LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 3
Phẩm 4: BIỆN VỀ BẢY SỰ, phần 2
* Nói về Mười pháp đại thiện địa:
Thế nào là Tín? Nghĩa là tánh tin tưởng, tánh tin tăng thượng, chấp nhận, muốn làm việc, muốn tạo tác, tánh của tâm lắng đọng, trong sạch. Đó gọi là tín.
Thế nào là Cần? Nghĩa là siêng năng, tinh tấn, sức dũng mãnh khó hạn chế, ý cố gắng không ngừng, tánh của tâm mạnh mẽ, hăng hái. Đó gọi là cần.
Thế nào là Tàm (hổ)? Nghĩa là các thứ hổ, cùng hổ, hổ riêng biệt, xấu hổ cùng xấu hổ, xấu hổ riêng biệt, các thứ chán bỏ cùng chán bỏ, chán bỏ riêng biệt, có sự tôn kính, có sự tự tại, có biến chuyển về tự tại, biết e dè, kiêng nể, không tự ý hành động. Đó gọi là tàm.
Thế nào là Quý (thẹn)? Nghĩa là các thứ thẹn, cùng thẹn, thẹn riêng biệt, hổ thẹn cùng hổ thẹn, hổ thẹn riêng biệt, các thứ chán bỏ cùng chán bỏ, lo sợ về các tội lỗi, đối với tội lỗi thấy biết sợ hãi. Đó gọi là quý.
Thế nào là Không tham? Nghĩa là có các tâm sở cùng với tâm tương ưng có thể đối trị tham. Đó gọi là không tham.
Thế nào là Không sân? Nghĩa là có các tâm sở cùng với tâm tương ưng có thể đối trị sân. Đó gọi là không sân.
Thế nào là Khinh an? Nghĩa là thân tâm nhẹ nhàng, khoan khoái, đã được nhẹ nhàng, khoan khoái, các loại thuộc về nhẹ nhàng khoan khoái. Đó gọi là khinh an.
Thế nào là Xả? Nghĩa là thân bình đẳng, tâm bình đẳng, thân tâm đều chánh trực, không có cảnh giác (chú ý tìm biết) trụ vào tịch tĩnh. Đó gọi là xả.
Thế nào là Không phóng dật? Nghĩa là đối với việc đoạn trừ pháp ác, tạo đủ các pháp thiện, luôn hành tác, hành tác bền bỉ, tu tập không bỏ. Đó gọi là không phóng dật.
Thế nào là Không hại? Nghĩa là đối với hữu tình không hủy báng, tàn hại, làm thương tổn, hay khiến đau khổ, buồn phiền. Đó gọi là không hại.
*
* Nói về Mười pháp đại phiền não địa:
Thế nào là Không tin? Nghĩa là không tin, tánh không tin tưởng, tánh không tin tưởng tăng thượng, không chấp nhận, không ham muốn, không ưa thích tạo tác, gây dựng, tâm không lắng đọng, không thanh tịnh. Đó gọi là không tin.
Thế nào là Lười biếng? Nghĩa là tinh tấn yếu kém, tinh tấn quá ít ỏi, thoái chuyển, khiếp nhược, dứt bỏ cố gắng, tánh của tâm không mạnh mẽ, hăng hái. Đó gọi là lười biếng.
Thế nào là Thất niệm? Nghĩa là nhớ nghĩ viễn vông, mơ hồ, quên nhớ mất nghĩ, tánh nhớ nghĩ ở ngoài tâm. Đó gọi là thất niệm.
Thế nào là Tâm loạn? Nghĩa là tâm phân tán, loạn động, tâm lưu chuyển, tâm trôi nổi, tâm không chuyên nơi một cảnh, không trụ vào một duyên. Đó gọi là tâm loạn.
Thế nào là Vô minh? Nghĩa là tánh không hiểu biết về ba cõi.
Thế nào là Không chánh tri? Nghĩa là tuệ đã dẫn phát phi lý. Đó gọi là không chánh tri.
Thế nào là Tác ý phi lý? Nghĩa là tác ý nhiễm ô. Đó gọi là tác ý phi lý.
Thế nào là Thắng giải tà? Nghĩa là tác ý nhiễm ô tương ưng với tâm đang thắng giải, đã và sẽ thắng giải. Đó gọi là thắng giải tà.
Thế nào là Trạo cử? Nghĩa là tâm không tịch tĩnh, tâm không an nhiên, tâm không ổn định, luôn bị dao động, chao đảo, là tánh của tâm bị quấy động không yên. Đó gọi là trạo cử.
Thế nào là Phóng dật? Nghĩa là đối với việc đoạn trừ các điều ác, tăng trưởng các pháp thiện thì không tu tập, không tu tập riêng, không hành tác thường xuyên, bền bỉ, tánh không chuyên cần hành tập. Đó gọi là phóng dật.
*
* Nói về Mười pháp tiểu phiền não địa:
Thế nào là Phẫn? Nghĩa là các thứ giận cùng giận, giận khắp, rất giận, giận cùng cực, đã, đang và sẽ giận dữ. Đó gọi là phẫn.
Thế nào là Hận? Nghĩa là tâm kết oán, đã, đang và sẽ sân hận. Đó gọi là hận.
Thế nào là Phú? Nghĩa là che giấu tội lỗi của mình. Đó gọi là phú.
Thế nào là Não? Nghĩa là tâm rất dữ, tàn bạo, đã, đang và sẽ gây não hại. Đó gọi là não.
Thế nào là Tật? Nghĩa là tâm đố kỵ, ganh ghét. Đó gọi là tật.
Thế nào là Xan? Nghĩa là tâm luôn luyến tiếc, keo kiệt.
Thế nào là Cuống? Nghĩa là dối trá, huyễn hoặc người khác.
Đó gọi là cuống.
Thế nào là Siểm? Nghĩa là tâm giả dối, quanh co. Đó gọi là siểm.
Thế nào là Kiêu? Nghĩa là kiêu căng, rất kiêu căng, mê muội, rất mê muội, khinh mạn, tánh của tâm kiêu ngạo không thật. Đó gọi là kiêu.
Thế nào là Hại? Nghĩa là đối với các hữu tình có thể hủy báng, làm thương tổn, tàn hại, xúc phạm, bức bách gây khổ não. Đó gọi là hại.
*
* Nói về Năm phiền não:
Thế nào là Tham nơi cõi Dục? Nghĩa là đối với các dục khởi tham cùng tham, chấp chặt, ngăn giữ, yêu thích tham đắm. Đó gọi là tham nơi cõi Dục.
Thế nào là Tham nơi cõi Sắc? Nghĩa là đối với các sắc khởi tham cùng tham, chấp chặt, ngăn giữ, yêu thích tham đắm. Đó là tham nơi cõi Sắc.
Thế nào là Tham nơi cõi Vô sắc? Nghĩa là đối với vô sắc khởi tham cùng tham, chấp chặt, ngăn giữ, yêu thích tham đắm. Đó là tham nơi cõi Vô sắc.
Thế nào là Sân? Nghĩa là tâm luôn ôm giữ giận đối với các hữu tình, gây chống đối, ngăn trở với mọi người, luôn ghét giận, hung ác, đã đang và sẽ giận dữ. Đó gọi là sân.
Thế nào là Nghi? Nghĩa là do dự, ngờ vực đối với chân lý. Đó gọi là nghi.
*
* Nói về Năm xúc:
Thế nào là Xúc có đối? Nghĩa là năm thức của thân tương ưng với xúc.
Thế nào là Xúc tăng ngữ? Nghĩa là ý thức thân tương ưng với xúc.
Thế nào là Xúc minh? Nghĩa là xúc vô lậu.
Thế nào là Xúc vô minh? Nghĩa là xúc nhiễm ô.
Thế nào là Xúc phi minh phi vô minh? Nghĩa là xúc hữu lậu không nhiễm ô.
*
* Nói về Năm kiến:
Thế nào là Hữu thân kiến? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, theo đó quán chấp về ngã hoặc ngã sở, do đấy khởi lên sự chấp nhận, ưa thích kiến chấp nơi tuệ quán. Đó gọi là hữu thân kiến.
Thế nào là Biên chấp kiến? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, theo đó quán chấp về đoạn hoặc thường, do đấy khởi lên sự chấp nhận, ưa thích kiến chấp nơi tuệ quán. Đó gọi là biên chấp kiến.
Thế nào là Tà kiến? Nghĩa là hủy báng nhân quả, bài bác tác dụng, phá bỏ sự thật, do đấy khởi lên sự chấp nhận, ưa thích kiến chấp nơi tuệ quán. Đó gọi là tà kiến.
Thế nào là Kiến thủ? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, theo đó quán chấp cho là tôn quý, hơn hết, tột bậc, do đấy khởi lên sự chấp nhận, ưa thích kiến chấp nơi tuệ quán. Đó gọi là kiến thủ.
Thế nào là Giới cấm thủ? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, theo đó quán chấp cho là có thể đạt thanh tịnh, có thể đạt giải thoát, xuất ly, do đấy khởi lên sự chấp nhận, ưa thích kiến chấp nơi tuệ quán. Đó gọi là giới cấm thủ.
*
* Nói về Năm căn:
Thế nào là Lạc căn? Nghĩa là xúc thuận theo lạc thọ, tùy lúc tiếp xúc khiến khởi thân tâm an vui, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là lạc căn.
Thế nào là Khổ căn? Nghĩa là xúc thuận theo khổ thọ, tùy lúc tiếp xúc khiến khởi thân tâm khổ sở, thọ nhận không bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là khổ căn.
Thế nào là Hỷ căn? Nghĩa là xúc thuận theo hỷ thọ, tùy lúc tiếp xúc khiến khởi tâm vui mừng, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là hỷ căn.
Thế nào là Ưu căn? Nghĩa là xúc thuận theo ưu thọ, tùy lúc tiếp xúc khiến khởi tâm phải lo sầu, thọ nhận không bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là ưu căn.
Thế nào là Xả căn? Nghĩa là xúc thuận theo xả thọ, tùy lúc tiếp xúc khiến khởi thân tâm được buông xả, thọ nhận không phải bình đẳng cũng không phải không bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là xả căn.
*
* Nói về Năm pháp:
Thế nào là Tầm? Nghĩa là tâm tìm cầu, tìm cầu khắp, suy tìm, suy tìm cùng cực, suy tìm hiện tiền, suy cứu truy tìm, tư duy cùng tột, tánh tư duy khiến tâm thô động. Đó gọi là tầm.
Thế nào là Tứ? Nghĩa là tâm dò xét, dò xét khắp, tùy theo sự dò xét khắp tạo các thứ tùy chuyển, tùy lưu, tùy thuộc, đối với tầm khiến tâm hoạt động tinh tế. Đó gọi là tứ.
Thế nào là Thức? Nghĩa là sáu thức thân, tức là nhãn thức v.v…
cho đến ý thức.
Thế nào là Vô tàm (không hổ)? Nghĩa là không biết hổ, không cùng hổ, không hổ riêng lẻ, không biết xấu hổ, không cùng xấu hổ, không xấu hổ riêng lẻ, không biết chán bỏ, không cùng chán bỏ, không chán bỏ riêng lẻ, không biết tôn trọng ai, không có tự tại, không chuyển theo tự tại, không biết kiêng nể, tự ý làm. Đó gọi là vô tàm.
Thế nào là Vô quý (không thẹn)? Nghĩa là không biết thẹn, không cùng thẹn, không thẹn riêng lẻ, không biết hổ thẹn, không cùng hổ thẹn, không hổ thẹn riêng lẻ, không biết chán bỏ, không cùng chán bỏ, không chán bỏ riêng lẻ, không lo sợ nẻo tội lỗi, đối với tội lỗi không thấy sợ hãi. Đó gọi là vô quý.
*
* Nói về Sáu thức thân:
Thế nào là Nhãn thức? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nơi mắt nhận biết các sắc đã đang và sẽ phân biệt rõ. Đó gọi là nhãn thức.
Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.
*
* Nói về Sáu xúc thân:
Thế nào là Nhãn xúc? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp nên có xúc. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nơi mắt nhận biết về các sắc, các xúc cùng tiếp xúc, tánh tiếp xúc, tánh cùng tiếp xúc, đã tiếp xúc, là loại xúc. Đó gọi là nhãn xúc.
Như nhãn xúc, các xúc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.
*
* Nói về Sáu thọ thân:
Thế nào là Thọ do nhãn xúc sinh ra? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp nên có xúc, do xúc làm duyên nên có thọ. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nhãn xúc là nhân, là tập, là loại, là sinh. Nhãn xúc đã sinh tác ý tương ưng khiến mắt nhận biết về sắc, các thọ cùng thọ, cùng thọ riêng lẻ, đã thọ, là loại thọ. Đó gọi là thọ do nhãn xúc sinh ra.
Như thọ do nhãn xúc sinh ra, thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra cũng như vậy.
*
* Nói về Sáu tưởng thân:
Thế nào là Tưởng do nhãn xúc sinh ra? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp nên có xúc, do xúc làm duyên nên có tưởng. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nhãn xúc là nhân, là tập, là loại, là sinh. Nhãn xúc đã sinh tác ý tương ưng khiến mắt nhận biết về sắc, các tưởng cùng tưởng, tăng thượng cùng tưởng, đã tưởng, là loại tưởng. Đó gọi là tưởng do nhãn xúc sinh ra.
Như tưởng do nhãn xúc sinh ra, tưởng do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra cũng như vậy.
*
* Nói về Sáu tư thân:
Thế nào là Tư do nhãn xúc sinh ra? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp nên có xúc, do xúc làm duyên nên có tư. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nhãn xúc là nhân, là tập, là loại, là sinh. Nhãn xúc đã sinh tác ý tương ưng khiến mắt nhận biết về sắc, các tư cùng tư, tăng thượng cùng tư, đã tư, là loại tư, tâm tạo ý nghiệp. Đó gọi là tư do nhãn xúc sinh ra.
Như tư do nhãn xúc sinh ra, tư do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra cũng như vậy.
*
* Nói về Sáu ái thân:
Thế nào là Ái do nhãn xúc sinh ra? Nghĩa là mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp nên có xúc, do xúc làm duyên nên có ái. Như thế mắt là phần tăng thượng, sắc là đối tượng duyên, nơi mắt nhận biết các sắc, các tham cùng tham dấy khởi, nên chấp chặt, cất giấu, ngăn giữ, yêu thích tham đắm. Đó gọi là ái do nhãn xúc sinh ra.
Như ái do nhãn xúc sinh ra, ái do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra cũng như vậy.
**
3. Biện giải về gồm thâu, tương ưng:
Hỏi: Nhãn giới gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Nhãn giới khi gồm thâu các pháp thì nó gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Nhãn giới không gồm thâu các pháp thì nó gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Nhãn giới gồm thâu và không gồm thâu các pháp thì nó gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Trừ nhãn giới gồm thâu các pháp, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Trừ nhãn giới không gồm thâu các pháp, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?
Trừ nhãn giới gồm thâu và không gồm thâu các pháp, các pháp còn lại gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn? v.v… Cho đến ái do ý xúc sinh ra, câu hỏi cũng như vậy.
Đáp: Nhãn giới gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn.
Nhãn giới gồm thâu các pháp thì gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn.
Nhãn giới không gồm thâu các pháp thì gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, không gồm thâu một giới, một xứ, năm uẩn.
Nhãn giới gồm thâu và không gồm thâu các pháp thì nó gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, không gồm thâu không giới, không xứ, không uẩn.
Trừ nhãn giới gồm thâu các pháp, các pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, không gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn.
Trừ nhãn giới không gồm thâu các pháp, các pháp còn lại gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn.
Trừ nhãn giới gồm thâu và không gồm thâu các pháp, hỏi về các pháp còn lại là không có nên không bàn, do tất cả các pháp đều đã bị trừ.
Như nhãn giới, chín hữu sắc giới, mười hữu sắc xứ, nên biết cũng như vậy.
Nhãn thức giới gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười bảy giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, sáu thức thân, nên biết cũng như vậy.
Ý giới gồm thâu bảy giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười một giới, mười một xứ, bốn uẩn.
Như ý giới, ý xứ, thức uẩn, thức pháp, nên biết cũng như vậy.
Pháp giới gồm thâu một giới, một xứ, bốn uẩn, không gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn.
Như pháp giới, pháp xứ cũng như vậy.
Sắc uẩn gồm thâu mười một giới, mười một xứ, một uẩn, không gồm thâu tám giới, hai xứ, bốn uẩn.
Thọ uẩn gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, bốn uẩn.
Như thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thọ, tưởng trong pháp đại địa, nên biết cũng như vậy.
Sắc thủ uẩn gồm thâu mười một giới, mười một xứ, một uẩn, không gồm thâu tám giới, hai xứ, năm uẩn.
Thọ thủ uẩn gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, năm hữu sắc giới, tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, mười pháp đại phiền não địa, mười pháp tiểu phiền não địa, năm phiền não, năm xúc, năm kiến, năm căn, bốn pháp, năm thân sau nơi sáu thân, nên biết cũng như vậy.
Thức thủ uẩn gồm thâu bảy giới, một xứ, một uẩn, không gồm thâu mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như thức thủ uẩn, thức giới cũng như vậy.
*
Nhãn thức giới tương ưng với một giới, một xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như nhãn thức giới, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thức thủ uẩn, thức giới, sáu thức thân, nên biết cũng như vậy.
Ý giới tương ưng với một giới, một xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, ba uẩn.
Như ý giới, ý xứ, thức uẩn, thức pháp, nên biết cũng như vậy.
Pháp giới tương ưng với tám giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười một giới, mười một xứ, hai uẩn.
Như pháp giới, pháp xứ, hành uẩn, tám pháp đại địa, nên biết cũng như vậy.
Thọ uẩn tương ưng với tám giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười một giới, mười một xứ, ba uẩn.
Như thọ uẩn, tưởng uẩn, thọ, tưởng trong pháp đại địa nên biết cũng như vậy.
Thọ thủ uẩn tương ưng với tám giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn cũng như vậy.
Hành thủ uẩn tương ưng với tám giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Pháp tầm và tứ cũng như vậy.
Tín tương ưng với tám giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như tín, chín pháp đại thiện địa còn lại, mười pháp đại phiền não địa, dục, tham, giận dữ, xúc vô minh, xúc phi minh phi vô minh, không tàm, không quý, nên biết cũng như vậy.
Phẫn tương ưng với ba giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như phẫn, chín pháp tiểu phiền não địa còn lại, tham nơi cõi Vô sắc, nghi, xúc minh, năm kiến, sáu ái nơi thân, nên biết cũng như vậy.
Tham nơi cõi Sắc tương ưng với sáu giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Xúc hữu đối tương ưng với bảy giới, hai xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Xúc tăng ngữ tương ưng với ba giới, ba xứ, bốn uẩn, không tương ưng với mười bảy giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Sáu xúc thân, sáu tư thân cũng như vậy.
Lạc căn tương ưng với tám giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như lạc căn, xả căn cũng như vậy.
Khổ căn tương ưng với bảy giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Hỷ căn tương ưng với ba giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như hỷ căn, ưu căn cũng như vậy.
Thọ do nhãn xúc sinh ra tương ưng với ba giới, hai xứ, ba uẩn, không tương ưng với mười bảy giới, mười hai xứ, năm uẩn.
Như thọ do nhãn xúc sinh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra, sáu tưởng thân, nên biết cũng như vậy.
***
Phẩm 5: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 1
* Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục, bao nhiêu thứ thuộc cõi Sắc, bao nhiêu thứ thuộc cõi Vô sắc?
Đáp: Ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục, ba mươi mốt thứ thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt thứ thuộc cõi Vô sắc.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tu đoạn?
Đáp: Tám mươi tám thứ do kiến đoạn, mười thứ do tu đoạn.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục: Bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tu đoạn?
Đáp: Ba mươi hai thứ do kiến đoạn, bốn thứ do tu đoạn.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc: Bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tu đoạn?
Đáp: Hai mươi tám thứ do kiến đoạn, ba thứ do tu đoạn.
Như ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn trừ, bao nhiêu thứ do kiến tập, diệt, đạo, do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Hai mươi tám thứ do kiến khổ đoạn trừ, mười chín thứ do kiến tập đoạn trừ, mười chín thứ do kiến diệt đoạn trừ, hai mươi hai thứ do kiến đạo đoạn trừ, mười thứ do tu đạo đoạn trừ.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục: Bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn trừ, bao nhiêu thứ do kiến tập, diệt, đạo, do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Mười thứ do kiến khổ đoạn trừ, bảy thứ do kiến tập đoạn trừ, bảy thứ do kiến diệt đoạn trừ, tám thứ do kiến đạo đoạn trừ, bốn thứ do tu đạo đoạn trừ.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc: Bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn trừ, bao nhiêu thứ do kiến tập, diệt, đạo, do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Chín thứ do kiến khổ đoạn trừ, sáu thứ do kiến tập đoạn trừ, sáu thứ do kiến diệt đoạn trừ, bảy thứ do kiến đạo đoạn trừ, ba thứ do tu đạo đoạn trừ.
Như ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc cũng như vậy.
**
* Hỏi: Thế nào là nghĩa của Tùy miên?
Đáp: Nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên. Nghĩa tùy trục là nghĩa của tùy miên. Nghĩa tùy phược (Theo sự trói buộc) là nghĩa của tùy miên. Tùy miên như thế nếu chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp, do hai sự việc nên là tùy tăng: Đó là đối tượng duyên và tương ưng. Tùy tăng như vậy là đối với tự giới, không phải là tha giới.
*
Có mười hai tùy miên:
- Tùy miên dục tham.
- Tùy miên giận dữ.
- Tùy miên sắc tham.
- Tùy miên vô sắc tham.
- Tùy miên mạn.
- Tùy miên vô minh.
- Tùy miên hữu thân kiến.
- Tùy miên biên chấp kiến.
- Tùy miên tà kiến.
- Tùy miên kiến thủ.
- Tùy miên giới cấm thủ.
- Tùy miên nghi.
Ở đây:
1. Thế nào là tùy miên dục tham tùy tăng? Nghĩa là các thứ đáng yêu mến, ưa thích, tham luyến, vừa ý.
2. Thế nào là tùy miên giận dữ tùy tăng? Nghĩa là các thứ không đáng yêu mến, ưa thích, tham luyến, vừa ý.
3. Thế nào là tùy miên sắc tham tùy tăng? Nghĩa là các thứ đáng yêu mến, ưa thích, vui lòng, hợp ý.
4. Thế nào là tùy miên vô sắc tham tùy tăng? Nghĩa là các thứ đáng yêu mến, ưa thích, vừa ý.
5. Thế nào là tùy miên mạn tùy tăng? Nghĩa là cao ngạo, khinh miệt người khác.
6. Thế nào là tùy miên vô minh tùy tăng? Nghĩa là tối tăm, ngu si, không biết gì.
7. Thế nào là tùy miên hữu thân kiến tùy tăng? Nghĩa là chấp về ngã, ngã sở.
8. Thế nào là tùy miên biên chấp kiến tùy tăng? Nghĩa là chấp đoạn hoặc thường.
9. Thế nào là tùy miên tà kiến tùy tăng? Nghĩa là cho không có nhân quả, không có tác dụng, nên hủy báng.
10. Thế nào là tùy miên kiến thủ tùy tăng? Nghĩa là chấp cho kiến giải của mình là hơn hết, là bậc nhất.
11. Thế nào là tùy miên giới cấm thủ tùy tăng? Nghĩa là cho việc tuân giữ các giới như thế sẽ đạt được thanh tịnh, xuất ly, giải thoát.
12. Thế nào là tùy miên nghi tùy tăng? Nghĩa là mê lầm, ngờ vực, do dự.
Hỏi: Thế nào là dấy khởi tùy miên dục tham v.v… cho đến dấy khởi tùy miên nghi?
Đáp: Tùy miên dục tham dấy khởi do ba xứ: 1. Tùy miên dục tham chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp. 2. Các pháp hiện tiền thuận với sự trói buộc của dục tham. 3. Nơi xứ ấy có tác ý phi lý.
Cho đến tùy miên nghi cũng do ba xứ nên dấy khởi: 1. Tùy miên nghi chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp. 2. Các pháp hiện tiền thuận với sự trói buộc của nghi. 3. Nơi xứ ấy có tác ý phi lý.
*
Hỏi: Có bảy tùy miên và mười hai tùy miên: Là bảy thứ gồm thâu mười hai thứ hay là mười hai thứ gồm thâu bảy thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là như tùy miên dục tham gồm thâu tùy miên dục tham, tùy miên sân gồm thâu tùy miên giận dữ, tùy miên hữu tham gồm thâu các tùy miên sắc tham và vô sắc tham, tùy miên mạn gồm thâu tùy miên mạn, tùy miên vô minh gồm thâu tùy miên vô minh, tùy miên kiến gồm thâu tùy miên năm kiến, tùy miên nghi gồm thâu tùy miên nghi.
Hỏi: Bảy tùy miên và chín mươi tám tùy miên: Là bảy thứ gồm thâu chín mươi tám thứ hay là chín mươi tám thứ gồm thâu bảy thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là như các tùy miên dục tham, sân giận mỗi thứ gồm thâu năm thứ, tùy miên hữu tham gồm thâu mười thứ, tùy miên mạn và vô minh mỗi thứ gồm thâu mười lăm thứ, tùy miên kiến gồm thâu ba mươi sáu thứ, tùy miên nghi gồm thâu mười hai thứ.
Hỏi: Mười hai tùy miên và chín mươi tám tùy miên: Là mười hai thứ gồm thâu chín mươi tám thứ hay là chín mươi tám thứ gồm thâu mười hai thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là như các tùy miên dục tham, sân giận, sắc tham và vô sắc tham, mỗi thứ gồm thâu năm thứ. Tùy miên mạn, vô minh, mỗi thứ gồm thâu mười lăm thứ. Tùy miên hữu thân kiến, biên chấp kiến, mỗi thứ gồm thâu ba thứ. Tùy miên tà kiến, kiến thủ, nghi, mỗi thứ gồm thâu mười hai thứ. Tùy miên giới cấm thủ gồm thâu sáu thứ.
**
* Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ là biến hành, bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Hai mươi bảy thứ là biến hành, sáu mươi lăm thứ không phải là biến hành, sáu thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ tương ưng với không biến hành.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục: Bao nhiêu thứ là biến hành, bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Chín thứ là biến hành, hai mươi lăm thứ không phải là biến hành, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ, không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ, tương ưng với không biến hành.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc: Bao nhiêu thứ là biến hành, bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Chín thứ là biến hành, hai mươi thứ không phải là biến hành, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ, không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ, tương ưng với không biến hành.
Như ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Ba mươi bảy thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, năm mươi lăm thứ không phải là biến hành không do tu đạo đoạn trừ, sáu thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến khổ, tập đoạn trừ tương ưng với không biến hành.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục: Bao nhiêu thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Mười ba thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, hai mươi mốt thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu đạo đoạn trừ, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn trừ tương ưng với không biến hành.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc: Bao nhiêu thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu đạo đoạn trừ?
Đáp: Mười hai thứ là biến hành do tu đạo đoạn trừ, mười bảy thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu đạo đoạn trừ, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ, hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ không tương ưng với không biến hành.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ tương ưng với không biến hành.
Như ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu lậu, bao nhiêu thứ duyên nơi vô lậu?
Đáp: Tám mươi thứ duyên nơi hữu lậu, mười hai thứ duyên nơi vô lậu, sáu thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt, đạo đoạn trừ, hoặc là duyên nơi hữu lậu, hoặc là duyên nơi vô lậu.
Thế nào là duyên nơi hữu lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt, đạo đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Thế nào là duyên nơi vô lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt, đạo đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu lậu, bao nhiêu thứ duyên nơi vô lậu?
Đáp: Ba mươi thứ duyên nơi hữu lậu, bốn thứ duyên nơi vô lậu, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt, đạo đoạn trừ, hoặc là duyên nơi hữu lậu, hoặc là duyên nơi vô lậu.
Thế nào là duyên nơi hữu lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt, đạo đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Thế nào là duyên nơi vô lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt, đạo đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu lậu, bao nhiêu thứ duyên nơi vô lậu?
Đáp: Hai mươi lăm thứ duyên nơi hữu lậu, bốn thứ duyên nơi vô lậu, hai thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo đoạn trừ, hoặc là duyên nơi hữu lậu, hoặc là duyên nơi vô lậu.
Thế nào là duyên nơi hữu lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Thế nào là duyên nơi vô lậu? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu lậu.
Như ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu vi, bao nhiêu thứ duyên nơi vô vi?
Đáp: Tám mươi chín thứ duyên nơi hữu vi, sáu thứ duyên nơi vô vi, ba thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt đoạn trừ, hoặc là duyên nơi hữu vi, hoặc là duyên nơi vô vi.
Thế nào là duyên nơi hữu vi? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Thế nào là duyên nơi vô vi? Nghĩa là tùy miên vô minh do kiến diệt đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu vi, bao nhiêu thứ duyên nơi vô vi?
Đáp: Ba mươi ba thứ duyên nơi hữu vi, hai thứ duyên nơi vô vi, một thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt đoạn trừ hoặc là duyên nơi hữu vi, hoặc là duyên nơi vô vi.
Thế nào là duyên nơi hữu vi? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Thế nào là duyên nơi vô vi? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Dục do kiến diệt đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc: Bao nhiêu thứ duyên nơi hữu vi, bao nhiêu thứ duyên nơi vô vi?
Đáp: Hai mươi tám thứ duyên nơi hữu vi, hai thứ duyên nơi vô vi, một thứ nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ, hoặc là duyên nơi hữu vi, hoặc là duyên nơi vô vi.
Thế nào là duyên nơi hữu vi? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Thế nào là duyên nơi vô vi? Nghĩa là tùy miên vô minh ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ không tương ưng với duyên nơi hữu vi.
Như ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên nầy: Có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là không có tương ưng. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là tùy miên duyên nơi vô lậu. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là tùy miên duyên nơi hữu lậu. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là không có.
Như không nhất định hệ thuộc cõi nào, nên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
**
* Có hai mươi pháp: Là pháp do kiến khổ đoạn trừ, pháp do kiến tập đoạn trừ, pháp do kiến diệt đoạn trừ, pháp do kiến đạo đoạn trừ, pháp do tu đạo đoạn trừ.
Như không nhất định hệ thuộc cõi nào, nên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Đối với pháp do kiến khổ đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do kiến khổ đoạn trừ là hết thảy cùng do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do kiến tập đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do kiến tập đoạn trừ là hết thảy cùng do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do kiến diệt đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do kiến diệt đoạn trừ là hết thảy cùng tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do kiến đạo đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do kiến đạo đoạn trừ là hết thảy cùng tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do tu đạo đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do tu đạo đoạn trừ là hết thảy cùng biến hành biến hành.
Như không nhất định hệ thuộc cõi nào, nên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
*
Hỏi: Đối với pháp do kiến khổ đoạn trừ: Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là không có. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ các thứ không phải là biến hành cùng do kiến diệt, đạo, do tu đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do kiến tập đoạn trừ: Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là không có. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các thứ không phải là biến hành cùng do kiến diệt, đạo, do tu đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do kiến diệt đoạn trừ: Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là các tùy miên biến hành. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ tất cả các tùy miên duyên nơi hữu lậu. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ, tập đoạn trừ các thứ không phải là biến hành cùng do kiến đạo, do tu đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do kiến đạo đoạn trừ: Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là các tùy miên biến hành. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên duyên nơi hữu lậu. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ, tập đoạn trừ các thứ không phải là biến hành cùng do kiến diệt, do tu đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do tu đạo đoạn trừ: Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên? Có bao nhiêu tùy miên là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu tùy miên không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là đối tượng duyên nên là tùy tăng không phải là tương ưng: Nghĩa là các tùy miên biến hành. Là tương ưng nên là tùy tăng không phải là đối tượng duyên: Nghĩa là không có. Là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng là tương ưng: Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên. Không phải là đối tượng duyên nên là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Nghĩa là do kiến khổ, tập đoạn trừ các thứ không phải là biến hành cùng do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Như không nhất định hệ thuộc cõi nào, nên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
HẾT – QUYỂN 3