LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 87

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 17

Ở đây, tùy miên đối với các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc và tương ưng với trói buộc, do rộng hẹp không đều nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là vô minh không chung duyên với hữu lậu.

2. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là tương ưng với trói buộc không phải là đối tượng duyên bị trói buộc: Nghĩa là trừ vô minh không chung duyên với vô lậu, còn lại là các tùy miên duyên nơi vô lậu.

3. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc cũng là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là trừ vô minh không chung duyên với hữu lậu, còn lại là các tùy miên duyên nơi hữu lậu. Đây là nói chung. Còn như nói riêng, nếu chúng là đối tượng duyên bị trói buộc tức không tương ưng với trói buộc, nếu đã tương ưng với trói buộc thì không phải là đối tượng duyên bị trói buộc.

4. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên không phải là đối tượng duyên bị trói buộc cũng không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là vô minh không chung duyên với vô lậu.

Ở trong nghĩa này, Tôn giả Vụ nêu bày về bốn trường hợp có khác:

1. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là địa của mình duyên với vô minh không chung chưa đoạn hết.

2. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là tương ưng với trói buộc không phải là đối tượng duyên bị trói buộc: Nghĩa là trừ địa của mình duyên nơi cõi khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc duyên nơi cõi của mình, duyên nơi cõi khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc vô minh không chung duyên nơi vô lậu, hoặc các phần còn lại nơi địa của mình duyên nơi cõi khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cõi của mình duyên nơi cõi khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc tùy miên chưa đoạn hết duyên nơi vô lậu.

3. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc cũng là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là trừ địa của mình duyên với vô minh không chung, các phần khác nơi địa của mình duyên nơi tùy miên chưa đoạn hết. Đây là nói chung. Còn như nói riêng, nếu chúng là đối tượng duyên bị trói buộc tức không tương ưng với trói buộc, nếu đã tương ưng với trói buộc thì không phải là đối tượng duyên bị trói buộc.

4. Hoặc có tùy miên đối với các tùy miên không phải là đối tượng duyên bị trói buộc cũng không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn hết, hoặc là tùy miên của địa khác, hoặc là địa của mình duyên nơi cõi khác, hoặc là duyên nơi địa khác, hoặc cõi của mình duyên nơi cõi khác, hoặc địa của mình duyên nơi các pháp khác, hoặc vô minh không chung duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Nếu các tùy miên có tầm có tứ thì chúng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp có tầm có tứ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có các tùy miên có tầm có tứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp có tầm có tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn hết là duyên nơi cõi khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cõi của mình duyên nơi cõi khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc duyên nơi vô lậu.

2. Có các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp có tầm có tứ nhưng không phải là tùy miên có tầm có tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ, là duyên nơi hữu lậu, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

3. Có các tùy miên có tầm có tứ cũng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp có tầm có tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ, là duyên nơi hữu lậu của địa mình, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

4. Có các tùy miên không phải là có tầm có tứ cũng không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp có tầm có tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn hết là duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cảnh giới của mình duyên nơi cảnh giới khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc duyên nơi vô lậu cùng các tùy miên không tầm không tứ.

Hỏi: Nếu các tùy miên không tầm chỉ có tứ thì chúng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm chỉ có tứ chăng?

Đáp: Nêu nêu ra bốn trường hợp:

1. Có các tùy miên không tầm chỉ có tứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm chỉ có tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn hết là duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cảnh giới của mình duyên nơi cảnh giới khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc duyên nơi vô lậu.

2. Có các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm chỉ có tứ nhưng không phải là tùy miên không tầm chỉ có tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ, là duyên với hữu lậu nơi tự địa của mình, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

3. Có các tùy miên không tầm chỉ có tứ cũng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm chỉ có tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ, là duyên nơi hữu lậu, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

4. Có các tùy miên không phải là không tầm chỉ có tứ cũng không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm chỉ có tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn hết là duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cảnh giới của mình duyên nơi cảnh giới khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc duyên nơi vô lậu, hoặc các tùy miên có tầm có tứ nhưng là địa khác, và các tùy miên không tầm không tứ.

Hỏi: Nếu các tùy miên không tầm không tứ thì chúng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm không tứ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có các tùy miên không tầm không tứ không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm không tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm không tứ đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn dứt hết là duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cảnh giới của mình duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi vô lậu.

2. Có các tùy miên là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm không tứ nhưng không phải là tùy miên không tầm không tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, là địa của mình duyên với hữu lậu, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

3. Có các tùy miên không tầm không tứ cũng là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm không tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm không tứ, là địa của mình duyên với hữu lậu, duyên nơi tùy miên chưa đoạn.

4. Có các tùy miên không phải là không tầm không tứ cũng không phải là đối tượng duyên bị trói buộc của pháp không tầm không tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, đã đoạn hết. Nếu như chưa đoạn dứt thì duyên nơi cảnh giới khác, hoặc duyên nơi địa khác, hoặc cảnh giới của mình duyên nơi cảnh giới khác, hoặc địa của mình duyên nơi pháp khác, hoặc duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Nếu các tùy miên có tầm có tứ thì chúng đối với pháp có tầm có tứ là tương ưng với trói buộc chăng?

Đáp: Nếu các tùy miên đối với pháp có tầm có tứ là tương ưng với trói buộc thì chúng tất có tầm có tứ. Hoặc có tùy miên có tầm có tứ nhưng đối với pháp có tầm có tứ không phải tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ nhưng đã đoạn dứt hết.

Hỏi: Nếu các tùy miên không tầm chỉ có tứ thì chúng đối với pháp không tầm chỉ có tứ là tương ưng với trói buộc chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có các tùy miên không tầm chỉ có tứ đối với pháp không tầm chỉ có tứ không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ nhưng đã đoạn dứt hết.

2. Có các tùy miên đối với pháp không tầm chỉ có tứ là tương ưng với trói buộc nhưng không phải là không tầm chỉ có tứ: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ, đối với pháp không tầm chỉ có tứ, là tương ưng với trói buộc.

3. Có các tùy miên không tầm chỉ có tứ cũng là đối với pháp không tầm chỉ có tứ tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ chưa đoạn dứt hết.

4. Có các tùy miên không phải là không tầm chỉ có tứ cũng không phải đối với pháp không tầm chỉ có tứ tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên có tầm có tứ đã đoạn dứt hết và các tùy miên không tầm không tứ.

Hỏi: Nếu các tùy miên không tầm không tứ thì chúng đối với pháp không tầm không tứ là tương ưng với trói buộc chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có các tùy miên không tầm không tứ đối với pháp không tầm không tứ không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên không tầm không tứ nhưng đã đoạn dứt hết.

2. Có các tùy miên đối với pháp không tầm không tứ là tương ưng với trói buộc nhưng không phải là không tầm không tứ: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ đối với pháp không tầm chỉ có tứ là tương ưng với trói buộc.

3. Có các tùy miên không tầm không tứ cũng đối với pháp không tầm không tứ tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên không tầm không tứ nhưng chưa đoạn dứt hết.

4. Có các tùy miên không phải là không tầm không tứ cũng đối với pháp không tầm không tứ không phải là tương ưng với trói buộc: Nghĩa là các tùy miên không tầm chỉ có tứ đã đoạn dứt hết và các tùy miên có tầm có tứ

Hỏi: Từng có pháp là hữu lậu, là tâm sở, không tầm chỉ có tứ chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp, không phải là tùy miên tùy tăng không tầm chỉ có tứ chăng?

Đáp: Có. Đó là tầm ở cõi dục.

Hỏi: Từng có pháp là hữu lậu, là tâm sở, không tầm chỉ có tứ chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp, là tùy miên tùy tăng có tầm có tứ chăng?

Đáp: Có. Đó là tầm ở cõi dục và tĩnh lự thứ nhất.

Hỏi: Từng có pháp là hữu lậu, là tâm sở, không tầm không tứ, không phải là tùy miên tùy tăng không tầm không tứ chăng?

Đáp: Có. Đó là tứ của tĩnh lự trung gian.

Hỏi: Từng có tụ nào một thời sinh, một thời trụ, một thời diệt, có một chỗ nương dựa, một đối tượng duyên, đồng hành tướng, lúc sinh cùng sinh, lúc diệt cùng diệt, mà tùy miên đối với nó vừa là tương ưng với trói buộc, vừa không tương ưng với trói buộc chăng?

Đáp: Có. Đó là tụ của vô minh không chung. Vô minh đối với nó là có tương ưng với trói buộc, tức pháp tương ưng với vô minh thì không tương ưng với trói buộc, nghĩa là đối với tự tánh của vô minh.

***

* Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn duyên nơi thức cùng duyên nơi thức duyên, đối với chín mươi tám tùy miên, mỗi mỗi thứ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn ngăn chận thuyết của người khác và hiển bày nghĩa chính đáng. Tức như phái Thí Dụ đã nói: Sáu thức thân như nhãn v.v… có cảnh nơi đối tượng duyên khác nhau. Họ cho ý thức có đối tượng duyên riêng, không duyên nơi đối tượng duyên của năm thức như nhãn v.v… Lại nói: Sáu thức chỉ duyên với cảnh bên ngoài, không duyên với căn bên trong, cũng không duyên nơi thức. Để ngăn chận ý tưởng ấy, nhằm nêu rõ năm thức trước mỗi thứ đều có đối tượng duyên riêng, chỉ duyên với cảnh bên ngoài, không duyên với căn thức. Đối tượng duyên của ý thức cùng với cảnh của năm thức có đồng có khác, cũng duyên với các căn bên trong cũng duyên với các thức. Lại nữa, vì muốn hiển bày lý chánh của các pháp để mọi người hiểu rõ, nên tạo ra phần Luận này.

Nên biết ở đây, đối tượng duyên nơi các pháp gồm có mười sáu thứ: Nghĩa là do ba cõi mỗi cõi có năm bộ và pháp vô lậu. Chủ thể duyên là các thức cũng có mười sáu thứ khác như thế.

Hỏi: Ở đây pháp nào là đối tượng duyên của bao nhiêu thức?

Đáp: Pháp ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ làm đối tượng duyên cho năm thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

4. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

5. Phẩm pháp trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ làm đối tượng duyên cho năm thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Còn do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

Pháp ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ làm đối tượng duyên cho sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

5. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

6. Phẩm pháp trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho sáu thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

Pháp ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho năm thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

4. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện, vô phú vô ký.

5. Phẩm pháp trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ làm đối tượng duyên cho tám thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

7. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

8. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ làm đối tượng duyên cho tám thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Còn do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

Pháp ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ làm đối tượng duyên cho chín thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

7. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn các thức thiện và vô phú vô ký.

8. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn các thức thiện.

9. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho chín thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

Pháp ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho tám thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

7. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

8. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ làm đối tượng duyên cho mười thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

7. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức.

8. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành tương ưng với thức.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

10. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ làm đối tượng duyên cho mười thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức. Còn do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành tương ưng với thức.

Pháp ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ làm đối tượng duyên cho mười một thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

7. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

8. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

9. Ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

10. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện và vô phú vô ký.

11. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho mười một thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

Pháp ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho mười thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên với cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên với cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên với cõi khác tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên với cõi khác tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

7. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

8. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

10. Phẩm loại trí nơi thức vô lậu.

Pháp vô lậu làm đối tượng duyên cho mười thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn các thức thiện.

7. Ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

8. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện.

10. Phẩm pháp loại trí nơi thức vô lậu.

Hỏi: Mười sáu thức này mỗi mỗi thứ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Đáp: Thức ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ có tất cả thứ ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ và các tùy miên biến hành tùy tăng do kiến tập đoạn trừ. Thức ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ có tất cả thứ ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ và các tùy miên biến hành tùy tăng do kiến khổ đoạn trừ. Thức ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ có tất cả thứ ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ cùng tùy miên biến hành tùy tăng do kiến diệt đoạn trừ. Thức ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ có tất cả thứ ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ, cùng tùy miên biến hành tùy tăng do kiến đạo đoạn trừ. Thức ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ có tất cả thứ ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ và các tùy miên biến hành tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Ở cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi đều có năm bộ thức cũng như vậy. Có khác biệt: Là mỗi cõi đều nên nói về thức vô lậu ở cõi mình, không phải là tùy miên tùy tăng, nghĩa như trước đã nói.

Lại nữa, ở đây pháp của đối tượng duyên có ba mươi hai thứ. Nghĩa là mười sáu pháp nêu trước, mỗi loại có hai thứ như sau:

Bốn bộ trước có hai thứ: 1. Tương ưng. 2. Không tương ưng.

Do tu đạo đoạn trừ có hai thứ: 1. Nhiễm ô. 2. Không nhiễm ô.

Pháp vô lậu có hai thứ: 1. Hữu vi. 2. Vô vi.

Vô lậu hữu vi: Tức là phẩm pháp loại trí.

Vô lậu vô vi: Tức là ba thứ vô vi.

Thức của chủ thể duyên cũng có ba mươi hai thứ. Nghĩa là mười sáu thức nêu trước, mỗi thức có hai loại như sau:

Do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ có hai thứ: 1. Tùy miên biến hành tương ưng với thức. 2. Tùy miên không biến hành tương ưng với thức.

Do kiến diệt đoạn trừ có hai thứ: 1. Tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. 2. Tùy miên duyên nơi vô vi tương ưng với thức.

Do kiến đạo đoạn trừ có hai thứ: 1. Tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức. 2. Tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

Do tu đạo đoạn trừ có hai thứ: 1. Thức nhiễm ô. 2. Thức không nhiễm ô.

Vô lậu có hai thứ: 1. Thức vô lậu của phẩm pháp trí. 2. Thức vô lậu của phẩm loại trí.

Ở đây, mỗi mỗi pháp có từng ấy đối tượng duyên nơi thức. Mỗi mỗi thức có từng ấy tùy miên tùy tăng đều tùy theo chỗ thích hợp, căn cứ theo trước nên nêu bày.

Lại nữa, ở đây pháp của đối tượng duyên có đến một trăm hai mươi thứ:

Nghĩa là nơi ba cõi, pháp nhiễm ô của năm bộ có chín mươi tám thứ, tức chín mươi tám phẩm tùy miên. Trong ấy, hoặc tự tánh, hoặc tương ưng, hoặc cùng khởi của chúng, đều gọi là phẩm đó.

Trong ba cõi do tu đạo đoạn trừ các pháp không nhiễm ô có mười bảy thứ, tức ở cõi dục có bảy thứ, ở cõi sắc có sáu thứ và ở cõi vô sắc có bốn thứ.

Ở cõi dục có bảy thứ: Tức về thiện có hai thứ: 1. Pháp thiện của sinh đắc. 2. Pháp thiện của gia hạnh. Vô ký có năm thứ: 1. Pháp dị thục sinh. 2. Pháp đường oai nghi. 3. Pháp xứ công xảo. 4. Pháp thông quả vô ký. 5. Pháp tự tánh vô ký.

Ở cõi sắc có sáu thứ: Thiện có hai thứ: Như đã nói ở phần cõi dục. Vô ký có bốn: Trừ xứ công xảo. Phần còn lại như đã nói ở cõi dục.

Ở cõi vô sắc có bốn: Thiện có hai thứ: Như đã nói ở phần cõi dục. Vô ký có hai thứ: 1. Dị thục sinh. 2. Tự tánh vô ký.

Pháp vô lậu có năm thứ: Tức là phẩm pháp trí, phẩm loại trí và ba vô vi.

Thức của chủ thể duyên có một trăm mười bốn thứ: Nghĩa là thức ở ba cõi, năm bộ nhiễm ô có chín mươi tám thứ, tức chín mươi tám tùy miên tương ưng với thức.

Thức không nhiễm ô trong ba cõi do tu đạo đoạn có mười bốn thứ: Tức ở cõi dục có sáu thứ: 1. Thức thiện sinh đắc. 2. Thức thiện gia hạnh. 3. Thức dị thục sinh. 4. Thức đường oai nghi. 5. Thức xứ công xảo. 6. Thức thông quả vô ký.

Cõi sắc có năm thứ: Trừ thức xứ công xảo, các thứ khác như đã nói ở cõi dục.

Cõi vô sắc có ba thứ: 1. Thức thiện sinh đắc. 2. Thức thiện gia hạnh. 3. Thức dị thục sinh.

Thức vô lậu có hai thứ: 1. Thức vô lậu của phẩm pháp trí. 2. Thức vô lậu của phẩm loại trí.

Trong đó, mỗi mỗi pháp có từng ấy đối tượng duyên của thức. Mỗi mỗi thức có từng ấy tùy miên tùy tăng, đều theo chỗ thích ứng căn cứ theo trước nên nêu bày.

Hỏi: Thức thiện sinh đắc có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Ở cõi dục và cõi sắc có thể duyên nơi tất cả pháp của ba cõi và pháp vô lậu.

Ở cõi vô sắc có thể duyên nơi tất cả pháp hữu lậu, vô lậu nơi tự địa cùng địa trên và duyên với hư không.

Hỏi: Thức thiện gia hạnh có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Ở cõi dục và cõi sắc có thể duyên nơi tất cả pháp của ba cõi và pháp vô lậu.

Ở cõi vô sắc có thể duyên nơi tất cả pháp hữu lậu, vô lậu nơi tự địa và địa trên, cùng duyên nơi pháp hữu lậu nơi địa kế dưới.

Hỏi: Thức vô ký dị thục sinh có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Ở cõi dục, nếu là quả bất thiện thì chỉ duyên với pháp ở cõi dục do tu đạo đoạn. Nếu là quả thiện thì chỉ duyên với pháp nơi năm bộ ở cõi dục.

Ở cõi sắc duyên với tất cả pháp hữu lậu nơi tự địa và địa dưới.

Có thuyết cho: Chỉ duyên với pháp nơi năm bộ của tự địa.

Ở cõi vô sắc chỉ duyên với pháp nơi năm bộ của tự địa.

Hỏi: Thức đường oai nghi có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Ở cõi dục chỉ duyên với pháp nơi năm bộ của cõi dục.

Ở cõi sắc chỉ duyên với pháp nơi năm bộ của cõi dục, cõi sắc.

Hỏi: Thức xứ công xảo có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Chỉ duyên với pháp nơi năm bộ ở cõi dục.

Hỏi: Thức thông quả vô ký có thể duyên nơi pháp nào?

Đáp: Ở cõi dục chỉ duyên với pháp nơi cõi dục do tu đạo đoạn. Ở cõi sắc chỉ duyên với pháp nơi cõi dục, cõi sắc do tu đạo đoạn. Hỏi: Hư không phi trạch diệt là đối tượng duyên của thức nào? Đáp: Là đối tượng duyên của thức thiện ở ba cõi do tu đạo đoạn.

Nhãn căn duyên nơi thức nơi ba bộ của cõi dục, cõi sắc, biến hành nơi cõi vô sắc, cùng duyên với tu đạo đoạn, duyên nơi thức nơi bốn bộ của ba cõi: Nhãn căn chung nơi năm địa của cõi dục, cõi sắc, chỉ do tu đạo đoạn là đối tượng duyên của tám thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả, cùng tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, tức là tâm thiện nơi cận phần của Không vô biên xứ. Thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả, cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Thức vô lậu, tức là các phẩm khổ tập pháp loại trí. Thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói nhãn căn duyên nơi thức thuộc ba bộ của cõi dục và cõi sắc, biến hành ở cõi vô sắc, do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Nhãn căn duyên nơi thức là đối tượng duyên của mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức v.v…, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả, cùng do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các thứ phẩm khổ tập pháp trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký: Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các thứ phẩm khổ tập loại trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký: Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Là ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức, nên thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

9. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các thức thiện ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

10. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các thức thiện ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

11. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các phẩm khổ tập loại trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

12. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ các thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên. Các thức thiện ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

13. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Nhãn căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi nhãn căn duyên, là thức hữu lậu vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói nhãn căn duyên nơi thức duyên và bốn bộ tùy miên tùy tăng ở ba cõi.

Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Nghĩa là các căn như nhĩ v.v… cũng chung nơi năm địa ở cõi dục và cõi sắc, chỉ do tu đạo đoạn trừ như nhãn căn.

Nữ căn duyên nơi thức, thuộc ba bộ của cõi dục, biến hành ở cõi sắc và do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức duyên, thuộc bốn bộ ở cõi dục, ba bộ ở cõi sắc, biến hành ở cõi vô sắc, do tu đạo đoạn trừ: Nữ căn chỉ ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ làm đối tượng duyên cho năm thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký. Thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập pháp trí. Thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói nữ căn duyên nơi thức nơi ba bộ của cõi dục, là biến hành ở cõi sắc, do tu đạo đoạn trừ, là tùy miên tùy tăng.

Nữ căn duyên nơi thức duyên làm đối tượng duyên cho chín thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Các phẩm khổ tập pháp trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả, cùng do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả, cùng do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên. Nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

9. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập đạo trí. Nữ căn ấy duyên nơi thức duyên, duyên nơi nữ căn duyên và các thức hữu lậu, vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói nữ căn duyên nơi thức duyên thuộc bốn bộ ở cõi dục, ba bộ ở cõi sắc và biến hành ở cõi vô sắc, do tu đạo đoạn trừ, là tùy miên tùy tăng.

Nam căn, khổ căn cũng như thế. Nghĩa là nam căn, khổ căn cũng chỉ ở cõi dục do tu đạo đoạn, như nữ căn.

Mạng căn duyên nơi thức thuộc ba bộ ở ba cõi, duyên nơi thức duyên thuộc bốn bộ của ba cõi: Mạng căn chung nơi chín địa ở ba cõi, chỉ do tu đạo đoạn trừ, làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

Như thức nơi ba bộ ở cõi dục, thì thức nơi ba bộ ở cõi sắc, cõi vô sắc cũng như thế, hợp lại làm chín thức.

10. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập pháp loại trí, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói mạng căn duyên nơi thức thuộc ba bộ ở ba cõi là tùy miên tùy tăng.

Mạng căn duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Mạng căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi mạng căn duyên. Nơi cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Mạng căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi mạng căn duyên. Nơi cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Mạng căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi mạng căn duyên. Phẩm khổ tập pháp trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Mạng căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi mạng căn duyên. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức v.v…, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

Như bốn bộ thức ở cõi dục, nơi cõi sắc, cõi vô sắc mỗi cõi có bốn bộ thức cũng như thế. Có sai khác: Tức là do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, duyên nơi mạng căn duyên nơi các phẩm khổ tập loại trí tương ưng với thức, phần sau căn cứ theo đây nên biết, hợp lại làm mười hai thức.

11. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập đạo trí. Mạng căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi mạng căn duyên và các thức hữu lậu, vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói mạng căn duyên nơi thức duyên có bốn bộ nơi ba cõi là tùy miên tùy tăng.

HẾT – QUYỂN 87