LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 50
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN, phần 5
* Có bảy tùy miên: Nghĩa là tùy miên dục tham, giận dữ, hữu tham, mạn, vô minh, kiến và nghi.
Hỏi: Bảy tùy miên này lấy gì làm tự tánh?
Đáp: Lấy chín mươi tám sự việc làm tự tánh. Nghĩa là tùy miên dục tham, giận dữ đều có năm bộ nơi cõi dục, là mười sự việc. Tùy miên hữu tham nơi cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi đều có năm bộ, là mười sự việc. Tùy miên mạn, vô minh, mỗi thứ đều có năm bộ nơi ba cõi, là ba mươi sự việc. Tùy miên kiến nơi ba cõi, mỗi cõi đều có mười hai, là ba mươi sáu sự việc. Tùy miên nghi nơi ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ, là mười hai sự việc. Như thế là bảy tùy miên này lấy chín mươi tám sự việc làm tự tánh.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là tùy miên? Tùy miên là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa vi tế, nghĩa tùy tăng, nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên.
Nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là hành tướng vi tế của bảy tùy miên như dục tham v.v…, như bảy cực vi hợp thành một sắc tế.
Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là bảy thứ tùy miên như dục tham v.v… có mặt khắp tất cả pháp hữu lậu vi tế, thảy đều tùy tăng, cho đến một cực vi, hoặc trong khoảnh khắc một sát-na, bảy thứ như dục tham v.v… đều tùy tăng.
Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là như đi trên không có bóng, thì đi dưới nước cũng theo bóng đó. Đi trên không là loài chim. Đi dưới nước là loài cá. Chim do sức mạnh của đôi cánh, muốn bay qua biển cả. Trong nước có cá khéo nhận giữ hình tướng ấy, khởi suy nghĩ: Không có loài chim bay nào có thể vượt qua biển cả, chỉ trừ chúa Diệu sí điểu có sức mạnh, nhanh. Cá liền đuổi theo bóng chim, chim mỏi cánh rơi xuống nước bị cá nuốt. Tùy miên như thế đối với tất cả phần vị luôn hiện khởi được tác ý phi lý. Nếu lúc hiện tiền, tức là thọ nhận quả đẳng lưu hoặc quả dị thục.
Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tự tánh mà nói. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tác dụng mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào sự bị trói buộc kia mà nói.
Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tự tánh mà nói. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào sự nối tiếp mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tập khí bền chắc mà nói.
Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tùy miên quá khứ mà nói. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tùy miên hiện tại mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tùy miên vị lai mà nói.
Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào hành tướng mà nói. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào sự trói buộc nơi đối tượng duyên mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào sự trói buộc nơi tương ưng mà nói.
Lại nữa, nghĩa vi tế, nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tùy miên tương ưng mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tùy miên không tương ưng mà nói.
Hỏi: Tùy miên đều cùng với tâm tương ưng v.v… vì sao nói là dựa vào không tương ưng mà nói?
Đáp: Trong đây là đối với tùy miên đã được lập gọi là có được tùy miên, nên gọi là tùy miên.
Các Sư nước ngoài nói: Do bốn thứ nghĩa nên gọi là tùy miên. Đó là nghĩa vi tế, nghĩa tùy nhập, nghĩa tùy tăng và nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên.
Nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là hành tướng nơi tự tánh của dục tham v.v… đều hết sức vi tế.
Nghĩa tùy nhập là nghĩa của tùy miên: Là sự nối tiếp tùy nhập của dục tham v.v… không đâu là không có mặt khắp, như dầu ở trong hạt mè, chất béo ở trong một cục mỡ.
Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là như dục tham v.v… ở trong sự nối tiếp lần lượt tùy tăng. Như bé con bú mẹ.
Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là như bóng của vật đi trên không, vật đi dưới nước đuổi theo.
Lại nữa, nghĩa vi tế là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tự tánh mà nói. Nghĩa tùy nhập là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào tương ưng mà nói. Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào hành tướng mà nói. Nghĩa tùy trói buộc là nghĩa của tùy miên: Là dựa vào chỗ bị trói buộc mà nói.
Nên do ba sự việc nhận biết các tùy miên: 1. Do tự tánh. 2. Do quả. 3. Do Bổ-đặc-già-la.
Do tự tánh: Là tùy miên dục tham như ăn thứ ngon thích. Tùy miên giận dữ như ăn thứ cay đắng. Tùy miên hữu tham như áo của nhũ mẫu. Tùy miên mạn như người kiêu ngạo. Tùy miên vô minh như kẻ mù lòa. Tùy miên kiến như người bị lạc đường. Tùy miên nghi như người sắp đến đường rẽ.
Do quả: Tùy miên dục tham nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh trong loài chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương. Tùy miên giận dữ nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh trong loài ong, rít, rắn độc v.v… Tùy miên hữu tham nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc. Tùy miên mạn nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh vào dòng họ thấp kém. Tùy miên vô minh nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh vào dòng họ ngu si, mù lòa. Tùy miên kiến nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh vào dòng họ của ngoại đạo. Tùy miên nghi nếu tập, nếu hành, nếu gây tạo nhiều, sẽ sinh trong dòng họ ở chốn biên địa.
Do Bổ-đặc-già-la: Tùy miên dục tham như Nan-đà v.v… Tùy miên giận dữ như ngoại đạo hà hơi, như Chỉ Man (Ương-quật-mala). Tùy miên hữu tham như Át-tỉ-đa, A-la-đồ, Ốt-đạt-lạc-ca v.v… Tùy miên mạn như kẻ kiêu mạn v.v… Tùy miên vô minh như Ô-lưtần-loa-ca-diếp-ba v.v… Tùy miên kiến như Thiện tinh v.v… Tùy miên nghi như Ma-lạc-ca-tử v.v…
Hỏi: Vì sao ganh ghét (Tật), keo kiệt (Xan) không được lập là tùy miên?
Đáp: Vì hai thứ đó không có tướng của tùy miên. Lại nữa, tùy miên thì vi tế, hai thứ kia thì thô động. Lại nữa, tùy miên thì nhẹ nhàng, hai thứ kia thì rất nặng. Lại nữa, tùy miên thì mạnh mẽ, nhạy bén, hai thứ kia thì bình thường. Lại nữa, tùy miên là phiền não căn bản, hai thứ kia là đẳng lưu của phiền não. Nghĩa là tật là đẳng lưu của giận dữ, xan là đẳng lưu của dục tham. Lại nữa, tập khí của tùy miên rất bền chắc. Như nơi đất này, sau khi đốt cả đống cây rừng, tuy lửa đã tắt từ lâu, nhưng đất vẫn còn nóng. Tập khí của hai thứ kia không bền chắc như vậy. Như nơi đất này, sau khi đốt cỏ, vỏ cây hoa, ngọn lửa vừa tắt thì đất liền nguội ngay. Lại nữa, tùy miên khó hàng phục, hai thứ kia thì dễ chế ngự. Thế nên hai thứ kia không lập là tùy miên. Các triền và cấu còn lại dựa theo hai thứ kia để nói.
***
* Có chín kiết: Nghĩa là kiết ái, kiết giận, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết tật (ganh ghét), kiết xan (keo kiệt).
Hỏi: Chín kiết này lấy gì làm tự tánh?
Đáp: Lấy một trăm sự việc làm tự tánh. Nghĩa là kiết ái, kiết mạn, kiết vô minh mỗi thứ đều có năm bộ nơi ba cõi, là bốn mươi lăm sự việc. Kiết giận chỉ có năm bộ nơi cõi dục, là năm sự việc. Kiết kiến có mười tám sự việc: Nghĩa là hữu thân kiến, biên chấp kiến, mỗi kiến nơi ba cõi đều do kiến khổ đoạn, là sáu sự việc. Tà kiến nơi ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ, là mười hai sự việc. Kiết thủ có mười tám sự việc: Tức kiến thủ nơi ba cõi, mỗi cõi có bốn bộ, là mười hai sự việc. Giới cấm thủ nơi ba cõi, mỗi cõi đều do kiến khổ, đạo đoạn, là sáu sự việc. Kiết nghi nơi ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ, là mười hai sự việc. Kiết tật, kiết xan, mỗi kiết ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ, là hai sự việc. Như thế là chín kiết này lấy một trăm sự việc làm tự tánh.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa trói buộc, nghĩa kết hợp với khổ, nghĩa xen lẫn độc hại là nghĩa của kiết. Ngoài ra, giải thích rộng như ở phần ba kiết.
Đã giải thích nghĩa chung của các kiết, về tự tánh của mỗi mỗi kiết nay sẽ nói rộng.
– Thế nào là kiết ái?
Đáp: Nghĩa là tham của ba cõi. Tham của ba cõi ở trong chín kiết được lập chung là kiết ái, ở trong bảy tùy miên lập làm hai tùy miên. Tức tham nơi cõi dục gọi là tùy miên dục tham. Tham nơi cõi sắc, cõi vô sắc gọi là tùy miên hữu tham. Trong các kinh khác lập làm ba ái, là dục ái, sắc ái, và vô sắc ái.
Hỏi: Ba ái này khác nhau ra sao?
Đáp: Đức Thế Tôn giáo hóa các hữu tình theo căn tánh của họ có ba phẩm: Vì kẻ lợi căn thì nói một kiết ái, vì kẻ căn tánh trung bình thì nói hai tùy miên, vì kẻ độn căn thì nói ái của ba cõi.
Lại nữa, Đức Thế Tôn giáo hóa các hữu tình, về tu tập có ba loại: Vì người mới tu tập thì nói một kiết ái. Vì người tu tập đã thuần thục thì nói hai tùy miên. Vì người vượt quá tác ý thì nói ái của ba cõi.
Lại nữa, Đức Thế Tôn giáo hóa các hữu tình, về sự ưa thích của họ có ba loại: Vì hạng ưa thích tóm lược thì nói một kiết ái. Vì hạng ưa thích mở rộng thì nói ái của ba cõi. Vì hạng ưa thích tóm lược, mở rộng thì nói hai tùy miên.
Lại nữa, nghĩa kết hợp với khổ là nghĩa của kiết. Do tham của ba cõi đều khiến cho hữu tình kết hợp với khổ, không phải là vui, nên lập một kiết ái.
Nghĩa tùy tăng là nghĩa của tùy miên: Do tham của cõi dục là tùy tăng ở môn ngoài, tham của cõi sắc, cõi vô sắc là tùy tăng của môn trong, nên lập hai tùy miên.
Nghĩa nhiễm nơi cảnh là nghĩa của ái: Vì cảnh bị nhiễm vướng của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc có khác nhau, nên lập ái của ba cõi.
– Thế nào là kiết giận?
Đáp: Nghĩa là đối với các hữu tình muốn gây tổn hại.
Hỏi: Nếu đối với phi tình muốn gây tổn hại cũng nên là kiết giận dữ, vì sao không nói?
Đáp: Là theo đa số mà nói. Nghĩa là kiết giận này phần nhiều đối với hữu tình muốn gây tổn hại, chỉ là phần ít đối với phi tình, vậy nên không nói.
Lại nữa, vì theo chỗ nặng mà nói. Nghĩa là đối với các hữu tình muốn gây tổn hại, tội đó rất nặng, không phải đối với phi tình, thế nên không nói.
Lại nữa, vì theo gốc mà nói. Tức kiết giận này chủ yếu là nhằm vào hữu tình muốn gây tổn hại, sau đó mới đối với phi tình cũng khởi, thế nên không nói.
Lại nữa, vì căn cứ vào tưởng mà nói. Nghĩa là đối với phi tình nếu khởi kiết giận thì cũng ở nơi đó khởi tưởng về hữu tình, nên chỉ nói khởi giận đối với hữu tình.
– Thế nào là kiết mạn?
Đáp: Nghĩa là bảy thứ mạn: Mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng tượng mạn, ty mạn, tà mạn.
Mạn: Là đối với chỗ kém, cho mình là hơn, đối với chỗ bằng, cho là mình bằng, khiến tâm tự cao.
Quá mạn: Là đối với chỗ bằng, cho là mình hơn, đối với chỗ hơn, cho là mình bằng, khiến tâm tự cao.
Mạn quá mạn: Là đối với người hơn mình, cho là mình hơn họ, khiến tâm tự cao.
Ngã mạn: Là đối với năm thủ uẩn, cho là ngã và ngã sở, khiến tâm tự cao.
Tăng tượng mạn: Là mình chưa đạt được đức tốt đẹp, cho là mình đã đạt được, khiến tâm tự cao.
Ty mạn: Là đối với người khác hơn mình nhiều, cho là mình chỉ kém họ một ít thôi, khiến tâm tự cao.
Tà mạn: Là thật sự mình hoàn toàn không có đức, tự cho là mình có đức.
Bảy mạn như thế, gọi chung là kiết mạn.
* Thế nào là kiết vô minh?
Đáp: Nghĩa là không nhận biết về ba cõi. Ở đây nói là đúng. Nếu nói như vầy: Duyên nơi ba cõi không nhận biết, tức nên không gồm thâu vô minh duyên nơi vô lậu.
* Thế nào là kiết kiến?
Đáp: Nghĩa là ba kiến, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến và tà kiến, gọi chung là kiết kiến.
* Thế nào là kiết thủ?
Đáp: Nghĩa là hai thủ, tức kiến thủ và giới cấm thủ, gọi chung là kiết thủ.
Hỏi: Vì sao trong năm kiến ba kiến được lập là kiết kiến? Hai kiến còn lại lập là kiết thủ?
Đáp: Lúc kết hợp với khổ, do tên gọi như nhau. Nghĩa là ba kiến trước đồng là tên người nữ. Hai kiến sau đồng là tên người nam. Do kiến là tiếng nữ, thủ là tiếng nam. Lại nữa, lúc kết hợp với khổ, do sự việc như nhau. Nghĩa là kiết kiến, kiết thủ đều gồm thâu mười tám sự việc.
Lại nữa, gồm thâu tùy miên cũng như nhau. Nghĩa là kiết kiến và kiết thủ trong chín mươi tám tùy miên, mỗi thứ đều gồm thâu mười tám.
Lại nữa, ba kiến trước là suy tìm, lường xét, không phải là nhận giữ, nên kết hợp lập làm kiết kiến. Hai kiến sau là suy tìm, lường xét, cũng là nhận giữ, nên kết hợp lập làm kiết thủ.
Lại nữa, ba kiến trước là cùng suy tìm lường xét về cảnh, nên kết hợp lập làm kiết kiến. Hai kiến sau là cùng suy tìm lường xét về kiến, nên kết hợp lập làm kiết thủ.
* Thế nào là kiết nghi?
Đáp: Nghĩa là đối với đế còn do dự.
Hỏi: Vì sao nói kiết này đối với đế còn do dự?
Đáp: Vì muốn cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là như có người thoáng thấy từ xa một vật đang đứng, liền sinh do dự: Vật kia là cây trụi cành lá hay là con người? Nếu vật đó là người thì là nam hay là nữ? Hoặc thấy hai con đường, vội sinh do dự: Không biết đường này mình đã đi qua hay là chưa? Thấy hai y bát cũng sinh do dự: Y bát này là của mình hay của người khác? Hoặc nghi những sự việc này là kiết nghi thật. Vì muốn cho nghi kia được quyết định, nay chỉ rõ nghi này chỉ là vô phú vô ký của cõi dục, lấy tà trí làm thể, không phải là kiết nghi thật. Kiết nghi thật là đối với bốn đế như khổ v.v… còn do dự.
* Thế nào là kiết tật?
Đáp: Nghĩa là tâm đố kỵ.
* Thế nào là kiết xan?
Đáp: Nghĩa là tâm keo kiệt, cất giữ.
Hỏi: Vì sao nói hai thứ này có tướng riêng biệt?
Đáp: Vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là người thế gian đối với ganh ghét (tật) cho là keo kiệt (xan), đối với keo kiệt cho là ganh ghét.
Đối với ganh ghét cho là keo kiệt: Là như có kẻ thấy người khác đạt được các việc tốt đẹp sinh tâm đố kỵ, liền cho là keo kiệt, nhưng thật ra đố kỵ là ganh ghét, không phải là keo kiệt.
Đối với keo kiệt cho là ganh ghét: Là như có kẻ thấy người khác bỏn sẻn, giữ vợ v.v… liền cho là ganh ghét, nhưng thật ra bỏn sẻn, giữ gìn là keo kiệt, không phải là ganh ghét.
Vì muốn cho nghi kia được quyết định, nên nói hai tướng ganh ghét và keo kiệt khác nhau.
Hỏi: Vì sao trong mười triền chỉ lập tật, xan là kiết?
Đáp: Vì chỉ hai triền này có tướng của kiết, còn các triền khác không có tướng của kiết, nên không lập là kiết.
Lại nữa, vì lấy sau để hiển bày trước, nên chỉ nói có hai. Nghĩa là trong mười triền, hai triền tật, xan ở sau cùng, do vậy nói sau là kiết thì đã hiển bày về trước.
Lại nữa, vì triền tật, xan đứng riêng, vì lìa hai, nên lập là kiết. Các triền khác thì không như thế. Đứng riêng: Là tự lực hiện hành. Lìa hai: Là toàn bộ đều bất thiện.
Hai triền phẫn, phú tuy có thể đứng riêng, cũng lại lìa hai, nhưng vì giống như tùy miên, vì chỉ là chỗ chiếu sáng của tướng tùy miên, tướng của chúng không hiện rõ, nên không lập là kiết. Do nghĩa này, nên các Sư nước ngoài nói: Hai thứ ấy tức là tánh của tùy miên.
Hôn trầm và trạo cử không thể đứng riêng, phải nhờ ở sức khác mới hiện khởi, cũng không lìa hai, vì hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thùy miên, ố tác tuy cũng đứng riêng, nhưng không lìa hai. Thùy miên tánh chung cho cả thiện, bất thiện, vô ký. Ố tác chung cho cả thiện, bất thiện. Không hổ, không thẹn tuy là lìa hai, nhưng không phải đứng riêng. Chỉ có tật, xan là đứng riêng, lìa hai, vì khác với tướng tùy miên, nên lập là kiết.
Lại nữa, do tật, xan rất thô bỉ, thấp kém, đáng chán bỏ, nên lập làm kiết.
Lại nữa, vì tánh của tật, xan rất bỉ ổi, xấu xa, trái với chánh lý, nên lập là kiết. Nghĩa là sự tốt đẹp vẻ vang của người khác, không tổn hại gì đối với mình, cớ sao lại sinh tâm ganh ghét? Tuy ta gom góp, cất giữ hàng trăm ngàn tài sản quý báu, chung quy cũng không thể mang theo được một đồng tiền nào đến đời sau, thì vì sao lại cố tình keo kiệt cất giữ, không thí cho người khác?
Lại nữa, do hai pháp khiến các hữu tình ở trong sinh tử phải chịu nhiều hủy nhục: 1. Không có uy đức. 2. Rất nghèo khổ. Không có uy đức: Là do nhiều ganh ghét. Rất nghèo khổ: Là do quá keo kiệt. Kẻ không có uy đức và rất nghèo khổ thì cha mẹ, anh em, vợ con, đám tôi tớ, hãy còn khinh miệt, huống chi không phải là người thân. Thế nên trong mười triền, lập hai thứ ấy làm kiết.
Lại nữa, ganh ghét, keo kiệt đối với các hữu tình nơi cõi dục kia cũng như tên cai ngục và đám lính canh gác. Như có tội nhân bị bắt trói bỏ trong ngục tù, do hai tên lính canh giữ nghiêm ngặt không cho ra ngoài. Lại có một khu vườn rừng rất trang nghiêm yên tĩnh, có hai người đứng canh giữ không cho ai đi vào. Nhà tù là dụ cho nẻo ác. Khu vườn rừng là dụ cho nẻo người, trời. Cai ngục và đám lính canh giữ là dụ cho ganh ghét và keo kiệt. Hữu tình nơi cõi dục vì luôn bị trói buộc, giam giữ ở nhà tù nẻo ác, không thể thoát khỏi được, lại không được phép đi vào khu vườn đẹp đẽ của nẻo người, trời là do hai kiết tật và xan ngăn cản. Như Khế kinh nói: Bấy giờ, Thiên Đế Thích đi đến chỗ Đức Phật hỏi: Do kiết nào mà người, trời, rồng, A-tố-lạc v.v… lại thường xuyên chiến đấu với nhau? Đức Thế Tôn bảo: Do ganh ghét và keo kiệt. Hỏi: Các loài hữu tình hoặc có đủ chín kiết, hoặc có sáu kiết, hoặc có ba kiết, hoặc hoàn toàn không có kiết. Có đủ chín kiết: Là hàng phàm phu bị trói buộc đủ. Có sáu kiết: Là phàm phu đã lìa nhiễm nơi cõi dục và Thánh giả chưa lìa nhiễm nơi cõi dục. Có ba kiết: Là Thánh giả đã lìa nhiễm nơi cõi dục. Hoàn toàn không có kiết: Là A-la-hán. Không thành lập hai kiết và một kiết, vì sao Đức Phật nói do ganh ghét và keo kiệt mà người, trời, A-tố-lạc v.v… thường xuyên dấy khởi tranh chấp, đánh nhau? Đáp: Kinh kia chỉ nói về những kẻ giàu sang thường hiện hành kiết, không nói về gây tạo. Nghĩa là Thiên Đế Thích là bậc tôn quý trong hai cõi trời, do ganh ghét cùng với keo kiệt nên thường xuyên tranh chấp, đánh nhau với chúng phi thiên, vì thế chỉ nói hai kiết. Lại nữa, Đức Phật vì quở trách Thiên Đế Thích, nên nơi Khế kinh kia chỉ nói đến hai kiết này. Nghĩa là trong chư Thiên có vị Tô-đà hơn A-tố-lạc, còn ở cung A-tố-lạc có người nữ xinh đẹp hơn bên phía chư Thiên. Trời tự keo kiệt về hương vị, ganh ghét về mỹ nữ của A-tố-lạc nọ, còn A-tố-lạc (phi thiên) thì keo kiệt về mỹ nữ, ganh ghét về hương vị của trời. Trời vì mỹ nữ nên đến cung của A-tố-lạc. A-tố-lạc vì hương vị lại đến cung trời. Đó là lý do khiến chư Thiên thường xuyên tranh chấp, đánh nhau với A-tố-lạc, chỉ vì kiết tật và xan. Bấy giờ, Thiên Đế Thích vừa chiến đấu với A-tố-lạc xong, tâm vẫn còn sợ sệt, đến chỗ Đức Phật hỏi: Do kiết nào mà người, trời, rồng, A-tố-lạc v.v… thường xuyên đánh nhau? Trời kia có ý muốn hỏi, do kiết nào mà trời và phi thiên thường xảy ra cảnh chiến đấu với nhau, nên Đức Phật mới bảo: Do ganh ghét và keo kiệt. Ý Đức Phật bảo: Chúng trời các ông và A-tố-lạc đều do kiết tật và xan nên thường gây ra chiến cuộc với nhau. Do vậy, ganh tị, keo kiệt là chứng bệnh của các ông, cũng là gánh nặng rất tổn hại. Vậy các ông phải nên nhanh chóng lìa bỏ.
Hỏi: Sáu phiền não cấu vì sao không phải là kiết?
Đáp: Vì tướng thô động. Nếu là tướng vi tế và trói buộc vững chắc thì có thể kiến lập là kiết. Tướng cấu vì nghĩa thô động trói buộc không vững chắc, nên không lập là kiết.
***
* Có chín mươi tám tùy miên: Nghĩa là ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi dục. Thuộc cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi đều có ba mươi mốt tùy miên. Đây tức là dùng chín mươi tám sự việc làm tự tánh (Về danh, nghĩa của tùy miên, như trước đã giải thích).
Hỏi: Vì sao nói chín mươi tám tùy miên này?
Đáp: Đây là ý của người tạo luận muốn thế. Nghĩa là Luận sư của Bản luận, theo ý muốn tạo luận, không trái với pháp tướng, do đó không nên vấn nạn. Lại nữa, vì nhằm ngăn chận ý của Sa-môn vướng mắc nơi văn tự. Nghĩa là có Sa-môn chấp trước nơi văn tự, lìa chỗ giảng nói của kinh thì hoàn toàn không dám nêu bày. Sa-môn nọ nghĩ: Ai là người có trí tuệ hơn Đức Phật. Đức Phật chỉ nói có bảy thứ tùy miên, sao lại miễn cưỡng thêm là chín mươi tám? Vì nhằm ngăn chận ý của Sa-môn kia, nói rộng bảy tùy miên thành chín mươi tám. Tức là căn cứ vào sự sai biệt nơi các hành tướng, cõi, bộ: Vì sự sai biệt của bộ nơi tùy miên dục tham trong bảy tùy miên nên là năm. Tùy miên giận cũng như vậy. Vì sự sai biệt nơi cõi của tùy miên hữu tham nên là hai, vì sự sai biệt của bộ nên là năm, vì sự sai biệt của cõi và bộ nên là mười. Vì cõi nơi tùy miên mạn khác biệt nên là ba, vì khác biệt nơi bộ nên là năm, vì cõi và bộ khác biệt nên là mười lăm. Tùy miên vô minh cũng như vậy. Vì khác biệt về cõi nơi tùy miên kiến nên là ba, vì khác biệt về hành tướng nên là năm, vì khác biệt về bộ nên là mười hai, vì hành tướng, cõi, bộ khác biệt nên là ba mươi sáu. Vì cõi khác biệt nơi tùy miên nghi nên là ba, vì bộ sai biệt nên là bốn, do bộ và cõi khác biệt nên là mười hai. Như thế bảy tùy miên căn cứ vào sự khác biệt của cõi, bộ và hành tướng nên là chín mươi tám tùy miên. Tuy có khác nhau về rộng, lược, nhưng về Thể thì không sai biệt.
***
* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì ngăn chận Tông chỉ của người khác, nhằm chỉ rõ về nghĩa chánh. Tức như có người nói: Tất cả phiền não đều là bất thiện, do chỗ thâu giữ không thiện xảo, như phái Thí Dụ. Vì nhằm ngăn chận ý của phái kia để chỉ rõ các phiền não có thứ là bất thiện, có thứ là vô ký. Nếu các phiền não do chỗ thâu giữ không thiện xảo nên là bất thiện, thì sự không thiện xảo này tức nên không phải là bất thiện, không phải là chỗ thâu giữ không thiện xảo. Không thiện xảo: Tức là không nhận biết. Chỗ thâu giữ: Là nghĩa tương ưng. Vì tự Thể không tương ưng với tự Thể, nên không thiện xảo tức không phải là bất thiện. Lại có người muốn cho phiền não của cõi dục đều là bất thiện, tất cả phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc đều là vô ký. Vì ngăn chận kiến giải đó, nhằm chỉ rõ hữu thân kiến, biên chấp kiến nơi cõi dục và vô minh tương ưng với chúng cũng là vô ký.
Lại có thuyết nói: Vì muốn hiện bày về nghĩa của môn nên tạo ra phần Luận này. Nghĩa là trước đã nói, vì sao nơi Luận này trước là thành lập chương? Vì muốn chỉ rõ về nghĩa của các môn. Nếu không lập chương, môn thì nghĩa không do đâu được hiển bày. Như người vẽ bức tranh màu, không thể tô vẽ trên hư không. Vì vậy đã lập chương, nên hiển bày về nghĩa của môn để trả lời:
– Trong ba kiết có một kiết vô ký là hữu thân kiến.
Hỏi: Vì sao hữu thân kiến là vô ký?
Đáp: Nếu pháp là tự tánh của không hổ, không thẹn, tương ưng với không hổ, không thẹn, thì không hổ, không thẹn này là quả đẳng lưu cùng khởi và pháp kia là bất thiện. Hữu thân kiến không phải là tự tánh của không hổ, không thẹn, không cùng với không hổ, không thẹn tương ưng, không phải là quả đẳng lưu cùng khởi của không hổ, không thẹn, nên là vô ký.
Lại nữa, hữu thân kiến này không phải là hoàn toàn hủy hoại ý lạc, nên không phải là bất thiện. Vì không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên không phải là hoàn toàn hủy hoại ý lạc. Lại nữa, kiến này không trái với tu thí, giới. Nghĩa là người chấp ngã nói: Do bố thí nên ta sẽ được giàu có, yên vui. Do giữ giới nên ta sẽ được sinh lên cõi trời. Do tu định nên ta sẽ được giải thoát. Vì thế hữu thân kiến là vô ký.
Lại nữa, hữu thân kiến này chỉ mê lầm về tự thể, không bức bách, não hại người khác, nên là vô ký. Nghĩa là người chấp ngã, lúc mắt thấy sắc thì nói: Ta thấy sắc, sắc đó là của ta, nói rộng cho đến lúc ý hiểu rõ pháp thì nói: Ta đã hiểu rõ pháp, pháp đó là của ta. Tuy đối với tự Thể có kiến chấp điên đảo này, nhưng không gây não hại cho kẻ khác, nên là vô ký.
Lại nữa, hữu thân kiến này không có quả dị thục, nên là vô ký.
Tôn giả Thế Hữu nói: Hữu thân kiến này không thể phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký.
Hỏi: Phiền não bất thiện cũng có không thể phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký chăng?
Đáp: Tham, giận, si, mạn nếu lúc tăng thạnh, tất có thể phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng. Hữu thân kiến này nếu lúc tăng thạnh, cũng không thể khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký.
Lại nữa, hữu thân kiến này không khiến cho hữu tình bị đọa trong các nẻo ác, nên là vô ký.
Hỏi: Phiền não bất thiện cũng có thứ không khiến hữu tình bị đọa trong nẻo ác, nên là vô ký chăng?
Đáp: Phiền não bất thiện nếu lúc tăng thạnh, tất khiến cho hữu tình bị đọa vào nẻo ác. Hữu thân kiến này nếu lúc tăng thạnh, rốt cuộc cũng không khiến hữu tình bị đọa trong nẻo ác, nên là vô ký.
Lại nữa, kiến này không thể chiêu cảm quả phi ái, nên là vô ký.
Hỏi: Kiến này đã khiến thân sau nối tiếp. Thân sau tức là thuộc về quả phi ái, vì sao không thể chiêu cảm quả phi ái? Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Ta hoàn toàn không tán thán kẻ khởi thân đời sau. Vì sao? Vì nếu khởi thân đời sau thì chỉ trong một sát-na là đã thêm khổ. Khổ tức thuộc về quả phi ái ấy.
Đáp: Ở đây nói quả phi ái là loại khổ khổ. Khế kinh nói quả phi ái là chung cho ba loại khổ. Hữu thân kiến này khiến có sự nối tiếp, không phải là loại khổ khổ, nên không mâu thuẫn. Lại nữa, hữu thân kiến này tuy khởi thân sau, là gốc của khổ khổ, nói là thêm khổ, nhưng không cùng với thân sau kia làm nhân dị thục, nên là vô ký.
Đại đức nói: Hữu thân kiến này là kiến chấp điên đảo, là không yên ổn, là loại ngu si, nên là bất thiện. Nếu hữu thân kiến không phải là bất thiện, thì còn pháp nào có thể gọi là bất thiện nữa? Như Đức Thế Tôn nói: Cho đến ngu si đều là bất thiện.
Lời bình: Thuyết kia nêu bày không hợp lý, vì không phải là nhân dị thục. Nếu hữu thân kiến đều là bất thiện, thì cõi sắc, cõi vô sắc nên có khổ khổ. Nhưng Đức Thế Tôn nói: Cho đến ngu si đều là bất thiện. Nghĩa là không phải thiện xảo, nên nói là bất thiện, không nói có thể chiêu cảm quả phi ái.
Hai kiết cần phân biệt. Tức là kiết giới cấm thủ và kiết nghi, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.
Hỏi: Thế nào là nghĩa nên phân biệt?
Đáp: Nên phân tích gọi là nên phân biệt. Nghĩa là hai kiết sau: một phần là bất thiện, một phần là vô ký, nên phải phân biệt.
Luận giả Phân Biệt nói: Hai kiết đã hỏi, nên phân biệt ghi nhận, không phải là hoàn toàn như nhau, do đó nên nói có hai kiết nên phân biệt. Nghĩa là hai kiết kia ở cõi dục là bất thiện, ở cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
Hỏi: Vì sao phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký?
Đáp: Nếu pháp là tự tánh của không hổ, không thẹn, tương ưng với không hổ, không thẹn, là quả đẳng lưu, cùng khởi của không hổ, không thẹn, thì pháp ấy là bất thiện. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc không như vậy, nên là vô ký.
Lại nữa, phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc không phải là hoàn toàn hủy hoại ý lạc, nên không phải là bất thiện. Vì không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên không phải là hoàn toàn hủy hoại ý lạc. Lại nữa, phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc không có quả dị thục, nên là vô ký.
Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc không có quả dị thục?
Đáp: Vì bốn chi, năm chi nơi định đã được điều phục. Như rắn độc v.v… vì đã được chú thuật điều phục nên không thể làm hại. Ở đây cũng như thế.
Lại nữa, vì cõi trên không có nơi thâu nhận dị thục. Nếu phiền não của cõi trên có dị thục, thì nên là khổ thọ, mà khổ thọ tất thuộc về cõi dục, không lẽ dị thục của phiền não nơi cõi trên lại thuộc về cõi dục? Nên phiền não nơi cõi trên nhất định không có dị thục.
Lại nữa, tà kiến v.v… kia không phải là sự điên đảo cùng tột, vì chúng đã sinh khởi ở phần vị giống nhau, không gây não hại cho người khác, nên chỉ là vô ký. Nghĩa là tà kiến kia hủy báng cho là không có khổ. Tuy nhiên hai cõi trên có an vui giống nhau, kiến thủ của cõi trên chấp các uẩn kia cho là bậc nhất, nhưng họ cũng có chỗ giống nhau về bậc nhất. Giới cấm thủ của cõi trên chấp các uẩn kia, cho là có thể đạt thanh tịnh, nhưng cõi trên cũng có chỗ giống nhau về có thể đạt thanh tịnh. Nghĩa là đạo của cõi sắc có thể làm tịnh cõi dục. Đạo của cõi vô sắc có thể làm tịnh cõi sắc. Vì thế phiền não của cõi đó nhất định không phải là bất thiện.
Tôn giả Thế Hữu nói: Phiền não của cõi trên không thể phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký.
Hỏi: Phiền não bất thiện cũng có không có khả năng phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký chăng?
Đáp: Nếu lúc phiền não bất thiện tăng thạnh, tất có khả năng phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng. Phiền não của cõi trên, nếu lúc tăng thạnh, cũng không có khả năng phát khởi nghiệp thân ngữ thô trọng, nên là vô ký.
Lại nữa, phiền não của cõi trên không khiến cho hữu tình bị đọa vào các nẻo ác, nên là vô ký.
Hỏi: Phiền não bất thiện cũng có không khiến cho hữu tình bị đọa vào nẻo ác, nên là vô ký chăng?
Đáp: Nếu phiền não bất thiện vào lúc tăng thạnh, tất khiến cho hữu tình bị đọa vào nẻo ác. Phiền não nơi cõi trên nếu vào lúc tăng thạnh, cũng hoàn toàn không khiến cho hữu tình bị đọa vào nẻo ác, nên là vô ký.
Lại nữa, sự mê lầm kia không thể chiêu cảm quả phi ái, nên là vô ký.
Hỏi: Sự mê lầm kia đã khiến cho hữu sau nối tiếp. Hữu sau tức là thuộc về quả phi ái, vì sao nói không thể chiêu cảm quả phi ái? Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Ta hoàn toàn không tán thán việc khởi hiện thân đời sau. Vì sao? Vì nếu sinh khởi thân đời sau, thì chỉ trong sát-na tức sẽ tăng khổ. Khổ tức là thuộc về quả phi ái.
Đáp: Ở đây, nói quả phi ái là loại khổ khổ. Còn Khế kinh nói quả phi ái là chung cho ba loại khổ. Phiền não của cõi trên khiến hữu nối tiếp, không phải là loại khổ khổ, nên không mâu thuẫn.
Đại đức nói: Phiền não nơi cõi trên nếu là vô ký thì còn có pháp nào có thể gọi là bất thiện? Như Đức Thế Tôn nói: Nếu các phiền não có thể phát khởi nghiệp đều là bất thiện.
Lời bình: Thuyết kia nêu bày là phi lý, vì nếu phiền não kia là bất thiện thì cõi sắc, cõi vô sắc nên có khổ khổ. Nhưng Đức Thế Tôn nói: Nếu các phiền não có thể khởi nghiệp đều là bất thiện, đó là Đức Thế Tôn căn cứ vào nghiệp ác mà nói, nên không mâu thuẫn.
* Ba căn bất thiện chỉ là bất thiện, vì tự tánh của chúng là bất thiện, lại còn cùng với hết thảy pháp bất thiện làm nhân, là gốc, là con đường, là nguyên do thứ lớp, là chủ thể tạo tác, là sự sinh, là duyên, là hữu, là tập, là cùng khởi.
* Trong ba lậu có một thứ vô ký là hữu lậu. Do các nhân duyên đã nói trên, nên tất cả phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc đều là vô ký.
Hai thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là dục lậu hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Do không hổ, không thẹn cùng tương ưng với dục lậu nên là bất thiện. Không hổ, không thẹn: Là hiển bày tự tánh của nó chỉ là bất thiện. Cùng tương ưng với dục lậu: Là chỉ rõ trong dục lậu có ba mươi bốn sự việc và ba phần ít cũng là bất thiện. Ba phần ít: Là phần ít của hôn trầm, thùy miên, trạo cử tương ưng với dục lậu. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là trong dục lậu tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến và ba phần ít đều là vô ký. Ba phần ít: Là phần ít của hôn trầm, thùy miên, trạo cử tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến. Năm pháp như thế, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên đều không phải là bất thiện.
Hỏi: Không hổ không cùng với không hổ tương ưng. Không thẹn không cùng với không thẹn tương ưng, thì há là vô ký chăng?
Đáp: Không hổ tuy không cùng với không hổ tương ưng, nhưng cùng với không thẹn tương ưng. Không thẹn tuy không tương ưng với không thẹn, nhưng cùng với không hổ tương ưng. Cả hai đều cùng không tương ưng mới là vô ký.
Vô minh lậu hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Do tương ưng với không hổ, không thẹn, nên là bất thiện. Nghĩa là vô minh của cõi dục do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn chỉ là bất thiện. Ba kiến do kiến khổ đoạn tương ưng với nghi, mạn, tham, giận và vô minh không chung, cũng là bất thiện. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là pháp của cõi dục tương ưng với hai kiến và tất cả vô minh của cõi sắc, cõi vô sắc đều không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên đều là vô ký.
Hỏi: Vì sao trong mười triền chỉ nói tương ưng với không hổ, không thẹn?
Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn thế. Nghĩa là người tạo luận theo ý muốn tạo luận của mình không trái với pháp tướng, do đó không nên vấn nạn.
Lại nữa, hai pháp này chỉ là bất thiện, tương ưng khắp với tất cả tâm bất thiện, thế nên nói riêng. Phẫn, phú, tật, xan tuy chỉ là bất thiện, nhưng không tương ưng khắp vói tất cả tâm bất thiện. Hôn trầm, trạo cử tuy tương ưng khắp với tất cả tâm bất thiện, nhưng không phải chỉ là bất thiện. Thùy miên, ố tác, nơi hai nghĩa trên đều không có, nên không nói. Tùy miên với cấu dựa theo đây nên biết. Không hổ, không thẹn nơi hai nghĩa kia đều cùng có, cùng với nghĩa bất thiện số lượng nhiều ít đều như nhau, như cái hộp và nắp đậy đều tương xứng, nên nói riêng về tương ưng.
* Trong bốn bộc lưu, có một thứ vô ký là Bộc lưu hữu, nghĩa như trước đã nói.
Ba thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là: Bộc lưu dục hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Do không hổ, không thẹn cùng tương ưng với bộc lưu dục nên là bất thiện. Không hổ, không thẹn: Là chứng tỏ tự tánh của nó chỉ là bất thiện. Cùng tương ưng với nó: Là chỉ rõ trong bộc lưu dục có hai mươi bốn sự việc và ba phần ít cũng là bất thiện. Ba phần ít: Là phần ít của thùy miên, hôn trầm và trạo cử tương ưng với bộc lưu dục kia. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là trong bộc lưu dục tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến, phần ít của hôn trầm, thùy miên, trạo cử không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên đều là vô ký.
Bộc lưu kiến hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ba kiến của cõi dục đều là bất thiện. Nghĩa là tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, vì tương ưng với không hổ, không thẹn. Hai kiến của cõi dục và năm kiến của cõi sắc, cõi vô sắc đều là vô ký, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn.
Bộc lưu vô minh hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Vì tương ưng với không hổ thẹn là bất thiện. Nghĩa là vô minh nơi cõi dục do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ, chỉ là bất thiện. Ba kiến do kiến khổ đoạn trừ tương ưng với nghi, mạn, tham, giận và vô minh không chung, cũng là bất thiện. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là hai kiến của cõi dục tương ưng, và tất cả vô minh của cõi sắc, cõi vô sắc, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên đều là vô ký.
* Như bốn Bộc lưu, bốn Ách cũng như thế. Vì Bộc lưu với Ách về danh, thể đều ngang đồng.
* Trong bốn thủ có một thứ vô ký là Ngã ngữ thủ, nghĩa như trước đã nói.
Ba thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là Dục thủ hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Không hổ, không thẹn cùng với dục thủ tương ưng nên là bất thiện. Không hổ, không thẹn: Là hiển bày tự tánh của dục thủ, chỉ là bất thiện. Cùng với dục thủ tương ưng: Là chỉ rõ trong dục thủ có hai mươi tám sự việc và bốn phần ít cũng là bất thiện. Bốn phần ít: Là phần ít của vô minh, trạo cử, thùy miên, hôn trầm tương ưng với dục thủ. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là phần ít của vô minh, hôn trầm, thùy miên, trạo cử tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến trong dục thủ. Vì không tương ưng với không hổ, không thẹn, nên đều là vô ký.
Kiến thủ hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Hai kiến của cõi dục là bất thiện, tức là tà kiến, kiến thủ. Hai kiến còn lại của cõi dục, bốn kiến của cõi sắc, cõi vô sắc, đều là vô ký. Hai kiến còn lại của cõi dục: Là hữu thân kiến, biên chấp kiến. Bốn kiến của cõi sắc, cõi vô sắc: Là trong năm kiến trừ giới cấm thủ.
Giới cấm thủ hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ở cõi dục là bất thiện, vì tương ưng với không hổ, không thẹn. Nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn.
* Trong bốn sự trói buộc thân có hai thứ bất thiện là tham dục, giận dữ. Hai thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là giới cấm thủ và chấp đây là thật trói buộc thân thuộc về cõi dục là bất thiện, vì tương ưng với không hổ, không thẹn. Nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn.
* Năm cái chỉ là bất thiện, vì đều tương ưng với không hổ, không thẹn.
* Trong năm kiết có ba thứ bất thiện là kiết giận, kiết tật, kiết xan. Hai thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là kiết tham, kiết mạn hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Nơi cõi dục là bất thiện, vì tương ưng với không hổ, không thẹn. Nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn.
* Trong năm kiết thuận phần dưới có hai thứ bất thiện là tham dục, giận dữ. Một thứ vô ký là hữu thân kiến. Hai thứ còn lại nên phân biệt, nghĩa là kiết giới cấm thủ và nghi, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Nơi cõi dục là bất thiện, nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
* Năm kiết thuận phần trên chỉ là vô ký, vì không tương ưng với không hổ, không thẹn.
* Trong năm kiến có hai thứ vô ký là hữu thân kiến, biên chấp kiến. Ba thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Nơi cõi dục là bất thiện, nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
* Trong sáu ái thân có hai thứ bất thiện là ái thân do tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra. Bốn thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là ái thân do nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Nơi cõi dục là bất thiện, nơi cõi Phạm thế là vô ký. Ái thân do ý xúc sinh ra hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Nơi cõi dục là bất thiện, nơi cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
* Trong bảy tùy miên có hai thứ bất thiện là tùy miên dục tham và giận dữ. Một thứ vô ký là tùy miên hữu tham. Bốn thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên mạn, nghi hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ở cõi dục là bất thiện, ở cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký. Tùy miên vô minh hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Tương ưng với không hổ, không thẹn là bất thiện. Nghĩa là vô minh nơi cõi dục do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn, cùng vô minh nơi cõi dục do kiến khổ đoạn không tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến là bất thiện. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là vô minh nơi cõi dục tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến cùng tất cả vô minh của cõi sắc, cõi vô sắc. Tùy miên kiến hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ba kiến nơi cõi dục là bất thiện, nghĩa là tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Hai kiến còn lại của cõi dục, năm kiến của cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
* Trong chín kiết có ba thứ bất thiện là kiết giận, tật, xan. Sáu kiết còn lại nên phân biệt: Nghĩa là kiết ái, mạn, thủ, nghi hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Ở cõi dục là bất thiện, ở cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký. Kiết vô minh hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Tương ưng với không hổ, không thẹn là bất thiện, ngoài ra là vô ký, về nghĩa như trước đã nói. Kiết kiến hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Một kiến của cõi dục là bất thiện là tà kiến. Hai kiến của cõi dục là hữu thân kiến và biên chấp kiến, ba kiến của cõi sắc, cõi vô sắc là vô ký.
* Trong chín mươi tám tùy miên có ba mươi ba thứ là bất thiện, sáu mươi bốn thứ là vô ký, một thứ còn lại nên phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh nơi cõi dục do kiến khổ đoạn hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Tương ưng với không hổ, không thẹn là bất thiện, nghĩa là vô minh không tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến. Ngoài ra là vô ký, nghĩa là vô minh tương ưng với hữu thân kiến, biên chấp kiến.
Hỏi: Vì sao gọi là thiện, bất thiện, vô ký?
Đáp: Nếu pháp được duy trì theo phương tiện khéo léo, có thể đem lại quả yêu thích, có tánh yên ổn, nên gọi là thiện. Được duy trì theo phương tiện khéo léo: Là chỉ rõ về đạo đế. Có thể đem lại quả yêu thích: Là chỉ rõ phần ít của khổ, tập đế, tức hữu lậu thiện. Có tánh yên ổn: Là chỉ rõ diệt đế. Nếu pháp được duy trì không theo phương tiện khéo léo, có thể gây nên quả không yêu thích, có tánh không yên ổn, nên gọi là bất thiện. Đây là hiển bày tổng quát về phần ít của khổ, tập đế, tức là các pháp ác. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp có thể chiêu cảm quả đáng yêu, quả lạc thọ, nên gọi là thiện. Nếu pháp có thể chiêu cảm quả không đáng yêu, quả khổ thọ, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp có thể dẫn phát việc đáng yêu, có sinh khởi và sinh khởi giải thoát, nên gọi là thiện. Nếu pháp có thể dẫn phát việc không đáng yêu, có sinh khởi, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp có thể khiến sinh nơi nẻo thiện, nên gọi là thiện. Nếu pháp có thể khiến sinh nơi nẻo ác, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp đưa tới phẩm hoàn diệt, vì tánh nhẹ nhàng, thăng tiến, nên gọi là thiện. Nếu pháp rơi vào phẩm lưu chuyển, vì tánh chìm đắm, nặng nề, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai pháp trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Tôn giả Vụ nói: Do bốn sự việc nên gọi là thiện: 1. Tự tánh. 2. Tương ưng. 3. Cùng khởi. 4. Thắng nghĩa. Do tự tánh: Là tự tánh thiện. Có thuyết nói: Là hổ, thẹn. Có thuyết nói: Là ba căn thiện. Do tương ưng: Là pháp tương ưng với điều thiện, tức tâm tâm sở pháp tương ưng với việc thiện đó. Do cùng khởi: Là cùng khởi điều thiện, tức việc thiện đó là hành không tương ưng đã khởi hai nghiệp thân, ngữ. Do thắng nghĩa: Là thiện thắng nghĩa, tức là Niết-bàn yên ổn, nên gọi là thiện.
Luận giả Phân Biệt cũng nói: Tự tánh thiện là trí. Tương ưng thiện là thức. Cùng khởi thiện là nghiệp thân, ngữ. Thắng nghĩa thiện là Niết-bàn.
Do bốn sự việc nên gọi là bất thiện: 1. Tự tánh. 2. Tương ưng. 3. Cùng khởi. 4. Thắng nghĩa. Do tự tánh: Tức tự tánh là bất thiện. Có thuyết nói: Là không hổ, không thẹn. Có thuyết khác nói: Là ba căn bất thiện. Do tương ưng: Là tương ưng với bất thiện, tức tâm tâm sở pháp tương ưng với bất thiện đó. Do cùng khởi: Là cùng khởi bất thiện, tức việc bất thiện đó là hành không tương ưng đã khởi hai nghiệp thân, ngữ. Do thắng nghĩa: Là bất thiện thắng nghĩa, tức là sinh tử không yên ổn, nên gọi là bất thiện.
Luận giả Phân Biệt cũng nói: Tự tánh bất thiện là si. Tương ưng bất thiện là thức. Cùng khởi bất thiện là nghiệp thân, ngữ. Thắng nghĩa bất thiện là sinh tử.
Hiếp Tôn giả nói: Nếu pháp là tác ý như lý, tự tánh tương ưng với tác ý như lý, cùng khởi từ tác ý như lý, là quả đẳng lưu, ly hệ của tác ý như lý, nên gọi là thiện. Nếu pháp là tác ý phi lý, tự tánh tương ưng với tác ý phi lý, cùng khởi từ tác ý phi lý, là quả đẳng lưu của tác ý phi lý, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp là hổ – thẹn, tự tánh tương ưng với hổ – thẹn, cùng khởi từ hổ – thẹn, là quả đẳng lưu, ly hệ của hổ – thẹn, nên gọi là thiện. Nếu pháp là không hổ – không thẹn, tự tánh tương ưng với không hổ – không thẹn, cùng khởi từ không hổ – không thẹn, là quả đẳng lưu của không hổ, không thẹn, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp là ba căn thiện, tự tánh tương ưng với ba căn thiện, từ ba căn thiện cùng khởi, là quả đẳng lưu, ly hệ của ba căn thiện, nên gọi là thiện. Nếu pháp là ba căn bất thiện, tự tánh tương ưng với ba căn bất thiện, từ ba căn bất thiện cùng khởi, là quả đẳng lưu của ba căn bất thiện, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Lại nữa, nếu pháp là năm căn như tín v.v…, tự tánh tương ưng với năm căn như tín v.v…, cùng khởi từ năm căn như tín v.v…, là quả đẳng lưu, ly hệ của năm căn như tín v.v…, nên gọi là thiện. Nếu pháp là năm cái, tự tánh tương ưng với năm cái, cùng khởi từ năm cái, là quả đẳng lưu của năm cái, nên gọi là bất thiện. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Luận Tập Dị Môn nói: Thế nào gọi là thiện? Do pháp này có thể dẫn sinh quả đáng yêu, đáng mừng, đáng vui, hài lòng, như ý, nên gọi là thiện. Đây là chỉ rõ về quả đẳng lưu. Lại nữa, do pháp này có thể chiêu cảm dị thục đáng yêu, đáng mừng, đáng vui, hài lòng, như ý, nên gọi là thiện. Đây là chỉ rõ về quả dị thục. Thế nào gọi là bất thiện? Do pháp này có thể dẫn đến quả không đáng yêu, không đáng mừng, không đáng vui, không hài lòng, không như ý, nên gọi là bất thiện. Đây là chỉ rõ về quả đẳng lưu. Lại nữa, do pháp này có thể gây nên dị thục không đáng yêu, không đáng mừng, không đáng vui, không hài lòng, không như ý, nên gọi là bất thiện. Đây là chỉ rõ về quả dị thục. Nếu pháp cùng với hai thứ trên trái nhau, nên gọi là vô ký.
Hỏi: Đức Thế Tôn đã định ký: Khổ thật là khổ, tập thật là tập, diệt thật là diệt, đạo thật là đạo. Tất cả pháp là mười hai xứ. Các pháp như thế, Đức Thế Tôn đã nói rất rõ, đã thiết lập và khai thị, làm sao có thể lập là vô ký?
Đáp: Không phải là không nói, nên gọi là vô ký. Nhưng các pháp thiện, Đức Phật ghi nhận là thiện. Các pháp bất thiện, Đức Phật ghi nhận là bất thiện. Nếu pháp không thể ghi nhận là thiện hay bất thiện, nói là vô ký.
Lại nữa, Đức Phật ghi nhận pháp thiện có quả đáng yêu, ghi nhận pháp bất thiện có quả không đáng yêu. Nếu pháp có thể ghi nhận không có hai quả đó nên nói là vô ký.
Lại nữa, do hai sự việc nên pháp thiện có thể ghi nhận: 1. Do tự tánh. 2. Do dị thục. Pháp bất thiện cũng như vậy. Vô ký tuy có tự tánh có thể ghi nhận, nhưng không có dị thục, nên gọi là vô ký. Hoặc có trường hợp không nói, nên gọi là vô ký. Như trong các kinh nên bỏ để qua một bên việc Ghi nhận nơi bốn thứ Ký luận, phần Tạp Uẩn đã nói.
HẾT – QUYỂN 50