LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 90

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 20

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, mỗi mỗi thứ tùy miên đã tùy tăng nên nói là có tầm có tứ, hay không tầm chỉ có tứ, hoặc không tầm không tứ?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Vì để ngăn chận tông chỉ khác và nhằm nêu bày chánh lý. Tức là như có thuyết cho tầm và tứ là các tướng thô tế của tâm… cho đến xứ Hữu đảnh, các tâm nhiễm ô đều có tầm tứ. Thế nên khắp cả ba cõi đều có tầm và tứ, như phái Thí Dụ đã nói. Nhằm ngăn chận lối chấp đó và nêu rõ chỉ ở nơi cõi dục, ở trong định vị chí của tĩnh lự thứ nhất là có tầm có tứ. Còn ở tĩnh lự trung gian thì không tầm chỉ có tứ. Từ tĩnh lự thứ hai cho đến xứ Hữu đảnh thì không tầm không tứ. Do các nguyên nhân đấy nên tạo ra phần luận này.

Tùy miên đã tăng nơi nhãn căn gồm đủ cả ba thứ. Nghĩa là tùy miên duyên nơi nhãn căn đã tăng trưởng thì chung nơi năm địa của cõi dục và bốn tĩnh lự có biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Tùy miên như thế nếu ở tại cõi dục và tĩnh lự thứ nhất thì có tầm có tứ. Nếu ở tại tĩnh lự trung gian thì không tầm chỉ có tứ. Nếu ở tại tĩnh lự thứ hai, ba, tư thì không tầm không tứ, nên nói là đủ cả ba thứ. Sau này khi nói “Đủ cả ba thứ” nên biết là căn cứ theo đây, nhưng các địa không tầm không tứ thì hoặc nhiều hoặc ít.

Tùy miên đã tăng nơi nữ căn thì có tầm có tứ. Tức tùy miên đã tăng của căn ấy chỉ ở nơi cõi dục.

Tùy miên đã tăng nơi các nhãn nhĩ thân thức giới thì hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ. Tức năm thức như nhãn v.v… tuy có tầm có tứ, nhưng ở tại tĩnh lự thứ nhất cũng làm đối tượng duyên bị trói buộc cho tùy miên của tĩnh lự trung gian. Tùy miên đã tăng của các giới kia cũng chung cho không tầm chỉ có tứ.

Tùy miên đã tăng nơi tĩnh lự thứ nhất thì hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ. Nói tĩnh lự thứ nhất là hiển bày chung về các pháp của ba địa: vị chí, tĩnh lự căn bản, tĩnh lự trung gian, nên nói có hai thứ. Nếu như chỉ hiển bày về tĩnh lự căn bản tất cũng có hai thứ. Tức các tùy miên hiện có của tĩnh lự trung gian và tĩnh lự thứ nhất đã duyên với ba địa.

Phần văn còn lại dễ hiểu nên không phân biệt.

***

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, mỗi mỗi tùy miên đã tăng nên nói là chúng tương ưng với lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn chăng?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Là để ngăn chận tông chỉ khác và nhằm làm rõ chánh lý. Nghĩa là hoặc có chấp: Hai thứ thọ khổ, lạc tùy theo chỗ nương dựa là thân, từ cõi dục cho đến tĩnh lự thứ tư đều có. Còn hai thọ hỷ, ưu thì tùy theo chỗ dựa là tâm từ cõi dục cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng đều có. Vì để ngăn chận ý tưởng này và nhằm nêu rõ lạc thọ chỉ có ở cõi dục, tĩnh lự đầu và thứ ba, còn hai thọ khổ ưu thì chỉ ở tại cõi dục, hỷ thọ thì chỉ có ở cõi dục và hai tĩnh lự đầu, chỉ mỗi xả thọ là có mặt khắp các địa.

Hoặc lại có chấp: Tâm và tâm sở pháp theo thứ lớp mà khởi nhưng không cùng tương ưng, như phái Thí Dụ nói. Để ngăn chận ý tưởng đó và chỉ rõ tâm và tâm sở pháp cùng thời mà sinh và có nghĩa tương ưng. Do nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Tùy miên đã tăng nơi nhãn căn tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Tùy miên đã tăng nơi nhãn căn thì chung nơi năm địa, ở cõi dục và cõi sắc có biến hành do tu đạo đoạn trừ. nếu ở cõi dục thì tương ưng với hỷ căn, ưu căn, xả căn. Nếu ở hai tĩnh lự đầu thì cùng tương ưng với hỷ căn và xả căn. Nếu ở nơi tĩnh lự thứ ba thì tương ưng với lạc căn và xả căn. Nếu ở nơi tĩnh lự thứ tư thì chỉ tương ưng với xả căn. Do đó nói chung là tương ưng với bốn căn. Khổ căn chỉ tương ưng với năm thức. Trong năm thức thì không duyên với các tùy miên của nhãn căn v.v… nên chúng nhất định không tương ưng với khổ căn.

Tùy miên đã tăng nơi nữ căn thì tương ưng với ba căn, trừ hai căn lạc và khổ. Tức tùy miên đã tăng của nữ căn thì chỉ có ở nơi cõi dục. Ở cõi dục thì lạc và khổ đều cùng có nơi năm thức, nên các tùy miên kia không cùng tương ưng với lạc và khổ.

Tùy miên đã tăng nơi ý căn tương ưng với cả năm căn. Tức ý căn tương ưng chung với năm thọ, nên nó tương ưng với năm căn của tương ưng bị trói buộc. Nếu là đối tượng duyên bị trói buộc thì chỉ có bốn, trừ khổ căn.

Tùy miên đã tăng nơi ba lớp Tam-ma-địa tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Vì khổ căn chỉ duyên với năm cảnh như sắc v.v… không phải là định, còn ba thứ Tam-ma-địa chỉ là vô lậu, không phải tùy miên tăng trưởng, nên không phải là điều ở đây đã nêu.

Phần văn còn lại dễ hiểu nên không phân biệt, vì e các trí giả sinh chán.

***

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thì những gì thành tựu, những gì không thành tựu?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Vì để ngăn chận các tông chỉ khác và nhằm hiển bày chánh lý. Tức như có lối chấp: Không thật có tánh thành tựu và không thành tựu vì chúng chỉ là giả kiến lập. Vì nhằm nêu rõ tánh thành tựu và không thành tựu, là vật có thật. Nếu không như thế thì trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: Nên biết Bổ đặc già la như thế là thành tựu pháp thiện và pháp bất thiện. Lại Khế kinh nói: Ta đã thành tựu mười lực và bốn vô sở úy v.v… Nếu không có tánh thành tựu và không thành tựu, thì hàng phàm phu và bậc Thánh hàng hữu học và vô học, kẻ đoạn dứt căn thiện và kẻ không đoạn dứt căn thiện, quyết định kiến lập đều không thể thành, quyết định là các nhân duyên đều không thể đạt được. Tuy nhiên sự thành tựu và không thành tựu là thế tục có, còn tánh thành tựu và tánh không thành tựu là thắng nghĩa có. Như việc sinh tử là thế tục có, còn các pháp sinh tử là thắng nghĩa có. Kẻ nhập xuất định là thế tục có, còn đối tượng nhập xuất định là thắng nghĩa có. Người tạo tác, kẻ thọ nhận là thế tục có, còn quả dị thục của nghiệp là thắng nghĩa có. Như thế, thì tánh thành tựu và không thành tựu là thắng nghĩa có. Việc thiết lập về thành tựu, không thành tựu là thế tục có. Nghĩa là nếu trong thân có tánh thành tựu gọi là người thành tựu, còn nếu trong thân người ấy có tánh không thành tựu thì gọi là kẻ không thành tựu. Như cây cỏ v.v… là sắc giả, còn bốn trần là thật, Bổ-đặcgià-la như thế là giả, còn năm uẩn như sắc v.v… là thật. Đối với thân cùng nối tiếp của sự giả đó, dựa vào việc được, không được nói là có pháp thành tựu, không thành tựu. Do các nguyên nhân ấy nên tạo ra phần Luận này.

Nhãn căn ở cõi sắc và ở cõi dục đã được không mất là thành tựu. Ở cõi sắc chư Thiên đều có căn đầy đủ, nên quyết định là thành tựu được năm căn như nhãn v.v… Nói căn đầy đủ này là dựa vào sự hiển bày mà nói. Nam căn, nữ căn không hiển bày tức cũng không được gọi là căn đầy đủ, nhưng lại cùng có vì chúng đều được thành tựu, nên nói là căn đầy đủ. Chớ cho tất cả có không phải là ưu khổ, vì căn kia cũng có.

Ở cõi dục đã được, tức nơi vị Bát la xa khư do không mất, nghĩa là không bị hư hoại, không bị rơi rớt, không bị côn trùng cắn phá, không bị tàn hại.

Ở cõi vô sắc và cõi dục chưa được đã mất là không thành tựu. Ở cõi vô sắc, vì là không có sắc nên không thành tựu các căn như nhãn v.v…

Ở cõi dục chưa được, tức là nơi các phần vị Yết-lạt-lam, Átbộ-đàm, Bế-thi, Kiện-nam. Đã mất, nghĩa là đã rã nát, rơi rớt, bị côn trùng cắn phá, bị tàn hại. Về các căn tai, mũi, lưỡi cũng như thế, tức như nói về nhãn căn.

Thân căn ở cõi dục, cõi sắc là thành tựu. Tức có sinh vào cõi sắc tất có thân căn. Còn ở cõi vô sắc thì không thành tựu, vì đó là vô sắc.

Nam căn, nữ căn ở cõi dục đã được không mất là thành tựu, là như đã nói về nhãn căn.

Ở cõi sắc, vô sắc và ở cõi dục, chưa được đã mất, là không thành tựu. Ở cõi sắc, vô sắc không có nữ căn và nam căn, vì không có dâm ái. Do đã chán bỏ căn này nên được sinh lên các cõi đó. Ở cõi sắc, vô sắc không có đoạn thực. Tất nhân nơi đoạn thực mà có căn này, nhân vì không biết xấu hổ mà có căn ấy. Lại nữa, ở các cõi trên nam căn, nữ căn không được dùng đến.

Hỏi: Nếu như thế thì cả mũi lưỡi ở nơi cõi ấy cũng nên không có, vì ở nơi hai cõi kia không có sự việc ngửi mùi nếm vị?

Đáp: Hai căn mũi và lưỡi ở nơi cõi kia là có việc dùng, là để làm trang nghiêm thân tướng và để dấy khởi ngôn thuyết. Còn hai căn nam nữ thì khiến thân tướng xấu xí, nên kẻ biết xấu hổ tất nên che kín.

Tôn giả Diệu Âm nói: Do hai cõi trên đã không chiêu cảm về nghiệp kia.

Hỏi: Nếu ở hai cõi sắc, vô sắc đã không có nam căn nên ở đó không có trượng phu?

Đáp: Ở cõi sắc, vô sắc có dụng của trượng phu, nên gọi là trượng phu. Dụng của trượng phu tức là có thể lìa bỏ dục để có thể hoàn thành việc thiện, nên gọi là trượng phu. Như Khế kinh nói: Bốn hướng và bốn quả đều gọi là trượng phu. Không phải các người nữ đều không chứng hướng và quả. Như Khế kinh nói: Vị Đại Sinh Chủ đây tuy là nữ nhân nhưng đã nhập Thánh đạo, chứng quả dứt hết các lậu, nên cũng gọi là trượng phu. Ở trong nghĩa này nên nêu ra bốn trường hợp:

Hoặc là có trượng phu nhưng không thành tựu nam căn, nghĩa là đã sinh lên các cõi sắc, vô sắc.

Hoặc là có thành tựu nam căn nhưng không gọi là trượng phu, như thọ thân Phiến dĩ bán trạch ca v.v…

Hoặc là có trượng phu cũng thành tựu nam căn, đó là người có đủ nam căn đã lìa nhiễm cõi dục.

Hoặc là có không phải là trượng phu cũng không thành tựu nam căn, tức trừ các trường hợp nêu trên.

Các loài sinh từ thai, trứng, ẩm thấp, dần dần mạng chung tức dần dần xả bỏ sáu thứ sắc căn như mắt v.v… nên ở trong thân căn cũng có dần dần xả bỏ. Nghĩa là như tay chân v.v… Nếu xả bỏ tất cả cực vi của thân căn tức liền mạng chung. Còn ở trong địa ngục, tuy phá bỏ hết các chi tiết nơi thân, cho đến nát nhừ thì cũng còn thân căn.

Có thuyết nói: Bấy giờ, vẫn còn các căn như mắt v.v… Nếu hoàn toàn là không thì sau đó tức nên không sinh lại nữa, vì các dị thục đã đoạn rồi thì về sau không còn nối tiếp.

Có thuyết lại cho: Các loài sống trong địa ngục, khi sáu căn như mắt v.v… đã đoạn rồi thì lại nối tiếp, do các nghiệp đã dẫn dắt, vì pháp của nẻo là như thế. Như các chi tiết nơi thân người đã đoạn hoại rồi thì không thể trở lại nối tiếp. Trong các địa ngục khi các bộ phận nơi thân bị đoạn rồi liền nối tiếp sinh lại. Pháp của nẻo là như thế, không thể cùng so sánh. Cho nên mắt v.v… ở xứ ấy khi đoạn dứt rồi liền sinh lại. Thân căn tất không khi nào toàn phần đều tan hoại. Nếu toàn phần tan hoại thì không có nghĩa còn nối tiếp nữa, vì đó là nơi nương dựa của các sắc căn. Các loài kia có phần ít cực vi của thân căn, nương vào đấy thì thời gian sau các chi tiết sẽ sinh trở lại. Còn thân căn hiện có bên trong các chi tiết đã đoạn rồi vẫn còn sinh trở lại như nhãn căn v.v…

Có Sư khác nêu: Các loài trong địa ngục, tuy các bộ phận nơi thân đã bị phân rời ra làm trăm ngàn phần, nhưng trong các phần ấy đều có thân căn, vì khoảng giữa của các phần luôn có sự liên tục, như khi bằm nát thân cây đỗ trọng cùng thân rễ ngó sen, cũng như phá vỡ phần mềm của nấm cô vốn không hề lìa nhau, nếu chúng cùng lìa thì thân căn không còn. Vì không một hữu tình nào có hai thân. Nhưng nơi thế gian hiện thấy thân của các loài trùng, tuy bị đoạn dứt ra làm nhiều phần mà chúng vẫn còn bò đi được, thì đấy là do sức của phong đại đã chuyển biến không phải là có thân căn.

Các thứ mạng căn, ý căn, xả căn thì tất cả hữu tình đều thành tựu. Tức chúng đều chung nơi chín địa của ba cõi, nơi các phần vị luôn thành tựu.

Lạc căn từ trời Biến tịnh trở xuống và các Thánh giả sinh vào cõi trên thì thành tựu. Phàm phu sinh lên cõi trên thì không thành tựu. Lạc căn chỉ ở nơi cõi dục tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ ba, chung cho hữu lậu và vô lậu. Ở cõi dục và tĩnh lự thứ nhất thì lạc căn chỉ là hữu lậu, còn ở tĩnh lự thứ ba thì chung cho hai thứ. Vì các kẻ hữu lậu khi sinh lên cõi trên phải bỏ cõi dưới nên không thành tựu. Còn các hạng vô lậu khi sinh lên địa trên không bỏ địa dưới, vì vô lậu chỉ có khi chứng đắc quả, chuyển căn, thoái lui mới xả bỏ.

Hỏi: Nếu sinh vào tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự ấy thì người này thành tựu lạc căn ở địa nào?

Đáp: Người này thành tựu lạc căn nhiễm ô của tĩnh lự thứ ba. Nếu người ấy đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai thì lại được lạc căn không nhiễm ô của tĩnh lự thứ ba. Thế nên nếu sinh vào xứ Biến tịnh trở xuống thì đều thành tựu lạc căn. Nói xứ Biến tịnh ở đây là hiển bày chung về địa của mình, tức nêu lên phần sau để làm sáng tỏ phần trước. Các sự việc khác nên căn cứ vào đây.

Hỏi: Từng có Thánh giả sinh nơi tĩnh lự thứ tư trở lên mà không thành tựu lạc căn chăng?

Đáp: Có thuyết nói cũng có. Đó là những vị đã lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ ba, nương vào tĩnh lự thứ hai và ba địa dưới nhập chánh tánh ly sinh, chứng quả Bất hoàn rồi, không khởi hướng sau, khi mạng chung sinh vào các địa của tĩnh lự thứ tư trở lên, người này không thành tựu được lạc căn.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Vì nếu đã lìa nhiễm của địa trên nương nơi địa dưới nhập chánh tánh ly sinh, thì khi chứng quả rồi, tất khởi đạo của quả thù thắng tu pháp vô lậu của địa trên để chứng đắc địa trên, sau đấy mới mạng chung. Như đã lìa nhiễm nơi ba, bốn phẩm, hoặc bảy, tám phẩm ở cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh thì người này khi chứng quả rồi tất khởi đạo của quả vượt hơn tu phẩm vô lậu thù thắng chứng đắc phẩm diệt hơn hẳn sau đấy mới mạng chung.

Hỏi: Nếu đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nương vào tĩnh lự thứ hai và ba địa dưới, do tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, người ấy không khởi hướng sau, khi qua đời sinh lên các địa của tĩnh lự trở lên, thì người này thành tựu được lạc căn ở địa nào?

Đáp: Người này ở địa trên, nếu được tự tại, ngay khi luyện căn cũng có thể tu lạc căn vô lậu ở địa trên. Nếu như ở địa trên không được tự tại, thì người này khi đã chứng quả rồi tất cũng khởi đạo của quả vượt hơn để tu vô lậu nơi bậc trên, sau đấy mới mạng chung. Cho nên Thánh giả khi sinh trên xứ Biến tịnh, quyết định thành tựu được lạc căn vô lậu.

Thành tựu hỷ căn căn cứ theo đây để nói.

Khổ căn chỉ thành tựu ở cõi dục, không thành tựu ở cõi sắc, vô sắc. Ở cõi dục, từ hữu tình cho đến chư Phật cũng thành tựu khổ căn, vì khi gặp cảnh trái nghịch bức bách không do phân biệt mà vẫn sinh khổ. Ở cõi sắc, vô sắc không có khổ căn, là do sức của định thù thắng đã tạo sự thấm nhuần, không có các cảnh trái nghịch và các phiền não của nghiệp bất thiện. Lại, cõi sắc, vô sắc là cõi thù thắng. Nghĩa là trong cõi kém thì thân hơn hẳn cũng có khổ thọ, như các bậc Thanh văn, Độc giác và bậc Đại giác ở cõi dục. Nếu ở trong cõi thù thắng thì thân thấp kém cũng không có khổ thọ, như các phàm phu ở cõi sắc, vô sắc. Như khi có tai họa vào mùa thu, thì tuy lúa tốt vẫn gặp phải nạn sâu bọ cắn phá, còn khi không có dịch họa trên thì tuy cỏ tạp cũng không bị côn trùng phá hoại.

Về ưu căn khi chưa lìa nhiễm cõi dục thì thành tựu. Đã lìa nhiễm cõi dục thì không thành tựu. Vì ưu căn tất do phân biệt mà khởi, kẻ chưa lìa dục lúc phân biệt thì sinh ưu sầu. Người đã lìa dục, khi khởi phân biệt thì không sinh ưu phiền. Thế nên ưu căn là tánh thiện, vì khi đã lìa nhiễm cõi dục thì không thành tựu, vì ở cõi dục có các phiền não dẫn phát.

Ba căn vô lậu đã được không mất là thành tựu. Chưa được đã mất là không thành tựu. Nghĩa là vị tri đương tri căn khi đã nhập kiến đạo gọi là đã được, đạo loại trí chưa hiện tiền, gọi là không mất. Còn khổ pháp trí nhẫn chưa hiện tiền thì gọi là chưa được. Khi đạo loại trí đã hiện tiền trở về sau gọi là đã mất. Khi dĩ tri căn đã khởi đạo loại trí, hoặc thoái chuyển quả A-la-hán gọi là đã được. Tận trí chưa hiện tiền thì gọi là không mất. Đạo loại trí chưa hiện tiền hoặc chưa thoái thất quả A-la-hán gọi là chưa được. Khi tận trí hiện tiền trở về sau thì gọi là đã mất. Cụ tri căn khi tận trí hiện tiền gọi là đã được, không thoái thất quả A-la-hán gọi là không mất. Khi tận trí chưa hiện tiền gọi là chưa được, còn thoái thất quả A-la-hán gọi là đã mất.

Thân, sắc, thanh, xúc giới ở cõi dục và cõi sắc thì thành tựu, ở cõi vô sắc thì không thành tựu.

Hỏi: Thân, sắc, xúc giới thì có thể như thế, còn thanh giới vì sao là luôn được thành tựu?

Đáp: Có thuyết cho: Các đại chủng họp, lìa tất sinh ra thanh giới. Các loài hữu tình nếu ở trong cõi dục và cõi sắc do các đại chủng luôn có mặt, nên thường phát ra âm thanh.

Lời bình: Thuyết kia không nói như thế. Nếu bốn đại chủng tất luôn sinh ra âm thanh, thì âm thanh được sinh này là do đại chủng nào tạo? Nếu tức thứ này tạo ra nên gọi là sắc có đối, là một trong bốn đại chủng sinh. Nếu nói do các thứ khác với bốn đại chung này tạo ra âm thanh, như thế là lần lượt có lỗi vô cùng. Nên nói như vầy: Trong thân của các hữu tình sinh ở cõi dục và cõi sắc có rất nhiều bốn đại chung ở trong một thân, nên khi chúng chạm vào nhau thì phát âm thanh, nếu không chạm vào nhau thì không có âm thanh dấy khởi. Tuy trong một thân tất có thanh giới, nhưng không phải các phần của thân đều phát khắp ra âm thanh.

Tôn giả Giác Thiên nói: Không phải ở cõi dục và cõi sắc thanh giới luôn thành tựu. Văn của bản luận này chỉ dựa vào phần nhiều để nói.

Nhãn, nhĩ, thân, thức giới từ trời Phạm thế trở xuống và sinh vào ba tĩnh lự trên, khi hiện tiền là thành tựu, khi không hiện tiền và ở nơi cõi vô sắc thì không thành tựu. Nghĩa là khi sinh vào cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, tùy chỗ thich ứng mà thành tựu. Nếu ba thức thiện hay nhiễm ô và trong các thứ vô ký mà có hành tập quen thì cũng luôn thành tựu, như oai nghi, công xảo thông quả hơn hẳn. Nếu sinh vào tĩnh lự thứ hai trở lên thì chỉ là vô ký. Khi có hiện tiền tức liền thành tựu, nếu không hiện tiền thì không thành tựu. Vì tánh của năm thức thân thì yếu kém, nên ở địa khác dấy khởi uy thế không vững mạnh. Nếu trong ý thức có tâm biến hóa, tuy sinh ở địa khác uy thế cũng vững mạnh nên tuy không hiện tiền vẫn được thành tựu.

Về vô lậu, vô vi như nơi ý giới luôn thành tựu. Nghĩa là phi trạch diệt nơi tất cả các hữu tình đều cùng thành tựu. Pháp không đoạn trừ ở sau, căn cứ theo đây nên biết.

Ba lớp Tam-ma-địa cũng như đạo đế v.v… đã được là thành tựu, chưa được là không thành tựu. Được rồi tất không có sự việc thoái bỏ. Khi sắp nhập Niết-bàn mới tu đạt được. Đã nhập Niết-bàn rồi, tức không còn thuộc về số hữu tình, nên không thể nói là không thành tựu. Các phần văn còn lại dễ hiểu, nên không phân biệt.

***

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, khi mỗi mỗi thứ đều được nhận biết khắp, thì trong số chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ tùy miên được nhận biết khắp, và trong chín kiết có bao nhiêu kiết đã dứt hết?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Là để ngăn chận các tông chỉ khác và nhằm hiển bày chánh lý. Tức như có kẻ chấp: Sắc pháp cũng do kiến đạo đoạn trừ. Nhằm ngăn chận ý tưởng đó và làm sáng tỏ các sắc pháp không phải do kiến đạo đoạn trừ. Hoặc có người chấp: Hàng phàm phu không thể đoạn trừ các tùy miên do kiến đạo đoạn. Có kẻ khác lại chấp: Hàng phàm phu không thể đoạn trừ các thứ tùy miên, chỉ có thể chế ngự, điều phục. Nhằm ngăn chận ý tưởng này và nêu bày rõ: Các phàm phu có thể đoạn dứt các tùy miên từ cõi dục cho đến xứ Vô sở hữu do kiến đạo, tu đạo đoạn, chỉ trừ xứ Hữu đảnh. Do đấy nên tạo ra phần Luận này.

Các thứ nhận biết khắp lược có hai loại: Một là nhận biết khắp do trí. Hai là nhận biết khắp do đoạn trừ. Trong đây chỉ dựa vào nhận biết khắp do đoạn trừ để tạo phần Luận này.

Đoạn dứt là trạch diệt, tuy không phải là nhận biết khắp, nhưng là quả của nhận biết khắp, nên gọi là nhận biết khắp. Như nói tên gọi của sáu xúc xứ, là từ quả của nghiệp mà lập ra tên của nhân. Nhận biết khắp cũng vậy.

Lại trong đây nói được nhận biết khắp. Tức là đoạn dứt hết các tùy miên kia, tùy theo đoạn dứt pháp nào, khi đoạn dứt hết rốt ráo thì gọi là được nhận biết khắp, không cần chỉ dựa vào chín thứ nhận biết khắp để nói. Khi nhãn căn đã nhận biết khắp thì sắc ái dứt hết. Nghĩa là nhãn căn ở tại năm địa, tức cõi dục và bốn tĩnh lự, khi dục ái đã dứt hết thì nhãn căn ở cõi dục được nhận biết khắp. Cho đến khi các ái ở tĩnh lự thứ tư đã dứt hết, thì nhãn căn ở tĩnh lự thứ tư được nhận biết khắp. Nay dựa vào được nhận biết khắp rốt ráo để nói, nên khi sắc ái dứt hết thì gọi là được nhận biết khắp. Các thứ khác đều căn cứ theo đây.

Ba mươi mốt thứ tùy miên của phàm phu được nhận biết khắp. Là hàng phàm phu bấy giờ đoạn hết ba mươi mốt thứ tùy miên ở cõi sắc do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ. Nên không có các kiết dứt hết: Nghĩa là trong chín kiết lúc ấy không có một thứ nào dứt hết rốt ráo, tuy các tùy miên cũng gọi là kiết, nhưng trong đây nêu bày là theo pháp môn sai biệt. Tức khi nói tùy miên là dựa vào chín mươi tám thứ, còn nói về kiết là dựa vào chín thứ. Phần còn lại đối chiếu nên biết.

Ba thứ tùy miên của Thánh giả được nhận biết khắp.

Bấy giờ, Thánh giả chỉ ở cõi sắc đối với ba thứ tùy miên do tu đạo đoạn trừ được nhận biết khắp. Không có kiết dứt hết, nghĩa là trong số chín kiết, không có một kiết nào được đoạn dứt.

Nam căn, nữ căn khi được nhận biết khắp là dục ái dứt hết: Nghĩa là nam căn, nữ căn chỉ ở nơi cõi dục, khi dục ái dứt hết gọi là được nhận biết khắp.

Ba mươi sáu thứ tùy miên của phàm phu được nhận biết khắp. Tức là hàng phàm phu lúc đó đã đoạn hết ba mươi sáu thứ tùy miên ở cõi dục do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ.

Ba kiết dứt hết: Nghĩa trong chín kiết thì khi ấy ba kiết giận dữ, tật (ganh ghét), xan (keo kiệt) được đoạn dứt rốt ráo.

Bốn thứ tùy miên của Thánh giả được nhận biết khắp: Tức khi ấy, Thánh giả chỉ đối với bốn tùy miên ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ đã được nhận biết khắp.

Ba kiết đã đoạn dứt: Như đã nói ở phần phàm phu, nhưng kiết giận dữ chỉ do tu đạo đoạn trừ.

Mạng căn khi được nhận biết khắp, tức ái ở cõi vô sắc dứt hết: Nghĩa là mạng căn ở tại chín địa khi dục ái đoạn hết, thì mạng căn ở cõi dục được nhận biết khắp. Cho đến khi ái ở xứ Phi tưởng phi phi tưởng dứt hết, tức mạng căn ở xứ Phi tưởng phi phi tưởng được nhận biết khắp. Nay dựa vào phần được nhận biết khắp rốt ráo để nói, nên khi ái ở cõi vô sắc đã dứt hết thì gọi là được nhận biết khắp.

Ba thứ tùy miên được nhận biết khắp. Tức bấy giờ đã đoạn hết ba thứ tùy miên ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ.

Ba kiết dứt hết: Nghĩa là trong chín kiết, thì ba kiết ái, mạn, vô minh đều dứt hết.

Lạc căn khi được nhận biết khắp, tức ở trời Biến tịnh, các ái đã dứt hết là lạc căn đã được nhận biết khắp. Bấy giờ, trong chín mươi tám tùy miên, không được một tùy miên nào gọi là đoạn dứt rốt ráo, nên nói như thế. Các thứ khác thì so sánh với đây, nên biết. Nhưng được nhận biết khắp có mười bảy phần vị. Nghĩa là khi đạt bốn pháp nhẫn trí, bốn loại nhẫn trí chỉ được các pháp nhận biết khắp do kiến đạo đoạn trừ. Ở cõi dục cho đến xứ Vô sở hữu, khi ái nơi tám địa đã dứt hết, thì được chung cho các pháp nhận biết khắp do kiến đạo tu đạo đoạn trừ. Khi ở xứ Phi tưởng phi phi tưởng có ái của một địa đã dứt hết, tức chỉ được các pháp nhận biếtkhắp do tu đạo đoạn trừ. Các pháp ở trong mười bảy phần vị này gọi là được nhận biết khắp, tùy theo sự tương ưng của chúng mà nói. E lời văn quá nhiều, quá dài, nên không hiển bày riêng.

***

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, mỗi mỗi thứ khi diệt tác chứng thì ở trong chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu thứ tùy miên diệt tác chứng, ở trong chín kiết có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Là để ngăn chận các tông chỉ khác và nhằm làm sáng tỏ chánh lý. Tức như có người chấp: Khi định kim cang dụ hiện tiền thì đoạn trừ tức khắc tất cả phiền não trong ba cõi do kiến đạo tu đạo đoạn trừ. Nơi các phần vị ở trước đây, chỉ có thể chế ngự triền, còn đối với các tùy miên đều chưa có thể đoạn dứt. Như Sa-môn đoạn tức khắc nói: Do giác ngộ tức thì đạt được quả vị vô học. Hoặc như khi tỉnh mộng thì tức khắc lìa bỏ giấc ngủ mê. Vì nhằm ngăn chận ý tưởng này và làm rõ khi đoạn trừ tùy miên có đến tám mươi chín thứ phần vị sai biệt. Trong các phần vị này thảy đều chứng diệt. Hoặc lại có lối chấp: Chỉ đạo vô gián mới đoạn trừ được các tùy miên và chỉ đạo giải thoát mới chứng diệt kia. Như Sa-môn nơi phương Tây nói:

Không phải là đạo vô gián thì không đoạn trừ phiền não. Không phải là đạo giải thoát thì không chứng diệt. Vì để ngăn chận ý tưởng này, cùng hiển bày đạo vô gián có thể đoạn dứt các phiền não, ngăn cách phiền não khiến chúng không nối tiếp hiện hành được, lại cũng có thể chứng diệt, dẫn sinh ly hệ đắc khiến chánh khởi. Các đạo giải thoát chỉ gọi là chứng diệt cùng với ly hệ đắc đều được hiện tiền. Lại vì muốn nêu rõ về lý diệt tác chứng khiến các người trí đều nhận biết, nên tạo ra phần Luận này.

Đối với pháp tác chứng lược có hai thứ: 1. Tác chứng do trí. 2. Tác chứng do đắc. Tác chứng do trí nghĩa là tất cả pháp trí đều có thể chứng biết. Tác chứng do đắc tức là các pháp thiện thông quả, vô ký đều có thể chứng đạt. Trong đây chỉ dựa vào tác chứng do đắc để nói và cũng căn cứ vào diệt tác chứng để nêu bày. Diệt tức là trạch diệt, ở trong các phần vị khởi đắc chứng diệt, gọi là diệt tác chứng. Diệt tác chứng này, tùy theo phần vị sai khác có đến tám mươi chín thứ. Nghĩa là khi có bốn pháp nhẫn trí, bốn loại nhẫn trí cùng chín địa, mỗi thứ đều có chín đạo vô gián giải thoát, và khi có đủ bốn pháp loại nhẫn trí thì chỉ chứng được pháp diệt do kiến đạo đoạn trừ. Khi có tám đạo vô gián giải thoát, trước ở nơi xứ Phi tưởng phi phi tưởng, thì chỉ chứng được pháp diệt do tu đạo đoạn trừ. Khi có đủ bảy mươi ba thứ còn lại thì chứng đắc chung pháp diệt do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ. Lại, diệt tác chứng gồm có năm phần vị. Nghĩa là khi mỗi thứ đều có đạo đối trị với tự phẩm và khi chứng được bốn quả Sa-môn cùng khi luyện căn. Tức nên nói có sáu thứ, nhưng khi luyện căn tất được quả, tức thuộc về bốn quả, cho nên nói có năm thời. Ở ba cõi các phiền não do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ, đối với năm phần vị này, khi diệt tác chứng thì có thứ đủ có thứ không đủ.

Hoặc có phiền não chỉ có ở một thời, tức là ở xứ Phi tưởng phi phi tưởng có phẩm thứ chín do tu đạo đoạn trừ, khi chứng đắc quả A-la-hán.

Hoặc có phiền não chỉ có ở hai thời, nghĩa là tám phẩm trước ở xứ Phi tưởng phi phi tưởng do tu đạo đoạn và bảy địa dưới, mỗi địa đều có chín phẩm do tu đạo đoạn trừ. Tức khi mỗi thứ đều có đạo đối trị với tự phẩm và khi chứng đắc quả A-la-hán. Ở cõi dục, phẩm thứ chín do tu đạo đoạn trừ cũng có hai thời, là khi chứng được hai quả sau.

Hoặc có phiền não chỉ có ở ba thời, là phẩm thứ bảy, thứ tám ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ, là khi mỗi thứ đều có đạo đối trị với tự phẩm và khi chứng được hai quả Sa-môn sau. Phẩm thứ sáu ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ cũng có ba thời, là khi chứng được ba quả Sa-môn sau.

Hoặc có phiền não chỉ có ở bốn thời. Đó là ở cõi sắc, vô sắc do kiến đạo đoạn trừ, tức khi chứng được bốn quả Sa-môn. Năm phẩm trước ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ cũng có bốn thời, nghĩa là khi mỗi thứ đều có đạo đối trị với tự phẩm và khi chứng được ba quả Sa-môn sau.

Hoặc có phiền não có đủ năm thời. Nghĩa là ở ba cõi do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ, cùng ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ, tức khi mỗi thứ đều có đạo đối trị với tự phẩm và khi chứng đắc bốn quả Sa-môn.

Đây là dựa vào Thánh giả diệt tác chứng để nói. Nếu dựa vào phàm phu thì phiền não nơi tám địa do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ, tức khi mỗi thứ đều chỉ có đạo đối trị với tự phẩm gọi là diệt tác chứng. Các pháp hữu lậu còn lại khi diệt tác chứng thì căn cứ vào phiền não ở trước, nên biết.

Các phần vị trải qua từ nhãn căn v.v… gồm bốn mươi hai chương đã biện về diệt tác chứng theo như bản luận đã nói.

Hỏi: Về môn “Nhận biết khắp” ở trước cùng với môn “Diệt tác chứng” này có gì khác nhau?

Đáp: Môn nhận biết khắp ở trước thì hiển bày khi nhãn căn v.v… đã dứt hết rốt ráo thì đạt được sự đoạn trừ có sai khác. Còn môn diệt tác chứng thì làm rõ khi nhãn căn đã đoạn dứt rốt ráo và các phần vị sau chứng diệt có sai biệt. Nghĩa là các phần vị sau luôn chứng đắc một vị diệt của nhãn căn v.v…

Các Sư ở Tây phương nói: Môn nhận biết khắp ở trước hiển bày đạo vô gián dứt hết các phiền não mà được. Còn môn diệt tác chứng thì làm rõ về đạo giải thoát đã chứng ly hệ đắc.

Các Sư ở nước này thì cho: Môn nhận biết khắp ở trước chỉ hiển bày về đạo vô gián đoạn trừ các phiền não mà được. Còn môn diệt tác chứng thì hiển bày chung cho cả đạo vô gián và đạo giải thoát cùng chứng ly hệ đắc mà được.

Lại nữa, môn nhận biết khắp ở trước chỉ làm rõ về phần vị đầu tiên đạt được đoạn trừ do nhận biết khắp. Còn môn diệt tác chứng thì hiển bày chung về phần vị trước sau nơi diệt tác chứng.

Đó là sự khác nhau của hai môn nhận biết khắp và diệt tác chứng.

Trong mười môn này là chung nơi bốn mươi hai chương đã nêu bày ở trước, có năm phần vị khác nhau. Nghĩa là trong bốn mươi hai chương đã nói ở trước gồm có ba loại. Tức là từ hai mươi hai căn cho đến pháp do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ, và pháp không đoạn trừ, gọi là loại cảnh giới. Từ bốn Thánh đế cho đến ba lớp Tam-ma-địa gọi là loại công đức. Từ ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên gọi là loại quá thất. Trong loại cảnh giới, hai mươi hai căn là số nhiều trước nhất nên lập riêng một vị. Trong loại quá thất chín mươi tám tùy miên là số nhiều sau cùng nên lập riêng một vị. Pháp của ba loại còn lại đều làm một vị nên hợp có năm vị. Trong năm vị đó, có thứ giống nhau nên đều lược tướng loại. Các thứ không giống nhau thì đều phân biệt rộng. Bậc trí đối với sự việc này nên khéo nhận biết rõ.

Ở đây, Tôn giả đã lược dùng mười môn chung cho bốn mươi hai chương đã nói ở trước, trong đó sai biệt lại có nhiều thứ. Tức là nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, ở trong chín mươi tám tùy miên, mỗi mỗi thứ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, mỗi mỗi thứ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc không phải là tương ưng với trói buộc? Có bao nhiêu thứ là tương ưng với trói buộc không phải là đối tượng duyên bị trói buộc? Có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc cũng là tương ưng với trói buộc? Có bao nhiêu thứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc cũng không phải là tương ưng với trói buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, là tùy miên đã tăng, có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc không phải là tương ưng với trói buộc? Có bao nhiêu thứ là tương ưng với trói buộc không phải là đối tượng duyên bị trói buộc? Có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc cũng là tương ưng với trói buộc? Có bao nhiêu thứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc cũng không phải là tương ưng với trói buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc không phải là tương ưng với trói buộc. Có bao nhiêu thứ là tương ưng với trói buộc không phải là đối tượng duyên bị trói buộc? Có bao nhiêu thứ là đối tượng duyên bị trói buộc cũng là tương ưng với trói buộc?

Có bao nhiêu thứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc cũng không phải là tương ưng với trói buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì trong mười lăm bộ tâm của ba cõi, mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì mỗi mỗi thứ cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, hay không tầm không tứ?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, nên nói là tương ưng với các căn lạc, khổ, hỷ, ưu, xả?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là tương ưng với lạc căn… cho đến xả căn?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, nên nói là tương ưng với lạc căn… cho đến xả căn?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là tương ưng với lạc căn… cho đến xả căn?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là tương ưng với lạc căn cho đến xả căn?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, là tùy miên đã tăng, nên nói là tương ưng với lạc căn cho đến xả căn?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, thì những gì là thành tựu và những gì là không thành tựu?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được nhận biết khắp thì ở trong chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp và trong chín kiết có bao nhiêu kiết dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi được nhận biết khắp thì có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được nhận biết khắp thì có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi được nhận biết khắp thì có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được nhận biết khắp thì có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi được nhận biết khắp thì có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi diệt tác chứng thì ở trong chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và trong chín kiết có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi diệt tác chứng thì có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được diệt tác chứng thì có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi được diệt tác chứng thì có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và có bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được diệt tác chứng thì có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, khi được diệt tác chứng thì có bao nhiêu tùy miên được diệt tác chứng và bao nhiêu kiết được dứt hết?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, trong chín kiết có bao nhiêu kiết đã trói buộc? Trong ba phược có bao nhiêu phược đã trói buộc. Trong mười tùy miên có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Trong sáu cấu có bao nhiêu cấu đã cấu nhiễm? Trong mười triền có bao nhiêu triền đã vây buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc được tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vạy buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc không tạo thành?

Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ và đạo đoạn, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có bao nhiêu kiết đã trói buộc, cho đến có bao nhiêu triền đã vây buộc?

Các chủng loại như thế có vô lượng môn chung với bốn mươi hai chương đã nói ở trước. Các bậc có trí nên theo đấy quyết định chọn lựa.

HẾT – QUYỂN 90