LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 153
Chương 6: CĂN UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ ĐẲNG TÂM, phần 3
Hỏi: Trong đây: Cái gì là tưởng? Cái gì là vi tế? Cái gì là vi vi?
Đáp: Có thuyết nói: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ là tưởng. Vô sở hữu xứ là vi tế. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là vi vi.
Có thuyết nêu: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ là tưởng. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là vi tế. Nếu tâm tâm sở pháp làm đẳng vô gián duyên khi nhập định diệt tận là vi vi.
Có thuyết cho: Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng là tưởng, cũng là vi tế, cũng là vi vi. Vì sao? Vì Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thượng trung hạ, thượng là tưởng, trung là vi tế, hạ là vi vi.
Hỏi: Nếu cùng là một địa thì có gì sai biệt?
Đáp: Có thuyết nói: Về tên gọi có khác: Tức gọi là tưởng, gọi là vi tế, gọi là vi vi.
Có thuyết nêu: Phẩm cũng sai khác: Thượng gọi là tưởng, trung gọi là vi tế, hạ gọi là vi vi.
Có thuyết cho: Tưởng, vi tế khi hiện tiền thì có thể tu Thánh đạo vị lai. Vi vi khi hiện tiền thì không tu.
Có thuyết nói: Khi tưởng, vi tế hiện tiền thì bốn niệm trụ hiện tại tùy tu một, vị lai tu bốn. Khi vi vi hiện tiền thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu ba, trừ thân niệm trụ.
Có thuyết nêu: Tưởng, vi tế có từng được, có chưa từng được. Còn vi vi chỉ là chưa từng được.
Hỏi: Trong đây, nhân luận sinh luận: Vì sao tâm nhập định diệt là chung cho cả từng được, chưa từng được, còn tâm xuất định diệt chỉ là từng được?
Đáp: Tâm nhập định có nhiều gia hạnh, dùng nhiều công sức, phải khởi từ tác ý tột cùng, cho nên chung cho cả từng được, chưa từng được. Còn tâm xuất định thì trái với trên, nên chỉ là từng được.
Có thuyết nói: Tâm nhập định có thể thúc đẩy làm tăng ích, phát khởi nơi định, cho nên chung cho cả từng được, chưa từng được. Còn tâm xuất định thì trái với trên, nên chỉ là từng được.
Có thuyết cho: Tâm nhập định chỉ là hữu lậu, nên chung cho cả từng được, chưa từng được. Còn tâm xuất định là chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nên chỉ là từng được.
Hỏi: Ở đây, nhân luận sinh luận: Vì sao tâm nhập định chỉ là hữu lậu, còn tâm xuất định là chung cho cả hữu lậu, vô lậu?
Đáp: Tâm nhập định tùy thuận đoạn tâm nên chỉ là hữu lậu. Do tâm này không kiên cố, không mạnh mẽ, không có uy lực để trụ lâu, không khiến tâm khác không gián đoạn để khởi, như hạt giống hư mục, nên đối với tâm đoạn thì hết sức tùy thuận. Còn tâm xuất định thì ngược lại với tâm kia, cho nên chung cho cả hữu lậu, vô lậu.
Có thuyết nói: Tâm nhập định dùng định làm tịch tĩnh, không phải là đạo vô lậu, do nó là hữu vi tịch tĩnh, nên chỉ là hữu lậu.
Có thuyết cho: Do định này là định thứ đệ, từ tâm của địa Phi tưởng phi phi tưởng không gián đoạn khởi, Thánh đạo đến tột cùng là Vô sở hữu xứ, nên tâm nhập định chỉ là hữu lậu.
Hỏi: Tâm nhập định diệt lấy gì làm đối tượng duyên? Tâm xuất định diệt lấy gì làm đối tượng duyên?
Đáp: Tâm nhập định duyên nơi định, tâm xuất định cũng như vậy.
Hỏi: Nếu tâm nhập định duyên nơi định, tâm xuất định cũng như vậy, thế vì sao lúc không nhập thì xuất, lúc xuất thì nhập?
Đáp: Khi nhập định thì tâm có kỳ hẹn muốn nhập, khi xuất định thì tâm có kỳ hẹn muốn xuất. Do tâm có kỳ hẹn, nên không có lẫn lộn rối loạn.
Lại, tâm nhập định duyên nơi định vị lai, còn tâm xuất định duyên nơi định quá khứ, do có đối tượng duyên, nên không lẫn lộn rối loạn.
Hỏi: Nếu tâm nhập định duyên nơi định vị lai là duyên với bao nhiêu định vị lai?
Đáp: Có thuyết nói: Chỉ duyên nơi định của sát-na đầu tiên.
Có thuyết nêu: Duyên chung hợp với sự nối tiếp khởi.
Lời bình: Nên nói như vầy: Tâm nhập định ấy duyên nơi định vị lai, nhưng không thể nói là duyên với sát-na nào, không duyên với sát-na nào, do định vị lai có nhiều sát-na, chưa có trước sau, chỉ trụ trong tạp loạn.
Hỏi: Nếu tâm xuất định duyên nơi định quá khứ là duyên với bao nhiêu định quá khứ?
Đáp: Có thuyết nói: Chỉ duyên nơi định của sát-na sau cùng.
Có thuyết nêu: Duyên chung theo từng nối tiếp khởi.
Lời bình: Nên nói như vầy: Tâm xuất định ấy duyên nơi định quá khứ, nhưng không thể nói là duyên với sát-na nào, không duyên với sát-na nào, do định quá khứ có nhiều sát-na chỉ trụ trong xen lẫn.
Hỏi: Khi nhập định diệt tận thì diệt những tâm tâm sở pháp nào là quá khứ, là vị lai, là hiện tại? Nếu là quá khứ, quá khứ đã diệt, lại diệt như thế nào? Nếu là vị lai, vị lai chưa đến, làm sao có thể diệt? Nếu là hiện tại, hiện tại không trụ, lại làm sao diệt? Nếu như không phải là sức của định thì cũng tự diệt chăng?
Đáp: Nên nói như vầy: Diệt đối với vị lai.
Hỏi: Vị lai chưa đến làm sao có thể diệt?
Đáp: Trụ nơi đời hiện tại, ngăn chận đối với tâm tâm sở pháp vị lai, khiến chúng không nối tiếp, nên nói là diệt. Như ngăn dứt đường vào thành, đóng kín cửa thành, dựng cột cờ cao, không cho ai ra vào, gọi là trừ giặc. Đây cũng như vậy.
Có thuyết nói: Diệt chung đối với hiện tại, vị lai.
Hỏi: Hiện tại tất không trụ lại làm sao diệt? Nếu như không phải là sức của định thì cũng tự diệt chăng?
Đáp: Trước, đối với tâm tâm sở pháp của đời hiện tại khiến cho pháp có duyên tiếp tục khởi nên diệt. Nay, đối với tâm tâm sở pháp của đời hiện tại không khiến cho pháp có duyên tiếp tục khởi nên diệt. Đây là do sức gì? Đó là do định diệt.
Hỏi: Khi xuất định diệt những tâm tâm sở pháp nào hiện tiền?
Đáp: Có thuyết nói: Trước đã ngăn chận tâm tâm sở pháp đời vị lai dừng trụ, nay thì chúng hiện tiền.
Có Sư khác nói: Tâm tâm sở pháp của đời vị lai khác nay hiện tiền, vì trước đã ngăn chận pháp không sinh dừng trụ nên không thể khởi lại.
Lời bình: Nên nói như vầy: Khởi tâm tâm sở pháp của đời vị lai, nhưng không thể nói là khởi những gì, không khởi những gì, do đời vị lai có nhiều sát-na, chưa có trước sau, chỉ trụ trong tạp loạn.
Hỏi: Định diệt tận có được quá khứ và tu vị lai chăng?
Đáp: Có thuyết nói: Định này không được quá khứ và tu vị lai, như thiên nhãn, thiên nhĩ. Nếu nói như vậy là không được quá khứ, tu vị lai: Nghĩa là thuyết ấy nói định của sát-na đầu tiên chỉ thành tựu định hiện tại, còn sát-na khác thành tựu quá khứ, hiện tại. Xuất định này rồi, chỉ thành tựu quá khứ.
Có thuyết nêu: Định này có được quá khứ và tu vị lai, như tha tâm trí, túc trụ trí v.v… Nếu nói như vậy là có được quá khứ, tu vị lai: Nghĩa là thuyết ấy nói định nơi sát-na đầu tiên thành tựu định vị lai, hiện tại, còn sát-na khác thành tựu ba đời. Xuất định này rồi, thành tựu quá khứ và vị lai.
Nên nói như vầy: Tức nên nói như thuyết đầu. Nếu cho định này có được quá khứ, tu vị lai, khi thoái chuyển định này rồi, sau khởi trở lại, nên nói trở lại được cái trước đã được, nhưng thật ra định này thoái chuyển, khi khởi lại gọi là được định chưa từng được. Như không bị phạm trọng giới mà trở về nhà, sau lại xuất gia gọi là được giới chưa từng được. Sự việc kia cũng như vậy.
Hỏi: Định diệt tận này từ nơi xứ nào khởi?
Đáp: Ở tại cõi dục, cõi sắc, không phải cõi vô sắc. Nếu đầu tiên chỉ khởi ở cõi dục. Nếu đã khởi rồi, đối với định này thoái chuyển, mạng chung sinh trong cõi sắc, do sức của việc hành tập, nên có thể khởi lại, trường hợp khác thì không. Làm sao nhận biết việc đó? Như Khế kinh nói: Tôn giả Xá-lợi-tử nói với chúng Bí-sô: Nếu Bí-sô có đầy đủ giới định tuệ thì có thể thường xuyên nhập xuất định diệt tưởng thọ. Vị ấy nơi hiện pháp và khi sắp qua đời, nếu không thể hoàn thành Thánh chỉ của Như Lai, thì mạng chung, vượt khỏi xứ trời đoạn thực, sinh trong xứ trời ý thành thân. Ở nơi ấy lại có thể thường xuyên nhập xuất định diệt tưởng thọ. Đây là có điều như vậy, nên nhận biết như thật. Khi đó, Cụ thọ Ô-đà-di đang ngồi trong chúng hội, nói với Tôn giả Xá-lợi-tử: Vị Bí-sô kia sinh nơi xứ trời ý thành thân, có thể thường xuyên nhập xuất định diệt tưởng thọ thì không có chuyện đó. Cụ thọ này lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế.
Hỏi: Vì sao Cụ thọ Ô-đà-di hai ba lần nói trái ngược với Tôn giả Xá-lợi-tử như vậy?
Đáp: Điều nghi của Cụ thọ ấy không phải là không có căn cứ, vì Cụ thọ ấy suy nghĩ: Được định này tất đã lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ, mạng chung nên sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đối với Cụ thọ ấy tất không có lý khởi định này.
Lại, Cụ thọ Ô-đà-di không biết rõ ý của Tôn giả Xá-lợi-tử nên hiện tiền đã hai ba lần nói trái ngược như thế.
Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-tử có những ý sâu xa gì mà Cụ thọ Ô-đà-di không hiểu rõ?
Đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử nói sinh nơi cõi sắc, còn Cụ thọ Ô-đà-di nói sinh nơi cõi vô sắc. Tôn giả Xá-lợi-tử nói thoái chuyển, còn Cụ thọ Ô-đà-di nói không thoái chuyển. Do những không hiểu ấy nên đã nói trái ngược ba lần.
Hỏi: Vì sao Tôn giả Xá-lợi-tử không khai ngộ cho Cụ thọ ấy để dẫn đến mấy lần nói trái ngược như thế?
Đáp: Do Tôn giả suy niệm: Ai có thể khai ngộ cho người ngu chấp tự cho là mình đúng như thế?
Có thuyết nói: Tôn giả suy nghĩ, cũng muốn khai ngộ, nhưng do ba lần nói trái ngược ý của mình, nên Tôn giả liền thôi. Như trong Kinh Tiễn Dụ nói: “Có nhiều Bí-sô tăng thượng mạn ở trước Đức Phật đều tự khen ngợi mình: Sự sống của ta đã hết, cho đến nói rộng”. Khi ấy, Đức Phật muốn vì họ giảng nói pháp đoạn trừ kiêu mạn, nhưng do những Bí-sô này tự khen mãi không dừng, cho nên Phật không nói. Đức Thế Tôn đầy đủ đại bi duyên khắp, hãy còn ngưng dứt tâm giảng nói pháp, đối với hạng người kiêu mạn, huống hồ là Tôn giả Xá-lợi-tử!
Có thuyết nêu: Tôn giả suy nghĩ như vầy: Những việc luận bàn này tất Đức Phật sẽ nghe, rồi do việc này Đức Phật sẽ quở trách Cụ thọ Ô-đà-di và Tôn giả A-nan-đà, tức khiến cho sự răn dạy này trải qua hàng ngàn năm, khiến người không trí không dám nói ngược lại những gì người trí đã nói.
Tôn giả lại nghĩ: Bí-sô như thế, ở trong đại chúng đã ba lần nói ngược với ta hoàn toàn, nhưng không có người đồng phạm hạnh nào tùy hỷ những điều ta nói. Nay ta nên đến chỗ Đức Phật nhờ Ngài phán quyết chuyện này. Nghĩ như vậy rồi, Tôn giả Xá-lợi-tử đi tới chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi hai chân Phật rồi lui ra ngồi qua một bên, thưa: Con nói với chúng Bí-sô: Nếu Bí-sô đầy đủ giới, định, tuệ, cho đến nói rộng v.v… Khi ấy Cụ thọ Ô-đà-di cũng có mặt trong chúng hội, lại nói ngược lời trên tới ba lần v.v… Tôn giả Xá-lợi-tử lúc này lại suy nghĩ như vầy: Nếu Cụ thọ Ô-đà-di kia cố ý nói trái ngược lời ta ở trước Đức Phật, lại không có Bí-sô đồng phạm hạnh nào khen ngợi lời ta nói, vậy ta nay chỉ nên im lặng. Tôn giả Xá-lợi-tử liền trụ trong yên lặng.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Cụ thọ Ô-đà-di: Ông cho những gì là xứ trời ý thành thân? Há không muốn nói là Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?
Cụ thọ Ô-đà-di đáp: Đúng vậy.
Đức Thế Tôn bảo: Ông là kẻ ngu, mù không có mắt tuệ, vì sao cùng với Bí-sô Thượng tọa bàn luận về A-tỳ-đạt-ma thâm diệu?
Phật quở trách Cụ thọ Ô-đà-di xong, lại quở trách Tôn giả A-nan-đà: Ông thấy kẻ ngu xúc não bậc Thượng tọa, vì sao lại bỏ qua không trách cứ ngăn chận?
Đức Thế Tôn quở trách xong liền vào tĩnh thất yên trụ.
Hỏi: Cụ thọ Ô-đà-di có lỗi Đức Thế Tôn quở trách, còn Tôn giả A-nan-đà có lỗi gì cũng bị quở trách?
Đáp: Cụ thọ Ô-đà-di là đệ tử cùng ở chung với Tôn giả A-nanđà, nên Đức Phật mới trách là sao không khéo chỉ dạy.
Lại nữa, Cụ thọ Ô-đà-di là đồ chúng thuộc quyền trông coi của Tôn giả A-nan-đà, nên Đức Phật mới trách sao không như pháp để bảo ban.
Lại nữa, Tôn giả A-nan-đà là đồ chúng thuộc phần trông coi của Đức Phật, nên Phật mới trách: Ông sao chẳng biết người nói như pháp và kẻ nói phi pháp?
Lại nữa, các thứ Đối pháp (A-tỳ-đạt-ma) đã thuyết giảng là thâm diệu, không phải là chỗ nhận biết của nhiều người, chỉ trừ Đức Phật và Tôn giả Xá-lợi-tử. Tôn giả A-nan có thể do sức đa văn để nhận biết. Đức Phật trách: Ông biết nghĩa này, vì sao không khen ngợi những gì bậc Thượng tọa đã nói để thâu nhận bạn pháp?
Do những duyên như thế, nên Đức Phật quở trách.
Vì nghĩa ấy nên biết: Định diệt tận đầu tiên khởi ở cõi dục, thoái chuyển sinh ở cõi sắc, lại có thể hiện khởi. Ngoài ra thì không thể khởi.
Hỏi: Vì sao sinh nơi cõi sắc có thể đầu tiên khởi tĩnh lự, vô sắc, không phải là định diệt?
Đáp: Tĩnh lự do ba duyên nên đầu tiên khởi: 1. Do sức của nhân. 2. Do sức của nghiệp. 3. Do sức của pháp như thế. Do sức của nhân: Nghĩa là ở nơi các đời khác đã từng gần gũi với việc khởi diệt tĩnh lự này. Do sức của nghiệp: Nghĩa là nơi địa kia thuận theo quyết định thọ nghiệp, đã tạo tác, tăng trưởng, sắp cho quả. Do sức của pháp như thế: Nghĩa là khi thế giới hoại, hữu tình ở địa dưới tất sinh lên cõi trên.
Cõi vô sắc do hai duyên nên đầu tiên khởi: 1. Do sức của nhân. 2. Do sức của nghiệp. Do sức của nhân: Nghĩa là trong các đời khác đã từng giảng việc khởi diệt vô sắc này. Do sức của nghiệp: Nghĩa là ở địa kia đã thuận theo quyết định thọ nghiệp, đã tạo tác, tăng trưởng, sắp cho quả. Không do sức của pháp như thế: Nghĩa là từ tĩnh lự thứ tư trở lên, không có thế giới hoại.
Định diệt tận do một duyên nên đầu tiên khởi: Nghĩa là do sức nêu bày chỉ ở trong cõi dục mới có Phật giảng nói pháp, nên có thể khởi hiện tiền. Không do sức của nhân: Vì trong đời khác chưa từng khởi diệt theo định diệt này. Không do sức của nghiệp: Vì định này không phải là tánh của nghiệp. Không do sức của pháp như thế: Vì trong vô sắc không có thế giới hoại.
Hỏi: Vì sao sinh nơi cõi dục, cõi sắc mới có thể khởi định diệt tận, không phải ở cõi vô sắc?
Đáp: Mạng căn dựa vào hai pháp chuyển: 1. Sắc. 2. Tâm. Định này là không tâm, đoạn dứt tâm để khởi. Sinh nơi cõi dục, khi khởi định này, tâm tuy đoạn, nhưng mạng căn dựa vào sắc chuyển. Còn sinh nơi cõi sắc, khi khởi định này, sắc tuy đoạn, nhưng mạng căn dựa vào tâm chuyển. Nếu sinh nơi cõi vô sắc, khi khởi định này, sắc tâm đều không có, mạng căn không nơi nương dựa, nên đoạn dứt, gọi là chết, không phải cho là nhập định, cho nên sinh nơi cõi vô sắc không khởi định diệt tận.
Hỏi: Khi thoái chuyển định này rồi, mạng chung, có sinh vào ba vô sắc dưới không?
Đáp: Có thuyết nói: Không sinh. Vì sao? Vì khi thoái chuyển định này rồi, chấp nhận sinh vào hai xứ: 1. Xứ có thể khởi định này. 2. Xứ nhận dị thục của định này. Cõi sắc tuy không phải là xứ nhận dị thục của định này, nhưng là xứ có thể khởi định ấy. Phi tưởng phi phi tưởng xứ tuy không phải là xứ có thể khởi định này, nhưng là xứ nhận dị thục của định ấy. Ba vô sắc dưới đều không có hai sự việc kia, cho nên khi thoái chuyển định này thì không nhận sinh vào các nơi đó.
Có thuyết nêu: Cũng sinh. Nhưng sinh vào các nơi đó, không gọi là Thân chứng và Câu giải thoát. Nếu nói như vậy là đã khéo thông suốt Tỳ-mộc-sai-la đã nói. Như nói: Thân chứng ở nơi bốn định vô sắc tịnh. Hoặc thành tựu một, hoặc thành tựu bốn. Thế nào là một? Là sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thế nào là bốn? Là sinh nơi cõi dục, cõi sắc. Như Thân chứng, Câu giải thoát cũng như vậy. Ba vô sắc dưới tất không thành tựu định diệt tận, nên không được hai danh hiệu kia.
Lời bình: Nên biết trong đây thuyết đầu là đúng.
Hỏi: Trụ nơi định diệt tận trải qua thời gian bao lâu?
Đáp: Hữu tình nơi cõi dục, đại chủng của các căn do trụ nơi đoạn thực, nếu ở lâu trong định, khi ấy thân ở tại định tuy không bị tổn thương, nhưng sau khi xuất định thân liền tan hoại. Cho nên trụ nơi định này chỉ nên trải qua ít thời gian, nhiều nhất không quá bảy ngày đêm, đoạn thực hết. Vì sao nhận biết được?
Từng nghe ở một Tăng-già-lam nọ, có một Bí-sô đạt được định diệt tận, sắp tới giờ ăn, vị ấy đắp y, mang bát đến thực đường. Hôm đó đánh kiền chùy hơi muộn. Bí-sô ấy do siêng năng tinh tấn nên suy nghĩ: Sao ta để thì giờ luống qua vô ích, lúc này sao không tu thiện? Rồi không còn quan tâm đến chuyện về sau, Bí-sô liền phát nguyện nhập định diệt tận, chờ đến khi ăn đánh kiền chùy sẽ xuất định. Bấy giờ, ở Già-lam này xảy ra chuyện rắc rối, các Bí-sô tản đi các nơi hết.
Hơn ba tháng sau sự việc mới giải quyết, các Bí-sô lần lượt trở về. Vừa đánh kiền chùy tập hợp thì Bí-sô ấy xuất định, liền mạng chung.
Lại có một Bí-sô khác được định diệt tận, thường đi khất thực. Vào buổi sáng, đắp y cầm bình bát, vừa tới thôn nọ thì trời đổ mưa to, sợ hoại màu y nên dừng lại để trú mưa tránh ướt, liền nghĩ: Sao ta nỡ để thì giờ luống trôi qua, lúc này sao không tu thiện? Rồi không cần quan tâm đến chuyện về sau, Bí-sô liền lập nguyện nhập định diệt tận, chờ đến khi mưa tạnh sẽ xuất định. Có thuyết nói: Khi ấy, mưa hơn nửa tháng. Có thuyết nói: Mưa một tháng mới tạnh. Bí-sô kia xuất định, liền mạng chung. Do đó nhận biết là sinh ở cõi dục, nếu trụ nơi định lâu, khi còn ở trong định thân không bị tổn hại, nhưng khi xuất định thân liền tan hoại. Vì thế trụ nơi định này chỉ nên trải qua một thời gian ngắn, lâu nhất không được quá bảy ngày đêm.
Hữu tình nơi cõi sắc, đại chủng của các căn không do sự nhận giữ của đoạn thực, nên có thể trụ nơi định này, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc trải qua một kiếp, hoặc lâu hơn nữa.
Hỏi: Nếu có Bí-sô không lập nguyện nhập định diệt tận thì chừng nào nên xuất định?
Đáp: Pháp như thế là nên xuất, như có tâm định. Lại, Bí-sô kia hoặc muốn ăn uống, hoặc muốn tiện lợi, nhưng vì đang ở trong định, tuy không bị tổn thương, nhưng nếu xuất định có thể dẫn đến bệnh hoạn. Do nhân ấy tất nên xuất định.
Hỏi: Phàm phu có thể nhập định diệt tận không?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Không thể nhập. Như Khế kinh nói: Đó là định của bậc Thánh. Nếu hàng phàm phu có thể nhập, tức cũng nên gọi là định của phàm phu.
Có thuyết nói: Phàm phu tất vui thích nơi địa trên, khi lìa nhiễm địa dưới, như loài sâu Xích hoạch. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là địa vô thượng, đáng ưa thích, nhưng các phàm phu không thể lìa nhiễm của cõi đó. Nếu không lìa nhiễm do kiến đạo đoạn ấy, tất không có khả năng nhập định diệt tận. Thế nên các phàm phu không thể nhập định diệt tận.
Có thuyết nêu: Phàm phu như như nhập định, thân tâm như thế như thế an dứt. Do an nghỉ khiến gia hạnh chậm chạp, thế nên không thể nhập định diệt tận.
Đại đức nói: Phàm phu không thể nhập định diệt tận. Do các phàm phu như như nhập định, ngã kiến như thế như thế càng kiên cố, sợ diệt biên vực tận cùng, khởi tưởng hầm hố sâu, thế nên không thể nhập định diệt tận.
Hỏi: Bồ-tát có thể nhập định diệt tận chăng?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Không thể nhập. Như Khế kinh nói: Đây là định của bậc Thánh. Nếu Bồ-tát có thể nhập, tức cũng nên gọi là định của phàm phu.
Có thuyết nói: Bồ-tát tất vui thích nơi địa trên, khi lìa nhiễm địa dưới, như loài sâu Xích hoạch, nói rộng như trước.
Có thuyết nêu: Bồ-tát có thể nhập định này, do các Bồ-tát cầu Nhất thiết trí, nơi tất cả xứ thảy đều tìm cầu. Nếu e sợ không thể nhập định này, sao gọi là tìm cầu nơi tất cả xứ?
Đại đức nói: Bồ-tát không thể nhập định diệt tận. Vì các Bồ-tát tuy hàng phục ngã kiến, không sợ diệt biên vực tận cùng, không khởi tưởng hầm hố sâu, nhưng vì muốn rộng tu Bát nhã Ba-la-mật, nên tâm không ưa nhập định diệt tận. Chớ khiến Bát nhã Ba-la-mật có đoạn, có ngại. Tuy có thể nhập nhưng không hiện nhập. Đây là nói Bồ-tát chưa nhập Thánh vị.
Hỏi: Đã biết Bồ-tát trong chúng đồng phần trước chưa từng khởi định diệt tận, trong chúng đồng phần sau, trước là khởi định diệt tận, sau là chứng Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, hay là trước chứng Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, sau mới khởi định diệt tận. Nếu trước khởi định diệt tận, vì sao gọi là không khởi ý lạc? Vì sao không khởi tâm không đồng phần? Vì sao gọi là ba mươi bốn tâm sát-na được Nhất thiết trí? Nếu trước chứng Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, vì sao Bồ-tát được gọi là người mãn học? Vì sao khi đắc tận trí gọi là khéo làm xong việc đã làm? Vì sao khởi tận trí xong gọi là Câu giải thoát?
Đáp: Các Sư ngoại quốc nói: Tất cả Bồ-tát trước là khởi định diệt tận, sau mới chứng Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng.
Hỏi: Vì sao gọi là không khởi ý lạc?
Đáp: Các vị kia nói: Tất cả Bồ-tát trước là lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ, khởi ý lạc quyết định như vầy: Ta sẽ không rời khỏi tòa! Nương nơi tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, được quả Bất hoàn, khởi định diệt tận, chứng Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, như những gì đã tư duy sau đều chứng đắc. Do đó nên nói không khởi ý lạc.
Hỏi: Vì sao không khởi tâm không đồng phần?
Đáp: Các vị kia nói: Ai cho là Bồ-tát không khởi tâm không đồng phần? Nhưng Bồ-tát có tâm không đồng phần. Giả như có nói như thế cũng không trái lý, không trái với ý lạc gốc đã lập.
Hỏi: Vì sao nói ba mười bốn tâm sát-na được Nhất thiết trí?
Đáp: Chư vị kia nói: Đây là dựa vào tâm vô lậu để nói, không luận đến tâm nhập xuất định diệt tận.
Luận sư Tỳ-bà-sa ở nước Ca-thấp-di-la nói: Tất cả Bồ-tát trước chứng Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, sau mới khởi định diệt tận.
Hỏi: Vậy vì sao Bồ-tát được gọi là người mãn học?
Đáp: Đây là dựa vào căn mãn, quả mãn để nói, không nói là định mãn. Điều ấy không có lỗi gì.
Hỏi: Vì sao khi đắc tận trí gọi là khéo làm xong việc đã làm?
Đáp: Do giải thoát khỏi chướng ngại.
Có thuyết nói: Do bậc dưới lấy không trí làm Thể. Có thuyết nêu: Đối với định không tự tại làm Thể.
Có thuyết cho: Các định lấy không đạt được làm Thể.
Nếu nói bậc dưới lấy không trí làm Thể: Nghĩa là Đức Thế Tôn khi được tận trí, đã đoạn hết thảy không trí, đã sinh trí đối trị không trí kia, do đấy nên gọi là giải thoát đoạn dứt chướng ngại.
Nếu nói đối với định không tự tại làm Thể: Nghĩa là thuyết kia nói Đức Thế Tôn khi được tận trí đối với tất cả tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí, giải thoát hoặc nhập, hoặc xuất đều được tự tại, do vậy nên gọi là giải thoát đoạn dứt chướng ngại.
Nếu nói các định lấy không đạt được làm Thể: Nghĩa là thuyết kia nói Đức Thế Tôn khi được tận trí là đã được tất cả tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí, giải thoát, do đó gọi là giải thoát đoạn dứt chướng ngại. Cho nên nói là khéo làm xong việc đã làm.
Hỏi: Vì sao khởi tận trí xong gọi là Câu giải thoát?
Đáp: Vì đã được tâm nhập xuất của định kia, nên gọi là câu giải thoát, không đạt được thể của định. Tức do lý ấy nên gọi là lìa nhiễm được. Về sau không do gia hạnh khởi, là vì Bồ-tát đạt ba mươi bốn tâm sát-na chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng.
Vì sao gọi là ba mươi bốn tâm sát-na? Nghĩa là Bồ-tát trước lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, sau nương vào tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, ở trong kiến đạo có mười lăm tâm sát-na, khi có đạo loại trí là mười sáu, tức ở đây gọi là gia hạnh đoạn xứ Hữu đảnh. Lìa nhiễm Phi tưởng phi phi tưởng xứ lại có chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, đó gọi là ba mươi bốn tâm sát-na. Bồ-tát nương vào đấy chứng đắc Vô thượng giác.
Như Khế kinh nói: Ô-ba-sách-ca (Ưu-bà-tắc) Tỳ-xá-khư đến chỗ của Bí-sô-ni Đạt-ma-trần-na, hỏi: Các Bí-sô bậc Thánh khi nhập định diệt tận thì nghĩ điều gì?
Bí-sô-ni nói với Tỳ-xá-khư: Khi nhập định diệt tận, các Bí-sô hoàn toàn không có nghĩ: Ta nay nhập định diệt tận hoặc lại sẽ nhập. Nhưng do trước đó đã điều phục luyện tâm, tâm chuyển vi tế tùy thuận hướng nhập.
Hỏi: Khi sắp nhập định diệt tận, trước tiên trải giường dây, rửa chân, ngồi kiết già thẳng thân, buộc niệm, sau liền nhập định, trong khoảng thời gian ấy há không khởi niệm: Ta nay nhập định diệt tận hoặc lại sẽ nhập?
Đáp: Trong gia hạnh xa tuy có niệm ấy, nhưng từ tâm thiện của cõi dục, vô gián nhập tĩnh lự thứ nhất, cho đến dần dần nhập định diệt tận. Ở trong sự gần kề phần vị gia hạnh ấy tất không khởi niệm: Ta nay nhập định diệt tận hoặc lại sẽ nhập.
Tỳ-xá-khư lại hỏi: Các Bí-sô Thánh giả nhớ nghĩ điều gì khi xuất định diệt tận?
Bí-sô-ni trả lời: Khi xuất định diệt tận, các Bí-sô hoàn toàn không có nghĩ: Ta nay xuất định diệt tận hoặc lại sẽ xuất. Nhưng thân mạng của họ, sáu xứ làm duyên cùng chủ yếu có định hạn, nên xuất định diệt tận. Hoặc do đói khát và các thứ tiện lợi gây phiền nhiễm, khi ở trong định tuy không bị tổn hại, nhưng khi xuất định thì có thể bị hoạn nạn. Pháp như thế nên xuất định diệt tận.
Lại hỏi: Các Bí-sô Thánh giả khi nhập định diệt tận, trước diệt pháp nào? Là thân hành chăng? Ngữ hành chăng? Ý hành chăng?
Bí-sô-ni trả lời: Các Bí-sô khi nhập định diệt tận, trước diệt ngữ hành, kế là thân hành, sau là ý hành.
Hỏi: Khi nhập định diệt tận, diệt ý hành là có thể như thế, còn thân – ngữ hành thì thế nào? Nghĩa là từ tĩnh lự thứ nhất nhập tĩnh lự thứ hai, khi đó ngữ hành đã diệt. Từ tĩnh lự thứ ba nhập tĩnh lự thứ tư, khi ấy thân hành đã diệt. Vì sao vừa nói là khi nhập định diệt tận thì diệt thân, ngữ hành?
Đáp: Khi nhập định diệt tận có xa có gần. Xa là diệt thân ngữ hành, gần là diệt ý hành. Lại, từ nhập tĩnh lự thứ nhất cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều gọi là thời nhập định diệt tận, hay là khởi nhập định diệt tận. Các địa ấy đều hiện tiền, cho nên không có lỗi.
Lại hỏi: Các Bí-sô Thánh giả khi xuất định diệt tận, trước khởi pháp gì? Thân hành chăng? Ngữ hành chăng? Ý hành chăng?
Bí-sô-ni trả lời: Các Bí-sô khi xuất định, trước khởi ý hành, kế khởi thân hành, sau khởi ngữ hành.
Hỏi: Khi xuất định diệt tận, khởi ý hành là có thể như thế, còn thân – ngữ hành thì thế nào? Nghĩa là từ tĩnh lự thứ tư nhập tĩnh lự thứ ba, thân hành mới khởi. Từ tĩnh lự thứ hai nhập tĩnh lự thứ nhất, ngữ hành mới khởi, vì sao có thể nói khi xuất định diệt tận là khởi thân – ngữ hành?
Đáp: Khi xuất định diệt tận là có gần có xa. Gần là khởi ý hành. Xa là khởi thân – ngữ hành. Lại, từ định diệt tận khởi cho đến khi nhập tĩnh lự thứ nhất, đều gọi là thời xuất định.
Lại hỏi: Các Bí-sô Thánh giả khi xuất định diệt tận, tâm tùy thuận vào nơi nào? Chuyển gần vào nơi nào? Nhập vào chốn nào?
Bí-sô-ni trả lời: Các Bí-sô khi xuất định diệt tận, tâm tùy thuận theo nẻo lìa, chuyển gần vào nẻo lìa, nhập vào nẻo lìa.
Hỏi: Ở đây nói pháp gì gọi là lìa?
Đáp: Có thuyết nói: Định diệt tận gọi là lìa. Nếu nói như vậy định diệt tận gọi là lìa, tức thuyết kia nói: Nếu tâm thế tục xuất, tức có hai duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa.
Nghĩa là ý lạc cùng đối tượng duyên. Nếu tâm vô lậu xuất, tương ưng với khổ tập trí, tức có một duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nghĩa là đối tượng duyên, không phải là ý lạc. Nếu tương ưng với diệt đạo trí, tức tâm ấy không phải là ý lạc, không phải là đối tượng duyên để tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa.
Có thuyết nêu: Niết-bàn gọi là lìa. Nếu nói như vậy, tức thuyết kia nói: Nếu tâm thế tục xuất, tức tâm ấy không phải là ý lạc, không phải là đối tượng duyên để tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nếu tâm vô lậu xuất, tương ưng với khổ tập đạo trí, tức có một duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nghĩa là ý lạc, không phải là đối tượng duyên. Nếu tương ưng với diệt trí, tức có hai duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nghĩa là ý lạc và đối tượng duyên.
Có thuyết cho: Niết-bàn của định diệt gọi là lìa. Nếu nói như vậy, tức thuyết kia nói: Nếu tâm thế tục xuất cùng với tâm vô lậu xuất, tương ưng với khổ tập diệt trí, tức gồm chung mà nói là có hai duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nghĩa là ý lạc cùng đối tượng duyên. Nếu tương ưng với đạo trí, tức có một duyên để tâm ấy tùy thuận lìa, chuyển gần lìa, nhập vào lìa. Nghĩa là ý lạc, không phải là đối tượng duyên.
Lại hỏi: Các Bí-sô Thánh giả khi xuất định diệt tận thì xúc với bao nhiêu xúc?
Bí-sô-ni trả lời: Xúc có ba thứ: 1. Xúc bất động. 2. Xúc vô sở hữu. 3. Xúc vô tướng.
Hỏi: Ba xúc như thế khác nhau như thế nào?
Đáp: Tôn giả Thế Hữu đã nói như vầy: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ là xúc bất động. Vô sở hữu xứ là xúc vô sở hữu. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là xúc vô tướng.
Có thuyết nói: Không là xúc bất động. Vô nguyện là xúc vô sở hữu. Vô tướng là xúc vô tướng.
Có thuyết nêu: Vô lậu, Vô sở hữu xứ, duyên Niết-bàn, đều gọi là ba xúc. Nghĩa là vô lậu nên gọi là xúc bất động. thuộc Vô sở hữu xứ nên gọi là xúc vô sở hữu. Duyên Niết-bàn nên gọi là xúc vô tướng.
Đại đức nói: Khi các Bí-sô xuất định diệt tận, nếu khởi tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không khởi tâm không đồng phần khác, nên nói là xúc với xúc vô tướng. Nếu khởi tâm không đồng phần Vô sở hữu xứ, nên nói là xúc với xúc vô sở hữu. Nếu khởi tâm không đồng phần Thức vô biên xứ, nên nói là xúc với xúc bất động. Do lý sâu xa ấy, nên năm định hữu tưởng nên biết cũng như vậy. Nghĩa là Không vô biên xứ và bốn tĩnh lự. Do thứ lớp ấy nên nhập định diệt tận chăng? Tức do đấy nên xuất. Do thứ lớp ấy nên xuất định diệt tận chăng? Tức do đấy nên nhập. Như do thứ lớp ấy nên ngủ chăng? Tức do đấy nên thức. Do thứ lớp ấy nên thức chăng? Tức do đấy nên ngủ. Các sự việc kia cũng như vậy.
Như nói: Do được nương dựa, trụ nơi định diệt tận ấy, nên không thọ khổ của sinh lão tử ở đời vị lai, vì không còn khởi tập.
Hỏi: Định diệt tận không có khả năng đoạn trừ các phiền não, vì sao có thể nói như vậy?
Đáp: Nên quán xét ý sâu xa trong lời nói đó. Nghĩa là các hàng hữu học xuất định diệt tận rồi, suy nghĩ như vầy: Tâm tâm sở pháp trong định diệt tận này tạm diệt, tạm ngừng, trong giây lát không hành hãy còn có được sự tịch tĩnh vi diệu như thế, huống chi là Niếtbàn. Nơi ấy các hành hữu vi vĩnh viễn diệt, vĩnh viễn dứt, rốt ráo không hành. Do vậy, trước hết là đoạn trừ các phiền não, diệt uẩn nối tiếp, nhập cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Nếu các bậc vô học xuất định diệt tận rồi, liền suy nghĩ như vầy: Nói rộng cho đến, do đó nên trước là diệt uẩn tương tục, nhập cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Dựa vào mật ý này, nên nói như vậy, không phải cho là định diệt tận có thể đoạn dứt phiền não.
Luận Thi Thiết nói: Có tạo nguyện nhập định diệt tận không tạo nguyện xuất định diệt tận. Có tạo nguyện xuất định diệt tận không tạo nguyện nhập định diệt tận. Có tạo nguyện nhập định diệt tận cũng tạo nguyện xuất định diệt tận. Có không tạo nguyện nhập định diệt tận cũng không tạo nguyện xuất định diệt tận.
Trong đây: Tạo nguyện nhập định diệt tận không tạo nguyện xuất định diệt tận: Nghĩa là như có một người lập nguyện: Ta sẽ nhập định diệt tận, không lập nguyện: Ta sẽ xuất định diệt tận. Trong bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền. Người ấy nhập định diệt tận, từ định diệt tận xuất, bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền.
Tạo nguyện xuất định diệt tận không tạo nguyện nhập định diệt tận: Nghĩa là như có một người không lập nguyện: Ta sẽ nhập định diệt tận, nhưng lập nguyện như vầy: Ta sẽ xuất định diệt tận. Bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền. Người ấy nhập định diệt tận, từ định diệt tận xuất, bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền.
Tạo nguyện nhập định diệt tận cũng tạo nguyện xuất định diệt tận: Nghĩa là như có một người lập nguyện: Ta sẽ nhập định diệt tận. Cũng lập nguyện như vầy: Ta sẽ xuất định diệt tận. Bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền. Người ấy nhập định diệt tận, từ định diệt tận xuất, bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền.
Không tạo nguyện nhập định diệt tận cũng không tạo nguyện xuất định diệt tận: Nghĩa là như có một người không lập nguyện: Ta sẽ nhập định diệt tận. Cũng không lập nguyện: Ta sẽ xuất định diệt tận. Bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền. Người ấy nhập định diệt tận, từ định diệt tận xuất, bốn định hữu tưởng tùy vào một hiện tiền.
Hỏi: Tạo nguyện nhập – xuất và chỉ tạo nguyện nhập, sự việc có thể như thế, do nhập định tất sẽ xuất. Còn không tạo nguyện nhập – xuất và chỉ tạo nguyện xuất, làm sao có thể như thế? Vì không phải không muốn nhập mà nhập định.
Đáp: Trong đây tất cả đều muốn nhập định, đều muốn xuất định, nhưng dựa vào tâm nhập xuất định có tự tại, không tự tại, nên nói như vậy. Nghĩa là có người đối với tâm nhập định, được tự tại, không phải là tâm xuất định, người kia tạo nguyện xuất định không tạo nguyện nhập định.
Có người đối với tâm xuất định được tự tại, không phải là tâm nhập định, người ấy tạo nguyện nhập định, không tạo nguyện xuất định.
Có người đối với tâm nhập xuất định đều được tự tại, người ấy không tạo nguyện nhập định, cũng không tạo nguyện xuất định.
Có người đối với tâm nhập xuất định đều không tự tại, người ấy tạo nguyện nhập định, cũng tạo nguyện xuất định.
Hỏi: Bốn định hữu tưởng là những định gì?
Đáp: Là bốn định vô sắc.
Hỏi: Vì sao khi xuất định diệt tận chỉ nói khởi bốn định vô sắc?
Đáp: Do bốn định vô sắc đối với khi xuất định diệt tận có thể làm ngược với thứ lớp xuất, ngược lại với vượt xuất. Nghĩa là nếu dùng tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ để xuất định diệt tận, người ấy nếu khởi tâm Vô sở hữu xứ là ngược với thứ lớp xuất, nếu khởi tâm Thức vô biên xứ là ngược với vượt xuất. Nếu dùng tâm Vô sở hữu xứ để xuất định diệt tận, người ấy nếu khởi tâm Thức vô biên xứ là ngược với thứ lớp xuất, nếu khởi tâm Không vô biên xứ là ngược với vượt xuất. Thế nên chỉ nói bốn định vô sắc.
HẾT – QUYỂN 153