LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 31
Chương 1: TẠP UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ ÁI KÍNH, phần 3
Đã nói về Mười lực của Phật, tiếp theo sẽ nói về Bốn pháp không sợ hãi. Bốn pháp đó là:
1. Không sợ hãi vì là bậc Chánh Đẳng Giác. Như Khế kinh nói: Ta là bậc Chánh Đẳng Giác đối với các pháp. Nghĩa là nếu có các Samôn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm v.v… của thế gian dựa vào pháp để lập vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ về pháp như thế không phải là Chánh Đẳng Giác, thì không có điều ấy. Giả như là nên có, tức Ta đối với việc này không do đâu đạt được chánh kiến, được yên ổn, không sợ hãi, tự xưng là Ta ở ngôi vị tôn quý của bậc Đại Tiên, trong đại chúng chính là Sư tử gầm vang, chuyển Đại phạm luân, hết thảy Sa-môn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm ở thế gian đều không thể chuyển được.
2. Không sợ hãi vì lậu đã vĩnh viễn dứt hết. Như Khế kinh nói: Ta đối với các lậu đã được vĩnh viễn dứt hết. Nếu ở thế gian có Samôn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm v.v… dựa vào pháp để lập vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ có lậu như thế chưa được vĩnh viễn dứt hết, thì không có điều ấy. Giả như là nên có v.v…, cho đến nói rộng.
3. Không sợ hãi vì giảng nói về pháp chướng ngại. Như Khế kinh nói: Ta vì đệ tử giảng nói pháp có thể gây tạo chướng, nhiễm tất là chướng. Nếu có Sa-môn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm v.v… ở thế gian dựa vào pháp để lập vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ về pháp có chướng này, nhiễm không phải là chướng, thì không có điều ấy. Giả như là nên có v.v…, cho đến nói rộng.
4. Không sợ hãi vì giảng nói đạo xuất ly. Như Khế kinh nói: Ta vì đệ tử giảng nói đạo có khả năng xuất ly, tu tất là lìa khổ. Nếu có Sa-môn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm v.v… ở thế gian dựa vào pháp để lập vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ việc tu đạo như thế, không thể ra khỏi khổ, thì không có điều ấy. Giả như là nên có, nghĩa là Ta đối với sự việc ấy, không do đâu đạt được chánh kiến, được yên ổn, không sợ hãi, tự xưng là Ta ở ngôi vị tôn quý của bậc Đại Tiên, trong đại chúng chính là Sư tử gầm vang, chuyển Đại phạm luân, tất cả Sa-môn, Phạm chí, Thiên ma, Phạm ở thế gian đều không thể chuyển được.
Hỏi: Bốn pháp không sợ hãi này lấy gì làm tự tánh?
Đáp: Cũng lấy trí làm tự tánh. Vì sao? Vì pháp không sợ hãi một tức là lực thứ nhất. Pháp không sợ hãi hai tức là lực thứ mười. Pháp không sợ hãi ba, tức là lực thứ hai. Pháp không sợ hãi bốn, tức là lực thứ bảy.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là không sợ hãi? Không sợ hãi là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa không khiếp nhược là nghĩa của không sợ hãi. Nghĩa không khuynh động, nghĩa dũng mãnh, nghĩa an ổn, nghĩa thanh tịnh, nghĩa trắng trong, nghĩa không kinh hãi là nghĩa của không sợ hãi.
Về giới: Bốn pháp không sợ hãi này, nếu hữu lậu thì hệ thuộc ba cõi, nếu vô lậu là không hệ thuộc.
Về địa: Bốn pháp không sợ hãi này, nếu hữu lậu thì ở mười một địa, nếu vô lậu thì ở chín địa.
Về đối tượng nương dựa: Bốn pháp không sợ hãi này, đều dựa vào người nơi cõi dục, thân đại trượng phu thuộc châu Thiệm Bộ, vì chỉ dựa vào thân này mới được thành Phật.
Về hành tướng: Pháp không sợ hãi một có mười sáu hành tướng hoặc hành tướng khác. Pháp không sợ hãi hai: Các hữu tình muốn khiến duyên nơi cảnh lậu tận nên gọi là không sợ hãi do lậu đã dứt hết, thuyết kia nói có bốn hành tướng của diệt, hoặc hành tướng khác. Các hữu tình muốn khiến dựa vào thân lậu tận nên gọi là không sợ hãi do lậu đã dứt hết, thuyết kia nói có mười sáu hành tướng, hoặc hành tướng khác. Pháp không sợ hãi ba có tám hành tướng của khổ, tập, hoặc hành tướng khác. Pháp không sợ hãi bốn có mười sáu hành tướng, hoặc hành tướng khác.
Về đối tượng duyên: Pháp không sợ hãi một duyên nơi tất cả pháp. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì duyên nơi diệt đế, nếu dựa vào thân lậu tận thì duyên nơi tất cả pháp. Pháp không sợ hãi ba duyên nơi khổ, tập đế. Pháp không sợ hãi bốn duyên nơi bốn đế.
Về niệm trụ: Pháp không sợ hãi hai nếu duyên nơi cảnh lậu tận là pháp niệm trụ, nếu dựa nơi thân lậu tận là bốn niệm trụ. Ba pháp không sợ hãi còn lại đều là bốn niệm trụ.
Về trí: Pháp không sợ hãi một và bốn đều chung cho cả mười trí. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì chỉ có sáu trí, đó là pháp trí, loại trí, diệt trí, tận trí, vô sinh trí, thế tục trí, nếu dựa vào thân lậu tận thì thông cả mười trí. Pháp không sợ hãi ba chỉ có tám trí, nghĩa là trừ diệt, đạo.
Về Tam-ma-địa cùng hành: Pháp không sợ hãi một và bốn là ba Tam-ma-địa cùng hành hoặc không cùng hành. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì cùng hành với vô tướng hoặc không cùng hành, nếu dựa vào thân lậu tận thì ba Tam-ma-địa cùng hành hoặc không cùng hành. Pháp không sợ hãi ba duyên nơi khổ, tập, không, vô nguyện cùng hành hoặc không cùng hành.
Về tương ưng với căn: Nói tổng quát đều tương ưng với cả ba căn, đó là lạc căn, hỷ căn và xả căn.
Về ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại: Bốn pháp không sợ hãi này đều thông cả ba đời.
Về duyên nơi quá khứ, vị lai, hiện tại: Pháp không sợ hãi một và bốn duyên nơi cả ba đời và lìa khỏi thế gian. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì duyên nơi lìa khỏi thế gian, nếu dựa nơi thân lậu tận thì duyên nơi cả ba đời và lìa khỏi đời. Pháp không sợ hãi ba chỉ duyên nơi ba đời.
Về pháp thiện, bất thiện, vô ký: Bốn pháp không sợ hãi này đều là thiện.
Về duyên nơi thiện, bất thiện, vô ký: Pháp không sợ hãi hai nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì chỉ duyên nơi pháp thiện, nếu dựa vào thân lậu tận thì duyên nơi cả ba thứ. Ba pháp không sợ hãi còn lại đều duyên nơi cả ba thứ.
Về hệ thuộc, không hệ thuộc: Bốn pháp không sợ hãi này nếu là hữu lậu thì hệ thuộc ba cõi, nếu là vô lậu thì không hệ thuộc.
Về duyên nơi hệ thuộc, không hệ thuộc: Pháp không sợ hãi một và bốn đều duyên nơi hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì duyên nơi không hệ thuộc, nếu dựa vào thân lậu tận thì duyên nơi hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc. Pháp không sợ hãi ba chỉ duyên nơi hệ thuộc ba cõi.
Về học, vô học, phi học phi vô học: Bốn pháp không sợ hãi này, nếu là vô lậu tức là vô học, nếu là hữu lậu là phi học phi vô học.
Về duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Pháp không sợ hãi một và bốn duyên nơi cả ba thứ. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì duyên nơi phi học phi vô học, nếu dựa vào thân lậu tận thì duyên nơi cả ba thứ. Pháp không sợ hãi ba chỉ duyên nơi phi học phi vô học.
Về do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn và không đoạn: Bốn pháp không sợ hãi này, nếu thuộc hữu lậu là do tu đạo đoạn, nếu là vô lậu thì không đoạn.
Về duyên nơi do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn và không đoạn: Pháp không sợ hãi một và bốn đều duyên nơi cả ba thứ. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận là duyên nơi không đoạn, nếu dựa vào thân lậu tận là duyên nơi cả ba thứ. Pháp không sợ hãi ba duyên nơi kiến đạo, tu đạo đoạn.
Về duyên nơi danh, nghĩa: Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận thì chỉ duyên nơi nghĩa, nếu dựa vào thân lậu tận là duyên chung cả danh, nghĩa. Ba pháp không sợ hãi còn lại đều duyên nơi danh, nghĩa.
Về duyên nơi sự nối tiếp của mình, của người khác và không nối tiếp: Pháp không sợ hãi một và bốn đều duyên nơi cả ba thứ. Pháp không sợ hãi hai, nếu duyên nơi cảnh lậu tận là duyên nơi không nối tiếp, nếu dựa vào thân lậu tận là duyên nơi ba thứ. Pháp không sợ hãi ba duyên nơi sự nối tiếp của mình và của người khác.
Về gia hạnh đắc, lìa nhiễm đắc: Bốn pháp không sợ hãi này đều có thể nói là gia hạnh đắc. Vì tích tập gia hạnh đắc thù thắng trong ba vô số kiếp nên đều có thể nói là lìa nhiễm đắc. Lìa nhiễm nơi cõi Hữu đảnh, lúc được tận trí là đắc không sợ hãi.
Hỏi: Bốn pháp không sợ hãi này gia hạnh như thế nào?
Đáp: Gia hạnh có hai thứ:
1. Gia hạnh gần: Nghĩa là thuận phần quyết định lựa chọn v.v…
2. Gia hạnh xa: Nghĩa là ngay từ lúc đầu không thoái chuyển tâm Bồ-đề.
Như thế là đã nói về mười lực và bốn pháp không sợ hãi. Mỗi mỗi lực gồm thâu bốn pháp không sợ hãi. Mỗi mỗi pháp không sợ hãi đều gồm thâu mười lực, tức có bốn mươi lực, bốn mươi pháp không sợ hãi. Tuy nhiên, trước đã nói pháp không sợ hãi một tức là lực thứ nhất, pháp không sợ hãi hai tức là lực thứ mười, pháp không sợ hãi ba tức là lực thứ hai, pháp không sợ hãi bốn tức là lực thứ bảy. Dựa vào chỗ cùng làm sáng tỏ để nói lên lý thật.
Đức Thế Tôn đã thành tựu bốn mươi lực, bốn mươi pháp không sợ hãi. Dựa vào chỗ căn bản để nói tức chỉ nói thành tựu mười lực, bốn pháp không sợ hãi.
Hỏi: Nếu mười lực gồm thâu bốn pháp không sợ hãi và bốn pháp không sợ hãi gồm thâu mười lực thì lực và không sợ hãi có gì khác nhau?
Đáp: Có thuyết nói: Hai pháp này không khác nhau, vì gồm thâu lẫn nhau.
Có thuyết cho: Hai pháp này cũng có khác nhau. Như nơi tên gọi là có khác nhau, tức gọi là lực, gọi là không sợ hãi. Lại nữa, cứng chắc, mạnh mẽ là lực. Sự dũng mãnh quyết định là không sợ hãi. Lại nữa, an trụ là lực, không thể khuynh động là không sợ hãi. Lại nữa, không thể bẽ gãy, đè bẹp xuống được là lực, không khiếp nhược là không sợ hãi. Lại nữa, lợi mình là lực, lợi người là không sợ hãi. Lại nữa, tự thâu nhận lấy là lực, thâu nhận của người khác là không sợ hãi. Lại nữa, không bị người khác thắng là lực, có khả năng thắng người khác là không sợ hãi. Lại nữa, không bị người khác hàng phục là lực, có khả năng hàng phục người khác là không sợ hãi. Lại nữa, trí của tự tướng là lực, trí của cộng tướng là không sợ hãi. Lại nữa, trí là lực, sự biện luận là không sợ hãi. Lại nữa, nhân là lực, quả là không sợ hãi. Lại nữa, tự thông đạt là lực, có khả năng vì người khác giảng nói là không sợ hãi. Lại nữa, thông đạt về nghĩa là lực, thông đạt về văn là không sợ hãi. Lại nữa, vô ngại giải Pháp, Nghĩa là lực, vô ngại giải Từ, Biện là không sợ hãi. Lại nữa, đối với Pháp, Nghĩa vô ngại giải hoàn toàn sáng rõ là lực. Đối với ngôn Từ, Biện vô ngại giải hoàn toàn sáng rõ là không sợ hãi. Lại nữa, tích tập là lực, thọ dụng là không sợ hãi. Lại nữa, như tự làm dồi dào về của báu là lực, như có thể phân thí cho kẻ khác là không sợ hãi. Lại nữa, như giải thích về phương thuốc là lực, như có thể chữa trị lành bệnh là không sợ hãi. Lại nữa, trí tuệ sáng rõ là lực, không khiếp sợ đối với vấn nạn của người khác là không sợ hãi. Đó là sự khác biệt giữa Lực và Pháp không sợ hãi.
Đã nói về Pháp không sợ hãi, tiếp theo sẽ nói về Đại bi.
Hỏi: Đại bi lấy gì làm tự tánh?
Đáp: Lấy trí làm tự tánh.
Có thuyết nói: Đại bi có tự tánh riêng không thuộc về trí.
Lời bình: Nên nói như vầy: Đại bi là trí, không có Thể riêng. Tức như nhận biết về thuốc, bệnh v.v… để cứu chữa.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Thế nào gọi là Đại bi? Đại bi có nghĩa gì?
Đáp: Vì cứu vớt, giúp đỡ hữu tình đang gặp nhiều khổ nạn nên gọi là Đại bi. Nghĩa là từ địa ngục, bàng sinh, nẻo quỷ, sống trong khổ nạn tột độ, cứu vớt họ, giúp họ thoát khỏi cảnh khổ, sắp đặt, ổn định họ ở nơi nẻo người, trời, là xứ có nhiều an lạc.
Lại nữa, vì cứu vớt chúng sinh ra khỏi cảnh đang ngụp lặn trong vũng bùn lầy nên gọi là Đại bi. Nghĩa là các loài hữu tình đang bị chìm đắm trong vũng bùn lầy phiền não lớn, dùng bàn tay trao chánh pháp để cứu vớt, khiến họ ra khỏi, đặt để họ trong Thánh đạo và đạo quả.
Lại nữa, vì trao cho các hữu tình nghĩa lợi tăng thượng, nên gọi là Đại bi. Nghĩa là chỉ dạy chúng sinh đoạn dứt ba hành ác, tu ba hành diệu, gieo trồng hạt giống tôn quý, giàu vui, chiêu cảm được quả giàu vui, an lạc tăng lớn, hình dáng đẹp đẽ khiến mọi người đều ưa nhìn, dáng vẻ dịu dàng, tươi sáng, thanh tịnh. Hoặc được làm Luân vương, Đế thích, hoặc làm Ma vương, Phạm vương, lần lượt cho đến hoặc sinh nơi xứ Hữu đảnh, hoặc lại gieo trồng chủng tử ba thừa, dẫn tới chứng đắc Bồ-đề, Niết-bàn của ba thừa. Như thế đều do oai lực của đại bi.
Lại nữa, vì đạt được giá trị lớn, nên gọi là Đại bi. Nghĩa là nơi tất cả thời, nơi tất cả xứ đều xả thí cho tất cả những của cải mình yêu thích, kể cả vợ, con v.v… nhằm cứu giúp mọi chúng sinh đang lâm cảnh khổ nạn vì thiếu thốn, khiến họ tiếp nhận đầy đủ về vật dụng, giúp họ thọ trì giới cấm thanh tịnh, thà phải bỏ thân mạng quyết không hủy phạm. Từ các sự việc bị đánh đập, mạ lỵ, lăng nhục, chặt chém thân thể, tứ chi hoặc còn bị đoạn dứt mạng sống, đã từng không hề giận dữ, luôn tinh tấn, hành khổ hạnh chưa từng tạm nghỉ, thường ở chỗ tịch tĩnh, chuyên tu tĩnh lự, vì đạt được tuệ thù thắng, nên dốc cầu pháp không chút biếng trễ. Tư lương phước đức, trí tuệ như thế là viên mãn giá trị lớn, nên mới có thể cứu vớt mọi khổ nạn như thế, là đại bi thanh tịnh, không phải như hàng Nhị thừa, hoặc chỉ thí một bữa ăn, giữ giới một đêm, cho đến chỉ tư duy về một bài tụng bốn câu liền chứng đắc quả.
Lại nữa, vì gia hạnh đắc lớn, nên gọi là Đại bi. Nghĩa là thân phải trải qua ba vô số đại kiếp tu tập trăm ngàn khổ hạnh khó làm, mới được đại bi vô hạn như thế, không phải như hàng Thanh văn hết sức lợi căn, chỉ trải qua sáu mươi kiếp tu các gia hạnh liền chứng đắc Bồ-đề. Cũng không phải như hàng Độc giác căn tánh vô cùng thông lợi, chỉ cần trải qua trăm kiếp tu các gia hạnh là chứng đắc Bồ-đề.
Lại nữa, vì dựa vào đại thân để phát khởi nên gọi là Đại bi. Nghĩa là đại bi này quyết định dựa vào thân được trang nghiêm do ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp kèm theo, thân toàn màu vàng ròng, luôn tỏa sáng khoảng một tầm, không ai có thể trông thấy đỉnh đầu, chúng sinh nào được hội ngộ đều đạt rất nhiều lợi ích. Đại bi nương dựa vào thân thù thắng như thế, không phải như công đức đã đạt được của hàng Nhị thừa còn nhiều hạn chế.
Lại nữa, vì từ bỏ nguồn an vui lớn để cứu thoát bao khổ nạn nên gọi là Đại bi. Nghĩa là Đức Thế Tôn đã lìa bỏ mọi sự an vui lớn, mọi sự thù thắng, rực rỡ hơn hết, với vô lượng vô biên pháp không chung của Phật, vượt qua hàng trăm ngàn câu-chi biển cả, vòng quanh núi non, cùng mọi nơi đầy dẫy tai nạn nguy hiểm, hành hóa khắp mười phương, nhằm mục đích cứu vớt chúng sinh sớm thoát khỏi cảnh thống khổ, tạo mọi sự an lạc cho họ.
Tất cả công hạnh như thế đều do oai lực của Đại bi.
Lại nữa, vì cứu độ vô lượng hữu tình khó giáo hóa, nên phải hành tác những công việc rất vất vả khó nhọc, nên gọi là Đại bi. Nghĩa là Đức Thế Tôn tuy ở nơi ngôi vị cao sang tột đỉnh, nhưng vì chúng sinh nên có lúc Ngài phải làm thợ gốm, hoặc có khi làm người lái buôn, làm lực sĩ, thợ săn, hoặc làm người hát tuồng, diễn tích, hoặc làm kẻ buôn bán tràng hoa, hoặc làm người chèo thuyền bè. Hành những nghề xen tạp thấp kém như thế, Đức Phật đã cứu vớt, giúp đỡ vô số các hữu tình cần được giáo hóa. Hoặc dẫn Tôn giả A-nan du hóa khắp năm nẻo đem lại lợi ích cho hữu tình ngày đêm không gián đoạn. Hoặc vì Chỉ Man (Ương Quật Ma La) cần được độ thoát, nên Đức Phật lúc hoãn gấp, khoảng cách lúc gần lúc xa khiến Chỉ Man được điều phục, sau đấy thì hóa độ. Tuy Đức Phật đã thành tựu đầy đủ đức tánh hổ thẹn tăng thượng, nhưng vì hữu tình nên hiện ra tướng âm tàng, khiến cho những kẻ kia trông thấy vốn đã phỉ báng Phật phải dứt bỏ, vô lượng hữu tình nghe biết đều từ đấy mà được giáo hóa. Tuy từ lâu đã đoạn trừ mọi sự vội vã, đùa cợt, nhưng vì hữu tình nên hiện ra tướng lưỡi rộng dài, cho đến còn để tóc dài rũ xuống che kín khuôn mặt, khiến các hữu tình nhân đó thọ nhận lời Phật giáo hóa. Những sự việc như thế là vô lượng, vô biên, tất cả đều do oai lực của Đại bi.
Lại nữa, vì tạo nên sự thí xả có tác động lớn, nên gọi là Đại bi. Nghĩa là Đức Phật đã thành tựu hai thứ pháp lớn: 1. Đại xả. 2. Đại bi. Nếu khi Đức Phật an trụ nơi pháp đại xả, bấy giờ giả sử có các loại hữu tình khắp mười phương cùng một lúc thổi ốc, đánh trống lớn, hoặc hiện ra tiếng sấm vang rền, chớp sáng lập lòe, sét đánh thình lình, các núi non, đại địa đều lay động nghiêng ngả, cũng không thể làm cho Đức Phật phải để tâm nghe thấy. Hoặc khi Đức Phật hiện khởi pháp đại bi, lúc này nếu kích động núi đại xả khiến chấn động khắp cũng khiến cho thân do vô lượng sức Na-la-diên hợp thành, như cơn gió mạnh lớn thổi rạp lá cỏ nhỏ, nơi nơi đều có gió thổi nhẹ tạo thành những lợi lạc thù thắng cho các hữu tình.
Do những nghĩa nêu trên nên gọi là Đại bi. Đại bi như thế:
Về cõi: Là cõi sắc.
Về địa: Là chỉ ở nơi tĩnh lự thứ tư.
Về đối tượng nương dựa: Là chỉ dựa vào thân đại trượng phu ở châu Thiệm Bộ của con người thuộc cõi dục, vì chỉ dựa vào thân ấy mới được Đại bi.
Về hành tướng: Đại bi này không phải là mười sáu hành tướng, mà là hành tướng khác.
Về đối tượng duyên: Đại bi này duyên hợp chung nơi các pháp hữu tình của ba cõi.
Về niệm trụ: Là chỉ có pháp niệm trụ.
Về trí: Là chỉ có thế tục trí.
Tam-ma-địa cùng hành: Không phải là Tam-ma-địa cùng hành.
Tương ưng với căn: Tương ưng với căn xả.
Quá khứ, vị lai, hiện tại: Nghĩa là cả ba đời.
Duyên hợp nơi quá khứ, vị lai, hiện tại: Duyên hợp nơi ba đời.
Thiện, bất thiện, vô ký: Chỉ là pháp thiện.
Duyên hợp nơi thiện, bất thiện, vô ký: Duyên hợp nơi ba thứ.
Thuộc về, không thuộc về: Chỉ thuộc về cõi sắc.
Duyên hợp nơi thuộc về, không thuộc về: Duyên hợp nơi thuộc về ba cõi.
Học, vô học, phi học phi vô học: Chỉ là phi học phi vô học.
Duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Chỉ duyên nơi phi học phi vô học.
Kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Chỉ do tu đạo đoạn.
Duyên hợp nơi kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Duyên nơi do kiến đạo, tu đạo đoạn.
Duyên nơi danh, nghĩa: Duyên chung cả danh, nghĩa.
Duyên nơi sự nối tiếp của mình, của người khác và không phải nối tiếp: Tuy duyên chung nơi sự nối tiếp của mình và của người khác, nhưng phần nhiều là duyên nơi sự nối tiếp của người khác.
Gia hạnh đắc, lìa nhiễm đắc: Có thể nói là gia hạnh đắc, vì trải qua ba vô số kiếp đã tích tập gia hạnh đắc thù thắng, nên có thể nói là lìa nhiễm đắc, vì lúc lìa nhiễm nơi xứ Hữu đảnh, đạt được tận trí là đắc đại bi.
Hỏi: Thế nào gọi là gia hạnh của đại bi?
Đáp: Gia hạnh này có hai thứ:
- Gia hạnh gần: Nghĩa là thuận phần quyết định lựa chọn v.v…
- Gia hạnh xa: Nghĩa là ngay từ lúc đầu không thoái chuyển tâm Bồ-đề v.v…
Hỏi: Đại bi này thuộc về lực nào?
Đáp: Thuộc trí lực của xứ phi xứ. Vì công đức không chung của Đức Thế Tôn phần nhiều gồm thâu trong trí lực của xứ phi xứ.
Hỏi: Bi cùng với Đại bi có sai biệt gì?
Đáp: Nên biết là tóm lược có tám thứ sai biệt:
1. Sai biệt về tự tánh: Bi lấy căn thiện không sân làm tự tánh. Đại bi lấy căn thiện không si làm tự tánh.
2. Sai biệt về hành tướng: Bi tạo hành tướng của khổ khổ. Đại bi tạo hành tướng của ba khổ.
3. Sai biệt về đối tượng duyên: Bi chỉ duyên nơi cõi dục. Đại bi duyên chung nơi cả ba cõi.
4. Sai biệt về sự nương dựa nơi địa: Bi nương dựa chung nơi mười địa, tức bốn tĩnh lự, bốn cận phần, tĩnh lự trung gian và địa nơi cõi dục. Đại bi thì chỉ ở nơi tĩnh lự thứ tư.
5. Sai biệt về đối tượng nương dựa: Bi nương dựa chung nơi ba thừa và thân phàm phu. Đại bi chỉ nương dựa vào thân Phật.
6. Sai biệt về chứng đắc: Bi từ lúc lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm của tĩnh lự thứ ba là chứng đắc. Đại bi thì chỉ lúc lìa nhiễm nơi cõi Hữu đảnh là chứng đắc.
7. Sai biệt về sự cứu độ: Bi thì chỉ hy vọng cứu giúp. Đại bi thì sự nghiệp cứu độ được thành tựu.
8. Sai biệt về sự thương xót: Bi có sự thương xót không bình đẳng. Đại bi có sự thương xót bình đẳng.
Đó gọi là Bi cùng với Đại bi có sai biệt.
Đã nói về Đại bi của Phật, sau đây là nói về Ba niệm trụ. Ba niệm trụ là:
1. Lúc Phật giảng nói pháp, nếu các đệ tử cung kính lắng nghe thọ nhận, phụng hành như lời Phật dạy, Như Lai đối với các đệ tử kia không sinh tâm hoan hỷ, không phấn khởi, chỉ khởi đại xả, an trụ nơi niệm, chánh tri, tùy thuận căn cơ thích nghi mà chỉ dạy.
2. Lúc Phật giảng nói pháp, nếu các đệ tử không cung kính lắng nghe thọ nhận, không phụng hành như lời Phật dạy, Như Lai đối với họ không sinh tâm giận dữ, buồn bực, không bỏ việc nhận giữ, chỉ khởi đại xả, an trụ nơi niệm, chánh tri, tùy thuận căn cơ thích nghi mà chỉ dạy.
3. Lúc Phật giảng nói pháp, một phần đệ tử cung kính lắng nghe thọ nhận, phụng hành như lời Phật dạy, một phần đệ tử không cung kính lắng nghe thọ nhận, không phụng hành như lời Phật dạy, Như Lai đối với họ không sinh hoan hỷ, cũng không giận dữ, chỉ khởi đại xả, an trụ nơi niệm, chánh tri.
Ba thứ niệm trụ không chung như thế, nên biết cũng gồm thâu ở trí lực của xứ phi xứ, riêng phân biệt về nghĩa, nên suy nghĩ như lý.
Hỏi: Mười tám pháp không chung của Phật này có bao nhiêu thứ đối với việc thuyết pháp có thể làm chi thù thắng?
Đáp: Trừ ba niệm trụ, mười lăm pháp còn lại đều có thể làm chi thù thắng cho sự giảng nói pháp. Vì sao? Vì Đức Phật do mười lực nên có thể thành lập tự luận. Do bốn pháp không sợ hãi nên có thể phá bỏ luận của người khác. Do đại bi nên khởi sự mong muốn giảng nói pháp. Do ba thứ này nên việc giảng nói pháp thành tựu.
Ba thứ niệm trụ không có lực như thế, chỉ khi giảng nói pháp đối với chúng đệ tử không sinh lo lắng hay vui mừng, chỉ phát khởi đại xả, trụ nơi niệm, chánh tri, gọi là pháp không chung.
Như Khế kinh nói: Đức Như Lai thành tựu bảy thứ pháp vi diệu. Bảy pháp đó là:
- Biết pháp.
- Biết nghĩa.
- Biết thời gian.
- Biết lượng.
- Tự nhận biết.
- Biết chúng.
- Biết Bổ-đặc-già-la có hơn kém sai biệt.
Hỏi: Bảy pháp vi diệu này có bao nhiêu thứ là tánh của trí?
Đáp: Bảy pháp vi diệu này đều là tánh của thế tục trí.
Đáp: Có thuyết nói: Ba thứ biết pháp, biết lượng và biết chúng chỉ có thế tục trí. Một thứ biết nghĩa, các hữu tình muốn khiến chỉ có Niết-bàn là thắng nghĩa: Lấy sáu trí làm tánh, nghĩa là pháp trí, loại trí, diệt trí, tận trí, vô sinh trí và thế tục trí. Các hữu tình muốn khiến tất cả pháp đều là thắng nghĩa: Lấy mười trí làm tánh. Biết thời gian, Tự nhận biết: Lấy tám trí làm tánh, trừ diệt trí và tha tâm trí. Biết Bổ-đặc-già-la có hơn kém sai biệt: Lấy chín trí làm tánh, trừ diệt trí.
Có Sư khác nói: Biết thời gian cũng lấy chín trí làm tánh, nghĩa là trừ diệt trí.
Lời bình: Các thuyết đã nói như thế tuy cũng có lý, nhưng trong Khế kinh nói: Tất cả bảy thứ này, tánh đều là thế tục trí, đều là pháp nhận biết sự việc, vì có sai biệt.
Hỏi: Bảy pháp vi diệu này thuộc về lực nào?
Đáp: Đều thuộc về trí lực của xứ phi xứ.
Như Khế kinh nói: Như Lai thành tựu năm Tam-ma-địa Thánh trí. Những gì là năm Tam-ma-địa Thánh trí? Đó là:
1. Có trí nội chứng sinh khởi nhận biết Tam-ma-địa này là Thánh lìa nhiễm.
2. Có trí nội chứng sinh khởi nhận biết Tam-ma-địa này không phải là chỗ gần của người ngu, mà là nơi chốn tán thán của người trí.
3. Có trí nội chứng sinh khởi nhận biết Tam-ma-địa này là niềm vui hiện tại, niềm vui về sau.
4. Có trí nội chứng sinh khởi nhận biết Tam-ma-địa này là tịch tĩnh, vi diệu là đạo dừng dứt, khiến tâm hoàn toàn hướng đến chỗ có chứng đắc.
5. Có trí nội chứng sinh khởi nhận biết Tam-ma-địa này là chánh niệm nên nhập, là chánh niệm nên xuất.
Hỏi: Năm Tam-ma-địa Thánh trí này có bao nhiêu thứ là tánh của trí?
Đáp: Năm Tam-ma-địa Thánh trí này đều là tánh của thế tục trí. Có thuyết cho: Đều là tánh của tám trí, trừ diệt trí và tha tâm trí.
Tôn giả Diệu Âm nói: Đều là tánh của sáu trí, trừ trí khổ, tập, diệt và tha tâm trí.
Lời bình: Các thuyết đã nói như thế tuy cũng có lý, tuy nhiên theo trong Khế kinh nói, tất cả năm Tam-ma-địa Thánh trí này đều là tánh của thế tục trí, vì đều nhận biết sự việc nhất định có sai biệt.
Hỏi: Năm Tam-ma-địa Thánh trí này thuộc về lực nào?
Đáp: Thuộc về trí lực của xứ phi xứ.
Nhân giải thích về thân lực, phần luận thêm đã xong.
***
* Thế nào là Trạch diệt? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác và làm sáng tỏ nghĩa chánh. Nghĩa là hoặc có lối chấp: Trạch diệt, phi trạch diệt, vô thường diệt, Thể không phải là thật có, như phái Thí Dụ nói. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ ba thứ diệt đều có thật Thể.
Hoặc lại có lối chấp: Ba thứ diệt này đều là vô vi, như Luận giả Phân Biệt đã nói. Vì nhằm ngăn chận lối chấp đó và để làm rõ hai thứ diệt kia là vô vi, còn vô thường diệt là hữu vi, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Thế nào là Trạch diệt?
Đáp: Các diệt là lìa hệ thuộc. Nghĩa là các pháp diệt cũng được lìa hệ thuộc đắc, lìa hệ thuộc đắc, đó gọi là Trạch diệt.
Hỏi: Thế nào là Phi trạch diệt?
Đáp: Là các diệt không phải lìa hệ thuộc. Nghĩa là các pháp diệt đắc không lìa hệ thuộc. Không được lìa hệ thuộc đắc, đó gọi là Phi trạch diệt.
Hỏi: Thế nào là Vô thường diệt?
Đáp: Là các hành tan hoại, phá dứt, thoái mất, đó gọi là Vô thường diệt. Ở đây, những tan hoại, phá dứt, thoái mất tuy có khác nhau nhưng đồng hiển bày về vô thường diệt. Lại, nói các hành tan hoại v.v… không phải như sự tan hoại của lúa, đậu v.v… khiến phải đi đến chốn khác, mà chỉ là làm rõ do vô thường diệt nên các hành không còn tác dụng. Lại, nói tan hoại v.v… không phải là hiển bày tự tánh của các hành diệt hoại, mà chỉ làm sáng tỏ các hành do vô thường diệt nên đều không còn tác dụng. Nghĩa là tự tánh của pháp hữu vi luôn có, do tướng sinh nên có tác dụng khởi hiện, do tướng diệt nên không còn tác dụng nữa, gọi là tan hoại, phá dứt, thoái mất.
Hỏi: Phi trạch diệt và Vô thường diệt có gì khác nhau?
Đáp: Phi trạch diệt: Nghĩa là không do sức của sự lựa chọn mà giải thoát khỏi những pháp khổ của thế gian như bệnh tật, tai họa bất ngờ, sầu não, cùng những sự việc của ma, đó không phải là pháp đối với tham dục có thể điều phục, đoạn trừ, vượt qua. Vô thường diệt: Nghĩa là hiện tượng của các hành tan hoại, phá dứt, thoái mất. Đây là điểm khác nhau của hai thứ diệt.
Ở đây, nói giải thoát các pháp khổ như các thứ bệnh tật, tai họa bất ngờ, sầu não, cùng các sự việc của ma: Là chỉ rõ đấy là pháp hữu lậu phi trạch diệt.
Giải thoát khỏi các pháp hành tác ở đời: Là làm sáng tỏ về phi trạch diệt của pháp vô lậu.
Không phải là pháp đối với tham dục có thể điều phục, đoạn trừ, vượt qua: Là chỉ chỗ nó khác với trạch diệt.
Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói sự khác nhau giữa Phi trạch diệt và Vô thường diệt mà không nói Trạch diệt?
Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng.
Ở đây nên nói như vầy: Trạch diệt, Phi trạch diệt và Vô thường diệt có gì khác nhau? Đáp: Trạch diệt là do sức của sự lựa chọn nên pháp hữu lậu diệt. Phi trạch diệt là không do sức của sự lựa chọn mà giải thoát khỏi các thứ bệnh dịch v.v… nói rộng như trước. Vô thường diệt là các hành tan hoại, phá dứt, thoái mất.
Lại nữa, Trạch diệt là giải thoát, là lìa tướng hệ thuộc. Phi trạch diệt là giải thoát, không phải lìa tướng hệ thuộc. Vô thường diệt không phải là giải thoát, không phải là lìa tướng hệ thuộc.
Lại nữa, Trạch diệt là đối với pháp hữu lậu trong ba đời mà chứng đắc. Phi trạch diệt là do pháp hữu vi nơi vị lai không sinh mà chứng đắc. Vô thường diệt là đối với tất cả pháp trong hiện tại đều chuyển biến.
Lại nữa, Trạch diệt là thiện, nên chỗ đạt được cũng là thiện. Phi trạch diệt là vô ký, nên chỗ đạt được cũng là vô ký. Vô thường diệt là chung cho cả ba thứ, nên chỗ đạt được cũng có ba thứ (Thiện, bất thiện, vô ký).
Lại nữa, Trạch diệt là vô lậu, chỗ đạt được chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Phi trạch diệt là vô lậu, chỗ đạt được chỉ là hữu lậu. Vô thường diệt chung cho cả hai thứ, chỗ đạt được cũng có hai thứ.
Lại nữa, Trạch diệt là không hệ thuộc, chỗ đạt được hoặc thuộc cõi sắc, hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Phi trạch diệt là không hệ thuộc, chỗ đạt được chỉ thuộc nơi ba cõi. Vô thường diệt hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc, chỗ đạt được cũng thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc.
Lại nữa, Trạch diệt là phi học phi vô học, chỗ đạt được hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Phi trạch diệt là phi học phi vô học, chỗ đạt được cũng chỉ có phi học phi vô học. Vô thường diệt chung cả ba thứ, chỗ đạt được cũng có ba thứ.
Lại nữa, Trạch diệt là không đoạn, chỗ đạt được hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Phi trạch diệt là không đoạn, chỗ đạt được chỉ do tu đạo đoạn. Vô thường diệt là chung cả ba thứ, chỗ đạt được cũng có ba thứ.
Lại nữa, Trạch diệt và Phi trạch diệt đều không nhiễm ô, chỗ đạt được của chúng cũng đều không nhiễm ô. Vô thường diệt chung cả nhiễm ô và không nhiễm ô, chỗ đạt được của nó cũng có hai thứ. Như nhiễm ô – không nhiễm ô, thì có tội – không có tội, thoái chuyển – không thoái chuyển, cũng như thế.
Lại nữa, Trạch diệt không có dị thục, chỗ đạt được hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục. Phi trạch diệt không có dị thục, chỗ đạt được cũng không có dị thục. Vô thường diệt chung cả hai thứ, chỗ đạt được cũng có hai thứ.
Lại nữa, Trạch diệt là đạo quả, chỗ đạt được hoặc là đạo, đạo quả, hoặc là phi đạo, phi đạo quả. Phi trạch diệt là phi đạo, phi đạo quả, chỗ đạt được cũng phi đạo, phi đạo quả. Vô thường diệt hoặc là đạo, phi đạo quả, hoặc là đạo cũng là đạo quả, hoặc là phi đạo phi đạo quả, nên chỗ đạt được của nó cũng như thế.
Lại nữa, Trạch diệt là thuộc về diệt đế, chỗ đạt được của nó thuộc về ba đế, trừ diệt đế. Phi trạch diệt không thuộc về đế, chỗ đạt được của nó chỉ thuộc về hai đế là khổ, tập. Vô thường diệt thuộc về ba đế, trừ diệt đế, chỗ đạt được của nó cũng như vậy.
Đáng lẽ nên biện luận rộng về sự khác nhau của các pháp như thế, nhưng không nói, là vì trước đã nói. Nghĩa là Trạch diệt là lìa hệ thuộc. Phi trạch diệt, Vô thường diệt không phải là lìa hệ thuộc, đều không phải là lìa trói buộc, do vậy cần phải biện luận về sự khác nhau như trên.
Có thuyết nói: Vì hai thứ diệt ấy đều không do dụng công mà được, nên cần phải biện luận về sự khác nhau của chúng. Trạch diệt do dụng công mà được, vì khác với hai diệt kia, nên không cần nói đến.
Hỏi: Đã biết trạch diệt lấy sự lìa trói buộc làm Thể, nên nói vì sao gọi là trạch diệt?
Đáp: Trạch (Lựa chọn) nghĩa là tuệ. Diệt là quả của tuệ. Vì lựa chọn (Trạch) chỗ đạt được là diệt, nên gọi là trạch diệt.
Lại nữa, hoàn toàn là sức cần cù, khổ nhọc, hoàn toàn là gia hạnh, hoàn toàn là do công dụng lựa chọn các pháp mới chứng đắc diệt này, nên gọi là trạch diệt.
Lại nữa, luôn luôn quyết định lựa chọn về khổ v.v… để đạt được diệt, nên gọi là trạch diệt. Nghĩa là khổ nhẫn, khổ trí quyết định lựa chọn về khổ đế, đối với pháp do kiến khổ đoạn trừ nên được diệt. Tập nhẫn, tập trí quyết định lựa chọn về tập đế, đối với pháp do kiến tập đoạn trừ nên được diệt. Diệt nhẫn, diệt trí quyết định lựa chọn về diệt đế, đối với pháp do kiến diệt đoạn trừ nên được diệt. Đạo nhẫn, đạo trí quyết định lựa chọn về đạo đế, đối với pháp do kiến đạo đoạn trừ được diệt. Do các trí như khổ v.v… thường xuyên quyết định lựa chọn về khổ Thánh đế v.v…, đối với pháp do tu đạo đoạn trừ được diệt, nên gọi là trạch diệt.
Hỏi: Tự tánh của trạch diệt là một vật hay là nhiều vật?
Đáp: Có thuyết nói: Là một vật.
Hỏi: Nếu như vậy lúc chứng trạch diệt theo pháp do kiến đạo đoạn, cũng chứng trạch diệt theo pháp do tu đạo đoạn chăng? Nếu cũng chứng thì nơi phần sau tu đối trị nên thành vô dụng. Nếu không chứng thì vì sao trong một vật, phần ít thì chứng, phần ít không chứng?
Đáp: Có thuyết nói: Tự tánh của trạch diệt là hai vật:
- Trạch diệt của pháp do kiến đạo đoạn.
- Trạch diệt của pháp do tu đạo đoạn.
Hỏi: Nếu như vậy lúc chứng trạch diệt của pháp do kiến khổ đoạn trừ, cũng chứng trạch diệt của pháp do kiến tập, diệt, đạo đoạn trừ chăng? Nếu cũng chứng thì nơi phần sau tu đối trị nên thành vô dụng. Nếu không chứng thì vì sao trong một vật, phần ít thì chứng, phần ít không chứng?
Đáp: Có thuyết nói: Tự tánh của trạch diệt là năm vật. Nghĩa là trạch diệt của pháp do kiến đạo đoạn gồm có bốn. Trạch diệt do tu đạo đoạn có một.
Hỏi: Nếu như vậy lúc chứng trạch diệt của pháp do kiến, tu đoạn nơi cõi dục, cũng chứng trạch diệt của pháp do kiến, tu đoạn nơi cõi sắc, cõi vô sắc chăng? Nếu cũng chứng thì nơi phần sau tu đối trị nên thành vô dụng. Nếu không chứng thì vì sao trong một vật, phần ít thì chứng, phần ít còn lại không chứng?
Đáp: Có thuyết cho: Trạch diệt có mười một vật. Nghĩa là trạch diệt của pháp do kiến đạo đoạn có tám. Trạch diệt của pháp do tu đạo đoạn có ba.
Hỏi: Nếu như vậy lúc chứng trạch diệt theo pháp thuộc phẩm thượng thượng do tu đạo đoạn nơi cõi dục, cũng chứng trạch diệt theo pháp của tám phẩm sau do tu đạo đoạn chăng? Nếu cũng chứng thì nơi phần sau tu đối trị nên thành vô dụng. Nếu không chứng thì vì sao trong một vật, phần ít thì chứng, còn phần ít kia không chứng?
Nêu câu hỏi về trạch diệt theo pháp của chín phẩm do tu đạo đoạn nơi cõi sắc, cõi vô sắc cũng như vậy.
Đáp: Có thuyết nêu: Trạch diệt có ba mươi lăm vật. Nghĩa là trạch diệt của pháp do kiến đạo đoạn có tám. Trạch diệt của pháp do tu đạo đoạn trong ba cõi, mỗi cõi đều có chín, thành hai mươi bảy, cộng với tám trước là ba mươi lăm.
Hỏi: Nếu như vậy lúc chứng trạch diệt theo pháp do tu đạo đoạn nơi tĩnh lự thứ nhất, cũng chứng trạch diệt theo pháp do tu đạo đoạn nơi ba tĩnh lự sau chăng? Nếu cũng chứng thì nơi phần sau tu đối trị sẽ trở nên vô dụng. Nếu không chứng thì vì sao trong một vật, phần ít thì chứng, còn phần ít không chứng?
Nêu câu hỏi về địa của bốn vô sắc theo pháp do tu đạo đoạn cũng như vậy.
Đáp: Có thuyết nói: Trạch diệt có tám mươi chín. Nghĩa là trạch diệt theo pháp do kiến đoạn trừ có tám. Trạch diệt theo pháp do tu đạo đoạn trừ nơi chín địa, mỗi địa đều có chín, thành tám mươi mốt, cộng với tám trước thành tám mươi chín.
Hỏi: Nếu như vậy pháp do kiến đạo đoạn nơi chín địa trong ba cõi, mỗi địa đều có bốn bộ, chín phẩm có sai biệt, vì sao trạch diệt chỉ có tám thứ? Lại, pháp do kiến, tu đoạn, nơi mỗi mỗi địa, mỗi mỗi bộ và mỗi mỗi phẩm đều có nhiều thứ, vì sao lại trạch diệt chỉ có một thứ?
Lời bình: Nên nói như vầy: Tùy theo pháp hữu lậu có từng ấy Thể thì Trạch diệt cũng như vậy. Tùy thuộc sự việc đã hệ thuộc, Thể có từng ấy thì sự lìa hệ thuộc nên cũng có từng ấy Thể.
Hỏi: Đã biết trạch diệt tùy theo sự việc đã hệ thuộc nên có số lượng từng ấy. Các loại hữu tình lúc chứng trạch diệt là chứng chung duy nhất hay là đều chứng riêng? Nếu nêu ra như vậy thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi? Vì sao?
Nếu chứng chung là một thì vì sao Niết-bàn gọi là pháp không chung? Lại, nếu như vậy tức lúc một hữu tình chứng đắc Niết-bàn thì hết thảy hữu tình cũng nên đều chứng đắc. Nếu như vậy tức nên không do công dụng, tự nhiên được giải thoát chăng?
Còn nếu mỗi hữu tình đều chứng riêng thì vì sao Niết-bàn gọi là không đồng loại? Lại như Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Giải thoát của Như Lai cùng với giải thoát của các A-la-hán khác đều không khác?
Đáp: Nên nói như vầy: Lúc các loài hữu hình chứng trạch diệt, đều cùng chứng duy nhất.
Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao Niết-bàn gọi là pháp không chung?
Đáp: Vì Thể của Niết-bàn tuy thật sự là chung, nhưng căn cứ theo sự chứng đắc mà nói gọi là không chung. Vì Niết-bàn là do lìa hệ thuộc mà đắc, và mỗi mỗi hữu tình trong sự nối tiếp của mình đều khởi hiện riêng.
Hỏi: Nếu khi một hữu tình chứng đắc Niết-bàn, thì các hữu tình khác vì sao không chứng đắc?
Đáp: Nếu trong thân có đắc Niết-bàn, gọi là chứng đắc Niếtbàn. Không có đắc thì không như vậy, nên không phạm lỗi là trong một lúc, tất cả hữu hình đều chứng đắc Niết-bàn.
Có Sư khác nói: Các hữu tình khi chứng trạch diệt, mỗi mỗi loại đều chứng riêng.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao Niết-bàn gọi là không đồng loại?
Đáp: Vì nhằm ngăn chận chỗ chấp về nhân đồng loại, nên nói như vậy. Nghĩa là các trạch diệt không có nhân đồng loại, nên gọi là không đồng loại, không phải các hữu tình không có trạch diệt riêng lần lượt giống nhau.
Hỏi: Khổ pháp trí nhẫn không có nhân đồng loại, cũng nên gọi là pháp không đồng loại, vì sao pháp hữu vi đều gọi là đồng loại, chỉ nói Niết-bàn là không đồng loại?
Đáp: Khổ pháp trí nhẫn tuy không có nhân đồng loại, nhưng có thể cùng với pháp khác làm nhân đồng loại, nên cũng gọi là đồng loại. Niết-bàn thì không như vậy.
Lại nữa, các pháp hữu vi đều cùng thuộc về ba môn uẩn, xứ, giới, đồng gắn liền với ba đời, đồng có sinh diệt, đồng phẩm hạ trung thượng, đồng có trước sau, đồng từ nhân sinh, đồng có thể sinh quả, nên gọi là đồng loại. Niết-bàn thì không như thế, nên gọi là không đồng loại.
Lại nữa, trong tất cả các pháp, chỉ có Niết-bàn là thiện, là thường, ngoài ra thì không như thế, nên gọi là không đồng loại. Tức là có những pháp khác có thiện nhưng không phải là thường, hoặc có thường nhưng không phải là thiện, hoặc đều cùng không phải là thường, thiện. Niết-bàn riêng gồm đủ hai nghĩa thiện, thường, thế nên riêng gọi là pháp không đồng loại.
Hỏi: Như Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Sự giải thoát của Như Lai cùng với sự giải thoát của các A-la-hán khác là không dị biệt.
Đáp: Trong thân của ba thừa sự giải thoát tuy dị biệt nhưng về thiện thì luôn đồng, nên nói là không khác. Lại nữa, câu này là nhằm nêu rõ trong một sự nối tiếp có đạo của ba thừa đồng chứng giải thoát. Nghĩa là đối chiếu với thân của người khác đã chứng giải thoát tuy đều có khác, nhưng trong một thân có tánh của ba thừa đồng chứng giải thoát, vì tùy việc dựa vào Thừa nào dẫn khởi Thánh đạo đều có thể chứng đắc Niết-bàn ấy.
Lời bình: Việc đó không nên nói như vậy. Nên nói như vầy: Các loài hữu tình đều ở khắp trong mỗi mỗi pháp hữu lậu, đều cùng chứng đắc một Thể của trạch diệt. Thuyết trước nói trạch diệt là tùy ở sự việc bị trói buộc, số lượng nhiều, ít. Do đấy, thuyết trước đối với lý là đúng.
Hỏi: Đối với vật bên ngoài cũng chứng đắc Thể của trạch diệt chăng? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Nếu cũng chứng đắc Thể của trạch diệt thì đối với pháp bên ngoài đã không có nghĩa thành tựu, làm sao thành tựu được trạch diệt kia? Lại như nơi Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Tôn giả Xá-lợi-tử nói: Ta đã đoạn các thứ ái, được giải thoát bên trong. Nếu nơi vật bên ngoài không được trạch diệt thì như Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Tất cả hành đều đoạn, nên gọi là cảnh giới đoạn, tất cả hành đều lìa, nên gọi là cảnh giới lìa, tất cả hành đều diệt, nên gọi là cảnh giới diệt.
Đáp: Nên nói như vầy: Đối với vật bên ngoài cũng được trạch diệt.
Hỏi: Nếu như vậy đối với vật bên ngoài đã không có nghĩa thành tựu, làm sao đối với vật đó có được trạch diệt?
Đáp: Tuy đối với vật bên ngoài không thành tựu, nhưng cũng ở nơi vật đó có được trạch diệt. Như không thành tựu tám căn như mạng v.v… trong quá khứ, vị lai, nhưng đối với chúng vẫn có chứng đắc trạch diệt. Vật bên ngoài cũng vậy nên đâu có mâu thuẫn.
Hỏi: Theo như Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Tôn giả Xá-lợi-tử nói: Ta đã đoạn các thứ ái, được giải thoát bên trong.
Đáp: Nói đối với uẩn bên trong được giải thoát nên biết đối với bên ngoài cũng được giải thoát. Lại nữa, giải thoát vật bên ngoài là do dựa vào bên trong mà được, nên cũng gọi là trong. Nghĩa là trong nội thân phải tu đạo mới được. Lại nữa, vật bên ngoài được giải thoát là bên trong được, nên cũng gọi là trong. Nghĩa là đắc cái được của vật bên ngoài kia là thuộc về uẩn bên trong. Lại nữa, đoạn trừ phiền não bên trong mà chứng được diệt kia, nên cũng gọi là trong. Tức là trạch diệt hiện có nơi vật bên ngoài do đoạn trừ phiền não là chủ thể trói buộc bên trong mới được. Thế nên Khế kinh nói là được giải thoát bên trong.
Có Sư khác nói: Không có trạch diệt nơi vật bên ngoài có thể đạt được. Chỉ có đoạn trừ chủ thể trói buộc là các phiền não trói buộc mà được trạch diệt.
Hỏi: Nếu như vậy thì những gì Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Tất cả hành đều đoạn, nên gọi là cảnh giới đoạn, cho đến nói rộng.
Đáp: Kinh kia nên nói: Các hành đoạn nên gọi là cảnh giới đoạn, cho đến nói rộng. Không nên nói tất cả nhưng nói tất cả, nên biết kinh kia nói là tất cả của phần ít. Nghĩa là tất cả có hai thứ: 1. Tất cả của phần ít. 2. Tất cả của toàn phần. Kinh kia chỉ nói tất cả của phần ít mà thôi.
Có thuyết cho: Tuy nơi các vật bên ngoài có trạch diệt, nhưng không thể đạt được.
Lời bình: Thuyết kia không nên nói như vậy. Nên nói là không, không nên nói là có mà không thể đạt được. Đã không thể đạt được thì đâu cần diệt vô dụng như thế làm gì? Nên nói như vầy: Cũng có, cũng được. Vì sao? Vì các pháp hữu lậu từ vô thỉ đến nay bị trói buộc do phiền não, nên không được giải thoát. Nếu đoạn trừ phiền não thì các pháp hữu lậu kia do đã lìa hệ thuộc nên liền được giải thoát. Như người bị trói cột về sau khi được giải thoát, người ấy gọi là giải thoát không phải cho là ở sợi dây v.v… Vì đã ở nơi bị trói buộc chứng được giải thoát, nên nơi vật bên ngoài cũng được giải thoát. Nếu không như vậy, so với Luận Phẩm Loại Túc đã nói sẽ mâu thuẫn. Như nói: Thế nào là pháp được tác chứng? Đáp: Là tất cả pháp thiện. Nếu nơi vật bên ngoài tuy có trạch diệt nhưng không thể đạt được thì nên có pháp thiện không được tác chứng, là mâu thuẫn với thuyết của Luận kia. Thế nên bên ngoài cũng có trạch diệt có thể đạt được.
Hỏi: Tự tánh của trạch diệt tức là uẩn hay chỉ là không có uẩn? Nếu tức là uẩn, thì hữu tình xưa nay nên được giải thoát, do xưa nay đều thành tựu uẩn. Nếu chỉ là không có uẩn, thì vì sao gọi là không siêng năng tu Thánh đạo?
Đáp: Nên nói: Trạch diệt không phải tức là uẩn, cũng không phải là uẩn không có, chỉ vì ở trong các uẩn hữu lậu đều riêng có tự tánh.
HẾT – QUYỂN 31