn nói thêm nữa.

Đáp : Trước đây nói về tổng tướng. Nay nói về biệt tướng. Ở nơi biệt tướng, thì có các công đức quả báo.

Bồ Tát có năm thần thông mới làm được nhiều việc lợi ích cho chúng sanh. Cho nên, dù có tâm từ bi, dù có hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng có được năm thần thông, thì cũng như chim thiếu mất một cánh, chẳng có thể bay xa được; lại cũng ví như cây không sanh được quả, thì cũng chẳng có lợi ích nhiều.

Lại nữa, Bồ Tát có đủ năm thần thông, thì ở trong vô lượng Phật pháp, mới chẳng có lỗi lầm.

Hỏi : Vì sao Phật lại nói “Bồ Tát chẳng phải vì năm thần thông mà hành Bát Nhã Ba La Mật” ?

Đáp : Có nhiều Bồ Tát tu được năm thần thông rồi, mà do thiếu các lực phương tiện, nên khởi tâm kiêu man, khinh khi các Bồ Tát khác. Phật, vì hạng Bồ Tát này mà nói như trên. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật, Bồ Tát, ở nơi Bát Nhã Ba La Mật chẳng còn chấp, huống nữa là chấp năm thần thông.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng dấy niệm rằng ta dùng như ý thần thông bay khắp mười phương để cúng dường chư Phật; ta dùng thiên nhĩ thong để nghe chư Phật ở khắp mười phương thuyết pháp; ta dùng tha tâm thông để biết tâm niệm của chúng sanh trong hằng sa thế giới ở khắp mười phương; ta dùng túc mạng thông để biết việc làm của chúng sanh trong hằng sa thế giới ở khắp mười phương; ta dùng thiên nhãn thông để biết chúng sanh trong hằng sa thế giới ở khắp mười phương chết đây, sanh kia.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Trước đây nói về năm thần thông. Nay nói về công dụng của thần thông.

Hỏi : Vì sao Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng mình đã dùng năm thần thông?

Đáp : Vì Bồ Tát đã xả bỏ chấp ngã, đã được trí căn bản, đã phá sạch kiêu mạn, đã khéo tu các giải thoát môn và các tam muội. Nên biết Phật cũng do nơi ba giải thoát môn mà có được Phật thân vi diệu. Ví như vàng ròng vào lửa sáng chói lê, mà người đứng bên ngoài nhìn thấy dịu sắc, mà chẳng sao dùng tay nắm bắt được.

Lại nữa, hết thảy các pháp đều như huyễn, như hóa, chẳng có gần, chẳng có xa,… chẳng có tướng nhất định. Ví như nhà huyễn thuật, hóa tác ra các huyễn vật lừa dối mắt người xem, khiến họ thấy có các tướng lớn, nhỏ, xa, gần… sai khác vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thường ở trước Phật, thường an trú trong định, nên có thể, ngay trong một niệm, biến thành vô lượng thân, đi khắp cả mười phương để cúng dường chư Phật. Vì sao ? Vì Bồ Tát đã đoạn các pháp ái, đã đầy đủ năm thần thông, đã có đại thần lực, nguyện ở trong ba đường ác, khắp độ chúng sanh.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, nên các ác ma chẳng có chỗ tiện để gây tác hại, chẳng dám đến gần để quấy nhiễu. Do vậy mà Bồ Tát thành tựu được hết thảy các sự việc lợi ích cho thế gian theo như ý muốn. Bồ Tát được chư Phật trong khắp mười phương thường ủng hộ khiến chẳng rơi về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa. Bồ Tát lại được các pháp như ý nguyện. Dù ở đời trước đã có phạm trọng tội, thì ở đời nay Bồ Tát cũng chỉ thọ quả báo nhẹ mà thôi. Vì sao ? Vì Bồ Tát trải lòng từ bi rộng lớn làm lợi ích cho chúng sanh.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Trên đây nói lên sự tán thán Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật được đại công đức. Các quả báo này đều là quả báo công đức của trí huệ cả.

Hỏi : Ma là chủ ở cõi Dục. Bồ Tát hãy còn nhục thân, sao lại chẳng bị ma quấy phá ?

Đáp : Do Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, nên được chư Phật thường hộ niệm, được chư Thiên thường phò trợ; lại thường hành bất khả đắc không, nên chẳng còn đắm trước nơi hết thảy các pháp. Bởi vậy nên các ác ma chẳng có chỗ tiện để gây tác hại nữa. Ví như người có thân hình lành mạnh, thì các độc trùng thì chẳng có chỗ tiện để xâm nhập vào da thịt được.

Lại nữa, vì Bồ Tát chẳng có đắm trước các ma sự; vì đối với các ác ma chẳng có hề khởi sân hận, khiến các ác ma chẳng có được chỗ tiện để gây tác hại.

Lại nữa, vì Bồ Tát đã thâm nhập Nhẫn Nhục Ba La Mật, đã có từ tâm tam muội, nên thường chẳng gặp các ách nạn, như nạn nước, nạn lửa, nạn đao binh, v.v…

Khi Bồ Tát làm các sự việc, như trồng rau, đậu, trồng cây ăn quả, làm nhà, đào giếng, v.v… đều được như ý nguyện. Khi Bồ Tát muốn lập chùa, muốn thuyết pháp độ sanh v.v… cũng đều được như ý nguyện. Hết thảy các sự việc ở thế gian, Bồ Tát đều như pháp hành, nên đều được như ý nguyện. Vì sao ? Vì Bồ Tát, trải qua vô lượng kiếp, đã tu tập vô lượng công đức trí huệ; lại vì thường thật hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng còn đắm trước hết thảy pháp. Do chẳng sanh tâm đắm trước, nên các kiết sử mỏng dần, thiện căn càng thêm tăng trưởng, thâm hậu hơn lên. Do được thiện căn thâm hậu, nên nguyện gì cũng đều được thành tựu như ý.

Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật được chư Thiên tán thán, cung kính, được các hàng Long Vương, quỷ thần xưng dương, tán thán và giúp đỡ, khiến Bồ Tát thành tựu được mọi sự việc ở thế gian như ý nguyện.

Lại nữa, Bồ Tát còn được chư Phật ở khắp mười phương thường hộ niệm, nên được oai đức như ý nguyện vậy.

Hỏi : Trước đây nói tâm Phật bình đẳng. Nay vì sao lại thiên vị, hộ niệm các Bồ Tát ?

Đáp : Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mà có công đức trí huệ tương ưng với đại tâm của chư Phật. Tuy tâm Phật bình đẳng nhưng vì Bồ Tát đã có được khí phần trí huệ của Phật, đã được tương ưng với chư Phật, nên được chư Phật ứng niệm để khuyến tấn trong việc hành đạo.

Lại nữa, Phật hộ niêm Bồ Tát vì chẳng muốn Bồ Tát thối tâm, rơi về Thanh Văn địa. Vì sao ? Vì phải vào được ba giải thoát môn Không, Vô Tướng và Vô Tác mới thường niệm Phật, thường hành các Phật sự. Do vậy mà được chư Phật thường hộ niệm, khiến tâm trở nên kiên cố, chẳng còn thối chuyển nữa. Ví như trứng cá, nếu chẳng được cá mẹ nhớ nghĩ, che chở thì chẳng nở được vậy.

Lại nữa, Bồ Tát khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng có chấp đắm dục lạc ở thế gian, mà chỉ muốn giáo hóa chúng sanh nên được chúng sanh tôn quý, được chư Thiên phò trợ.

Lại nữa, Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, vào được thật trí huệ, vào được Phật chúng, lại dùng tâm từ bi hành đại bố thí, nên dù đời trước có phạm trọng tội phải đọa địa ngục, thì đời nay nhờ oai đức đó chỉ thọ quả báo tội nhẹ mà thôi. Ví như vị Thái tử dù phạm trọng tội, cũng chỉ chịu hình phạt nhe, vì thuộc về dòng giống nhà vua (vương chủng) vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, được thật trí huệ, được tâm rỗng lặng nên chẳng còn chìm đắm trong bể khổ sanh tử. Trái lại, phàm phu do kiết sử nặng nê, khó thoát ra khỏi ngục tù ba cõi. Ví như cái bình thiếc rỗng ruột nổi trên mặt nước, trong lúc đó cái bình đặc ruột phải bị chìm sâu xuống đáy nước.

Trong đoạn kinh trên đây Phật nói rõ về nhân duyên Bồ Tát được năm công đức, vì Bồ Tát trải lòng từ bi rộng lớn làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.

Hỏi : Thật hành Bát Nhã Ba La Mật là đã có đầy đủ năm công đức rồi. Nay vì sao lại nói Bồ Tát do trải lòng từ bi rộng lớn làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà thành tựu được năm công đức ?

Đáp : Tâm từ bi là nhân sanh ra Bát Nhã Ba La Mật. Do phát nguyện trải lòng từ bi rộng lớn độ thoát hết thảy chúng sanh, mà Bồ Tát thành tựu được năm công đức như đã nêu. Đó là :

– Chẳng còn bị ác ma gây tác hại.

– Thành tựu được các việc lợi ích ở thế gian.

– Được chư Phật thường hộ niệm.

– Được chư Thiên thường phò trợ.

– Các trọng tội đời trước được chuyển thành khinh tội.

Lại nữa, khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát thường khởi hai duyên. Đó là :

– Duyên chúng sanh.

– Duyên pháp.

Khi duyên chúng sanh thì Bồ Tát khởi tâm từ bi. Khi duyên pháp thì Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Do khởi tâm từ bi nên Bồ Tát theo Bát Nhã Ba La Mật sanh và hành theo Bát Nhã Ba La Mật.

KINH:

Này Xá Lợi Phất! Do thật hành Bát Nhã Ba La Mật nên Bồ Tát Ma Ha Tát mau được các môn đà la ni và các môn tam muội, sanh về đâu cũng thường gặp Phật pháp, mãi cho đến khi chứng quả Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng bao giờ rời chư Phật.

LUẬN:

Bồ  Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật mà được các phước đức nhân duyên, được đầy đủ các môn đà la ni và các môn tam muội. Cũng do thật hành Bát Nhã Ba La Mật mà Bồ Tát được tâm minh liễu. Bởi vậy nên sanh về đâu, Bồ Tát cũng thường được gặp Phật, thường được nghe pháp.

Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật. Bồ Tát do thật hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng chấp hết thảy pháp. Nhờ vậy mà sanh về đâu  cũng thường được gặp Phật, nghe pháp. VÍ như người đời này ưa đấu tranh thì đời sau sẽ sanh về chốn địa ngục, hay các nơi có nạn binh đao, giết chóc, người đời này nhiều sân nhuế, thì đời sau sẽ sanh vào rắn độc, ác trùng, người đời này ngu si thì đời sau sẽ sanh là loài phù du hay làm côn trùng ở dưới đất. Còn như Bồ Tát do lòng ái kính Phật, do thường niệm Phật, tướng Bát Nhã, do thường tụ tập các môn đà la ni và các môn tam muội, nên sanh về đâu cũng đều được thấy Phật, được nghe pháp. Lại nữa, do phất đại nguyện đời đời được thấy Phật, nên chẳng bao giờ rời Phật.

Trong kinh có chép nhiều mẫu chuyện về người tuy ở ngay trong đời có Phật, mà chẳng thấy được Phật.

Ví như đời Phật Tỳ Bà Thi, có một ông Bà La Môn,tuy thấy Phật và chúng Tỷ kheo mà chẳng muốn nghe Phật pháp. Ông Bà La Môn này lại còn mắng nhiếc Phật và chúng Tỷ Kheo, nên sau khi mạng chung phải đọa làm súc sanh trong suốt 91 kiếp.

–o0o–

Lại nữa, do thâm niệm chư Phật, do khóe tu các đà ka ni và các tam muội, nên đời đời chẳng  mất tâm Bồ Đề, laijdo thường nguyện chẳng rời Phật, nên đời đời được gặp Phật, nghe pháp, tương tục từ đời này sang đời khác, mãi cho đến khi chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.

Hỏi: Như vậy là quả báo. Sao lại nói là do tương ưng với Bát Nhã Ba La mật mà được như vậy?

Đáp: Do tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật mã được gặp Phật. Đây là ở trong quả báo mà nói đến nhân.

Có 2 trường hợp tương ưng. Đó là:

– Tâm tương ưng

– Pháp tương ưng.

Do hành đạo Bồ Tát, Mà Bồ Tát được sanh về xứ tốt, được gặp Phật, được nghe pháp, được chánh niệm, nên gọi là tương ưng.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng dấy niệm nghĩ rằng có pháp cùng pháp hợp, hay chẳng hợp, bình đẳng, hay chẳng bình đẳng. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy có pháp này cùng pháp khác hợp, hay chẳng hợp; chẳng thấy có pháp này cùng pháp khác bình đẳng, hay chẳng bình đẳng. Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Đoạn kinh trên đây cho thấy rằng ở nơi hết thảy pháp, chẳng có cùng pháp cộng hợp.

Hỏi : Các pháp cũng có ít phần hợp với nhau, như khi áp sát hai ngón tay vào nhau, thì trong bốn phương đã có một phương hợp, sao lại nói chẳng có hợp ?

Đáp : Khi đặt hai ngón tay sát vào nhau, thì chỉ có ít phần hợp; trong bốn phương chỉ có một phương hợp, còn ba phương khác chẳng có hợp. Như vậy chỉ là giả hợp, chẳng thể gọi là hợp được.

Lại nữa, dù nhiều vật cùng được đặt vào một chỗ, dù nhiều chất cùng được hòa trộn với nhau, cũng chẳng có thể gọi là hợp. Vì sao ? Vì các vật, các chất ấy đều mỗi mỗi sai khác nhau. Bởi vậy nên nói các phải chẳng phải có hợp, cũng chẳng phải chẳng có hợp.

Hỏi : Tất cả các chất lỏng đều có tướng ướt, các chất rắn đều có tướng cứng v.v… Như vậy là pháp cùng pháp có bình đẳng. Sao lại nói chẳng có bình đẳng ?

Đáp : Các pháp, nếu có tướng dụng không sai khác nhau, thì có thể gọi là bình đẳng. Ví như tất cả các chất lỏng đều có tướng ướt, nên cùng với nước bình đẳng. Các pháp được xếp thành loại có tướng chung, như : tướng sắc, tướng vô sắc, tướng cứng, tướng ướt, tướng di động v.v… Xét về mặt tướng chung, thì các pháp thuộc về mỗi loại bình đẳng với nhau.

Lại nữa, hết thảy pháp đều chỉ là một tướng (nhất tướng), đều là chẳng có tướng (vô tướng), nên đều là bình đẳng với nhau. Thế nhưng nếu đã dấy tâm chấp tướng thì thấy có những tướng sai khác, khiến chẳng còn thấy các pháp bình đẳng với nhau nữa.

Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng thấy các pháp bình đẳng, hay chẳng bình đẳng. Vì sao ? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là tự tánh “không”. Vì là tự tánh “không” nên là chẳng phải pháp, tức vô pháp. Vì là vô pháp nên là chẳng thể thấy được, tức là bất khả kiến. Vì là bất khả kiến nên chẳng phải bình đẳng cũng chẳng phải chẳng bình đẳng vậy.

Nếu bình đẳng và chẳng bình đẳng hòa hợp thì mới là tương ưng. Nếu chẳng hòa hợp thì chẳng có tương ưng.

Hỏi : Trước đây chỉ tán thán Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao nay lại nói thêm về tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật ?

Đáp : Vì người nghe pháp thường sanh tâm nhàm chán, nên Phật phương tiện nói pháp theo nhiều giai đoạn :

– Trước hết, Phật tán thán công đức của Bát Nhã Ba La Mật để người nghe sanh tâm hoan hỷ, dẫn đến tín thọ Bát Nhã Ba La Mật.

– Sau đó Phật mới nói đến hành tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng dấy niệm nghĩ rằng ta sẽ mau chóng vào được pháp tánh, hay ta sẽ chẳng vào được pháp tánh. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy pháp tánh là tánh có thể được (khả đắc) vậy.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy mới gọi được là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Pháp tánh cũng tức là thật tướng pháp.

Khi đã trừ được hết các kiết sử, đã phá tan được màn vô minh, mê ám, thì tâm trở nên thanh tịnh. Lúc bấy giờ, hành giả thật quán được bản tánh thanh tịnh của các pháp. Như vậy là vào được pháp tánh.

Pháp tánh vốn chân thật. Chúng sanh do tà quán mà bị các tà kiến trói buộc. Nếu tỉnh ngộ, hành chánh quán, thì sẽ được giải thoát.

Bồ Tát thật hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng dấy niệm nghĩ rằng ta sẽ mau được pháp tánh hay ta sẽ chẳng vào được pháp tánh. Vì sao ? Vì Bồ Tát biết rõ pháp tánh là vô tướng, chẳng có xa gần nên chẳng có sự việc mau được hay lâu được, hay chẳng được pháp tánh. Pháp tánh là thật tế, là như như, chẳng có thể được vậy.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy có pháp nào xuất sanh từ pháp tánh, chẳng thấy có pháp nào ở ngoài pháp tánh, cũng chẳng thấy pháp tánh khác với các pháp.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Do vô minh che tâm mà chẳng thấy được tự tánh thanh tịnh của các pháp. Do vì chẳng thấy rõ tự tánh của các pháp mà khởi sanh các tà kiến, cho rằng các pháp xuất sanh từ pháp tánh, hoặc cho rằng các pháp ở ngoài pháp tánh, hoặc cho rằng pháp tánh khác với các pháp. Các bậc Thánh do đã dứt trừ được vô minh, nên vào được thật tướng pháp, rõ biết ở nơi thật tướng thì hết thảy pháp đều là vô tướng là nhất tướng.

Ví như mặt trời bị mây che khuất, khiến chẳng chiếu ánh sáng được. Khi mây tan biến rồi, thì mặt trời lại chiếu sáng trở lại như trước. Vì sao ? Vì do mây che lấp mà hư không đã mất đi tánh trong suốt. Khi mây đã tan biến rồi thì tánh trong suốt của hư không lại hiện ra như cũ.

Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào xuất sanh từ vô minh, chẳng có pháp nào xuất sanh từ pháp tánh, chẳng thấy có pháp nào ngoài pháp tánh, cũng chẳng thấy có pháp nào khác với tánh cả.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng dấy niệm y nơi pháp tánh để phân biệt các pháp.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Thế nào là chẳng dấy niệm y nơi pháp tánh để phân biệt các pháp?

Đáp : Dấy niệm y nơi pháp tánh có nghĩa là chấp pháp tánh. Thế nhưng chấp pháp tánh, quý pháp tánh cũng duyên sanh ra các kiết sử. Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng dấy niệm y nơi pháp tánh để phân biệt các pháp.

Hỏi : Pháp tánh là “không”, là nhất tướng, là vô tướng. Như vậy làm thế nào mà có thể y nơi pháp tánh để phân biệt các pháp ?

Đáp : Pháp tanh diệt được vô minh, tận trừ các kiết sử phiền não, phá được các pháp tướng. Nhờ vậy mà tâm trở nên thanh tịnh, trí huệ trở nên sáng suốt, khiến có thể phân biệt được các pháp.

– Tùy pháp tánh hành là hành thiện pháp.

– Chẳng tùy pháp tánh hành là hành bất thiện pháp.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây :

Có một vị Phạm Chí đến hỏi Phật : “Bạch Thế Tôn ! Ở trong trời đất cũng có thiện, có ác, có tốt, có xấu… chăng ?

Phật dạy : “Đúng như vậy !”.

Vị Phạm Chí thưa “Nguyện xin Thế Tôn vì tôi nói pháp.

Phật dạy : “Có ba việc ác, ba việc thiện gồm : Tham dục là ác, trừ tham dục là thiện, sân nhuế là ác, trừ sân nhuế là thiện, ngu si là ác, trừ ngu si là thiện.

Lại có mười việc ác, mười việc thiện gồm : Sát sanh là ác, không sát sanh là thiện, trộm cướp là ác, không trộm cướp là thiện, tà dâm là ác, không tà dâm là thiện, vọng ngữ là ác, không vọng ngữ là thiện, ỷ ngữ là ác, không ỷ ngữ là thiện, lưỡng thiệt là ác, không lưỡng thiệt là thiện, ác khẩu là ác, không ác khẩu là thiện, tham là ác, không tham là thiện, sân là ác, không sân là thiện, si là ác, không si là thiện.

Dẫn đến có vô số việc ác, vô số việc thiện.

Các đệ tử của ta, do như thật phân biệt thiện ác mà vào được pháp tánh, mà được đạo vậy”.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng dấy niệm nghĩ rằng tu pháp này sẽ được pháp tánh hay sẽ chẳng được pháp tánh. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy dùng pháp này sẽ được pháp tánh, hay sẽ chẳng được pháp tánh.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là cùng Bát Nhã Ba La Mật tương ưng.

LUẬN :

Hỏi : Thế nào gọi là được pháp tánh ?

Đáp : Thật hành theo đúng Bát Thánh Đạo, vào được nơi thật tướng pháp, vào được Niết Bàn gọi là được pháp tánh.

Pháp tánh là thật tướng pháp, là Bát Nhã Ba La Mật. Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, chẳng dấy niệm có thật hành Bát Nhã Ba La Mật, mới gọi là được pháp tánh. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật và pháp tánh, tuy hai mà chẳng khác. Bát Nhã Ba La Mật và pháp tánh đều là rốt ráo không.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy pháp tánh hợp với không, chẳng thấy không hợp với pháp tánh.

Bồ Tát Ma Ha Tát phải tu tập đúng như vậy, mới được gọi là tương ưng Bát Nhã Ba La Mật.

LUẬN :

Bồ Tát chẳng quán pháp tánh là không, cũng chẳng quán không là pháp tánh. Vì sao ? Vì hành “không” tức là được pháp tánh, duyên pháp tánh thì mới được “không’. Pháp tánh và “không” chẳng khác nhau. Cả hai đều là rốt ráo không cả.

KINH :

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn giới hợp với không, không hợp với nhãn giới, chẳng thấy sắc giới hợp với không, không hợp với sắc giới, chẳng thấy nhãn thức giới hợp với không, không hợp với nhãn thức giới, dẫn đến chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới hợp với không, chẳng thấy không hợp với ý giới, với pháp giới, với ý thức giới. Tương ưng “không” như vậy gọi là tương ưng đệ nhất.

LUẬN :

Nhãn giới chẳng cùng hợp với không và không chẳng cùng hợp với nhãn giới. Vì sao ? Vì nhãn giới là hữu, mà không là vô. Có (hữu) chẳng phải là không (vô), và nghịch lại không (vô) chẳng phải là có (hữu). Bởi vậy hữu và vô chẳng có hợp với nhau được.

Lại nữa, Bồ Tát biết rõ các pháp tướng đều là tán hoại. Hết thảy các pháp đều tự tướng không, đều chỉ có nơi danh, nơi tướng, đều chẳng thật có, đều chẳng nên chấp đắm. Dẫn đến tự tướng không đó cũng chẳng nên chấp, vì “không” cũng là bất khả đắc. Cho nên nói “nhãn giới không” chẳng phải là “nhãn giới không”. Như vậy mới thật là “nhãn giới không”.

Nhãn giới và không chẳng cùng nhau tương hợp, vì cả hai đều là tự tướng không, đều là bất khả đắc cả.

Dẫn đến sắc giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng chẳng cùng với không tương hợp. Tất cả đều là tự tướng không, đều là bất khả đắc cả.

Hỏi : Vì sao ở đoạn kinh trên đây chẳng có nói đến ngũ ấm và chỉ nói đến thập bát giới mà thôi ?

Đáp : Nói về thập bát giới là đã tóm gọn đầy đủ hết thảy các pháp rồi.

Có hạng người ở tâm và sắc, còn có lầm chấp về các sắc pháp. Lại có hạng người ở nơi tâm và sắc chẳng còn có lầm chấp về các sắc pháp. Đối với hạng người sau, khi nghe đoạn kinh trên đây nói về thập bát giới là liền được ngộ.

Hỏi : Thế nào gọi là tương ưng đệ nhất ?

Đáp : Nghĩa “không” là thâm áo tạng của chư Phật khắp trong mười phương. Đây là cửa duy nhất dẫn thẳng đến Niết Bàn Bồ Tát, chẳng có cửa nào khác.

Lại nữa, tương ưng “không” mới có công năng phá sạch các tà kiến, hý luận.

Bởi vậy nên “tương ưng không” là chẳng thể hoại, chẳng thể phá, là “tương ưng đệ nhất” vậy.

KINH :

Lúc bấy giờ, Phật khi thị các nhân duyên hành đệ nhất “không”.

Phật dạy : “Này Xá Lợi Phất  ! Bồ Tát Ma Ha Tát hành đệ nhất không chẳng đọa về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, thường tịnh Phật quốc độ, giáo hóa chúng sanh, mau được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Xá Lợi Phất ! Trong các pháp tương ưng thì Bát Nhã Ba La Mật là pháp đệ nhất, pháp tối diệu, chẳng có pháp nào bì kịp. Vì sao ? Vì Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba La Mật là tương ưng với không, vô tướng và vô tác. Phải nên biết rằng Bồ Tát này đã được thọ ký hay đã gần được thọ ký.

Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát tu tập tương ưng như vậy, hay làm lợi ích cho chúng sanh mà chẳng dấy niệm nghĩ rằng ta cùng với Bát Nhã Ba La Mật tương ưng, chư Phật sẽ thọ ký cho ta, hay ta gần được thọ ký, hay ta sẽ tịnh Phật quốc độ, hay ta sẽ được Vô Thượng Bồ Đề và sẽ chuyển pháp luân. Vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào ra ngoài pháp tánh, chẳng thấy có pháp nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy có pháp nào gọi là được cho Phật thọ ký, chẳng thấy có pháp nào gọi là Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có pháp nào gọi là chuyển pháp luân. Vì sao ? Vì chúng sanh là rốt ráo bất sanh, bất diệt, nên là chẳng có tướng sanh, tướng diệt. Nếu các pháp đã chẳng có tướng sanh, tướng diệt thì cũng chẳng có pháp nào gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật cả.

Này Xá Lợi Phất ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy có chúng sanh, nên cũng chẳng thấy có chúng sanh được độ. Vì sao? Vì chúng sanh là không, là bất khả đắc. Phải ly  tướng chúng sanh,mới thật là hành Bát Nhã Ba La Mật.

Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát trú nới đệ nhất tướng ứng. Trong các tương ứng thì đệ nhất tương ưng. Trong các tương ưng thì đệ nhất tương ưng là hơn hết. Vì sao ? Tương ưng mà chẳng ương ưng, mới là đệ nhất tương ưng.

Bồ Tát Ma Ha Tát tu tập tương ưng như vậy nên chẳng sanh tâm xan tham, chẳng sanh tâm phạm giới, chẳng sanh tâm sân nhuế,chẳng sanh tâm giải đãi, chẳng sang tâm loạn động, chẳng sanh tâm vô ký, chẳng sanh đọa về Nhị Thừa địa.

LUẬN :

Nói về tương ưng “không” có hai nghĩa. Đó là:

– Pháp không.

– Bất khả pháp không.

Bồ Tát hành pháp không thì chẳng đọa về Nhị Thừa địa.

Bồ Tát hành bất khả đắc không thì chẳng đọa về bất cứ cảnh giới nào.

Nếu xét về phương tiện, thì có hai trường hợp, đó là:

– Nếu chẳng tu phương tiện “không”, thì chẳng đọa về Nhị Thừa địa

– Nếu có tu phương tiện “không”, thì chẳng đọa về Nhị Thừa địa mà thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, xét về phương tiện còn có hai trường hợp nữa. Đó là:

– Nếu có tâm từ bi thì được vào cửa “không” , dẫn đến tịnh Phật quốc độ, chẳng đọa về Nhị Thừa địa.

– Nếu chẳng có tâm từ bi thì đọa về Nhị Thừa địa.

Bồ Tát trú trong tương ưng “không” , được vô chướng ngại,thường giáo hóa chúng sanh,dạy họ hành thập thiện nghiệp đạo,khiến cho quốc độ Phật được trang nghiệm thanh tịnh.

Hỏi : Giáo hóa chúng sanh là đã tịnh Phật quốc độ rồi. Như vậy vì sao nói có Bồ Tát thì quốc độ Phật mới được thanh tịnh trang nghiêm ?

Đáp : Nhờ có Bồ Tát phát đại nguyện giáo hóa chúng sanh, dạy họ hành thập thiện nghiệp đạo mà quốc độ Phật được thanh tịnh, trang nghiêm. Ví như phải nhờ có sức kéo của trâu mà cỗ xe mới lăn bánh, mới di chuyển được vậy.

Hỏi :  Trước chỉ nói trương ưng “không” .Sao nay nói hành Bát Nhã Ba La Mật tương ưng với không, vô tướng và vô tác ? Nói như vậy có mâu thuẫn chăng ?

Đáp :  Phải nên phân biệt:

– Bát Nhã Không

– Phi Bát Nhã Không

Trước nói về Bát Nhã Không. Vì có người nghe nói về pháp “không” lại khởi chấp tướng “không” , nên phải nói đến Bát Nhã Không. Dùng trí huệ Bát Nhã để thấy rõ hết các thảy pháp ở nơi thật tướng đều là không. Biết “không” mà chẳng nên chấp “không” mới là Bát Nhã Không.

Lại có người chấp rằng “không” là đệ nhất, còn “vô tướng” , “vô tác” cũng đều là đệ nhất cả. Vì sao ? Vì tướng “không”.”vô tướng”, “vô tác” chỉ là một,đều là tối tượng,là tôn quý vậy.

Hỏi : Vì sao nói vào được cửa “không” là được Phật thị ký?

Đáp : Khi mới hành đạo, Bồ Tát còn nhục thân. Lúc bấy giờ Bồ Tát chỉ mới có được lực trí huệ, chưa có được Vô Sanh Pháp Nhẫn, nên phải phân biệt thâm nghĩa của “không” rồi thì sẽ được Phật tán thán công đức, nên gọi là được Phật thọ ký vậy.

Nên phân biệt có ba hạng Bồ Tát được thọ ký. Đó là :

– Bồ Tát đã được thọ ký.

– Bồ Tát dắp được thọ ký.

– Bồ Tát trong đời vị lai lâu xa sẽ đoạn trừ sạch các kiết sử và sẽ được Phật thọ ký.

Hỏi : Bồ Tát đã được đệ nhất tương ưng rồi, sao chưa được Phật          thọ ký ?

Đáp : Nếu Bồ Tát tu các phương tiện trí huệ mà chưa được đầy đủ công đức, thì chưa được Phật thọ ký.

Lại nữa, có Bồ Tát lợi căn, khi nghe được thọ ký có thể sanh tâm kiêu mạn. Bởi vậy Phật phải tán thán công đức của các Bồ Tát, để khuyến tấn các vị ấy tu thuần thục cho đến khi được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bồ Tát lợi căn, khi đã được tương ưng “không” rồi, sẽ chẳng còn lay động nữa.

Các Bồ Tát độn căn, nếu tinh tấn hành Phật đạo cũng sẽ được Phật thọ ký, cũng sẽ được vào Niết Bàn an lạc.

Lại nữa, người thế gian thường chỉ cầu được hai điều lợi. Đó là :

– Lìa được khổ.

– Hưởng được vui.

Bồ Tát chẳng phải như vậy. Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sanh mà chẳng sanh tâm kiêu mạn, chẳng cầu được đền ơn đáp nghĩa, chỉ cầu được tịnh Phật quốc độ mà thôi.

Hỏi : Thế nào gọi là Xuất pháp tánh ?

Đáp : Nếu hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng thấy có hành, thì đó gọi là xuất pháp tánh. Trái lại, nếu hành Bát Nhã Ba La Mật mà còn thấy có hành thì đó là còn chúng sanh tánh.

Ở nơi pháp tánh, Bồ Tát quán chúng sanh đồng vớ pháp tánh, nên chẳng sanh cao tâm, chẳng cầu được đền ơn đáp nghĩa, chẳng thấy được thọ ký. VÌ sao ? Vì Phật, Bồ Tát,… đều là “không”. Bồ Tát hành “không” như vậy là được Vô Thượng Bồ Đề, mà VÔ Thượng Bồ Đề cũng là “không” vậy.

Phật dạy : Bồ Tát chẳng có khởi chấp tướng chúng sanh, vì biết tướng chúng sanh là rốt ráo bất sanh, bất diệt, là không, là bất khả đắc.

Như vậy nếu lìa được tướng chúng sanh thì cũng lìa được tất cả các sự tướng khác. Ví như lìa được tướng nóng thì cũng chẳng còn có tướng lửa nữa.

 Vì “tương ưng không” là đệ nhất. Là thắng diệu nên Bồ Tát trí ở nơi “không” mà khởi các bản nguyện lợi sanh của mình. Vì sao ? vì Bồ Tát thấy chúng sanh ở ngay nơi “không” mà diên đảo lầm chấp có chúng sanh, có pháp, tự tạo ra cho mình bao nhiêu kiết sử phiền não, để rồi phải thọ lãnh bao nhiêu nỗi khổi đau. Do thấy chúng sanh như vậy mà Bồ Tát khởi tâm đại từ bi, thương xót họ, phát đại nguyện cứu họ thoát khổ.

Lại nữa, Bồ Tát tu sáu pháp Ba La Mật, biết rõ hết thảy pháp đều là vô thường, nên chẳng chấp đắm tài vật và thân mạng, thường bố thí, làm lợi lạc cho chúng sanh. Bố thí thanh tịnh như vậy là tương ưng với hành “không” vậy.

Hỏi : Nếu chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có thế gian, thì cũng chẳng có bố thí. Như vậy Bồ Tát làm sao hành bố thí được ?

Đáp : Vì chúng sanh cần, nên Bồ Tát hành bố thí. Khi hành bố thí, Bồ Tát chẳng có trụ chấp nơi bố thí.

Bồ Tát hành bố thí với tâm thanh tịnh, với tâm “không”, nên được tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật.

(Hết quyển 37)