LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 178

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ BẤT HOÀN, phần 5

Hỏi: Như nói Bồ-tát trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu bốn Ba-lamật-đa nên được viên mãn, là Thí Ba-la-mật-đa, Giới Ba-la-mật-đa, Tinh tấn Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vậy nên nói nơi thời gian nào tu Ba-la-mật-đa nào nên được viên mãn?

Đáp: Có thuyết nói: Nếu khi Bồ-tát hành thí nhưng không bị khuất phục do tâm keo kiệt, nên nói là Thí Ba-la-mật-đa viên mãn. Khi trì tịnh giới không bị các giới ác xen lẫn tạp loạn, nên nói là Giới Ba-la-mật-đa viên mãn. Khi khởi tinh tấn không bị biếng nhác làm cho thoái chuyển thất bại, nên nói là Tinh tấn Ba-la-mật-đa viên mãn. Khi tu Bát nhã không bị tuệ ác nhiễu loạn làm đục, nên nói là Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn.

Có thuyết cho: Nếu khi Bồ-tát chỉ dùng tâm bi có thể thí cho tất cả hết thảy các vật cho đến thân mạng, đầu mắt, não tủy, tâm đều không có chút luyến tiếc nào. Ngang tới mức đó gọi là Thí Ba-lamật-đa viên mãn. Nếu khi Bồ-tát bỗng dưng bị các hữu tình chặt đứt tay chân, cắt khoét tai mũi, hoặc đâm chém băm nát thân thể như hạt cải, nhưng lúc ấy tâm Bồ-tát không hề có chút sân giận, huống chi là muốn báo thù. Ngang tới mức đó gọi là Giới Ba-la-mật-đa viên mãn.

Nếu khi Bồ-tát với tâm dũng mãnh, trải qua bảy ngày đêm chỉ đứng một chân chiêm ngưỡng mắt không hề chớp, dùng một kệ tụng tán thán Phật, tâm không hề cảm thấy mệt mỏi dù chỉ một niệm. Ngang tới mức đó gọi là Tinh tấn Ba-la-mật-đa viên mãn. Nếu khi Bồ-tát tên là Cù-tần-đà chuyên cầu Bồ-đề, thông tuệ bậc nhất, biện luận không ai hơn, cả thế gian cùng khen ngợi kính phục. Ngang tới mức đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn.

Hoặc có thuyết nêu: Cho đến an tọa nơi tòa Kim cang, nhập định kim cang dụ, sắp chứng Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, ngang tới mức đó mới gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn.

Nên nói như thế này: Những gì đã nêu bày đều dựa vào một thời, một hành tăng thượng để nói là viên mãn. Về nghĩa như thật tức khi được tận trí thì bốn Ba-la-mật-đa này mới được viên mãn.

Sư ngoại quốc nói: Có sáu Ba-la-mật-đa, là bốn thứ trước thêm Nhẫn nhục, Tĩnh lự.

Các Luận sư nước Ca-thấp-di-la cho: Hai Ba-la-mật-đa sau tức được gồm thâu trong bốn thứ trước. Nghĩa là nhẫn được gồm thâu trong giới, tĩnh lự được gồm thâu trong Bát nhã. Khi giới, tuệ viên mãn tức gọi hai thứ Nhẫn, Tĩnh lự viên mãn.

Lại có thuyết khác: Sáu Ba-la-mật-đa là bốn thứ trước thêm Văn và Nhẫn. Nếu khi Bồ-tát có thể thọ trì đầy đủ mười hai phần giáo do Đức Như Lai giảng nói. Ngang tới mức đó gọi là Văn Ba-lamật-đa viên mãn. Nếu khi Bồ-tát tự xưng nhẫn nhục, như bị vua Yếtlợi chặt đứt tay chân nhưng tâm chưa từng có một niệm giận dữ, trái lại còn dùng lời từ hòa, thệ nguyện tạo lợi ích cho họ. Ngang tới mức đó gọi là Nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn. Hai thứ sau này cũng được gồm thâu trong bốn thứ trước, Nhẫn như đã nói ở trước, Văn được gồm thâu nơi tuệ. Tuy các công đức đều có thể gọi là Ba-la-mật-đa, nhưng dựa vào nghĩa hiển bày tăng thượng để nói nên chỉ có bốn thứ.

Hỏi: Khi tu bốn Ba-la-mật-đa đa này thì ở nơi mỗi mỗi A-tăngkỳ kiếp gặp và phụng sự bao nhiêu Đức Phật?

Đáp: A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất đã gặp và phụng sự bảy vạn năm ngàn Đức Phật. Đức Phật đầu tiên là Thích-ca-mâu-ni, Đức Phật sau cùng là Bảo Kế. A-tăng-kỳ kiếp thứ hai đã gặp và phụng sự bảy vạn sáu ngàn Đức Phật. Vị đầu tiên là Bảo Kế, vị sau cùng là Nhiên Đăng. A-tăng-kỳ kiếp thứ ba đã gặp và phụng sự bảy vạn bảy ngàn Đức Phật. Vị đầu tiên là Nhiên Đăng, vị sau cùng là Thắng Quán. Thời gian tu nghiệp tướng dị thục trong chín mươi mốt kiếp đã gặp và phụng sự sáu vị Phật. Vị đầu tiên là Thắng Quán, vị sau cùng là Ca-diếp-ba. Nên biết, đây là dựa theo Bồ-tát Thích-ca để nói. Còn những Bồ-tát khác thì không nhất định. Như thế Bồ-tát Thích-ca khi ở nơi Đức Phật Ca-diếp-ba, bốn Ba-la-mật-đa tùy phần viên mãn từ trước, còn nghiệp tướng dị thục đến nay mới hoàn toàn viên mãn. Từ châu Thiệm-bộ này mạng chung, sinh lên trời Đổ-sử-đa (Đâu-suất) thọ nhận dị thục sau cùng của nẻo trời.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát chỉ ở nơi trời Đổ-sử-đa thọ nhận dị thục sau cùng của nẻo trời mà không ở nơi trời khác?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Không nên hỏi về sự việc này, vì hoặc trên hoặc dưới đều cũng sinh nghi. Nhưng sinh nơi trời kia là không trái với pháp tướng.

Có thuyết nói: Trời Đổ-sử-đa là trung tâm của các cõi trời trong ngàn thế giới cũng như cái rốn pháp. Thế nên Bồ-tát chỉ sinh nơi trời ấy.

Có thuyết cho: Trời dưới thì phóng dật, trời trên thì căn độn. Chỉ ở trời Đổ-sử-đa là lìa hai lỗi lầm ấy. Bồ-tát lo sợ phóng dật và chán bỏ độn căn, nên chỉ sinh nơi trời kia.

Có thuyết nêu: Trời dưới thì phiền não sắc bén, trời trên thì phiền não luôn hiện. Trời Đổ-sử-đa lìa hai thứ ấy. Bồ-tát chán hai loại phiền não ấy nên sinh nơi trời kia.

Có thuyết cho: Bồ-tát chỉ tạo tác làm tăng trưởng nghiệp của trời Đổ-sử-đa, nên chỉ sinh về đó.

Có thuyết nói: Chỉ có thọ lượng của trời Đổ-sử-đa là tương xứng với thời gian Bồ-tát thành Phật và người ở châu Thiệm-bộ thấy hành tác của Phật thuần thục. Nghĩa là nhân gian trải qua năm mươi bảy Câu-chi sáu mươi ngàn năm, người giáo hóa và hữu tình được giáo hóa, căn thiện mới thành thục. Thời gian ấy tức là thọ lượng của trời Đổ-sử-đa. Thế nên Bồ-tát chỉ sinh nơi trời đó. Nếu sinh lên trời trên, thọ lượng chưa hết nhưng căn thiện đã thành thục. Nếu sinh nơi trời dưới, thọ lượng đã hết nhưng căn thiện chưa thành thục. Do vậy không sinh những nơi ấy.

Có thuyết nêu: Vì để giáo hóa vô lượng chúng Bồ-tát lạc pháp nơi trời Đổ-sử-đa. Nghĩa là trong trời ấy có chín Lang viện, mỗi chốn rộng mười hai do-tuần, chúng Bồ-tát lạc pháp trụ rất đông trong đó. Bồ-tát Bổ Xứ ngày đêm sáu thời luôn vì họ giảng nói pháp. Trời trên trời dưới không có sự việc như thế.

Có thuyết nói: Bồ-tát vào lúc nào cũng ưa thích hành theo xứ trung, nên đối với lần sinh sau cùng, xứ trung là trời Đổ-sử-đa. Từ cõi đó mạng chung, sinh nơi thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốt-đổ thuộc Trung Ấn Độ. Vào nửa đêm vượt thành xuất gia, dựa nơi hành xứ trung thành Chánh đẳng Chánh giác, vì các hữu tình thuyết giảng pháp xứ trung (Trung đạo) vào giữa đêm thì nhập Niết-bàn. Do đó chỉ sinh nơi trời Đổ-sử-đa không phải trời khác.

Hỏi: Do duyên nào Bồ-tát đối với thân sau cùng chỉ từ cõi trời mạng chung không từ nơi nẻo người?

Đáp: Có thuyết nói: Ở trong các nẻo thì nẻo trời là hơn hết.

Có thuyết cho: Từ nơi nẻo trời đến con người mới tôn trọng.

Có thuyết nêu: Khi từ nẻo trời đến thì có sự việc thần biến. Từ nẻo người đến không có sự việc như vậy.

Có thuyết nói: Nẻo người không có thọ lượng như ở trời Đổ-sửđa, thọ lượng ấy cùng với thời gian căn thiện thành thục là tương xứng.

Có thuyết nêu: Do sức tăng thượng nơi nghiệp của Bồ-tát lạc pháp ở trời Đổ-sử-đa nên khiến Bồ-tát này tất sinh lên đó vì họ giảng nói pháp.

Có thuyết cho: Bồ-tát khi ấy có nghiệp quyết định sinh lên cõi trời nên phải nhận lãnh.

Có thuyết nói: Nếu Bồ-tát luôn sinh trong loài người rồi thành Phật, thì con người có thể cho là tầm thường, không thọ nhận sự giáo hóa.

Hỏi: Vì sao không ở ngay nơi trời Đổ-sử-đa thành Chánh đẳng Chánh giác mà phải đến nơi nhân gian?

Đáp: Là theo pháp của chư Phật. Nghĩa là Hằng hà sa số chư Phật, Thế Tôn nơi quá khứ đều ở nơi nhân gian thành Chánh giác.

Lại nữa, thân nẻo trời không phải là nơi chốn nương dựa của quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại nữa, chỉ nơi con người trí kiến mãnh liệt mới có thể đạt được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.

Lại nữa, chư Thiên tham đắm diệu dục, đối với các sự việc như nhập chánh tánh ly sinh, được quả lìa nhiễm v.v…, không phải là xứ tăng thượng.

Lại nữa, nẻo người căn tánh mạnh mẽ, nhạy bén, phần nhiều có thể thọ nhận chánh pháp của Như Lai. Nẻo trời thì không như vậy.

Lại nữa, hữu sau cùng nơi Bồ-tát tất thọ nhận thai sinh, còn nẻo trời chỉ là hóa sinh.

Lại nữa, nơi chốn có hai sự việc nên Phật xuất hiện ở thế gian: 1. Là có tâm chán lìa. 2. Là có trí mạnh mẽ. Nên biết hai sự việc ấy chỉ nơi nẻo người mới có.

Lại nữa, trời, người đều là pháp khí, nhưng muốn cùng gồm thâu nên đến nhân gian. Nếu ở cõi trời thì người không thể đến được.

Lại nữa, nếu thành Phật ở cõi trời rồi đến nhân gian giáo hóa thì con người sẽ sinh nghi là Phật hành tác chuyện hư huyễn, không thọ nhận pháp. Thế nên Bồ-tát thành Phật ở nhân gian.

Nhưng Bồ-tát trụ ở cung trời Đổ-sử-đa, khi thọ lượng hết, sắp hạ sinh, trước là quán xét bốn việc: 1. Quán xét thời gian. 2. Quán xét nơi chốn. 3. Quán xét chủng tánh. 4. Quán xét y khí.

Quán xét thời gian: Là quán xét các thế gian, vào thời nào Phật nên xuất hiện ở đời. Tức biết nơi con người thời gian từ thọ mạng tám vạn tuổi cho đến trăm tuổi, là lúc Phật nên ra đời. Nay là đúng lúc ấy.

Quán xét nơi chốn: Là quán xét nơi chốn nào ở thế gian Phật nên xuất hiện ở đời. Tức biết vùng Trung Ấn Độ thuộc châu Thiệmbộ là nơi Phật nên ra đời, không phải là vùng Miệt-lệ-xa, biên địa hẻo lánh.

Quán xét chủng tánh: Là quán xét chủng tánh nào nơi thế gian, Phật nên ra đời. Tức biết hoặc trong chủng tánh Sát-đế-lợi, hoặc trong chủng tánh Bà-la-môn, Phật nên ra đời. Tùy lúc họ hưng thịnh tức sinh vào tộc họ ấy.

Quán xét y khí: Là quán xét nơi thế gian những người nữ nào có cha mẹ, chủng tánh đều cùng thanh tịnh, thai tạng thuận hợp, không có những lỗi lầm, có thể gìn giữ sức Na-la-diên của Bồ-tát hợp thành thân, trải qua mười tháng ngày. Tức biết trong châu Thiệm-bộ có người nữ tên họ như thế, có thể làm y khí (vật nương dựa).

Bồ-tát quán sát bốn việc như vậy xong, liền nói với Thiên tử Hành đạo: Ông có thể đi tuần báo cho chúng trời Đổ-sử-đa biết là sau bảy hôm nữa, Bồ-tát Bổ Xứ sẽ từ nơi đây mạng chung, sinh xuống Trung Ấn Độ, thuộc châu Thiệm-bộ, nơi thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốtđổ hành tác Phật sự vĩ đại. Các vị nào muốn theo nên phát nguyện sinh đến đó. Thiên tử Hành đạo nghe rồi hoan hỷ kính vâng, nương vào thần thông nhanh chóng hiện có của mình báo khắp chúng trời Đổ-sử-đa: Thiên tiên nên biết! Sau bảy ngày nữa, Bồ-tát Bổ xứ sẽ sinh xuống thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốt-đổ, xứ Trung Ấn Độ, thuộc châu Thiệm-bộ, hành tác Phật sự lớn. Chư vị thiên chúng, ai muốn đi theo nên phát nguyện sinh đến xứ đó. Bấy giờ, liền có năm trăm Thiên tử vừa được nghe, liền phát nguyện theo Bồ-tát hạ sinh. Đến ngày thứ bảy, Bồ-tát liền cùng năm trăm Thiên tử cùng lúc từ trời Đổ-sử-đa mất cùng sinh nơi thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốt-đổ, Trung Ấn Độ, thuộc châu Thiệm-bộ, đều là giòng họ Thích hỗ trợ cho việc nêu bày Phật sự. Nên biết: Đây là nói về Bồ-tát Thích-ca. Các Bồ-tát khác thì theo chỗ ứng hợp của họ.

***

* Như nói: Từ Thị! Ông nơi đời vị lai sẽ thành Phật, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Đức Thế Tôn nói: Vào đời vị lai, khi thọ mạng của con người là tám vạn tuổi, nơi châu Thiệm-bộ này, đất đai rộng lớn, dân chúng đông đúc, an ổn, giàu có, vui sướng, thành thị thôn ấp san sát, gà gáy cùng nghe tiếng, người nữ năm trăm tuổi mới kết hôn. Thời ấy, thân tướng của con người tuy thắng diệu, nhưng có ba hoạn nạn: 1. Đại tiểu tiện lợi. 2. Nóng lạnh đói khát. 3. Tham dâm, già, bệnh. Có vị Chuyển luân vương tên là Hướng Khư, uy dũng gồm thâu bốn phương, như pháp giáo hóa, thành tựu bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, quan chủ kho báu, quan chủ binh báu đủ ngàn người con dũng mãnh oai nghiêm, có thể đánh tan quân địch. Quốc độ có vùng biển cực lớn, đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có hầm hố, đá cát, chông gai, mọi người hòa mục, đối với nhau theo tâm từ, vũ khí không dùng chỉ để tự vệ. Vua có đài báu cao ngàn tầm, rộng mười sáu phần, vô số thứ dùng để trang nghiêm. Vua luôn giữ việc bố thí phước điền, hưng khởi nghiệp phước lớn. Sau đấy không lâu, vua cạo bỏ râu tóc, chánh tín xuất gia, siêng tu phạm hạnh, ở trong hiện pháp chứng quả A-la-hán, tức có thể tự nhận biết: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau, được Bát Niết-bàn.

Khi Đức Phật nói lời ấy xong, trong đại chúng có Bí-sô A-thịđa từ chỗ ngồi đứng lên cung kính chấp tay, bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Nguyện vào đời vị lai, con sẽ được làm Luân vương Hướng Khư ấy, uy dũng gồm thâu bốn phương, như pháp giáo hóa, nói rộng cho đến được Bát Niết-bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn quở trách: Người ngu! Vì sao không muốn một lần mạng chung mà cầu mạng chung lần nữa nguyện nơi đời vị lai làm Luân vương Hướng Khư? Cho đến nói rộng.

Nhưng này A-thị-đa! Như ông đã nguyện, trong đời vị lai ông nhất định được làm Luân vương Hướng Khư kia, hàng phục bốn phương, như pháp giáo hóa, nói rộng cho đến được Bát Niết-bàn.

Đức Phật lại nói với đại chúng: Vào đời vị lai, khi thọ mạng của con người là tám vạn tuổi, có Đức Phật ra đời tên là Từ Thị, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm, như Ta ngày nay không khác. Đức Phật kia ở trong chúng trời, người, Thiên ma, Đại phạm, Sa-môn, Bà-la-môn của thế gian này tự xưng: Ta là Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, cho đến Phật, Bạc Già Phạm, chứng đắc đầy đủ thông tuệ tự tại, cũng tự nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau, được đại Niết-bàn. Lại vì hữu tình giảng nói chánh pháp, khai thị, đầu giữa sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh thanh bạch, vì các hàng trời người chính thức mở bày phạm hạnh, khiến tu học rộng khắp, có vô lượng trăm ngàn đồ chúng vây quanh, vô lượng đệ tử thuộc tộc họ Từ hầu cận hộ vệ, tạo lợi ích lớn. Như Ta ngày nay cũng đối với Thiên ma, Đại phạm của thế gian này cho đến nói rộng, có vô lượng đệ tử là giòng họ Thích hầu cận hộ vệ tạo lợi ích lớn.

Khi Đức Phật nói xong lời ấy, trong chúng có Bồ-tát Từ Thị liền từ chỗ ngồi đứng lên, cung kính chấp tay bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Con nguyện vào đời vị lai sẽ được làm Như Lai Từ Thị, Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến như Đức Thế Tôn ngày nay, cũng được vô lượng đệ tử là giòng họ Thích hầu cận hộ vệ tạo lợi ích lớn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe lời ấy rồi, liền khởi trí về đời trước quán xét kỹ xem trong ba vô số kiếp Bồ-tát Từ Thị đã tu bốn Ba-lamật-đa được viên mãn chưa, tức nhận biết như thật là đã viên mãn. Ngài lại quán xét kỹ xem Bồ-tát Từ Thị trong một trăm đại kiếp đã tu tập nghiệp tướng dị thục được viên mãn chưa, tức nhận biết như thật là đã viên mãn, trừ nghiệp tướng kim sắc thì chưa. Do vậy, Phật nói với Đại Sinh Chủ Kiều Đáp Di: Nay Di mẫu có thể đem tấm y sắc vàng này bố thí chúng Tăng. Nếu cúng dường Tăng nên biết cũng gọi là cúng dường Phật. Khi ấy, Đức Phật dự tri, chúng Tăng được tấm y sắc vàng kia rồi, người có nhân duyên này chính là Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị được rồi tất sẽ cúng cho Phật, cho đến nói rộng. Do nhân duyên ấy nên nghiệp kim sắc của Bồ-tát Từ Thị viên mãn.

Ở đây, hoặc có thuyết nói: Phật muốn khiến cho nghiệp kim sắc của Bồ-tát Từ Thị viên mãn, nên nói với Tôn giả A-nan-đà: Ông có thể vì Ta đi tìm tấm y sắc vàng mới. Ta muốn đem cho Bồ-tát Từ thị. Khi ấy, như lời Phật dạy, Tôn giả A-nan-đà đi tìm được y, liền qùy dâng lên Phật. Nhận được y, Đức Thế Tôn nói với Bồ-tát Từ Thị: Ông có thể nhận lấy tấm y sắc vàng mới này. Bồ-tát Từ Thị vâng lời, nhưng không dám nhận. Phật nói: Nên nhận! Ông nên nhận rồi phụng thí Phật là bậc thượng thủ Tăng. Vì sao? Vì vào đời vị lai, ông sẽ do phước này nên tạo lợi ích cho thế gian. Bồ-tát Từ Thị cung kính nhận rồi phụng thí Phật là bậc thượng thủ Tăng. Do nhân duyên ấy nên nghiệp kim sắc của Bồ-tát viên mãn.

Có thuyết cho: Nghiệp tướng kim sắc của Bồ-tát Từ Thị đã viên mãn từ trước, nhưng Đức Phật khiến Bồ-tát phụng thí y sắc vàng là muốn hiển bày công đức tuy viên mãn nhưng không chán đủ trong việc khuyến dẫn kẻ khác. Đức Thế Tôn khởi trí đời trước quán xét về đời trước của Bồ-tát Từ Thị rồi, lại khởi trí đời sau, quán xét kỹ về đời vị lai, khi thọ mạng của con người là tám vạn tuổi, Bồtát Từ Thị có đạt được thân làm chỗ dựa cho đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng chăng? Tức nhận biết là có. Đức Thế Tôn lại quán xét kỹ vào thời ấy Bồ-tát Từ Thị có đủ năng lực chứng đắc Bồ-đề không? Tức nhận biết là có thể. Đức Thế Tôn quán xét về đời trước đời sau xong, liền khen ngợi Bồ-tát Từ Thị: Lành thay! Lành thay! Ông có thể phát khởi tư nguyện rộng lớn ấy vì muốn tạo lợi ích cho vô lượng hữu tình, thật là toàn thiện. Đức Phật lại nói với Bồ-tát Từ Thị: Như ông đã nguyện, vào đời vị lai, khi thọ mạng của con người là tám vạn tuổi, ông sẽ thành Phật tên là Từ Thị gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến có vô lượng đệ tử là giòng họ Từ hầu cận hộ vệ, tạo lợi ích lớn, như Ta ngày nay cũng được vô lượng đệ tử là giòng họ Thích hầu cận hộ vệ tạo lợi ích lớn.

Hỏi: A-thị-đa và Từ Thị cùng cầu được thân ở đời vị lai thọ mạng tám vạn tuổi. Vì sao Đức Thế Tôn quở trách A-thị-đa mà khen ngợi Từ Thị?

Đáp: Bí-sô A-thị-đa đối với hữu khởi ý lạc, khởi thắng giải, khởi hâm mộ, khởi hy vọng, khởi tìm cầu, nên bị Phật quở trách. Còn Bồ-tát Từ Thị không ở nơi hữu khởi ý lạc cho đến khởi tìm cầu.

Nhưng đối với sự việc tạo lợi lạc cho các hữu tình đã khởi ý lạc cho đến tìm cầu nên Phật khen ngợi.

Lại nữa, A-thị-đa cầu ngôi Luân vương của thế gian, nên Phật quở trách. Từ Thị cầu ngôi vị Pháp luân vương xuất thế gian, nên Phật khen ngợi. Như thế, cầu ngôi vị Lưu luân vương, cầu ngôi vị Hoàn diệt vương nêu bày cũng như vậy.

Lại nữa, A-thị-đa cầu lợi lạc cho tự thân, nên bị Phật quở trách. Từ Thị cầu lợi lạc cho nhiều người khác, nên được Phật khen ngợi. Như vậy, cầu lợi ích cho mình, cầu lợi ích cho kẻ khác nêu bày cũng như vậy.

Khế kinh tuy nói: Từ Thị! Ông vào đời vị lai khi thọ mạng của con người là tám vạn tuổi, sẽ thành Phật tên là Từ Thị gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cho đến nói rộng. Nhưng Khế kinh không phân biệt ở đây là trí gì đối với pháp gì chuyển. Khế kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì nói Khế kinh không phân biệt nay nên phân biệt. Do vậy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Như nói: Từ Thị! Ông vào đời vị lai sẽ được thành Phật tên là Từ Thị gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì đây là trí gì?

Đáp: Là nhân trí, đạo trí. Đây tức là trí Đức Như Lai quán xét về đời trước, đời sau của Bồ-tát Từ Thị.

Hỏi: Đây là đối với pháp gì chuyển?

Đáp: Có khi ở nơi nghiệp tướng dị thục chuyển, do đấy gọi là nhân trí. Có khi ở nơi căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng chuyển, do đấy gọi là đạo trí. Đây tức là trí Đức Như Lai dùng để quán xét về đời trước của Bồ-tát Từ Thị, xem nghiệp tướng dị thục đã viên mãn hay chưa viên mãn. Trí ở nơi nhân chuyển, nên gọi là nhân trí. Cùng quán xét về đời sau của Bồ-tát Từ Thị có đủ căn lực, giác chi, đạo chi vô lậu chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng. Trí ở nơi đạo chuyển nên gọi là đạo trí. Nhưng hai trí này đều thuộc về thế tục trí, do không phải là trí của mười sáu hành tướng.

Hoặc có khi trong thân tuy có ba mươi hai tướng nhưng không có pháp Thánh, nghĩa là Chuyển luân vương, phàm phu. Hoặc có khi trong thân tuy có pháp Thánh nhưng không có ba mươi hai tướng, tức là Thanh văn không phải là Luân vương. Hoặc có khi trong thân có ba mươi hai tướng, cũng có pháp Thánh, nhưng không phải là Phật, tức là Luân vương Hướng Khư đã được Thánh đạo. Hoặc có khi trong thân không có ba mươi hai tướng, cũng không có pháp Thánh, đó là những phàm phu khác. Tất cả thân Phật tất có ba mươi hai tướng vô thượng và pháp Thánh vô thượng, tức là Chánh đẳng Bồ đề.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói đối với nghiệp tướng dị thục chuyển gọi là nhân trí, không nói đối với bốn Ba-la-mật-đa chuyển gọi là nhân trí?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nghiệp tướng dị thục là gần, bốn Ba-la-mật-đa là xa, trong đây chỉ nói gần, không nói xa.

Lại nữa, nghiệp tướng dị thục khi tu thì hiển bày rõ, hàng trời người cùng nhận biết. Còn bốn Ba-la-mật-đa thì không như vậy. Trong đây chỉ tùy theo chỗ hiển bày để nói.

Lại nữa, khi tu nghiệp tướng dị thục, Bồ-đề quyết định, sự hướng đến cũng quyết định. Còn khi tu bốn Ba-la-mật-đa, tuy Bồ-đề quyết định, nhưng sự hướng đến chưa quyết định, cho nên không nói.

Lại nữa, trong đây nói trí là nhân gần của thân, nhân gần của Bồ-đề. Nghiệp tướng dị thục là nhân gần của thân. Căn, lực v.v… vô lậu là nhân gần của Bồ-đề. Bốn Ba-la-mật-đa và quán bất tịnh không phải là hai nhân gần, cho nên không nói.

***

* Như nói: Bí-sô này ở nơi hiện pháp sẽ hoàn thành Thánh chỉ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Kinh Tự Tứ nói: Bí-sô này tức ở nơi hiện pháp sẽ hoàn thành Thánh chỉ. Có thể tự nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau, được Bát Niết-bàn. Khế kinh tuy nói như thế nhưng không phân biệt trí này là trí chuyển là ở nơi pháp nào chuyển. Kinh kia là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì Kinh ấy không nói nay nên nói. Do đó tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Như nói: Bí-sô này ở nơi hiện pháp sẽ hoàn thành Thánh chỉ thì đây là trí gì?

Đáp: Là đạo trí.

Hỏi: Trí ấy ở nơi pháp nào chuyển?

Đáp: Trí này ở nơi căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu vĩnh viễn dứt hết các lậu chuyển. Do đấy nên gọi là đạo trí. Đây tức là trí Đức Như Lai dùng để quán xét các Bí-sô về căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu, vĩnh viễn dứt hết các lậu. Trí ở nơi đạo chuyển nên gọi là đạo trí. Trí này cũng thuộc về thế tục trí, do không phải là trí của mười sáu hành tướng vô lậu.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói nhân trí?

Đáp: Có thuyết cho: Ở đây nên nói như vầy: Đây là trí gì? Đáp: Là nhân trí, đạo trí. Trí ấy ở nơi pháp nào chuyển? Đáp: Có khi ở nơi căn thiện của thuận phần giải thoát chuyển, do đấy gọi là nhân trí. Có khi ở nơi căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu vĩnh viễn dứt hết các lậu chuyển, do đấy gọi là đạo trí. Nhưng không nói như vậy, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Gia hạnh của Bồ-đề Vô thượng rộng lớn, trải qua trăm kiếp của ba vô số kiếp mới thành nhân ấy đáng trọng, cho nên nói phải quán trí kia. Còn gia hạnh của Bồ-đề Thanh văn thì hẹp nhỏ. Nghĩa là nhanh nhất chỉ ba đời liền được: Đời thứ nhất gieo trồng, đời thứ hai thành thục, đời thứ ba giải thoát, nhân không đáng trọng, cho nên không nói phải quán trí kia.

Có thuyết nêu: Nghiệp tướng dị thục của Bồ-tát, về chỗ dựa, chủng tánh là quyết định, nên nói nhận biết trí kia. Còn căn thiện nơi thuận phần giải thoát của Thanh văn, về chỗ dựa, chủng tánh là không quyết định, nên không nói nhận biết trí kia.

Có thuyết cho: Phật có hai sự việc hơn hết: 1. Thân là chỗ nương dựa. 2. Bồ-đề đạt được, nên quán nhân của hai thứ ấy nói đủ là nhận biết hai thứ nhân trí. Thanh văn chỉ có Bồ-đề đạt được là hơn không có thân là chỗ nương dựa, nên chỉ nói nhận biết nhân trí của Bồ-đề.

Có thuyết nêu: Trí nhận biết căn thiện thuận phần giải thoát trước đây cũng không nói, nên ở đây cũng không nên hỏi.

***

* Thế nào là Nguyện trí? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trước tuy đã nói tác dụng của Nguyện trí, nhưng chưa nói tự tánh của trí ấy, nay muốn nêu bày nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là Nguyện trí?

Đáp: Như A-la-hán thành tựu thần thông, tâm được tự tại, tùy theo mong muốn nhận biết nghĩa, phát khởi chánh nguyện xong liền nhập biên vực nơi tĩnh lự thứ tư. Từ định khởi rồi, như nguyện đều nhận biết.

Hỏi: Vì sao A-la-hán muốn nhận biết nghĩa?

Đáp: Có ba nhân duyên: 1. Vì tạo lợi ích cho đệ tử. 2. Vì trụ trì pháp Phật. 3. Vì nhận biết thế gian có an hay bất an.

Vì tạo lợi ích cho đệ tử: Nghĩa là A-la-hán đối với các đệ tử khi tu hành quán, pháp nên quán là xem các đệ tử kia nhập Thánh đạo lâu hay mau? Khi thọ mạng của ta hết thì các vị ấy có thể nhập chánh tánh ly sinh chăng? Nếu như không thể nhập thì sau khi ta mạng chung có vị khác nào có thể chỉ dạy khiến họ được nhập chăng? Những sự việc như thế đều do nguyện trí nên nhận biết. Đó gọi là vì tạo lợi ích cho đệ tử.

Vì trụ trì pháp Phật: Nghĩa là A-la-hán hoặc có khi thực hiện các sự việc của Tam bảo như xây cất tự viện, Tăng-già-lam, tháp miếu v.v…, pháp nên quán xét là xem những công việc ấy lâu hay mau thì xong? Đến khi thọ mạng của ta hết thì có thể xong chăng? Nếu như không xong thì sau khi ta mạng chung có những vị khác có thể tiếp tục để hoàn thành chăng? Hoặc có quốc vương, đại thần, trưởng giả, cùng thương chủ v.v… muốn đối với pháp Phật tạo sự suy tổn, có A-la-hán muốn giáo hóa họ tức nên quán xét xem có thể giáo hóa được chăng? Nếu như có thể giáo hóa được thì công việc ấy là mau hay lâu? Đến khi ta mạng chung thì sự giáo hóa ấy đạt kết quả chăng? Nếu như chưa đạt kết quả thì sau khi ta qua đời có ai có thể tiếp tục không? Những sự việc như vậy đều do nguyện trí nên nhận biết. Đó gọi là trụ trì pháp Phật.

Vì nhận biết thế gian có an hay bất an: Nghĩa là A-la-hán hoặc có lúc quán xét về quốc độ sở tại cùng trong một thời gian sẽ có các sự việc như được mùa, mất mùa, sợ hãi, an ổn, bệnh dịch v.v… muốn khiến mình và người khác nhận biết hướng đến trừ bỏ nên khởi nguyện trí nhận biết. Như thuở xưa, nơi nước Ca-thấp-di-la này có vua tên Thước Ca, bị vua nước Phược Hát xâm chiếm biên cảnh. Khi ấy, vua Thước Ca liền điều động quân sĩ nhằm chống cự, nhưng vì bản tánh của vua nhân từ, luôn sợ tạo nghiệp ác, nên khởi suy nghĩ: Không biết ta nay chiến đấu tất có thể bảo tồn được ngôi vua chăng? Nếu như không giữ được thì chỉ gây chết chóc cho muôn dân, lại gây thêm tội ác, chết sẽ đọa nơi địa ngục. Từng nghe, nơi Tăng-già-lam kia có vị A-la-hán đạt được nguyện trí vi diệu, ta nên đến đó thưa hỏi. Nghĩ rồi liền đến Tăng-già-lam kia thành khẩn lễ kính xin giải quyết điều nghi ngờ. Vị A-la-hán nói: Tôi tuy được trí ấy, nhưng do ăn uống thiếu thốn, thân lực suy kém, từ lâu trí ấy không hiện tiền. Khi đó, vua Thước Ca liền đem các thức ăn uống thượng diệu cùng các vật dụng cúng cho vị A-la-hán kia. Không bao lâu, Tôn giả này khởi nguyện trí, liền quán xét thấy vua Phược Hát tất sẽ chiếm được ngôi của vua Thước Ca, tạo được lợi ích lớn. Thấy rồi, vị này nói với vua Thước Ca: Vua sẽ mất nước, xin tự xét kỹ. Vua Thước Ca kính vâng, rồi giục tả hữu cùng quyến thuộc bỏ nước qua xứ khác sống.

Do nhân duyên ấy nên các A-la-hán muốn nhận biết nghĩa kia.

Nhập biên vực nơi tĩnh lự thứ tư:

Hỏi: Vì sao gọi là biên vực nơi tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Vì ở đấy đối với tĩnh lự thứ tư là sự biểu hiện, là chỗ tột cùng, là nơi sâu kín, nên gọi là biên vực tận cùng nơi tĩnh lự thứ tư. Tức là nghĩa của phẩm tối thắng nơi tĩnh lự thứ tư. Cũng như cây thẳng là tối thắng trong các cây, gọi là biên vực tận cùng của cây.

Có thuyết nói: Đây là nơi chốn nương dựa của các pháp công đức như trí biểu hiện, trí tột cùng, trí sâu kín v.v…, nên gọi là biên vực nơi tĩnh lự thứ tư. Nghĩa là vô số công đức như vô lượng v.v… được huân tập nối tiếp nhau rồi mới khởi định này, nên nương nơi định này để khởi công đức, đối với các công đức đó là sự biểu hiện, là chỗ tột cùng, là chốn sâu kín. Cũng như đề hồ là hơn hết trong các vị của sữa bò.

Có thuyết cho: Đây nên gọi là biên vực sau nơi tĩnh lự thứ tư. Biên vực có ba thứ: 1. Trước. 2. Giữa. 3. Sau. Ba thứ ấy tức là quá khứ, hiện tại, vị lai. Như thứ lớp đó, trong đây biên vực trước có hai trí nhận biết đó là trí túc trụ tùy niệm và nguyện trí. Biên vực giữa cũng có hai trí nhận biết đó là tha tâm trí và nguyện trí. Biên vực sau chỉ có nguyện trí nhận biết, do trong cảnh của vị lai chỉ có trí này, cho nên trí này gọi là trí của biên vực sau. Có thể khởi định này nên gọi là biên vực sau nơi tĩnh lự thứ tư.

Có thuyết nêu: Đây nên gọi là biên vực vị chí nơi tĩnh lự thứ tư. Biên vực có ba thứ: 1. Chưa đến (Vị chí). 2. Đến. 3. Đến rồi. Ba thứ ấy tức là vị lai, hiện tại, quá khứ. Như thứ lớp đó, như nhận biết hiện tại gọi là trí của biên vực đang đến. Nhận biết quá khứ gọi là trí của biên vực đã đến. Như thế, trí này phần nhiều nhận biết vị lai, nên gọi là trí của biên vực chưa đến. Có thể khởi định này nên gọi là biên vực chưa đến nơi tĩnh lự thứ tư.

Có thuyết cho: Đây chỉ nên gọi là biên vực nơi tĩnh lự thứ tư. Vì sao? Vì biên gọi là uẩn, xứ, giới hiện tại. Vực là quá khứ, vị lai. Như ở nơi uẩn, xứ, giới hiện tại, có hiện thấy trí chuyển. Như vậy, đối với quá khứ vị lai cũng có hiện thấy trí chuyển, nên trí này gọi là trí biên vực. Có thể khởi định này nên gọi là biên vực nơi tĩnh lự thứ tư.

Từ định khởi rồi như nguyện đều nhận biết:

Hỏi: Là ở nơi định nhận biết hay là khởi định nhận biết? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Nếu ở nơi định nhận biết thì vì sao ở đây nói từ định khởi rồi như nguyện đều nhận biết? Nếu khởi định nhận biết thì vì sao phải nhập biên vực nơi tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Tức ở nơi định nhận biết.

Hỏi: Vì sao ở đây nói từ định khởi rồi như nguyện đều nhận biết?

Đáp: Đây là đối với khi nói gọi là nhận biết, do nói hiển bày nhận biết. Lại nữa, bấy giờ khiến kẻ khác nhận biết, nên gọi là nhận biết.

Có thuyết nói: Khởi định tức có thể nhận biết.

Hỏi: Vì sao lại còn nhập biên vực nơi tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Biên vực nơi tĩnh lự thứ tư là phương tiện để nhận biết. Cần phải nhập định ấy thì trí này mới sinh.

Nên nói như vầy: Thuyết nêu đầu là đúng, do ở nơi định có thể nhận biết, khởi định là nêu bày.

Hỏi: Tự tánh của nguyện trí là gì?

Đáp: Tự tánh là tuệ. Như tự tánh, ngã, vật, tánh, tướng, bản tánh cũng như vậy.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là nguyện trí?

Đáp: Như nguyện có thể nhận biết, nên gọi là nguyện trí.

Hỏi: Là như tự nguyện nên có thể nhận biết hay là như nguyện của kẻ khác nên có thể nhận biết?

Đáp: Như tự nguyện cũng nhận biết, như nguyện của kẻ khác cũng nhận biết. Tùy theo nguyện hiện có đều có thể nhận biết.

Lại nữa, nhận biết về nguyện hiện có nên gọi là nguyện trí.

Nguyện có hai thứ: 1. Nguyện Bồ-đề. 2. Nguyện hữu. Nguyện Bồ-đề: Là như nguyện của Bồ-tát Từ Thị v.v… Nguyện hữu: Là như nguyện của Bí-sô A-thị-đa v.v… Nhận biết những nguyện ấy, nên gọi là nguyện trí.

Lại nữa, trí tùy nguyện khởi, nên gọi là nguyện trí. Nghĩa là trí này thù thắng, chính là do nguyện trước tác ý, gia hạnh dẫn phát. Đức Như Lai tuy không tác ý, gia hạnh, nhưng tất cũng có tâm nguyện làm trước.

Có thuyết nói: Ở đây nên gọi là trí mong muốn, do cảnh của đối tượng nhận biết là vi tế, sâu xa, cần phải khởi mong muốn mới có thể nhận biết.

Có thuyết cho: Ở đây nên gọi là diệu trí, do trí ấy là tối thắng trong các trí. Như thế gian nói các thứ ăn uống thượng diệu, y phục thượng diệu v.v… Các thứ kia ở nơi hơn hẳn tiếng diệu, đây cũng như vậy.

Nhưng nguyện trí này:

Về cõi: Là cõi sắc.

Về địa: Là ở nơi địa của tĩnh lự thứ tư.

Về chỗ dựa: Là dựa nơi thân của cõi dục.

Về hành tướng: Là tạo ra mười sáu hành tướng, hoặc hành tướng khác.

Về đối tượng duyên: Là duyên với tất cả pháp.

Về niệm trụ: Là chung nơi bốn niệm trụ.

Về trí: Các Sư Cựu A-tỳ-đạt-ma nói chỉ có một là thế tục trí. Có Sư khác nói: Là tánh của tám trí. Vì sao? Vì hai trí kia không phải là tánh của kiến, còn nguyện trí là tánh của kiến.

Nên nói như vầy: Chỉ là một thế tục trí.

Về Tam-ma-địa cùng hợp: là không cùng kết hợp với Tam-mađịa, vì chỉ là hữu lậu.

Về căn tương ưng: Là tương ưng với xả căn.

Về đời: Là gắn liền với ba đời. Là duyên nơi ba đời và tách lìa đời.

Về thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện, duyên với ba thứ.

Về thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Là chỉ thuộc cõi sắc, duyên nơi thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Về học, vô học, phi học phi vô học: Là phi học phi vô học, duyên nơi ba thứ.

Về do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Là do tu đạo đoạn, duyên nơi ba thứ.

Về duyên nơi danh, nghĩa: Là duyên chung nơi danh, nghĩa.

Về duyên nơi tư tương tục, tha tương tục và không tương tục: Là duyên chung cả ba thứ.

Ở nơi xứ nào khởi: Khởi ở cõi dục, không phải cõi sắc, vô sắc. Trong cõi dục chỉ ở nơi nẻo người, không ở nẻo khác. Trong nẻo người chỉ ở ba châu, không phải châu Bắc. Trong ba châu thì thân nam nữ đều có thể khởi.

Tôn giả Cù-sa-phiệt-ma nói: Chỉ ở châu Thiệm-bộ mới có thể khởi, không phải ở châu khác. Chỉ người nam mới có thể khởi, người nữ thì không. Vì sao? Vì nguyện trí thù thắng cần dựa nơi thân mạnh mẽ tăng thượng. Hai châu kia và thân nữ đều yếu kém.

Nên nói như vầy: Thuyết đầu là đúng. Ba châu, thân nam nữ đều mạnh mẽ tăng thượng, do đều có thể được tâm tự tại và định tự tại. Nếu không như vậy thì kinh không nên nói: Đại Sinh Chủ là thượng thủ năm trăm Bí-sô-ni, ở trong một ngày cùng bỏ thọ hành mà Bát Niết-bàn. Nếu không được biên vực nơi tĩnh lự thứ tư, thì các vị ấy không thể xả bỏ thọ hành. Họ đã làm được việc ấy, thì sao lại không thể phát khởi nguyện trí?

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào có thể khởi trí này?

Đáp: Là bậc Thánh, không phải là phàm phu. Trong bậc Thánh là hàng Vô học, không phải là hàng Hữu học. Trong hàng Vô học là Bất thời giải thoát, không phải là Thời giải thoát. Vì sao? Vì nếu ở nơi định được tự tại và nối tiếp, không bị phiền não nắm giữ, mới có thể khởi nguyện trí. Phàm phu và hàng Tín thắng giải không có hai điều ấy. Hàng Kiến chí tuy ở nơi định được tự tại, nhưng nơi sự nối tiếp còn bị phiền não giữ lấy. Hàng Thời giải thoát tuy nơi sự nối tiếp không bị phiền não giữ lấy, nhưng đối với định không được tự tại, do đó đều không thể phát khởi nguyện trí. Chỉ có hàng Bất thời giải thoát ở nơi định được tự tại và nơi sự nối tiếp không bị phiền não giữ lấy, nên có thể phát khởi nguyện trí.

HẾT – QUYỂN 178