LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 70
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 3: BÀN VỀ HỮU TÌNH, phần 8
Hỏi: Trụ ở phần vị trung hữu là phải trải qua bao nhiêu thời gian?
Đáp: Phải trải qua một ít thời gian, vì mong cầu nhanh chóng được sinh. Nghĩa là trụ nơi trung hữu ở nơi môn sáu xứ, cầu mong khắp duyên sinh, mau chóng đi đến hòa hợp.
Hỏi: Nếu nhận trung hữu tức gặp duyên sinh, sự hòa hợp giữa người này, người kia có thể đi đến nhanh chóng cùng với duyên của người kia hội tụ, trong đó kiết sinh. Nếu gặp duyên sinh không hòa hợp, làm sao trụ nơi trung hữu kia, không trải qua nhiều thời gian? Như có người cha đang ở tại nước Ca-thấp-di-la, mẹ hiện ở tại China, hoặc có mẹ đang ở nước Ca-thấp-di-la, cha cư ngụ ở Chi-na. Như thế, duyên sinh khó có thể hòa hợp, làm sao trung hữu đi đến nhanh chóng để kiết sinh?
Đáp: Nên biết hữu tình tạo nghiệp cha mẹ có quyết định, không quyết định. Về phía cha mẹ, hoặc có nghĩa có thể dời chuyển, hoặc có nghĩa không thể dời chuyển. Nếu đối với cha mẹ đều có thể dời chuyển, lập tức đi đến xứ hòa hợp của cha mẹ khác và kiết sinh. Nếu đối với người cha có thể dời chuyển, đối với người mẹ không thể dời chuyển, tức tánh của người nữ kia tuy trinh khiết, vâng giữ năm giới, đầy đủ oai nghi, nhưng tất phải hòa hợp với người nam khác, khiến trung hữu đi đến nhanh chóng và kiết sinh. Nếu đối với người mẹ có thể dời chuyển, đối với người cha không thể dời chuyển, tức tánh của người nam kia tuy hiền lương, vâng giữ năm giới, oai nghi đầy đủ, nhưng phải hòa hợp với người nữ khác, khiến trung hữu đi đến nhanh chóng và kiết sinh. Nếu đối với cha mẹ đều không thể dời chuyển, tức phần vị chưa mạng chung của hữu tình kia, do sức của nghiệp, khiến cho cha mẹ tuy có trụ nơi duyên, nhưng vẫn không chiếu cố, lưu luyến, tất khởi tâm cùng hướng tới hòa hợp. Khi họ hướng đến với nhau ở xứ đã từng trải qua, chất độc không thể hại, dao không thể gây tổn thương, lửa không thể đốt, nước không thể nhận chìm và những thứ nhân duyên của sự chết yểu ngang trái khác đều không thể ngăn ngại, tất được hòa hợp khiến hữu tình kia đã mạng chung, thích ứng thọ trung hữu, tức đi tới kiết sinh.
Hỏi: Nếu dục của các hữu tình thường xuyên tăng, có thể thuận theo trung hữu nhanh chóng đi đến kiết sinh. Nếu người có tâm dục không thường xuyên tăng, làm sao Trung hữu thuận theo đi đến để kiết sinh. Như ngựa, tánh dục tăng nhiều vào mùa xuân, mùa khác thì không như thế. Bò, tánh dục tăng nhiều vào mùa hè, mùa khác thì không như thế. Chó, tánh dục tăng nhiều vào mùa thu, mùa khác thì không như thế. Gấu, tánh dục tăng nhiều vào mùa đông, mùa khác thì không như thế. Làm sao hữu tình thọ nhận trung hữu thích hợp khiến cha mẹ hòa hợp đi đến kiết sinh?
Đáp: Do hữu tình kia trụ nơi phần vị trung hữu, vì sức tăng thượng của nghiệp, khiến cho cha mẹ với tâm dục không phải lúc cũng được dồi dào thêm, hướng đến nhau, hòa hợp tạo cho trung hữu kia được kiết sinh.
Có Sư khác nói: Trong loài tương tợ cũng được kiết sinh, nên không có lỗi. Nghĩa là vào mùa xuân, tánh dục của ngựa thêm, mùa khác thì không như thế. Lừa thì hết thảy mùa tánh dục luôn thịnh, nên trung hữu sinh trong loài ngựa, do không phải mùa nên chuyển sinh trong loài lừa. Bò vào mùa hè tánh dục tăng thịnh, mùa khác thì không như thế. Bò rừng vào mùa nào tánh dục cũng thịnh, tức nên sinh trong loài bò, vì không phải mùa nên đổi sang sinh trong loài bò rừng. Chó tăng dục vào mùa thu, mùa khác thì không như thế. Dã can bất cứ lúc nào tánh dục cũng thịnh, tức nên trung hữu sinh trong loài chó, vì không phải mùa nên dời chuyển sinh trong loài dã can. Gấu tánh dục tăng thịnh vào mùa đông, mùa khác thì không như thế. Loài Bi tánh dục tăng thịnh nơi tất cả mùa, tức nên trung hữu sinh trong loài gấu, do không phải mùa, nên dời chuyển sinh trong loài Bi. Tuy hình tướng của các loài thú kia cùng với loài khác tương tợ, nhưng chúng đồng phần thì như gốc không dời chuyển, vì các trung hữu không thể dời chuyển. Như thế, trung hữu dừng lại, trải qua một ít thời gian, tất đi đến kiết sinh, vì mong cầu nhanh chóng sự sinh.
Tôn giả Thiết-ma Đạt-đa nói: Trung hữu dừng lại nhiều nhất là bảy bảy ngày, vì bốn mươi chín ngày là quyết định kiết sinh.
Tôn giả Thế Hữu tạo ra thuyết như thế này: Trung hữu dừng lại tối đa trải qua bảy ngày, vì thân ốm yếu, nên không ở lại lâu hơn.
Hỏi: Nếu trong bảy ngày duyên sinh hòa hợp thì trung hữu kia có thể kiết sinh. Nếu qua từng ấy thời gian duyên sinh chưa hợp thì trung hữu kia đoạn hoại chăng?
Đáp: Trung hữu kia không đoạn hoại. Nghĩa là trung hữu cho đến phần vị duyên sinh chưa hòa hợp, thường chết thường sống, không có đoạn hoại.
Đại đức nói: Trung hữu này không có giới hạn nhất định. Nghĩa là duyên sinh của trung hữu kia hòa hợp nhanh chóng. Tức thân trung hữu này sẽ dừng lại trong ít thời gian. Nếu duyên sinh của trung hữu kia có nhiều thời gian chưa hòa hợp, thì thân trung hữu này tức dừng lại trong nhiều thời gian, cho đến khi duyên hợp mới được kiết sinh. Vì thế, thân trung hữu dừng lại không có giới hạn nhất định.
Hỏi: Hình lượng của trung hữu lớn nhỏ thế nào?
Đáp: Hình lượng của trung hữu nơi cõi dục như đứa trẻ nhỏ độ năm sáu tuổi. Trung hữu nơi cõi sắc như hình lượng lúc bản hữu viên mãn.
Hỏi: Nếu hình lượng của trung hữu nơi cõi dục như đứa trẻ nhỏ năm sáu tuổi thì làm sao đối với cha mẹ nó khởi tưởng điên đảo sinh yêu, giận?
Đáp: Hình lượng tuy nhỏ, nhưng các căn mạnh mẽ, nhạy bén. Như thời kỳ bản hữu có thể tạo ra các nghiệp. Như vẽ trên vách v.v… hình người già, lượng của hình kia tuy nhỏ mà có tướng già.
Hỏi: Trung hữu của Bồ-tát hình lượng như thế nào?
Đáp: Như bản hữu trụ nơi thời lượng tuổi thịnh, ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân, tám mươi tùy hảo làm trang sức, thân sắc vàng ròng, viên quang tỏa quanh một tầm. Do đấy, khi Bồ-tát trụ nơi trung hữu, soi sáng một trăm câu chi nơi bốn châu lớn v.v… như trăm ngàn mặt trời trong một lúc đều cùng soi sáng, phát ra Phạn âm vi diệu sâu xa, khiến người ưa thích nghe, như âm thanh thù thắng của loài chim, tiếng kêu trong trẻo, trí kiến vô ngại lìa các nhiễm uế tạp.
Hỏi: Thân trung hữu của Bồ-tát nếu như thế thì hiện tụng của pháp thiện làm sao thông suốt? Như nói:
Tướng voi trắng đoan nghiêm
Đủ sáu ngà bốn chân
Biết đúng vào bụng mẹ
Ngủ như Tiên ẩn rừng.
Đáp: Tụng này không cần phải thông tỏ, vì không phải là ba tạng, vì văn tụng đã nói hoặc đúng, hoặc không đúng. Các văn của người tụng, lời nói thật ra có nhiều lỗi. Nếu cần phải thông suốt thì nên tìm ý của tụng kia, vì thuận hiện ra tướng trong mộng, nên nói như thế. Nghĩa là trong nước kia, người ta nằm mộng thấy tướng ấy, cho là điềm lành, nên mẫu thân của Bồ-tát nằm mộng thấy sự việc này, muốn khiến cho các Bà-la-môn đoán tướng, nghe xong đều nói: “Tướng này rất tốt”, nên pháp thiện hiện tạo ra thuyết như thế, cũng không trái với lý. Bồ-tát đã ở trong chín mươi mốt kiếp, không đọa vào nẻo ác, huống chi là thân sau cùng, nhận trung hữu này mà vào thai mẹ. Vì thế người trí không nên căn cứ vào văn tụng do pháp thiện kia đã nêu mà nói Bồ-tát đã nhận trung hữu như hình voi trắng.
Hỏi: Các căn của thân trung hữu là có đủ hay không đủ?
Đáp: Tất cả trung hữu đều đủ các căn, vì khi nhận dị thục đầu tiên, tất là viên mãn, tinh đẹp.
Có thuyết nói: Các căn của trung hữu cũng có khi không đủ, vì thuận theo phần vị bản hữu đã có căn không đủ, nên trung hữu kia cũng không đủ. Như in vật in hình tượng hiện ra như dấu in. Như thế, trung hữu hướng đến bản hữu như khi bản hữu có căn không đủ.
Trong đây, thuyết đầu về lý là tốt. Nghĩa là vị trung hữu đối với môn sáu xứ tìm cầu khắp xứ sinh, căn tất không thiếu. Ở đây nói căn v.v… không phải căn nam nữ. Trung hữu nơi cõi sắc không có căn kia. Trung hữu nơi cõi dục, căn kia cũng không nhất định. Nên chấp nhận sự sinh của hai loài noãn, thai, trụ ở vị trung hữu có căn nam, nữ, đến trong noãn, thai mới có không đủ. Nếu không như thế tức nên không có nghĩa thọ sinh noãn, thai.
Hỏi: Hình trạng của tất cả trung hữu như thế nào?
Đáp: Hình trạng của trung hữu tương đương như bản hữu. Nghĩa là trung hữu kia sẽ sinh nơi nẻo địa ngục thì hình trạng hiện có tức như địa ngục, cho đến trung hữu sẽ sinh trong nẻo trời thì hình trạng hiện có tức như trời kia. Trung hữu như bản hữu cùng một nghiệp dẫn.
Có thuyết cho: Nếu mạng chung ở đây thọ nhận trung hữu, thì hình trạng trung hữu tức như thân này, như khuôn dấu in nơi vật, hình tượng hiện ra như khuôn dấu.
Thuyết kia phi lý. Vì sao? Vì mất ở cõi vô sắc, thọ nhận thân trung hữu của cõi dục, cõi sắc, thì đâu có giống nhau? Há có chư Thiên đã thọ nhận trung hữu hình giống như địa ngục? Đâu có địa ngục đã thọ nhận trung hữu lại có hình giống như chư Thiên? Lại, người chết ở cõi sắc, sinh nơi cõi dục, trung hữu của người ấy đã nhận tức nên không phải nữ, nam. Người mạng chung ở cõi dục, sinh nơi cõi sắc, trung hữu của người ấy đã nhận tức nên là nữ, nam. Vì thế trong đây thuyết đầu là hợp lý.
Hỏi: Nếu hình trạng của trung hữu như đương bản hữu, thì như trong bụng một con chó v.v… chấp nhận có trung hữu của năm nẻo khởi ngay lập tức. Đã có trung hữu của địa ngục hiện tiền, sao không thể đốt cháy bụng mẹ, vì bản hữu của địa ngục đa số là bị lửa dữ thiêu đốt?
Đáp: Trung hữu kia ở nơi bản hữu cũng không luôn bị thiêu đốt, như tạm đi chơi thêm, hoặc nơi địa ngục khác. Như Luận Thi Thiết nói: Có lúc gió lạnh trong Nại-lạc-ca Đẳng hoạt tạm thời nổi lên, có tiếng xướng: Đẳng hoạt! Đẳng hoạt! (Cùng sống! Cùng sống!) Bấy giờ, hữu tình tức thời lại cùng sống. Bản hữu hãy còn như vậy, huống chi là ở trung hữu. Giả sử cho là bị thiêu đốt luôn, như không thể thấy, cũng không thể va chạm, vì thân trung hữu rất vi tế, nên lửa cũng như thế. Trung hữu của các nẻo tuy ở trong một bụng, cũng không phải cùng va chạm thiêu đốt, vì bị nghiệp ngăn cản. Vì nơi bụng mẹ cũng như thế, nên không bị thiêu đốt.
Hỏi: Nếu ở xứ nhỏ, hữu tình mạng chung, sinh nơi cõi sắc, làm sao dung nạp hình trạng to lớn của trung hữu nơi cõi sắc?
Đáp: Vì sắc thân của trung hữu là vi tế, không trở ngại, đâu e sợ gì xứ nhỏ mà không dung nạp thọ nhận, vì tuy hình trạng của trung hữu như đương bản hữu nhưng sự việc hành tác bất tất đều đồng.
Hỏi: Hành tướng của trung hữu nơi các nẻo như thế nào?
Đáp: Trung hữu của địa ngục, đầu quay xuống dưới, chân chổng lên trời hướng đến địa ngục, nên kệ nói:
Điên đảo nơi địa ngục
Chân chỏng, đầu quay xuống
Do hủy báng các Tiên
Ưa vắng tu khổ hạnh.
Trung hữu của chư Thiên, chân quay xuống dưới, đầu ngẩng lên trên, như người dùng mũi tên ngước lên bắn vào hư không, mũi tên bay lên trên đi đến nẻo trời.
Trung hữu của các nẻo còn lại đều đi ngang như chim bay trên không tiến đến xứ sinh.
Lại, như vị Tiên bay được vẽ trên vách, cả thân đi ngang tìm kiếm xứ sẽ sinh.
Hỏi: Hành tướng của trung hữu đều như thế chăng?
Đáp: Nên nói nói như vầy: Không hẳn đều như thế. Lại, căn cứ nơi sự mạng chung trong loài người mà nói. Nếu chết ở địa ngục, sinh trở lại nơi địa ngục, bất tất đầu dưới, chân trên mà đi. Nếu chết trong nẻo trời, sinh trở lại nơi nẻo trời, không hẳn chân quay xuống dưới, đầu ngước lên mà đi. Nếu chết ở địa ngục, sinh vào nẻo người, thì đầu phải ngước lên trời. Nếu chết trong nẻo trời, sinh vào nẻo người, thì đầu phải quay trở xuống. Trung hữu của hai nẻo quỷ và bàng sinh, thuận theo xứ đi đến, như chỗ ứng hợp nên biết.
Có Sư khác nói: Hành tướng của trung hữu tất cả đều như thế. Vì sao? Vì biểu thị cho nghiệp đã gây tạo có sự khác biệt. Nghĩa là nghiệp của địa ngục hết sức cấu uế thấp kém, nên đầu tiên nhận trung hữu, đầu phải quay xuống dưới, về sau thuận theo chỗ đi đến hành tướng không nhất định. Sinh chư Thiên, vì nghiệp rất thắng thượng, nên đầu tiên nhận trung hữu, đầu tất ngửa lên trên, sau thuận theo chỗ đi đến, hành tướng không nhất định. Ba thứ nghiệp còn lại, không phải là tột cùng trên, dưới, nên trung hữu đó đầu tiên đều đi ngang, sau thuận theo chỗ đi đến, hành tướng không nhất định.
Lại có thuyết nói: Tất cả trung hữu đầu tiên thọ nhận dị thục của nghiệp đã gây tạo đều biểu thị nghiệp đã gây tạo nên có khác biệt. Trung hữu của địa ngục là quả đã được của nghiệp thấp nhất, nên thuận theo lúc hành động, đầu quay trở xuống, chân chổng lên trên. Trung hữu của chư Thiên là quả đã được của nghiệp phẩm tối thượng, nên thuận theo khi hành động, chân quay xuống dưới, đầu ngước lên trên. Ba trung hữu còn lại là quả đạt được của nghiệp trung bình, nên khi thuận theo hành động, đầu bằng với chân, không có trên dưới. Tuy nơi chốn đi đến, trên dưới không nhất định, nhưng khi hành động, đầu chân phải như thế.
Hỏi: Lúc sinh trung hữu có y phục chăng?
Đáp: Trung hữu nơi cõi sắc, tất cả đều có y phục, vì sự trong cõi ấy hổ thẹn gia tăng. Sự hổ thẹn tức là y phục của pháp thân. Như pháp thân của người nơi cõi sắc kia có đủ y phục vượt hơn, sinh thân cũng thế, nên trung hữu nơi cõi sắc kia thường xuyên cùng mặc y phục. Trung hữu nơi cõi dục phần nhiều không có y phục, vì trong cõi dục đa số con người đều không có hổ thẹn, chỉ trừ trung hữu của Bồ-tát và Bí-sô-ni Bạch Tịnh đã thọ nhận, luôn có y phục thượng diệu.
Có Sư khác cho: Trung hữu của Bồ-tát cũng không có y phục, chỉ có Bí-sô-ni Bạch Tịnh v.v… đã thọ nhận trung hữu thường xuyên cùng mặc y phục.
Hỏi: Do duyên gì trung hữu của Bồ-tát không có y phục còn trung hữu của Bạch Tịnh v.v… có y phục?
Đáp: Do ni Bạch Tịnh đã từng đem y phục thí cho Tăng bốn phương, nên trung hữu của vị ấy thường xuyên mặc y phục.
Hỏi: Nếu vậy, Bồ-tát trong nhiều đời quá khứ đã dùng y phục thượng diệu thí cho Tăng bốn phương. Chỗ thí y phục của ni Bạch Tịnh tuy nghiền nát thành vi trần, cũng chưa thể so sánh được. Vậy vì sao trung hữu của Bồ-tát không có y phục, còn trung hữu của ni Bạch Tịnh kia lại thường xuyên có y phục?
Đáp: Do nguyện lực của ni Bạch Tịnh khác với nguyện lực của Bồ-tát. Tức ni Bạch Tịnh mỗi lần dùng y phục dâng thí cho Tăng bốn phương xong, liền phát nguyện: Nguyện cho tôi đời đời thường xuyên mặc y phục, cho đến thân trung hữu cũng không lõa hình. Do nguyện lực đó dẫn phát, nên nơi sinh ra đều thường đầy đủ y phục, trung hữu thuộc thân sau cùng của ni Bạch Tịnh thọ nhận luôn có y phục. Từ lúc ở phần vị vào thai mẹ, đến khi sinh ra, y phục không lìa thể. Như thân Bạch Tịnh kia, dần dần tăng trưởng, như thế, như thế, y cũng lớn dần theo. Về sau, ở trong pháp Phật chánh tín xuất gia, y phục của ni Bạch Tịnh đã mặc trước kia biến thành pháp phục, thọ cụ giới xong chuyển thành năm y, ở trong pháp Phật siêng tu chánh hạnh, chẳng bao lâu chứng được quả A-la-hán, cho đến sau cùng là khi bát Niết-bàn, tức dùng y ấy quấn quanh thân hỏa táng. Trong ba vô số kiếp nơi quá khứ, Bồ-tát đã tu vô số thứ công hạnh thiện thù thắng, đều hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng, vì mục đích đem lại lợi ích an vui cho các hữu tình. Do hạnh nguyện này, nên ở thân sau cùng, Bồ-tát là quả vị tối tôn tối thắng trong các hữu tình, chúng sinh nào may mắn được gặp Bồ-tát đều thấm nhuần lợi ích. Thế nên trung hữu được Bồ-tát thọ nhận, tuy gồm tướng tốt nhưng không có y phục, là do nguyện lực của Bồ-tát có đặc thù, không nên đặt thành vấn nạn. Các hữu tình nào phát nguyện như Bí-sô-ni Bạch Tịnh, thì trung hữu được thọ nhận cũng có mặc y phục.
Nên biết trong đây, thuyết trước nói là hợp lý. Về công đức của Bồ-tát, sự hổ thẹn luôn tăng thượng. Trung hữu của các hữu tình khác nơi cõi sắc đều không bằng, nên ở phần vị trung hữu tất không lõa hình.
Hỏi: Ở vị trung hữu có nhờ đoạn thực không?
Đáp: Trung hữu nơi cõi sắc không nhờ đoạn thực. Trung hữu nơi cõi dục tất phải nhờ đoạn thực.
Hỏi: Đoạn thực của trung hữu nơi cõi dục như thế nào?
Đáp: Có thuyết nói: Trung hữu nơi cõi dục đến chỗ nào có thức ăn thì ăn thức ăn đó, đến nơi nào có nước uống thì uống nước đó, do sự ăn uống của trung hữu kia là để giúp cho tự tồn tại.
Thuyết này là phi lý. Vì sao? Vì trung hữu rất nhiều, khó có thể giúp cho khắp. Nghĩa là Khế kinh nói: Như từ túi đựng tuôn hết xuống các loại lúa gạo v.v… để trong kho lẫm, vạc, thường rất đông kín. Hữu tình của năm nẻo đã thọ nhận trung hữu có khắp mọi nơi chốn, số lượng vượt qua số lượng kia. Nếu các trung hữu ấy thọ dụng các thức ăn uống, thì thức ăn uống cả thế gian hiện có chỉ cung cấp cho trung hữu của một loài súc vật hãy còn không đủ, huống chi là trung hữu của các loài còn lại có thể đầy đủ chăng? Lại, thân trung hữu đã rất nhẹ, tinh, mà thọ nhận thức ăn nặng, thô, thì thân phải tan hoại.
Nên tạo ra thuyết này: Vì trung hữu ăn mùi hương, không phải ăn chất thô, nên không có lỗi trước. Nghĩa là người có phước hưởng lấy hơi thức ăn thanh tịnh, thức ăn hoa quả v.v… hơi hương tinh đẹp, nhẹ nhàng, để tự sinh tồn. Nếu người không có phước, thì hưởng hơi thức ăn phân nhơ, hôi, mục v.v… với mùi hương tinh tế nhẹ nhàng để tự sống còn. Lại, hơi hương được trung hữu kia đã ăn rất ít, nên trung hữu tuy nhiều vẫn được cứu giúp chu đáo.
Như thế, trung hữu có nhiều thứ tên gọi: Hoặc gọi là Trung hữu, hoặc gọi là Kiền-đạt-phược, hoặc gọi là Cầu hữu, hoặc gọi là Ý thành.
Hỏi: Vì sao Trung hữu hoặc gọi là Trung hữu?
Đáp: Vì ở sau tử hữu, trước sinh hữu, trung gian của hai hữu có tự thể khởi, vì thuộc về dục, sắc hữu, nên gọi là Trung hữu.
Hỏi: Hữu khác cũng ở nơi trung gian của hai hữu, có tự thể khởi, thuộc về ba hữu, sao không phải là trung hữu?
Đáp: Nếu hữu ở nơi trung gian của hai hữu, nhẹ, vi tế, khó thấy, khó làm sáng tỏ, khó hiểu rõ, nên lập tên gọi Trung hữu. Hữu khác tuy ở trung gian của hai hữu, nhưng thô, nặng, dễ thấy, dễ làm sáng tỏ, dễ hiểu rõ, nên không gọi là trung hữu.
Lại nữa, nếu hữu ở nơi trung gian của hai hữu, là cõi, là loài, không phải thuộc về nẻo, nên gọi là trung hữu. Hữu khác tuy ở nơi trung gian của hai hữu, vì cõi, loài đều gồm thâu nẻo, nên không phải là trung hữu.
Lại nữa, nếu hữu ở nơi trung gian của hai hữu, đã bỏ nẻo trước chưa đến nẻo sau, nên gọi là trung hữu. Hữu khác tuy ở nơi trung gian của hai hữu, nhưng chưa bỏ nẻo trước, hoặc đã đến nẻo sau, nên không phải là trung hữu.
Hỏi: Vì sao trung hữu gọi là Kiền-đạt-phược?
Đáp: Vì trung hữu kia ăn mùi hương để được tồn tại. Tên gọi này chỉ thuộc về trung hữu nơi cõi dục.
Hỏi: Vì sao trung hữu được mang tên là Cầu hữu?
Đáp: Vì ở nơi môn sáu xứ cầu sinh hữu, như trụ nơi trung hữu để cầu tìm hữu sau, tâm nối tiếp mãnh liệt, nhạy bén, vì trụ ở nơi khác thì không như thế, nên riêng trung hữu lập tên là Cầu hữu.
Hỏi: Vì sao trung hữu lại gọi là ý thành?
Đáp: Vì từ ý sinh. Nghĩa là các hữu tình hoặc từ ý sinh, hoặc từ nghiệp sinh, hoặc từ dị thục sinh, hoặc từ dâm dục sinh.
Từ ý sinh: Nghĩa là người của kiếp đầu tiên và các trung hữu nơi cõi sắc, cõi vô sắc cùng thân biến hóa.
Từ nghiệp sinh: Nghĩa là các địa ngục. Như Khế kinh nói: Hữu tình của địa ngục đã bị nghiệp trói buộc, không thể lìa khỏi, do nghiệp sinh, không do ý lạc.
Từ dị thục sinh: Nghĩa là các loài chim bay và quỷ thần v.v… do thế nơi dị thục của chúng mạnh, nhẹ, nên có thể bay đi trên không, hoặc không bị trở ngại đối với vách ngăn cách.
Từ dâm dục sinh: Nghĩa là sáu trời thuộc cõi dục và các người v.v…
Thân của các trung hữu từ ý sinh, vì nhân nơi hành của ý, nên gọi là ý thành.
Trong kinh, Đức Thế Tôn đã nói: Do ba sự hòa hợp nên được vào thai mẹ. Cha mẹ đều cùng có tâm nhiễm hòa hợp. Thân mẹ điều hòa thích hợp, không có bệnh vào lúc này, và Kiền-đạt-phược đang hiện tiền. Kiền-đạt-phược này, bấy giờ có hai tâm, lần lượt hiện tiền vào thai tạng của mẹ.
Trong đây, ba sự hòa hợp. Nghĩa là ba sự: Cha, mẹ và Kiền-đạtphược hòa hợp.
Cha, mẹ đều có tâm nhiễm hòa hợp: Tức cha và mẹ đều khởi tham dâm và cùng hội hợp.
Thân mẹ điều hòa thích hợp, không có bệnh vào lúc này: Nghĩa là mẹ khởi thân tham, tâm vui vẻ, hài lòng, gọi là thân điều hòa, thích hợp.
Phái Trì Luật nói: Do mẹ khởi thân tham, tâm vẩn đục, như nước mùa xuân hạ đục ngầu tuôn chảy, không thể tự giữ lấy, gọi là thân vẩn đục. Bụng mẹ trong sạch, không có gió và viêm nhiệt cùng nhau gia tăng bức thiết, nên gọi là không có bệnh.
Do chín tháng này hoặc trong mười tháng giữ lấy thai nhi, khiến không bị tổn hoại.
Nói vào lúc này: Nghĩa là từ gốc của các bà mẹ có việc uế xấu: Tháng tháng luôn có nước máu chảy ra. Nước máu ấy nếu nhiều quá, do ít ẩm ướt nên không được hình thành thai, hoặc quá ít do khô nhiều nên cũng không thành thai. Nếu nước máu ấy không ít, không nhiều, không khô, không ướt thì mới được hình thành thai, gọi là vào lúc này.
Là trung hữu: Nghĩa là khi vào thai, nước máu của mẹ, vào thời kỳ sau rốt có hai giọt thừa, tinh của cha vào lúc sau cùng có một giọt thừa, lần lượt hòa hợp mới được thành thai.
Và Kiền-đạt-phược đang hiện tiền: Nghĩa là trung hữu hiện ngay ở nơi này, không phải chốn khác, không phải trước, không phải sau. Lúc ấy, Kiền-đạt-phược này có hai tâm lần lượt hiện tiền vào thai tạng của mẹ. Nghĩa là khi Kiền-đạt-phược sắp vào thai, đối với cha, đối với mẹ, hai tâm yêu, giận lần lượt hiện khởi mới được vào thai. Nếu là trung hữu nam, khi sắp vào thai, đối với mẹ khởi ái, đối với cha khởi giận, suy nghĩ: “Nếu người đàn ông kia rời khỏi chỗ này, ta sẽ giao hợp với người nữ ấy”. Suy nghĩ như vậy rồi, sinh tưởng điên đảo, vừa thấy người đàn ông kia xa lìa nơi ấy, lập tức tự thấy mình đang hòa hợp với người nữ. Cha mẹ giao hội, khi tinh huyết xuất, bèn cho tinh của cha là cái mình hiện có, rồi sinh vui mừng, nên mê muội. Do mê muội, nên trung hữu thô nặng, đã có thô nặng là vào thai mẹ, tự thấy thân mình đang ở nơi hông phải của mẹ, ngồi xổm, mặt hướng về xương sống mẹ.
Bấy giờ, các uẩn của trung hữu liền diệt, uẩn của sinh hữu xuất sinh, gọi là kiết sinh xong.
Nếu là trung hữu nữ, khi sắp vào thai, đối với cha khởi ái, đối với mẹ nổi giận, cảm nghĩ: “Nếu người nữ kia rời khỏi nơi này, ta sẽ giao hợp với người đàn ông ấy”. Nghĩ như thế rồi, sinh tưởng điên đảo: Thấy người nữ kia lìa xa chỗ này, lập tức tự thấy mình cùng với người đàn ông kia hòa hợp. Lúc cha mẹ giao hội, tinh huyết xuất, bèn cho máu của mẹ là cái mình hiện có, thấy xong sinh vui mừng rồi mê muội. Do mê muội, trung hữu trở nên thô nặng, đã có thô nặng, ấy là vào thai mẹ, tự thấy thân mình đang ở bên hông trái mẹ, ngồi xổm, hướng về phía bụng mẹ.
Lúc này, các uẩn của trung hữu liền diệt, uẩn của sinh hữu sinh ra, gọi là kiết sinh xong.
Các loài hữu tình đa phần đều khởi tưởng điên đảo như thế xong mà vào thai mẹ. Chỉ trừ Bồ-tát khi sắp vào thai đối với cha khởi tưởng là cha, đối với mẹ khởi tưởng là mẹ, tuy có thể chánh tri, nhưng vì đối với mẹ mình khởi tưởng thân, dựa vào ái, nhân nơi sức của ái này là vào thai mẹ. Phần còn lại theo chỗ thích ứng, như trước đã nói.
Hỏi: Trung hữu vào thai mẹ ở xứ nào?
Đáp: Có thuyết nói: Trung hữu không bị ngăn ngại, thuận theo xứ được ưa thích liền vào thai.
Hỏi: Nếu thân trung hữu không thể tạo chướng ngại, làm sao nương dựa, trụ trong thai mẹ này?
Đáp: Do sức của nghiệp nắm giữ, nên phải nương dựa, trụ nơi thai mẹ này, vì sức của nghiệp nơi hữu tình là không thể nghĩ bàn: Vật không chướng ngại khiến có chướng ngại, vì thế đối với sự việc này không nên vấn nạn.
Nên nói như vầy: Trung hữu vào thai tất từ sinh môn, là đối tượng được ái. Do nghĩa lý này, nên các người song sinh, sinh sau là lớn. Vì sao? Vì người vào thai trước, tất sinh ra sau.
Hỏi: Trung hữu của Bồ-tát vào thai từ xứ nào?
Đáp: Từ hông phải của mẹ mà vào, chánh tri nhập thai, đối với mẹ có tưởng là mẹ vì không có dâm ái.
Lại có thuyết nói: Từ sinh môn nhập, các loài noãn sinh, thai sinh, pháp là như thế.
Hỏi: Vị trung hữu của Độc giác, Luân vương vào thai từ xứ nào?
Đáp: Từ hông phải mẹ vào chánh tri nhập thai, đối với mẹ tưởng là mẹ, vì không có ái dâm.
Lại có thuyết cho: Từ sinh môn nhập vì các loài noãn sinh, thai sinh, pháp là như thế.
Có Sư khác nêu: Vì phước tuệ của Bồ-tát hết sức tăng thượng, nên khi sắp vào thai không có tưởng điên đảo, không khởi dâm ái. Luân vương, Độc giác tuy có phước tuệ nhưng không phải là tăng thượng tột bậc, do đó khi sắp vào thai tuy không có tưởng điên đảo, nhưng cũng khởi dâm ái, nên phần vị vào thai tất là từ sinh môn.
Luận Thi Thiết nói: Nếu nghiệp phước của cha mẹ kia tăng thượng, còn nghiệp phước của người con thấp kém, thì không được vào thai. Nếu nghiệp phước của cha mẹ kia kém, mỏng, nghiệp phước của người con vượt hơn, cũng không được vào thai, chủ yếu là cả ba nghiệp phước của cha, mẹ và con như nhau thì mới được vào thai.
Hỏi: Nếu người nam giàu sang cùng với người nữ nghèo hèn kết hợp, hoặc người nữ giàu sang cùng với người nam nghèo hèn kết hợp, vậy thì trung hữu cũng được vào thai như thế nào?
Đáp: Người nam giàu sang khi cùng với người nữ nghèo hèn kết hợp, tất đối với tự thân khởi tưởng thấp kém, đối với người nữ kia sinh tưởng tôn thắng. Người nữ giàu sang khi cùng với người nam nghèo hèn kết hợp, tất đối với tự thân sinh tưởng thấp kém, đối với người nam kia khởi tưởng tôn thắng. Người nam nghèo hèn khi cùng với người nữ giàu sang kết hợp, tất đối với tự thân sinh tưởng tôn thắng, đối với người nữ kia khởi tưởng thấp kém. Người nữ nghèo hèn khi cùng với người nam giàu snag kết hợp, tất đối với tự thân khởi tưởng tôn thắng, đối với người nam kia sinh tưởng thấp kém. Người con đối với cha mẹ khi sắp nhập thai vị, nên biết cũng như thế. Nên lúc nhập thai đều có nghĩa như vậy.
Hỏi: Trung hữu vi tế: Hết thảy tường vách, núi non, cây cối đều không thể ngăn ngại. Trung hữu đây kia là cùng ngăn ngại chăng?
Đáp: Có thuyết cho: Trung hữu đây kia cũng không cùng ngăn ngại. Do hết sức vi tế, nên khi thân cùng tiếp xúc không hay biết.
Lại có thuyết nói: Trung hữu đây kia cũng cùng có ngăn ngại. Do lúc cùng gặp gỡ thì đây kia lần lượt có ngôn ngữ.
Hỏi: Nếu thế thì sao nói Trung hữu là không ngăn ngại?
Đáp: Đối với các thứ không ngăn ngại khác không cho là trung hữu.
Hỏi: Trung hữu đây kia đều cùng ngăn ngại chăng?
Đáp: Tự loại cùng ngăn ngại, không phải đối với loại khác. Nghĩa là trung hữu của địa ngục chỉ ngăn ngại trung hữu của địa ngục. Cho đến trung hữu của trời chỉ ngăn ngại trung hữu của trời.
Có thuyết nêu: Kém ngăn ngại đối với hơn, do thô, nặng. Hơn không ngăn ngại đối với kém, do vi tế, nhẹ. Nghĩa là trung hữu của địa ngục ngăn ngại đối với năm trung hữu. Trung hữu của bàng sinh ngăn ngại đối với bốn trung hữu. Trung hữu của quỷ giới ngăn ngại đối với ba trung hữu. Trung hữu của người ngăn ngại nơi hai trung hữu. Trung hữu của trời chỉ ngăn ngại trung hữu của trời.
Hỏi: Lực của thần cảnh thông cùng với vị trung hữu, nẻo hành của các hữu, thứ nào là nhanh hơn?
Đáp: Có thuyết nói: Trung hữu hành nhanh hơn. Vì sao? Vì như Khế kinh nói: Nghiệp lực hơn hẳn thần thông.
Nên nói như vầy: Lực của thần cảnh thông thế hành mau chóng, không phải là các trung hữu.
Hỏi: Nếu thế vì sao kinh nói: “Nghiệp lực hơn hẳn thần cảnh thông”.
Đáp: Dựa vào chỗ không chướng ngại nên nói như vậy, không dựa vào thế hành. Nghĩa là thần thông của Phật có thể ngăn ngại thần thông của tất cả hữu tình. Thần thông của bậc Độc giác, trừ Phật, có thể ngăn ngại thần thông của các hữu tình khác. Thần thông của Tôn giả Xá-lợi-tử, trừ Phật và Độc giác, có thể ngăn ngại thần thông của hết thảy hữu tình. Thần thông của Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, trừ Phật, Độc giác và Tôn giả Xá-lợi-tử, có thể ngăn ngại thần thông của tất cả hữu tình. Thần thông của những vị lợi căn có thể ngăn ngại thần thông của tất cả hàng độn căn. Trừ Phật, Độc giác, hết thảy hàng Thanh văn cùng với chú thuật, dược vật của các hữu tình khác, có thể ngăn ngại trung hữu khiến không đi đến xứ nên thọ sinh. Nhưng tất đi đến xứ kia là theo loại kiết sinh. Do đấy Khế kinh nói: Lực của các nghiệp hơn hẳn lực thần thông. Nếu dựa vào thế hành để tạo luận, nên nói: Thần thông hơn hẳn đối với trung hữu.
Hỏi: Trung hữu là có thể cùng thấy nhau chăng?
Đáp: Có thể cùng thấy nhau.
Hỏi: Cái gì có thể thấy cái gì?
Đáp: Có thuyết nói: Trung hữu của địa ngục chỉ thấy trung hữu của địa ngục, cho đến trung hữu của trời chỉ thấy trung hữu của trời.
Có Sư khác cho: Trung hữu của địa ngục chỉ thấy trung hữu của địa ngục. Trung hữu của bàng sinh thấy hai trung hữu. Trung hữu của quỷ giới thấy ba trung hữu. Trung hữu của người thấy bốn trung hữu. Trung hữu của trời thấy năm trung hữu.
Lại có thuyết nêu: Trung hữu của địa ngục thấy năm trung hữu, cho đến trung hữu của trời cũng thấy năm trung hữu.
Hỏi: Mắt của các bản hữu thấy trung hữu chăng?
Đáp: Có thuyết nói: Mắt của các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, người không thấy trung hữu. Chỉ có mắt của nẻo trời là có thể thấy trung hữu.
Hỏi: Mắt của các nẻo trời thì cái gì có thể thấy cái gì?
Đáp: Có thuyết cho: Mắt của trời Tứ Đại vương chúng, trừ trung hữu của xứ trên xứ mình, thấy trung hữu nẻo dưới, cho đến mắt của trời Tha hóa tự tại, trừ trung hữu của xứ trên xứ mình, thấy trung hữu nẻo dưới. Mắt của trời tĩnh lự thứ nhất, trừ trung hữu của xứ trên xứ mình, thấy trung hữu nẻo cõi dưới, cho đến mắt của trời tĩnh lự thứ tư, trừ trung hữu của xứ trên xứ mình, thấy trung hữu của nẻo dưới.
Lại có thuyết nêu: Mắt của trời thuộc Dục giới không thấy trung hữu. Mắt của trời thuộc Sắc giới có thể thấy Trung hữu, chỉ có thể thấy nẻo dưới, không thấy nẻo trên xứ mình. Nếu nói như thế thì không có mắt sinh đắc có thể thấy trung hữu của tĩnh lự thứ tư.
Nên nói như vầy: Trụ nơi bản hữu, các mắt sinh đắc đều không thể thấy thân trung hữu, chỉ có mắt trời, do tu được, hết sức thanh tịnh mới có thể thấy trung hữu.
Hỏi: Làm sao nhận biết được như thế?
Đáp: Do Khế kinh nói: Nghĩa là Khế kinh nói: “Hoặc nam hoặc nữ đầy đủ Thi-la thanh tịnh, tu các pháp thiện, vị ấy mạng chung rồi, được ý thành thân, như ánh sáng của chiếc áo trắng, hoặc như ánh sáng nơi đêm, mắt trời hết sức tịnh mới có thể thấy. Hoặc nam hoặc nữ, hủy phạm tịnh giới, tạo các pháp ác, kẻ ấy mạng chung rồi, có được ý thành thân, như bóng của loài dê đen, hoặc như đêm tối bưng, mắt trời hết sức tịnh mới có thể thấy”. Do đấy nên biết, trụ nơi bản hữu, các mắt do sinh đắc đều không thể thấy thân trung hữu.
Tỳ-nại-da nói: Ma la Độ sử, Dược xoa Già tru, Đề bà đạt đa, Tỳ lư trạch ca, đều từ nơi thân này rơi vào trong đại địa ngục vô gián, thọ nhận các thứ khổ dữ dội.
Hỏi: Những kẻ ấy là thọ thân trung hữu chăng?
Đáp: Thọ thân trung hữu, nhưng do quá mau chóng nên khó có thể nhận biết. Tức nêu thuyết: Nơi một sát-na đầu, uẩn của tử hữu diệt, uẩn của trung hữu sinh. Một sát-na sau, uẩn của trung hữu diệt, uẩn của sinh hữu sinh. Do sự mau chóng ấy nên khó có thể nhận biết.
Có thuyết cho: Những kẻ ấy đối với Phật cùng khởi hành ác nặng, khi sắp mạng chung, thân hết sức dày nặng, nên đại địa này không thể giữ được. Như dầu rót vào cát tức liền thấm vào ngay. Đã vào nơi đất rồi mới là mạng chung, thọ thân trung hữu, sau sinh địa ngục. Do đó nói: Những kẻ ấy đều từ nơi thân này rơi vào trong đại địa ngục vô gián, tức dựa vào thời gian đầu tiên bị rơi vào mà nói như thế.
Có Sư khác nói: Do nghiệp của họ quá mãnh liệt nên chưa kịp mạng chung, lửa dữ của địa ngục vô gián đã vọt lên quấn buộc quanh thân những kẻ ấy lôi vào địa ngục. Kẻ ấy, nơi giữa đường mới mạng chung thọ thân trung hữu. Sau đến địa ngục, bỏ thân trung hữu, mới được sinh vào nẻo ấy. Dựa vào thời gian ra đi đầu tiên mà nói như thế, cũng không trái lý.
***
* Như Khế kinh nói: Bấy giờ, Thiên Đế liền ở trước Đức Phật nói kệ:
Đại Tiên phải nên biết
Ta tức nơi tòa này Lại được thọ mạng trời Xin Thế Tôn nhớ giữ.
Hỏi: Thiên Đế bấy giờ có sống chết chăng? Nêu ra như thế thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi. Vì sao? Vì nếu có sống chết thì phải thọ nhận trung hữu. Vì sao lúc đó chúng luôn thấy thân của Thiên Đế. Nếu không sống chết thì vì sao Thiên đế nói là: Trở lại được mạng trời?
Đáp: Nên nói như vầy: Thiên Đế không sống chết.
Hỏi: Nếu thế thì khéo thông vấn nạn nêu trước. Nhưng nơi kệ đã nói làm sao thông suốt?
Đáp: Dựa vào việc thoát khỏi nẻo ác nên nói như thế. Nghĩa là Đức Phật vì Thiên Đế lược nói pháp yếu. Vị ấy thấy chân đế, đắc quả Dự lưu, đối với các nẻo ác đã hoàn toàn giải thoát, tùy theo ý vui thích mà thọ sinh nơi nẻo trời, người, nên ở trước Đức Phật vô cùng hoan hỷ, nói lời ưu ái, đọc kệ. Như người nhờ người khác giải thoát khỏi ngục tù, tùy theo tâm ý vui vẻ, thích hợp, trở lại chỗ người kia, nói: Tôi nhờ ơn của ông mới được thọ mạng trở lại. Thiên Đế Thích cũng như vậy, nên không mâu thuẫn.
Lại nữa, Thiên Đế dựa nơi giải thoát do kiến đạo đoạn trừ các bệnh phiền não, nên nói như thế. Nghĩa là Đức Phật vì ông ta lược nói pháp yếu, khiến đoạn trừ tất cả các bệnh phiền não do kiến đạo đoạn dứt, an trụ nơi Thánh đạo bậc nhất không bệnh cùng trong đạo quả, do đó, Thiên Đế ở trước Đức Thế Tôn hoan hỷ vô hạn, nêu bày kệ ấy. Như người gặp thầy thuốc, bệnh nặng được khỏi, tùy ý thọ dụng các thức ăn uống, trở lại chỗ vị thầy thuốc, nói: “Tôi nhờ ơn ông nên có được thân mạng trở lại”. Thiên Đế cũng vậy, nên không mâu thuẫn.
Lại nữa, Thiên Đế dựa vào chỗ đạt được bốn thần túc về thọ mạng, nên ở trước Đức Thế Tôn nói tụng như vậy. Như Khế kinh nói: “Bí-sô nên biết! Những gì là thọ mạng? Đó là bốn thần túc”. Đức Thế Tôn vì Thiên Đế lược nói pháp yếu, khiến ông ta không rời khỏi tòa ngồi mà được bốn thần túc, nên ở trước Đức Phật hoan hỷ hết mực, nói lời thân ái, đọc kệ tụng ấy.
Lại nữa, Thiên Đế dựa vào việc đạt được căn của tuệ mạng, nên nói như thế. Như Khế kinh nói: “Trong các mạng căn, tuệ mạng là tối thắng”. Nghĩa là Đức Phật vì Thiên Đế lược nói pháp yếu, khiến ông ta đạt được tuệ mạng, nên ở trước Đức Phật vô cùng hoan hỷ, nói những lời ưu ái, đọc kệ tụng kia.
Hỏi: Thiên Đế Thích há trước không có tuệ căn, nay nghe pháp rồi mới đạt được chăng?
Đáp: Trước tuy có tuệ mà là hữu lậu. Nay được vô lậu nên nói như thế.
Lại nữa, Thiên Đế dựa vào việc giải thoát năm thứ tướng suy, nên nói như thế. Tức là trong chư Thiên, khi phần vị sắp mạng chung thì trước có hai thứ nơi năm tướng suy hiện ra: Một là nhỏ. Hai là lớn.
Thế nào gọi là năm tướng suy nhỏ? Đó là:
1. Chư Thiên qua lại, chuyển động, từ nơi vật dụng trang nghiêm thân phát ra năm tiếng nhạc hòa tấu, hơn hẳn nhạc công giỏi tấu nhạc. Lúc phần vị sắp mạng chung, thì âm thanh ấy không khởi lên.
Có thuyết nói: Lại phát ra âm thanh không như ý.
2. Ánh sáng nơi thân của chư Thiên rực rỡ, ngày đêm luôn tỏa chiếu, thân không có bóng. Lúc sắp mạng chung, ánh sáng nơi thân mờ tối.
Có thuyết nói: Hoàn toàn dứt mất và bóng của thân lại hiện ra.
3. Da nơi thân chư Thiên mịn, láng, vào ao thơm tắm gội xong, vừa ra khỏi nước thì nước không còn dính nơi thân, như cánh của hoa sen. Khi phần vị sắp mạng chung thì nước liền dính đầy nơi thân.
4. Vô số cảnh giới của chư Thiên thảy đầu đẹp đẽ, thù thắng, luôn khiến cho các căn phiêu động, thanh thoát, như vòng lửa xoay tròn không chút tạm dừng. Khi phần vị sắp mạng chung thì các căn chuyên chú nơi một cảnh, trải qua nhiều thời gian không thể lìa bỏ.
5. Sức thân của chư Thiên luôn mạnh mẽ, mắt không hề nháy. Khi sắp mạng chung, sức thân trở nên yếu kém, mắt luôn nháy.
Thế nào gọi là năm tướng suy lớn? Đó là:
- Y phục trước thì sạch sẽ, nay cấu uế.
- Mão hoa trước thì tươi, nay khô héo.
- Hai nách hốt nhiên chảy mồ hôi.
- Thân thể liền sinh hơi hôi hám.
- Không thích an trụ nơi bản tòa.
Năm tướng suy trước hiện xong, vẫn còn có thể chuyển đổi. Năm tướng suy sau hiện ra rồi thì không thể hoạt động. Lúc ấy, Thiên Đế Thích đã có năm thứ tướng suy nhỏ hiện ra, không lâu sẽ có tướng suy lớn hiện bày, nên tâm sinh lo sợ, suy nghĩ: Ai có thể cứu ta thoát khỏi ách nạn suy thoái này, ta sẽ quy kính vị ấy. Suy nghĩ xong liền tự nhận biết rõ: Trừ Đức Phật, Thế Tôn thì không ai có thể cứu giúp được. Tức thời đi đến chỗ Đức Phật, thỉnh cầu thương xót cứu giúp. Đức Phật vì Thiên Đế thuyết pháp, giúp ông liền được thấy Đế, khiến tướng suy kia trong một lúc đều diệt. Do đấy, ở trước Đức Phật, Thiên Đế vô cùng vui mừng, nêu bày những lời thân ái và nói kệ ấy.
Các hữu tình muốn khiến hiện bày thuận, thọ nhận nghiệp dẫn đến chúng đồng phần, họ nói: Thiên Đế Thích tức ở nơi tòa nghe pháp, lại mới dẫn đạt tám căn như mạng v.v… Các hữu tình muốn khiến hiện bày thuận, thọ nhận nghiệp không thể dẫn đạt chúng đồng phần, họ bảo: Thiên Đế Thích tức ở nơi tòa nghe pháp, dứt trừ năm tướng suy, thân vị trở lại như cũ. Do nghĩa lý ấy nên không có sống chết.
Có Sư khác nói: Lúc đó, Thiên Đế Thích cũng có sống chết.
Hỏi: Nếu như vậy thì khéo thông suốt về chỗ kệ nói, nhưng vấn nạn nêu ra trước làm sao thông? Nghĩa là có sống chết tất thọ nhận trung hữu. Vì sao lúc ấy chúng luôn thấy thân trời Đế Thích kia?
Đáp: Bản hữu, trung hữu trong tất cả trời đều là hóa sinh. Các vị hóa sinh chết không để lại thể xác, trung hữu hiện mất rất mau chóng, nên chúng không biết thân của Thiên Đế Thích có gián đoạn.
Hỏi: Luận Thi Thiết nói: Chư Thiên khi mới sinh, hình lượng như đứa bé năm tuổi. Trời ôm đặt trên đầu gối tức thời hóa sinh. Vị trời kia liền cho là con trai con gái của ta. Vị trời mới sinh này cũng nói: Trời kia là cha mẹ ta. Về lượng đã nhỏ, vì sao lúc ấy chúng đều thấy như cũ?
Đáp: Mới sinh tuy nhỏ, nhưng sinh rồi liền lớn, thời gian xảy ra rất nhanh chóng nên chúng không nhận biết.
Lại có thuyết cho: Chúng tuy nhận biết nhưng suy nghĩ: Thiên Đế Thích này thần lực tự tại, ở trước Đức Thế Tôn tự hiện thần biến, hoặc lớn hoặc nhỏ, nên không cho là có sống chết.
Có Sư khác nêu: Không phải tất cả trời, lúc mới sinh thân lượng đều nhỏ như Đế Thích v.v… Trời Đại oai đức, lúc mới sinh cùng với phần vị trung hữu đều như lượng của bản hữu khi tráng niên. Do đấy, tuy có sống chết mà chúng không biết. Nên nói như thế này: Thiên Đế Thích không có sống chết, nên trong hai thuyết, thuyết đầu là tốt, vì người trải qua sống chết, thân tâm biến đổi.
Luận Thi Thiết nói: Vào thời kỳ kiếp đầu, con người có kẻ hốt nhiên đi bằng bụng, thân hình đã biến đổi, cùng gọi là rắn. Lại có kẻ đột nhiên sinh ra vòi thứ ba, thân hình đã biến đổi, cũng gọi là voi.
Hỏi: Chuyển biến như vậy là có sống chết chăng? Nêu ra như thế thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi. Vì sao? Vì nếu có sống chết tức nên thọ trung hữu, vì sao mọi người không thấy có gián đoạn? Nếu không sống chết thì vì sao nơi nẻo người liền làm bàng sinh?
Đáp: Nên nói như vầy: Các thứ ấy không có sống chết.
Hỏi: Nếu như thế thì khéo thông suốt vấn nạn nêu trước. Nhưng còn vì sao nơi nẻo người liền làm bàng sinh?
Đáp: Không phải liền nơi nẻo người chuyển làm bàng sinh, chỉ do thân hình kia trước sau có khác. Đối với trung hữu mà nói, kẻ kia luôn là người, nhưng nhân của túc nghiệp hưng suy không định. Lúc đầu, phước nghiệp thắng nên làm hình người. Lúc sau, do ăn phải điều ác, dua nịnh, quanh co tăng, nên hình người cùng diệt, biến làm bàng sinh. Như hoặc có người bị kẻ khác chú thuật, biến giống như lừa v.v… nhưng thật sự là người.
Lại có thuyết cho: Những thứ kia là bàng sinh. Nhưng kẻ ấy vừa từ nơi cõi Cực quang tịnh chết, nhân nơi nghiệp ác đời trước nên thọ nhận nẻo bàng sinh. Trước, do thế mạnh của phước còn sót lại, nên lúc đầu giống như người. Lúc sau, ăn phải điều ác, dua nịnh, dối trá tăng, nên hình người cùng diệt, lại hiện tướng bàng sinh. Như thân ểnh ương trước sau chuyển biến. Trước gọi là nòng nọc, hiện rõ hình đen, tròn. Sau gọi là ểnh ương, hình tướng mới hiện rõ xen lẫn, nhưng loài ấy trước sau đều là bàng sinh. Nơi kiếp đầu con người biến đổi nên biết cũng như thế.
Có Sư khác nêu: Những thứ kia có sống chết.
Hỏi: Nếu vậy thì khéo thông suốt vấn nạn nêu sau. Nhưng vấn nạn nêu trước làm sao thông? Nghĩa là có sống chết tất thọ nhận trung hữu, vì sao mọi người không thấy có gián đoạn?
Đáp: Vào thời kỳ kiếp đầu, bản hữu, trung hữu của loài người đều là hóa sinh. Các kẻ hóa sinh chết không để lại hình chất. Trung hữu hiện ra mất đi là rất nhanh chóng nên người khác không nhận biết, tuy kẻ kia thọ nhận thân có gián đoạn.
Nên nói như vầy: Những thứ kia không có sống chết, nên trong hai thuyết, thuyết đầu là tốt, vì người trải qua sống chết phần nhiều quên hẳn bản sự. Đã nhớ lại bản sự, nên không phải là sống chết.
HẾT – QUYỂN 70