LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 32

 Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 4

Đã biện về hướng quả thứ ba có sai biệt. Tiếp theo nên kiến lập hướng quả thứ tư.

Tụng nêu:

Trong tu Hoặc cõi trên

Đoạn một phẩm định một

Đến tám phẩm Hữu đảnh

Đều hướng A-la-hán.

Đạo vô gián thứ chín

Gọi định kim cang dụ

Tận đắc cùng tận trí

Thành ứng quả vô học.

Luận nói: Tức người Bất hoàn tiến đến đoạn trừ Hoặc của cõi sắc và vô sắc do tu đạo đoạn.

Từ đoạn một phẩm của định thứ nhất là đầu, đến đoạn tám phẩm của xứ Hữu đảnh là sau, nên biết chuyển gọi là hướng A-lahán. Tức ở đây đã nói trong hướng A-la-hán đạo vô gián thứ chín đã đoạn Hoặc của xứ Hữu đảnh, cũng gọi là định kim cương dụ. Định này cứng chắc, sắc bén, dụ như kim cương, vì không một tùy miên nào mà không thể phá trừ. Vì trước đã phá trừ, nên không phá trừ tất cả, thật sự thì có công năng có thể phá trừ tất cả. Tuy trong kiến đạo cũng có công năng đoạn trừ. Phiền não của xứ Hữu đảnh thì do vô lậu đối trị. Nhưng Hoặc do kiến đạo đoạn chỉ có thể là một phẩm. Đoạn tức khắc chín phẩm thì uy lực yếu kém. Lại, vì Hoặc vô sự thì dễ có thể đoạn dứt, nên công năng đối trị không lập danh xưng kim cương dụ.

Trong đây đã nêu rõ về định kim cương dụ có thể đối trị tất cả phẩm hết sức vi tế sau cùng rất khó đoạn trong Hoặc hữu sự. Nên biết có khả năng phá trừ tất cả tùy miên. Do sức này có thể trong khoảnh khắc một sát-na chứng đắc tất cả Hoặc được đoạn trừ, đắc vô lậu ly hệ.

Như thế là đã nói về định kim cương dụ, chỉ cùng với sáu trí tùy theo một tương ưng. Nghĩa là bốn loại trí và diệt, đạo pháp trí, duyên nơi mười sáu hành tướng của bốn Thánh đế, dựa chung nơi chín địa, nghĩa căn cứ theo đấy là đã thành, nên sự sai biệt này nói có nhiều thứ. Lại, vị chí gồm thâu có năm mươi hai. Nghĩa là khổ tập loại trí, quán khổ, tập của xứ Hữu đảnh tạo ra các hành tướng như vô thường v.v… như nhân v.v… Cùng với hành tướng kia tương ưng có sai biệt thành tám. Diệt đạo pháp trí quán diệt, đạo của cõi dục, tạo ra các hành tướng như diệt, tĩnh v.v… như đạo v.v…

Cùng với hành tướng kia tương ưng, sai biệt cũng thành tám.

Diệt loại trí đối với diệt của tám địa, mỗi mỗi quán riêng, tạo ra bốn hành tướng, cùng với hành tướng kia tương ưng, thành ba mươi hai. Đạo loại trí đối với đạo của tám địa, tất cả quán chung tạo ra bốn hành tướng. Cùng với hành tướng kia tương ưng có sai biệt thành bốn. Do đạo của phẩm loại trí đối trị tám địa, đồng loại cùng làm nhân, tất là duyên chung. Diệt chỉ duyên riêng. Đạo thì không như vậy. Đối với phẩm tùy miên đã thành lập đủ. Như định vị chí gồm thâu có năm mươi hai, thì tĩnh lự trung gian, bốn tĩnh lự căn bản nên biết cũng như vậy.

Không vô biên xứ có hai mươi tám. Nghĩa là trừ diệt đạo, phẩm pháp trí tám và trừ quán diệt đế của bốn địa dưới, đều có bốn hành tướng, tương ưng là mười sáu. Vì dựa vào vô sắc, tất không có pháp trí, và vì duyên nơi phẩm diệt loại trí của địa dưới, duyên nơi đạo của địa dưới, về lý là không có ngăn chận. Đạo tất duyên chung như trước đã giải thích. Số còn lại thì như trước, nên có hai mươi tám.

Thức vô biên xứ có hai mươi bốn. Vô sở hữu xứ chỉ có hai mươi. Nghĩa là các xứ ấy đối với trước lại trừ quán bốn, tám hành tướng của cảnh diệt Thánh đế thuộc địa dưới, tùy theo thứ lớp đó, căn cứ như trước, nên giải thích. Có các vị muốn khiến địa của ba vô sắc có duyên nơi diệt loại trí của địa dưới, vị ấy nói thế này: Không vô biên xứ thêm mười sáu so với trước. Thức vô biên xứ thêm hai mươi so với trước. Vô sở hữu xứ thêm hai mươi bốn.

Như thế nói chung dựa nơi địa của cõi vô sắc, định kim cương dụ có bảy mươi hai thứ. Hoặc lại nói có một trăm ba mươi hai.

Có Sư khác cho: Phẩm đạo loại trí đối với đạo của tám địa cũng đều quán riêng, nên sáu địa trước, mỗi địa đều có tám mươi. Không vô biên xứ chỉ có bốn mươi. Thức vô biên xứ có ba mươi hai. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn. Lại có người muốn khiến phẩm diệt loại trí, đối với diệt của tám địa, là có quán riêng, chung, nên trong sáu địa trước, mỗi địa đều có một trăm sáu mươi bốn. Không vô biên xứ chỉ có năm mươi hai. Thức vô biên xứ có ba mươi sáu. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn.

Các thuyết kia đều cùng phi lý. Vì đạo tất duyên chung, diệt thì chỉ duyên riêng, vì nhân có, không có. Tôn giả Diệu Âm nói như thế này: Định kim cương dụ gồm có mười ba. Nghĩa là đoạn trừ Hoặc của xứ Hữu đảnh do kiến đạo, tu đạo đoạn, thì đạo vô gián gồm thâu mười ba sát-na. Điều này cũng không hợp lý. Do tám đạo vô gián trước của bốn loại nhẫn đều không phải là phẩm cực thượng. Định này đã có thể đoạn trừ Hoặc của phẩm thứ chín nơi địa của xứ Hữu đảnh, có thể dẫn Hoặc ấy đều được cùng hành. Tận trí khiến khởi định kim cương dụ, là đạo vô gián sau cùng trong sự việc đoạn trừ Hoặc đã sinh tận trí. Là đạo giải thoát sau cùng trong sự việc đoạn trừ Hoặc. Nên nói định này đã dẫn sinh trí cùng với phẩm thứ chín đều được cùng khởi. Nói hoặc tận này là nhằm làm rõ về tất cả tận. Nghĩa là Hoặc của phẩm thứ chín và Hoặc còn lại đều được trạch diệt, nên gọi là tận. Định kim cương dụ có thể dẫn các Hoặc đều được cùng hành nơi tận trí khiến khởi. Trí này cùng với tất cả phiền não tận đắc. Đầu tiên đều cùng sinh nên gọi là tận trí.

Có Sư khác nêu: Trong thân Hoặc dứt hết thì trí này sinh đầu tiên, nên gọi là tận trí.

Tận trí như thế, đến khi đã sinh, liền thành quả A-la-hán vô học. Vì đã được pháp của ứng quả vô học, tức được quả riêng đã nên tu học. Vì quả này không còn có tu học, nên được danh xưng vô học.

Há không phải là vô học cũng mong đạt được quả riêng, do người vô học cũng chuyển căn?

Vấn nạn này là không đúng. Vì như hữu học trước là cầu được quả riêng, điều này không đúng, vì đã nói tận trí, đến khi đã sinh liền thành quả A-la-hán vô học. Về nghĩa căn cứ theo tận trí khi chưa sinh, đã sinh. Bảy Thánh giả trước đều gọi là hữu học, vì được quả riêng, siêng năng tu học, trụ nơi phần vị bản tánh.

Vì sao gọi là hữu học?

Vì ý học chưa đầy đủ, vì học được thường tùy thuận.

Vì sao vô học gọi là A-la-hán?

Vì các hành tự lợi tu học đã thành, chỉ nên hành tác các sự việc ích lợi cho người khác. Như Khế kinh nói: Không tự điều phục mà có thể điều phục người khác là không có điều ấy. Hoặc là tất cả hàng phàm phu, hữu học đều nên cúng dường, tức gọi là ứng quả.

Thế nào là pháp học?

Nghĩa là pháp hữu vi vô lậu của người hữu học.

Thế nào là pháp vô học?

Nghĩa là pháp hữu vi vô lậu của người vô học. Các pháp vô vi tuy là vô lậu, nhưng không gọi là pháp học, pháp vô học. Do người hữu đắc thì thân như phàm phu v.v… cũng thành tựu. Nếu người vô đắc thì đều không hệ thuộc nơi học, vô học.

Như thế, người hữu học và người vô học gồm chung thành tám Thánh Bổ-đặc-già-la. Vì hành hướng, trụ quả đều có bốn, nên danh tuy có tám, nhưng sự chỉ có năm. Nghĩa là trụ bốn quả và hướng của quả đầu. Do hướng của ba quả sau không lìa quả trước. Ở đây là dựa nơi người đắc quả lần lượt để nói. Nếu người lìa dục gấp bội, hoàn toàn lìa dục, trụ trong kiến đạo, gọi là Nhất lai hướng quả Bất hoàn, không phải thuộc về quả trước.

Tu đạo tức chung cho hữu lậu, vô lậu. Thế thì đạo nào có thể lìa nhiễm của địa nào?

Hai đạo hiện tiền lìa nhiễm của các địa.

Mỗi đạo đều dẫn bao nhiêu thứ ly hệ đắc?

Tụng nêu:

Hữu đảnh do vô lậu

Khác, do hai lìa nhiễm

Thánh hai lìa, tám tu

Đều hai ly hệ đắc.

Luận nói: Phiền não hiện có trong địa của xứ Hữu đảnh, chỉ đạo vô lậu là có thể khiến lìa vĩnh viễn. Đạo này đối với uy lực của hữu lậu thì tăng mạnh. Vì từ nơi địa v.v… trên, đều có khả năng đối trị, nên chỉ theo thứ lớp trong địa của cận phần trên, khởi đạo thế tục là có thể đối trị Hoặc của địa dưới. Hoặc của địa nơi xứ Hữu đảnh đã không có địa trên, nên không có hữu lậu có thể lìa nhiễm của địa kia. Các đạo thế tục không đối trị Hoặc của địa mình, là đối tượng tùy tăng của tùy miên nơi tự địa. Không đối trị Hoặc của địa trên, vì uy lực yếu kém. Phiền não hiện có trong tám địa còn lại chung do hai đạo có thể khiến lìa dứt vĩnh viễn. Vì đều có đạo thế tục của biên trên, vì đều có đạo vô lậu của tự địa và địa dưới. Thánh dùng hai đạo hữu lậu, vô lậu, khi lìa Hoặc của tám địa dưới do tu đạo đoạn đều dẫn sinh đủ hai ly hệ đắc. Hai thứ đạo hữu lậu, vô lậu đoạn trừ, ở trong tám địa thì đối tượng tạo tác là đồng. Do hữu học này đã lìa Hoặc của tám địa do tu đạo đoạn, thì đạo thế, xuất thế tùy một hiện tiền, đều ở vị lai tu đạo thế, xuất thế. Đây là theo tướng chung để nói. Do đạo vô lậu khi lìa tám phẩm Hoặc trước của bảy địa trên, không tu biên trên, vì đạo thế tục chỉ có một ly hệ đắc của vô lậu. Khi lìa Hoặc của phẩm thứ chín mới có thể đủ hai. Hoặc nên thừa nhận đạo đắc lìa mà tu. Hoặc khi nên đoạn nhiễm thì thừa nhận dựa nơi địa dưới tu địa trên.

Đã nói Thánh giả hai lìa tám tu đều có thể dẫn sinh hai ly hệ đắc. Căn cứ theo đấy để biết Thánh giả khi lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh do tu đạo đoạn và kiến đạo đoạn, dùng đạo vô lậu chỉ dẫn vô lậu, ly hệ đắc sinh, cũng không ở nơi vị lai tu đạo thế tục, vì so với đạo thế tục là không đồng sự. Phàm phu lìa tám, dùng đạo hữu lậu chỉ dẫn hữu lậu, ly hệ đắc sinh, cũng không ở nơi vị lai tu đạo vô lậu, vì chưa nhập Thánh, nên không nói tự thành.

Có Sư khác cho: Dùng đạo vô lậu khi lìa nhiễm của tám địa dưới do tu đạo đoạn, do đâu nhận biết cũng sinh ly hệ đắc của hữu lậu? Vì có xả bỏ phiền não của vô lậu đắc không thành. Nghĩa là Thánh hữu học khi dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của các địa kia, nếu không dẫn sinh ly hệ đắc của hữu lậu đồng đối trị, thì dùng Thánh đạo lìa đủ Hoặc của tám địa. Sau dựa vào tĩnh lự khi được chuyển căn, thì Thánh đạo xả bỏ tức khắc các thứ độn chậm từ trước đến nay.

Thánh đạo chỉ được quả lợi nhanh của tĩnh lự. Hoặc của địa trên ly hệ nên đều không thành. Đây tức trở lại nên thành phiền não kia. Nhưng vì không phải là điều đã thừa nhận nên đủ hai đắc.

Chứng cứ này là không hợp, vì không quyết định. Như khi phân ly xứ Hữu đảnh được chuyển căn và phàm phu sinh lên trên, vì Hoặc không thành, nên hai đạo này tuy không có đoạn phiền não đắc, nhưng vì thắng tấn, nên ngăn chận được Hoặc sinh. Pháp kia tức cũng như vậy, nên chứng cứ là phi lý.

Do đấy chỉ có thể nói như thế này: Hai đạo ở trong đó, đối tượng tạo tác là đồng, nên tùy theo một hiện khởi dẫn hai đắc sinh. Không thể nói là thành đoạn.

Đã biện về phần lìa nhiễm do đạo không đồng. Nay tiếp theo nên biện do địa sai biệt.

Do đạo của địa nào lìa nhiễm của địa nào?

Tụng nêu:

Đạo vị chí vô lậu

Hay lìa tất cả địa

Tám khác lìa tự trên

Hữu lậu lìa tiếp dưới.

Luận nói: Các đạo vô lậu dựa chung nơi chín địa. Nghĩa là bốn tĩnh lự, vị chí, trung gian và ba vô sắc. Nếu vị chí gồm thâu thì có thể lìa nhiễm của cõi dục, cho đến xứ Hữu đảnh. Tám địa khác gồm thâu thì tùy theo đối tượng ứng hợp ấy, đều có thể lìa nhiễm của tự địa và nhiễm của địa trên, không thể lìa nhiễm của địa dưới. Khi chưa lìa nhiễm của địa dưới, thì đạo của địa trên tất không hiện ở trước. Tất cả các đạo hữu lậu chỉ có thể lìa theo thứ lớp nhiễm của địa dưới. Không phải là tự địa cùng phiền não của tự địa đã tùy tăng. Vì uy lực yếu kém. Vì trước đã lìa. Các hành giả dựa nơi cận phần để lìa nhiễm của địa dưới, như đạo vô gián đều thuộc về cận phần.

Các đạo giải thoát cũng là cận phần chăng? Không nhất định. Vì sao?

Tụng nêu:

Cận phần lìa nhiễm dưới

Đầu ba, sau giải thoát

Căn bản hoặc cận phần

Địa trên chỉ căn bản.

Luận nói: Các đạo đã dựa nơi cận phần có tám. Nghĩa là bốn tĩnh lự. Biên dưới của vô sắc đã lìa có chín. Nghĩa là cõi dục, tám định. Cận phần của ba định đầu lìa nhiễm của ba địa dưới. Khi giải thoát thứ chín hiện ở trước, hoặc nhập căn bản, hoặc tức là cận phần. Cận phần của năm địa trên đều lìa nhiễm của địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện ở trước, tất nhập nơi căn bản, không phải tức là cận phần. Vì cận phần căn bản cùng xả căn. Vì cận phần của ba tĩnh lự căn bản dưới thì thọ căn khác nhau. Có khi không thể nhập thì chuyển nhập thọ khác, vì ít gian khó. Khi lìa nhiễm của địa dưới, tất vui thích địa trên. Nếu thọ không khác tất nhập căn bản.

Các đạo xuất thế như vô gián, giải thoát, trước đã nói duyên nơi mười sáu hành tướng thuộc cảnh của bốn đế, nghĩa căn cứ theo đấy là tự thành.

Đạo thế tục thì duyên nơi gì tạo ra hành tướng gì?

Tụng nêu:

Thế vô gián, giải thoát

Thứ lớp duyên dưới trên

Tạo hành thô, khổ, chướng

Và ba: tĩnh, diệu, ly.

Luận nói: Đạo thế tục, vô gián và giải thoát, như thứ lớp có thể duyên nơi địa dưới, địa trên, làm các hành thô khổ, chướng và tĩnh, diệu, ly. Nghĩa là các đạo vô gián duyên nơi các pháp hữu lậu của tự địa và địa dưới, tiếp theo tạo ra thô khổ v.v… thì trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng. Nếu các đạo giải thoát duyên nơi các pháp hữu lậu của địa trên tiếp theo tạo ra tĩnh, diệu v.v… thì trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng. Căn cứ theo chỗ cùng có để nói hai đạo đều có ba. Không phải các hữu tình đối với phần vị lìa nhiễm nơi đạo vô gián, giải thoát đều có đủ ba. Trong các địa dưới, do nhiều trạo cử, tịch tĩnh yếu kém, nên gọi là thô. Tuy rất khó nhọc mới tạm thời khiến cho thế dụng của trạo cử yếu kém, nhưng không thể dẫn sinh các thứ lạc mỹ diệu, nên gọi là khổ. Vì có rất nhiều thứ tai họa xâm hại, cản trở và có thể ngăn che khiến không có công năng thấy rõ nơi chốn xuất ly, nên gọi là chướng. Trong các địa trên, vì trạo cử yếu kém không tạo tác công dụng, nên gọi là tĩnh. Không phải khiến nhọc nhằn vất vả, vì trạo cử yếu kém. Vì dẫn sinh lạc thù thắng, nên gọi là diệu. Ở trong địa dưới các thứ tai họa xâm hại hiện có, tâm có thể quyết định thấy nhưng không sinh vui thích cùng có thể hướng đến chúng, nên gọi là ly. Nên biết trong đây đã gồm hiển thị về hành tướng của vô gián, giải thoát đều đủ ba. Tương phản mà sinh, như thứ lớp đó, nghĩa là đạo vô gián duyên nơi địa dưới là thô, trong đạo giải thoát duyên nơi trên là tĩnh. Pháp tương phản còn lại khởi như thứ lớp nên biết. Nhưng khi lìa nhiễm khởi thì không nhất định. Đạo thế tục, vô gián và giải thoát, vì có thể lìa nhiễm nơi chín phẩm của địa dưới v.v…, nên biết cũng có chín phẩm sai biệt. Phàm phu trong đây lìa nhiễm của cõi dục, ba hành như thô v.v… của chín đạo vô gián, tùy theo một hiện tiền, đều ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Ba hành như tĩnh v.v… của tám đạo giải thoát, tùy theo một hiện tiền đều ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Ba hành như tĩnh v.v… của tám đạo giải thoát tùy theo một hiện tiền đều ở nơi vị lai tu sáu hành như thô v.v… Đạo giải thoát sau ở nơi hiện tại, vị lai đã tu như trước. Tám đạo giải thoát so với trước là khác, lại ở nơi vị lai tu tĩnh lự thứ nhất gồm thâu vô biên hành tướng.

Như thế cho đến lìa nhiễm của xứ vô sở hữu, đối tượng tu của đạo vô gián, giải thoát nên biết. Nếu các Thánh giả dùng đạo thế tục để lìa nhiễm nơi cõi dục, thì ba hành như thô v.v… của chín đạo vô gián tùy theo một hiện tiền, thì đều ở nơi vị lai tu mười chín hành. Nghĩa là ba hành như thô v.v… và mười sáu hành Thánh hữu lậu, vô lậu nơi tám đạo giải thoát. Ba hành như tĩnh v.v… tùy theo một hiện tiền, đều ở nơi vị lai tu hai mươi hai hành. Nghĩa là mười chín hành trước thêm ba hành như tĩnh v.v…v.v… Đạo giải thoát sau nơi hiện tại, vị lai, đối tượng tu tức như trước. Tám đạo giải thoát so với trước là khác. Lại ở nơi vị lai tu tĩnh lự thứ nhất gồm thâu vô biên hành tướng, lìa nhiễm của định đầu. Ba hành như thô v.v… của chín đạo vô gián, tùy theo một hiện tiền, đều ở nơi vị lai tu mười chín hành. Nghĩa là ba hành như thô v.v… và chỉ mười sáu hành Thánh vô lậu. Mười sáu hành này là thuộc về địa dưới, vì biên của địa trên không có hành Thánh. Về sau tu hành Thánh, căn cứ theo đây nên biết. Ba hành như tĩnh v.v… của tám đạo giải thoát, tùy theo một hiện tiền, đều ở nơi vị lai tu hai mươi hai hành. Nghĩa là mười chín hành trước, thêm ba hành như tĩnh v.v… Đạo giải thoát sau ở nơi hiện tại, vị lai đã tu như trước. Tám đạo giải thoát so với trước là dị biệt với trước. Lại ở nơi vị lai tu hai tĩnh lự, gồm thâu vô biên hành tướng.

Như vậy cho đến lìa nhiễm của xứ vô sở hữu, đạo vô gián, đạo giải thoát về đối tượng tu nên biết.

Có Sư khác nói: Phàm phu, Thánh giả lìa dục, ở trong đạo vô gián, giải thoát cũng tu quán bất tịnh, trì tức niệm, từ v.v…, lìa nhiễm còn lại của địa trên đã tu như trước. Vì căn thiện của biên thuộc tĩnh lự thứ nhất là rộng, nên tu các hành như thế. Còn căn thiện của biên thuộc các định trên thì ít nên đã tu như trước. Lại, trong cõi dục có nhiều phiền não, vì muốn đoạn trừ chúng, nên tu nhiều đối trị. Địa trên thì không như vậy, nên tu đối trị ít. Lìa nhiễm của cõi dục nơi chín đạo vô gián, ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…. Chỉ duyên nơi tám đạo giải thoát của cõi dục ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Duyên chung nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi tĩnh lự thứ nhất. Đạo giải thoát sau ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…, duyên chung nơi ba cõi. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi tĩnh lự thứ nhất cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của định đầu, nơi chín đạo vô gián, ở nơi vị lai tu ba hành như thô duyên nơi tĩnh lự thứ nhất. Tám đạo giải thoát ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Duyên nơi ba hành như tĩnh v.v… của định thứ nhất, thứ hai, duyên nơi định thứ hai. Đạo giải thoát sau ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…, duyên chung nơi ba cõi. Ba hành như tĩnh v.v… duyên nơi định thứ hai cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của hai tĩnh lự, ba tĩnh lự, tùy theo đối tượng ứng hợp ấy đều căn cứ theo trước để nói. Lìa nhiễm của bốn định nơi chín đạo vô gián ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Duyên nơi định thứ tư theo tám đạo giải thoát ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Duyên nơi định thứ tư và duyên nơi không xứ, nhưng không phải một niệm, vì cõi khác. Ba hành như tĩnh v.v… chỉ duyên nơi không xứ. Đạo giải thoát sau ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Ba hành như tĩnh v.v… đều duyên nơi không xứ cho đến xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm của không xứ nơi chín đạo giải thoát ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…, chỉ duyên nơi không xứ. Tám đạo giải thoát ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…, chỉ duyên nơi không, thức xứ. Ba hành như tĩnh v.v… chỉ duyên nơi thức xứ. Đạo giải thoát sau ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v… Ba hành như tĩnh v.v… đều cùng duyên thức xứ cho đến xứ Hữu đảnh.

Lìa nhiễm của thức xứ, nhiễm của vô sở hữu xứ, tùy nơi đối tượng ứng hợp của chúng, đều căn cứ theo trước để nêu dẫn.

Do đâu trong đạo giải thoát sau cùng ở nơi vị lai tu ba hành như thô v.v…?

Vì thuộc về tĩnh lự thì duyên chung nơi ba cõi. Thuộc về cõi vô sắc là chỉ duyên nơi tự địa và địa trên. Trong các tĩnh lự có trí duyên khắp. Vô sắc căn bản tất không duyên nơi cõi dưới, nên hai đối tượng duyên, đối tượng tu có dị biệt.

Luận thêm đã xong, nên biện về nghĩa gốc. Tức gốc đã nói về các phần vị căn thiện cùng sinh.

Ở đây đã nêu rõ về định kim cương dụ, vô gián tất có tận trí nối tiếp sinh. Tận trí vô gián có trí nào khởi?

Tụng nêu:

Bất động sau tận trí

Tất khởi vô sinh trí

Tận khác hoặc chánh kiến

Ứng quả này đều có.

Luận nói: Các A-la-hán của pháp bất động trước từ tận trí vô gián thì vô sinh trí khởi. Trí này là gốc đã mong cầu của trí kia, tất cùng với tận trí đều cùng thời mà được. Nghĩa là tận trí kia cầu được thuận với sự ghi nhận điều mình đã hiểu. Nếu không thì liền có chướng ngại nhập Niết-bàn. Các A-la-hán khi cùng đạt được trí, tức cũng chỉ cầu được vô sinh trí. Nhưng tận trí kia, về lý tức nên khởi trước, vì là trong phần vị nhân trước đã mong cầu. Trước là pháp bất động, sau định kim cương dụ thì được vô sinh trí nhưng chưa hiện tiền, khi tận trí vô gián mới được hiện khởi. Trừ pháp bất động trước, A-la-hán còn lại, khi tận trí vô gián thì có tận trí sinh. Hoặc tức dẫn sinh chánh kiến vô học, không phải là vô sinh trí, vì về sau chấp nhận thoái chuyển. Nghĩa là nếu trước là tánh của thời giải thoát, thì tuy ở nơi phần vị nhân đã cùng cầu hai thứ, nhưng đến quả cùng tột thì cùng có thoái chuyển. Nên trong phần vị đang diệt của định kim cang dụ không được vô sinh trí, chỉ được tận trí, nên sau tận trí thì tận trí hiện ở trước. Hoặc tức dẫn sinh chánh kiến vô học, trước là pháp bất động, sau vô sinh trí, có vô sinh trí khởi, hoặc chánh kiến vô học. Chánh kiến vô học này thấy rõ tất cả ứng quả đều đã cùng có cũng như tận trí. Nên trong phần vị đang diệt của định kim cương dụ, tất cả đều được chánh kiến vô học. Nhưng chánh kiến này không phải là đối tượng đang mong cầu, nên hai trí tận và vô sinh đều vô gián, hoặc có khi liền khởi, hoặc có khi chưa hiện tiền.

Ở trong phần vị này đã lược nêu chung về nghĩa. Nếu trước là bất động thì đầu tiên khởi tận trí, chỉ một sát-na, tiếp theo là vô sinh trí cũng một sát-na. Hoặc có cùng nối tiếp. Nếu là thời giải thoát, thì đầu tiên khởi tận trí, hoặc một sát-na, hoặc có cùng nối tiếp. Hai trí này đã khởi chánh kiến vô học đều không có sát-na quyết định cùng nối tiếp, như trước đã nói, vì chánh kiến vô học kia không phải là đang mong cầu. Như nói về Sa-môn và quả Sa-môn.

Thế nào gọi là tánh Sa-môn? Thể của quả Sa-môn này là gì? Quả vị sai biệt gồm có bao nhiêu thứ?

Tụng nêu:

Đạo tịnh, tánh Sa-môn

Quả hữu vi, vô vi

Quả có tám mươi chín

Đạo giải thoát và diệt.

Luận nói: Nói Sa-môn nghĩa là có thể đoạn trừ vĩnh viễn các thứ sinh tử ma quái đã sinh khởi trong các nẻo, cõi. Hoặc có thể siêng năng, cố gắng dứt hết các lỗi lầm, khiến đạt được tĩnh lặng vĩnh viễn, nên gọi là Sa-môn. Như Đức Bạc-già-phạm đã tự giải thích: Do có thể siêng năng, khó nhọc, dứt trừ vô số thứ pháp ác, bất thiện, lìa lỗi lầm cấu nhiễm, nói rộng cho đến nên gọi là Sa-môn.

Sa-môn hiện có gọi là tánh Sa-môn. Tánh này tức là pháp của Sa-môn đã huân tu. Huân là nghĩa loại trừ Hoặc xú uế sinh khởi. Tức dùng Thánh đạo vô lậu làm Thể, không phải là đạo thế tục, do Thánh đạo có khả năng dứt sạch hết các lỗi lầm, đạt được tịch tĩnh cứu cánh. Do đấy phàm phu tuy có thể đã đoạn trừ nhiễm của xứ vô sở hữu, nhưng không phải là Sa-môn chân thật, vì các lỗi lầm hãy còn chưa đoạn trừ trọn vẹn, nên chỉ lặng dứt tạm thời, không phải là cứu cánh. Đạo vô lậu đã là tánh của Sa-môn, vì dùng chung hữu vi, vô vi làm quả, nên thể của quả Sa-môn là chung nơi hữu vi, vô vi. Quả này Đức Phật nói gồm có bốn thứ. Tức đầu là Dự lưu, sau là A-la-hán. Phẩm đạo loại trí đó gọi là Thể của quả Dự lưu hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn, đó gọi là Thể của quả Dự lưu vô vi. Phẩm đạo loại trí hoặc lìa cõi dục, phẩm của đạo giải thoát vô lậu thứ sáu, đó gọi là Thể của quả Nhất lai hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn và đoạn sáu phẩm Hoặc trước trong các Hoặc hệ thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, đó gọi là Thể của quả Nhất lai vô vi. Phẩm đạo loại trí, hoặc phẩm của đạo giải thoát vô lậu thứ chín lìa Hoặc của cõi dục, đó gọi là Thể của quả Bất hoàn hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn, Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn, đó gọi là Thể của quả Bất hoàn vô vi. Tận trí, vô sinh trí, phẩm chánh kiến vô học, đó gọi là Thể của quả A-la-hán hữu vi. Hoặc của ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn, đó gọi là Thể của quả A-la-hán vô vi. Tuy nhiên, ở trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm chỉ nói vô vi là Thể của quả Sa-môn. Như nói: Thế nào gọi là quả Dự lưu? Nghĩa là đã đoạn trừ ba kiết v.v… Cho đến: Thế nào gọi là quả A-la-hán? Nghĩa là đã vĩnh viễn đoạn trừ tham, sân, si v.v… Nên biết nói đoạn là gồm luôn đoạn ở trước đã nói.

Do đâu đối với Thể của quả Sa-môn kia chỉ nói là vô vi?

Do vô vi này chỉ là quả. Nghĩa là các trạch diệt chỉ là quả Samôn. Vì đạo thì chung cho Sa-môn, nên đã lược không nói. Hoặc vì pháp vô vi là quả không phải là có quả. Vì đạo thì chung cho hai loại nên đã lược không nói. Hoặc pháp vô vi là lìa lỗi của hữu vi, vì khiến vui thích, thế nên nói riêng. Hoặc ở nơi kinh này chỉ nói quả vô vi, là lời nói chưa trọn vẹn, không nên chấp giữ. Nghĩa là ở đây chỉ nói ba kiết đã đoạn trừ v.v…, không nói khắp về các phiền não khác đã đoạn. Như Khế kinh nói: Tâm tinh tấn xoay chuyển nhanh chóng, có thể chứng đắc Bồ-đề vô thượng, vượt qua tưởng đoạn thực, vượt qua tưởng các sắc, không có tưởng đối nhau. Pháp còn lại không phải là không đúng. Nên biết kinh này nêu bày cũng lại như thế. Như do ý riêng, chỉ nói vô vi là quả Sa-môn. Cũng do ý riêng, nên nói quả Samôn chỉ có bốn thứ. Nếu bỏ ý riêng, luận trực tiếp về pháp tướng, tức quả Sa-môn có tám mươi chín thứ đều là đạo giải thoát, lấy trạch diệt làm tánh. Nghĩa là vì vĩnh viễn đoạn trừ phiền não của ba cõi, có tám mươi chín đạo vô gián khởi. Thuộc về kiến đạo, số ấy có tám. Tức pháp loại trí nhẫn đều có bốn. Thuộc về tu đạo có tám mươi mốt. Tức nơi chín địa, mỗi địa đều có chín đạo vô gián. Tám mươi chín thứ này chỉ tánh của Sa-môn. Tánh Sac -môn này vô gián đã sinh tám mươi chín đạo giải thoát, cũng là quả Sa-môn hữu vi, vì là quả đẳng lưu, sĩ dụng kia. Tức các Hoặc được đoạn do đạo vô gián đoạn. Tám mươi chín các trạch diệt chỉ là quả Sa-môn vô vi, vì là quả ly hệ, sĩ dụng kia, nên đạo vô gián ấy có thể đoạn chướng ngại của đắc này để đạt được.

Há không phải là tánh Sa-môn cũng gồm thâu đạo giải thoát nơi các đạo vô gián chăng? Cũng vì là quả đẳng lưu, sĩ dụng kia, nên đạo vô gián cũng là thuộc về quả Sa-môn hữu vi? Không phải vậy. Vì không phải các đạo vô gián, tất cả đều là quả của đạo giải thoát.

Tuy có sự việc này, nhưng chỉ có thể nói: Do sức của đạo vô gián nên đạo giải thoát khởi. Sức của đạo vô gián kia có thể đoạn trừ chướng của đạo này khởi. Đạo kia vô gián thì đạo này tất sinh. Không phải sức của đạo giải thoát dẫn đạo vô gián khởi. Vì đạo giải thoát này không thể đoạn trừ chướng ngại của đạo kia. Nên không phải đạo này vô gián thì đạo kia tất sinh. Nghĩa là tuy cũng có vô gián mà sinh, nhưng không đều như vậy. Và không phải là sức của đạo vô gián này. Nghĩa là có thời gian khác, sức của gia hạnh khác đã dẫn khởi. Hoặc có khi hoàn toàn không còn sinh, nên không có lỗi giống nhau.

Vì sao Khế kinh nói quả Sa-môn không phải là tám mươi chín mà chỉ nói bốn?

Há không phải là đã nói kinh có ý riêng?

Có ý riêng gì?

Lại có giải thích: Chỉ là các người hành quán trong bốn phần vị, vì tuệ giác phân minh hoan hỷ sinh. Nghĩa là chỉ bốn phần vị rất đáng tin cậy, không phải vị khác. Nếu như có thoái mất, chưa chết, thì đạt được trở lại.

Có Sư khác lại nói: Chỉ bốn phần vị này như thứ lớp, có thể vượt qua nẻo ác. Bốn phần vị kia nhân nơi nẻo người, trời, sinh đã hiển bày chỉ rõ. Chỉ thế mạnh như tham v.v… của phẩm trung thượng là đi đến nẻo ác sinh, không phải là phẩm hạ. Hoặc hữu gốc có hai. Nghĩa là cõi dục và xứ Hữu đảnh. Hai vượt qua xứ Hữu đảnh. Hai vượt qua cõi dục, nên chỉ lập bốn làm quả Sa-môn. Hoặc các phiền não gồm có hai loại: (1) Vô ký. (2) Bất thiện. Đầu vượt qua hai thứ. Sau vượt qua vô ký. Nhất lai, Bất hoàn chỉ vượt qua bất thiện, do ác khó vượt qua, nên chỉ lập bốn.

Có Sư khác cho: Không phải Đức Bạc-già-phạm đối với tám mươi chín thứ kia không hiện chứng tri, nhưng chỉ nói bốn quả Samôn. Tụng nêu:

Năm nhân lập bốn quả

Xả đạo thắng từng được

Tập đoạn đắc tám trí

Đốn tu mười sáu hành.

Luận nói: Nếu ở nơi phần vị đạo đoạn đầy đủ năm nhân, thì Đức Phật ở trong kinh đã kiến lập đoạn kia và cùng với đoạn đắc cùng thời mà sinh đạo giải thoát tịnh làm quả Sa-môn.

Nói năm nhân:

1. Xả đạo từng được: Nghĩa là xả bỏ đạo của hướng quả trước đã được.

2. Được đạo hơn hẳn: Nghĩa là được quả đã gồm thâu đạo thù thắng.

3. Tập đoạn chung: Nghĩa là một quả đạt được là được chung từ trước đến nay đã đoạn được.

4. Được tám trí: Nghĩa là trong một thời đều được bốn pháp trí, bốn loại trí.

5. Có thể tu tức khắc mười sáu hành tướng: Nghĩa là có thể tu tức khắc các hành tướng như vô thường v.v… Tức trụ nơi bốn quả vị đều đủ năm nhân. Nơi vị khác thì không như vậy, nên chỉ nói bốn.

Nếu chỉ đạo tịnh là tánh của Sa-môn, thì sức của đạo hữu lậu đã được hai quả, vì sao cũng là thuộc về quả Sa-môn?

Tụng nêu:

Đạo thế đoạn đã được

Thánh đã được xen tạp

Vô lậu được giữ gìn

Cũng gọi quả Sa-môn.

Luận nói: Lại, đạo vô lậu đã được trạch diệt, là thuộc về quả Sa-môn, lý ấy là cực thành. Khi được hai quả thì các đạo thế tục đã được thể luôn rất ít so với trạch diệt của Thánh đạo đã được là nhiều. Gồm chung một đạt được thì đạt được cùng thành một quả. Thế nên ở đây, vì ít theo nhiều, tức đều cùng gọi là Thể của quả Sa-môn. Nghĩa là đạo thế tục khi được hai quả, thì quả này không phải chỉ dùng trạch diệt của đạo thế tục đã đạt được để làm tánh của quả đoạn, mà gồm luôn dùng trạch diệt do kiến đạo đã đạt được, ở trong ấy đã cùng xen tạp làm thành chung một quả, đồng đạo đắc của một quả đã đạt được.

Do Khế kinh này nói: Thế nào là quả Nhất lai? Nghĩa là đoạn trừ ba kiết, làm mỏng tham, sân, si.

Thế nào là quả Bất hoàn? Nghĩa là đã đoạn năm kiết phần dưới. Trạch diệt của đạo thế tục đã được, so với đạo vô lậu đã đạt được có xen lẫn, do ít theo nhiều, nên gọi là quả Sa-môn. Lại, trạch diệt do đạo thế tục đã đạt được thì do vô lậu đoạn đạt được đã nhận giữ. Do sức của vô lậu này đã giữ gìn khi thoái chuyển thì không có mạng chung. Nên đắc do vô lậu đoạn đã in rõ nơi cảnh đã ấn chứng tức cũng được gọi là thể của quả Sa-môn. Như vật của người cũ, vua đã đóng ấn để ấn chứng, không còn gọi là vật của người có thể tích tập. Vô lậu đoạn này tức cũng như thế, nên cũng gọi là quả Sa-môn.

Có Sư khác nói: Diệt này phải là định kim cương dụ, là quả Sa-môn chân thật, nên cũng được lập danh xưng là quả Sa-môn. Diệt này tuy không phải là quả ly hệ kia, nhưng là quả sĩ dụng kia, nên gọi là quả Sa-môn không có lỗi.

Có Sư khác lại cho: Do vô vi này nhân nơi sức tăng thượng của tánh Sa-môn mà được, vì vậy cũng nên gọi là quả Sa-môn. Do đạo thế tục khi đoạn trừ phiền não, cũng tu tánh Sa-môn để đối trị phiền não kia.

Như vậy là đã nêu bày dựa vào đạo thế tục, khi đoạn trừ phiền não do tu đạo đoạn, được hai quả, đã được trạch diệt, gọi là quả Samôn. Nhưng quả Sa-môn đáp lại tánh Sa-môn.

Tánh Sa-môn này như trước đã nói, tức tánh ấy lại có danh xưng sai biệt chăng?

Cũng có. Vì sao?

Tụng nêu:

Nói về tánh Sa-môn

Cũng gọi hàng Phạm hạnh

Cũng gọi là Phạm luân

Phạm chân thật đã chuyển.

Trong đó chỉ kiến đạo

Nên gọi là pháp luân

Do nhanh giống bánh xe

Hoặc đủ cả nan hoa.

Luận nói: Dựa nơi lý của thế tục, thì các Sa-môn khác với Bàla-môn. Như Khế kinh nói: Nên thí cho Sa-môn, Bà-la-môn v.v…

Dựa nơi lý của thắng nghĩa thì các Sa-môn tức là Bà-la-môn. Như Khế kinh nói: Ở đây, đầu tiên là Sa-môn cho đến thứ tư. Còn ở ngoài chánh pháp thì không có Sa-môn và Bà-la-môn chân thật, cho đến nói rộng. Vì có thể loại trừ pháp ác bất thiện, vì cùng với tướng siêng năng ngăn dứt là rất giống nhau, nên thể của Sa-môn tức là Bàla-môn. Như nói: Có thể loại trừ pháp ác bất thiện, cho đến nói rộng. Nên gọi là Bà-la-môn. Tức tánh của Bà-la-môn cũng gọi là Phạm luân, là đối tượng chuyển do sức của Phạm vương chân thật, nên Đức Phật cùng với Đức Phạm vô thượng là tương ưng. Vì vậy Đức Thế Tôn riêng nên gọi là Phạm. Do Khế kinh nói: Đức Phật cũng gọi là Phạm, cũng gọi là Tịch tĩnh, cũng gọi là Trong mát. Vắng lặng, chan hòa như hư không, trầm tĩnh, gọi là Phạm. Vì Đức Phật đã hội đủ các đức ấy nên lập danh xưng Phạm. Đã tự giác ngộ, vì khiến người khác giác ngộ, cùng chuyển sự giác ngộ này trao cho người kia, nên gọi là Phạm luân. Tức trong Phạm luân, chỉ dựa nơi kiến đạo. Đức Thế Tôn có xứ gọi là Pháp luân. Do chúng Bí-sô năm người như A-nhã-đa Kiều-trần-na v.v…, lúc sinh kiến đạo thì thần địa không thiên, lập tức truyền tuyên cáo: Đức Thế Tôn đã chuyển chánh pháp luân.

Vì sao kiến đạo gọi là luân?

Vì hành nhanh chóng cùng giống như bánh xe ở thế gian. Như bánh xe của Thánh vương quay vòng không dứt. Vận hành nhanh chóng, xả bỏ, nhận lấy. Có thể điều phục các thứ chưa điều phục, trấn áp những thứ đã khuất phục, xoay chuyển trên dưới. Kiến đạo cũng như vậy, nên gọi là pháp luân. Nghĩa là bánh xe của Thánh vương quay vòng không dứt. Kiến đạo cũng như thế, vì không có giữa chừng ngừng dứt. Như bánh xe của Thánh vương, hành dụng nhanh chóng. Kiến đạo cũng như thế, vì đều một niệm. Như bánh xe của Thánh vương lấy trước, bỏ sau. Kiến đạo cũng như thế, vì bỏ cảnh như khổ v.v…, nhận lấy tập v.v… Đây tức là hiển bày chỉ rõ kiến bốn Thánh đế, tất không cùng thời. Như bánh xe của Thánh vương đã hàng phục các thứ chưa hàng phục, trấn áp các thứ đã khuất phục. Kiến đạo cũng như thế, có thể kiến các pháp chưa kiến, có thể đoạn các pháp chưa đoạn. Người đã kiến đã đoạn, không có thoái chuyển nhanh chóng. Như bánh xe của Thánh vương xoay chuyển trên, dưới. Kiến đạo cũng như thế, quán khổ v.v… nơi cõi trên xong, quán khổ v.v… nơi cõi dưới. Do đấy, kiến đạo riêng gọi là pháp luân.

Tôn giả Diệu Âm nói như vầy: Như bánh xe của thế gian có nan hoa, trục xe, vành xe. Tám chi Thánh đạo giống như bánh xe kia, nên gọi là luân. Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh niệm, giống như nan hoa xe của thế gian. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, giống như trục bánh xe, chánh định giống như vành bánh xe, nên gọi là pháp luân.

Bản ý của Sư Tỳ-bà-sa là nói chung, tất cả Thánh đạo đều gọi là pháp luân, do nói về ba lần chuyển, thuộc về ba đạo. Ở nơi cùng nối tiếp của người khác, khi kiến đạo sinh, đã đến lúc chuyển đầu tiên, nên gọi là đã chuyển. Nhưng chỉ kiến đạo là phần đầu tiên của pháp luân, nên nói pháp luân, chỉ là kiến đạo. Các loại thiên thần tức căn cứ theo xứ đầu tiên nói chuyển pháp luân, không dựa nơi hai đạo. Nhưng các Sư phần nhiều nói kiến đạo gọi là pháp luân, vì thần địa không thiên, chỉ dựa vào nơi đây để nói. Từng không có nêu bày ba đạo đều gọi là pháp luân. Chỉ kiến đạo là hội đủ nghĩa của luân đã nói ở trước. Tuy các kiến đạo đều gọi là pháp luân, nhưng trong thân của Kiều-trần-na đã chuyển trước. Kinh nói vị kia lúc kiến đạo sinh, gọi là chuyển pháp luân. Không phải là người khác không chuyển. Do Tôn giả Kiều-trần-na v.v… khi kiến đạo sinh, gọi là Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Ý làm rõ năm vị kia v.v… được chuyển pháp luân, vốn do Đức Thế Tôn, nên suy tôn ở nơi Đức Phật, khiến người được hóa độ sinh tôn kính.

Như thế tức nói pháp luân của Như Lai, vì chuyển đến thân người khác, nên gọi là chuyển. Nếu khác với đây, thì thiên thần tức nên nói: Đức Phật chuyển pháp luân tại nơi cây Bồ-đề, không nên xướng: Đức Thế Tôn hiện nay ở tại nước Bà-la-nê-tư đang chuyển pháp luân vô thượng. Nên chuyển trao cho người khác, trong đây gọi là chuyển.

Có thuyết cho: Giáo pháp này gọi là pháp luân, chuyển đến thân người khác, khiến hiểu được nghĩa.

Đây chỉ là phương tiện, không phải là pháp luân chân thật, vì như pháp tạp nhiễm khác không có công năng thù thắng.

Ở đây là xét chọn về bốn quả Sa-môn. Quả Sa-môn nào dựa vào cõi nào mà được?

Tụng nêu:

Ba dựa dục, ba sau

Do trên, không kiến đạo

Không nghe, không duyên dưới

Không nhàm chán, trải qua.

Luận nói: Ba quả trước chỉ dựa nơi thân của cõi dục đạt được. Quả A-la-hán sau thì dựa nơi thân của ba cõi. Hai quả trước, vì chưa lìa dục, nên không phải dựa vào cõi trên đạt được.

Về lý tức có thể như thế. Quả thứ ba vì sao không phải dựa nơi cõi trên đạt được? Người đã lìa dục cũng có thể đạt được. Do lý, giáo.

Do lý là thế nào?

Dựa vào thân cõi trên thì không có kiến đạo. Người đã lìa dục không phải lìa kiến đạo mà có thể có nghĩa siêu chứng quả Bất hoàn.

Do đâu thân của cõi trên tất không khởi kiến đạo?

Vì dựa vào cõi vô sắc thì không cùng có lắng nghe giáo pháp vô ngã. Lìa nghe giáo pháp này, tất định không cùng có nhập kiến đạo. Lại, sinh nơi cõi kia, thì không duyên với cõi dưới. Còn kiến đạo thì trước là duyên nơi khổ của cõi dục. Do đấy, cõi vô sắc không phải là chỗ dựa của kiến đạo. Dựa vào thân của cõi sắc thì không có nhàm chán thù thắng. Không phải lìa nhàm chán thù thắng mà có thể nhập kiến đạo. Nghĩa là trong cõi dục có các khổ thọ, vì sinh vui ít mà phần nhiều dựa vào công sức khổ nhọc. Sinh trong hàng trời, người thì thọ lượng ngắn ngủi, thiếu của cải, nhiều bệnh tật, bạn thân trái lìa, cảnh trái đã nhiều, tâm nhàm chán tăng hơn. Nếu sinh nơi cõi sắc thì so với cõi dục này là trái nhau. Nghĩa là phàm phu kia tham vướng nơi lạc của thắng định, được sống lâu, không bệnh, không nghèo khổ, không biệt ly, cảnh trái đã không có, nên tâm nhàm chán yếu kém. Không phải tâm nhàm chán yếu kém mà có thể nhập kiến đạo, có thể dẫn sinh kiến đạo, vì không có tâm nhàm chán thù thắng. Dựa vào thân cõi sắc, không khởi kiến đạo, tức không nên nói nơi cõi kia đều không có tâm nhàm chán. Vì người sinh nơi cõi sắc kia hiện có tâm nhàm chán. Như Khế kinh đã nói: Đại Tiên chớ nên sợ! Ngọn lửa dữ kia tất không có lý đến gần đây.

Thiêu đốt Phạm cung xong, thì nơi cảnh trời kia sẽ diệt. Trong đây, tiếng sợ chỉ là nói về Thể của nhàm chán. Lại, ở nơi xứ khác có Già tha nói:

Nghe các trời trường thọ

Đủ sắc diệu khiến khen

Mà tâm mang sợ chán

Như nai đối sư tử.

Ở đây, nói sợ chán là hiển bày sợ tức là chán. Thật sự thì sợ cùng với chán là cùng sai biệt. Nghĩa là ngắm nhìn hình tướng kia, e bị suy tổn, tâm sinh kinh khiếp, nên gọi là sợ. Nếu ngắm xem hình tướng kia, tâm không vui muốn, tình ưa dứt bỏ, nên gọi là chán. Ở nơi cõi dục đủ cả hai, cõi trên chỉ có một.

Lại, Thể của hai thứ này sai biệt như thế nào?

Không quán xét kỹ làm trước, tâm kinh hãi lay động, gọi là sợ. Nếu xét kỹ làm trước, tâm không ưa thích, gọi là chán. Hoặc dẫn sinh tâm ngu si khiếp hãi, gọi là sợ. Nếu dẫn sinh tâm dứt bỏ, chống trái, thì gọi là chán.

Có Sư khác cho: E bị suy tổn, tâm muốn dứt bỏ, đó gọi là sợ. Vì muốn dứt bỏ, nên ở trong cảnh kia, tâm không sinh ưa thích, đó gọi là chán. Kinh này nói sợ là nghĩa sợ hủy hoại. Như nói: Ném vào chớ sợ vật kia bể.

Do lý này chứng biết ở cõi trên không có kiến đạo.

Về giáo lại là thế nào?

Do Khế kinh nói. Kinh nói: Có năm Bổ-đặc-già-la ở nơi xứ này thông đạt, ở nơi xứ kia thì được cứu cánh, đó là Trung bát cho đến Thượng lưu. Ở đây, nói thông đạt là chỉ nói về kiến đạo, gia hạnh đầu tiên của chứng viên tịch. Kinh đã không nói ở nơi xứ kia thông đạt, nên biết kiến đạo ở nơi cõi trên nhất định không có.

HẾT – QUYỂN 32