LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 145

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN, phần 4

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì môn trước đã ngăn chận ý tưởng cho sự đoạn trừ là tức khắc, nhưng chưa ngăn chận thuyết cho hiện quán là tức khắc, lại cũng chưa hiển bày hiện quán là dần dần theo thứ lớp. Nay muốn ngăn chận và nêu rõ về điều ấy nên tạo ra phần Luận này.

Có thuyết nói: Ở môn trước cũng đã ngăn chận thuyết cho hiện quán là tức khắc và cũng đã hiển bày hiện quán là dần dần, nhưng không được rõ ràng. Nay muốn nêu bày sáng rõ nên tạo ra phần Luận này.

Có thuyết nêu: Lý do tạo phần Luận này là muốn phân biệt năm bộ phiền não và năm bộ đối trị. Năm bộ phiền não, tức do kiến khổ đoạn trừ, cho đến do tu đạo đoạn trừ. Năm bộ đối trị, tức khổ nhẫn, khổ trí, cho đến đạo nhẫn, đạo trí.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn, do kiến tập đoạn, do kiến diệt đoạn, do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn và không đoạn?

Đáp: Có chín căn do tu đạo đoạn, tức bảy sắc căn, mạng căn và khổ căn. Ba căn không đoạn, tức là ba căn vô lậu. Mười thứ cần phân biệt, tức ý căn, bốn thọ và năm căn như tín v.v… Nghĩa là:

Ý căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập đoạn, hoặc do kiến diệt đoạn, hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Nghĩa là ý căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do khổ nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Thế nào là do kiến tập đoạn? Nghĩa là ý căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do tập nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ mười chín thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Thế nào là do kiến diệt đoạn? Nghĩa là ý căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do diệt nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ mười chín thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là ý căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do đạo nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ hai mươi hai thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là ý căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với ý căn và ý căn hữu lậu không nhiễm ô.

Thế nào là không đoạn? Nghĩa là ý căn vô lậu.

Như ý căn, xả căn cũng như thế.

Lạc căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập đoạn, hoặc do kiến diệt đoạn, hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do khổ nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ chín thứ tùy miên tương ưng với lạc căn.

Thế nào là do kiến tập đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do tập nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ sáu thứ tùy miên tương ưng với lạc căn.

Thế nào là do kiến diệt đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do diệt nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ sáu thứ tùy miên tương ưng với lạc căn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do đạo nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ bảy thứ tùy miên tương ưng với lạc căn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ năm thứ tùy miên tương ưng với lạc căn và lạc căn hữu lậu không nhiễm ô. Năm thứ tùy miên tức tham và vô minh ở cõi dục và tham, mạn, vô minh ở cõi sắc.

Thế nào là không đoạn? Nghĩa là lạc căn vô lậu.

Hỷ căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập đoạn, hoặc do kiến diệt đoạn, hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do khổ nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ mười bảy thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn. Mười bảy thứ tùy miên: Tức là ở cõi dục trừ sân, nghi, ở cõi sắc là tất cả.

Thế nào là do kiến tập đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do tập nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ mười một thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn.

Thế nào là do kiến diệt đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do diệt nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ mười một thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do đạo nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ mười hai thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ sáu thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn và hỷ căn hữu lậu không nhiễm ô. Sáu thứ tùy miên tức ở cõi dục trừ sân, còn ở cõi sắc là tất cả.

Thế nào là không đoạn? Nghĩa là hỷ căn vô lậu.

Ưu căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập đoạn, hoặc do kiến diệt đoạn, hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do khổ nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ bốn thứ tùy miên tương ưng với ưu căn. Bốn thứ tùy miên: Tức là tà kiến, sân, nghi và vô minh ở cõi dục.

Thế nào là do kiến tập đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do tập nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến tập đoạn trừ bốn thứ tùy miên tương ưng với ưu căn.

Thế nào là do kiến diệt đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do diệt nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến diệt đoạn trừ bốn thứ tùy miên tương ưng với ưu căn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, do đạo nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ bốn thứ tùy miên tương ưng với ưu căn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ hai thứ tùy miên tương ưng với ưu căn và ưu căn không nhiễm ô. Hai thứ tùy miên tức là sân và vô minh ở cõi dục.

Năm căn như tín v.v… hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là năm căn như tín v.v… hữu lậu.

Thế nào là không đoạn? Nghĩa là năm căn như tín v.v… vô lậu.

Đã phân biệt về các căn do kiến khổ v.v… đoạn, nay sẽ nói về các nghĩa của chúng.

Hỏi: Thế nào gọi là do kiến khổ đoạn, cho đến do tu đạo đoạn?

Đáp: Nếu pháp đối trị quyết định, đối trị đối tượng duyên quyết định, gọi là do kiến khổ đoạn, cho đến do kiến đạo đoạn. Nếu pháp đối trị không quyết định, đối trị đối tượng duyên không quyết định, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết nói: Nếu pháp có nơi chốn đối trị quyết định, đối tượng duyên quyết định, gọi là do kiến khổ đoạn, cho đến do kiến đạo đoạn. Nếu pháp có nơi chốn đối trị không quyết định, đối tượng duyên không quyết định, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết nêu: Nếu pháp do khổ nhẫn, khổ trí làm đối trị, gọi là do kiến khổ đoạn. Cho đến nếu pháp do đạo nhẫn, đạo trí làm đối trị, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp do các trí làm đối trị, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết cho: Nếu pháp do khổ nhẫn đoạn gọi là do kiến khổ đoạn. Cho đến nếu pháp do đạo nhẫn đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp do các trí đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết nói: Nếu pháp do quán khổ đế đoạn gọi là do kiến khổ đoạn. Cho đến nếu pháp do quán đạo đế đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp hoặc do quán khổ đế, hoặc do quán tập đế, diệt đế, đạo đế, hoặc không quán đế đoạn, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết biện: Nếu pháp trái với kiến khổ đế gọi là do kiến khổ đoạn. Cho đến nếu pháp trái với kiến đạo đế gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp cùng trái với kiến bốn đế gọi là do tu đạo đoạn.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là kiến, bao nhiêu thứ không phải là kiến? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để ngăn chận thuyết cho: Tất cả các pháp đều là tánh của kiến. Họ nói: Việc làm mạnh mẽ, nhanh nhạy, gọi là kiến. Tất cả các pháp đối với sự việc của mình đều mạnh mẽ, nhanh nhạy, nên đều gọi là kiến. Để ngăn chận lối chấp ấy cùng hiển bày trong các pháp chỉ có nhãn căn và phần ít của tuệ gọi là kiến, không phải là các thứ khác, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là kiến, bao nhiêu thứ không phải là kiến?

Đáp: Có một căn là kiến, tức nhãn căn. Mười bảy căn không phải là kiến, tức sáu sắc căn, mạng căn, ý căn, năm thọ, bốn căn như tín v.v… Bốn căn cần phân biệt, tức tuệ căn và ba căn vô lậu.

Tuệ căn hoặc là kiến, hoặc không phải là kiến.

Thế nào là kiến? Nghĩa là ý thức tương ưng với tuệ căn không thuộc tận trí và vô sinh trí.

Thế nào là không phải là kiến? Nghĩa là các tuệ căn khác. Tức năm thức tương ưng với tuệ căn và tuệ căn thuộc tận trí và vô sinh trí.

Vị tri đương tri căn hoặc là kiến, hoặc không phải là kiến.

Thế nào là kiến? Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu tuệ căn.

Thế nào là không phải là kiến? Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu các căn khác. Tức tám căn kia.

Như vị tri đương tri căn, dĩ tri căn cũng thế.

Cụ tri căn hoặc là kiến, hoặc không phải là kiến.

Thế nào là kiến? Nghĩa là cụ tri căn gồm thâu tuệ căn không thuộc tận trí và vô sinh trí.

Thế nào là không phải là kiến? Nghĩa là cụ tri căn gồm thâu các căn khác. Tức là tám căn kia và tuệ căn do tận trí và vô sinh trí gồm thâu.

Đã phân biệt về các căn là kiến v.v…, nay sẽ nói về các nghĩa của chúng.

Hỏi: Thế nào gọi là kiến?

Đáp: Do bốn duyên nên gọi là kiến. Một là có thể quan sát. Hai là suy xét, quyết đoán. Ba là chấp chặt. Bốn là nhập sâu nơi đối tượng duyên.

Có thể quan sát: Nghĩa là tự tánh của kiến.

Hỏi: Như tà kiến, điên đảo kiến thì chúng quan sát những gì?

Đáp: Thế nên mới nói là tự tánh của kiến. Nghĩa là tuy là kiến sai lầm điên đảo nhưng tự tánh của kiến là tuệ, nên nói có thể quan sát. Như người nhìn thấy các thứ tức gọi là có thể quan sát, không phải như người mù.

Suy xét, quyết đoán: Nghĩa là có thể suy tìm quyết định.

Hỏi: Trong khoảng một sát-na làm sao suy tìm được?

Đáp: Do tánh mạnh mẽ nhanh nhạy nên nói là suy tìm.

Chấp chặt: Nghĩa là các kiến thú vốn hẹp hòi, chấp giữ rất kiên cố, không phải sức của Thánh đạo thì không gì khiến bỏ được.

Nhập sâu nơi đối tượng duyên: Nghĩa là đối với cảnh luôn mạnh mẽ đi vào, như cây kim rớt xuống vũng sình lầy.

Có thuyết nêu: Do hai duyên nên gọi là kiến. Một là tánh soi sáng. Hai là tánh lường xét.

Có thuyết cho: Do ba duyên nên gọi là kiến. Một là có tướng kiến. Hai là thành sự việc của kiến. Ba là đối với cảnh không chướng ngại.

Có thuyết nói: Do ba duyên nên gọi là kiến. Một là ý lạc. Hai là chấp trước. Ba là suy xét, quyết đoán.

Có thuyết nêu: Do ba duyên nên gọi là kiến. Một là ý lạc. Hai là gia hạnh. Ba là vô trí.

Ý vui thích: Tức là ý lạc hủy hoại. Gia hạnh: Tức là gia hạnh hủy hoại. Vô trí: Tức là cùng hủy hoại.

Lại nữa, ý lạc, tức là tu định. Gia hạnh, tức là tầm tư. Vô trí, tức là tùy theo việc được nghe.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ có tầm có tứ? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận thuyết của phái Thí Dụ cho: Từ cõi dục cho đến cõi Hữu đảnh đều có tầm tứ. Vì sao? Vì Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Tánh thô của tâm gọi là tầm. Tánh vi tế của tâm gọi là tứ. Tánh thô tế của tâm này cho đến cõi Hữu đảnh cũng có. Vị Đại đức ấy nói: Các Sư của Đối pháp cho tầm tứ là tánh thô tế của tâm, tánh thô tế này do cùng đối đãi mà lập, cho đến cõi Hữu đảnh đều hiện có được, nhưng lại nói tầm tứ chỉ có ở cõi dục và ở cõi trời Phạm thế, đây là lời nói sai không phải là nêu bày đúng.

Các Luận sư của A-tỳ-đạt-ma nói: Điều chúng tôi nêu bày là đúng, không phải là sai, vì đã căn cứ vào nhiều môn để nói về việc ấy, không phải chỉ là một thứ. Như nói: Triền là thô, tùy miên là tế. Ở đây, tầm tứ không phải là thô, không phải là tế, do đều không phải là tánh của triền hay tánh của tùy miên.

Như nói: Sắc uẩn là thô, bốn uẩn là tế. Ở đây, tầm tứ đều là tế, vì đều do hành uẩn gồm thâu.

Như nói: Cõi dục là thô, tĩnh lự thứ nhất là tế. Ở đây, tầm tứ đều chung cả thô tế, vì cả hai thứ đều cùng thuộc về hai địa.

Như nói: Tĩnh lự thứ nhất là thô, tĩnh lự thứ hai là tế. Ở đây, tầm tứ đều là thô.

Do nương vào nhiều môn để nói về tánh thô tế nên tầm và tứ đều không đến cõi Hữu đảnh. Nếu nói tầm tứ đến cả cõi trời Hữu đảnh tức nên không nói có ba địa khác nhau.

Phái Thí Dụ nói: Khởi đầu từ cõi dục cho đến cõi Hữu đảnh đều có ba pháp thiện, nhiễm và vô ký. Pháp nhiễm ở tất cả địa đều gọi là có tầm có tứ. Chỉ thiện và vô ký có ba địa riêng biệt. Nếu như thế vì sao nói tầm tứ đã diệt, không có tầm tứ, định sinh hỷ lạc nhập tĩnh lự thứ hai.

Phái ấy nói: Đây là dựa vào tầm tứ thiện để nói, không nói về nhiễm ô. Thuyết này không đúng. Vì sao lại nói diệt tầm tứ thiện, không phải là diệt nhiễm ô, vì đáng lẽ phải diệt tầm tứ nhiễm ô trước, vì khi lìa nhiễm tất đoạn trừ chúng. Do khi vượt khỏi cõi địa mới bỏ các thứ thiện. Như thế, phái Thí Dụ đúng là đã nói sai. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng đó cùng nêu bày rõ tầm và tứ chỉ có ở hai địa nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ có tầm có tứ, bao nhiêu thứ không tầm chỉ có tứ, và bao nhiêu thứ không tầm không tứ?

Đáp: Có hai căn có tầm có tứ, tức là khổ căn, ưu căn. Tám căn không tầm không tứ, tức là bảy sắc căn và mạng căn. Mười hai căn cần phân biệt, tức là ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Ý căn hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, hoặc không tầm không tứ.

Thế nào là có tầm có tứ? Nghĩa là tác ý có tầm có tứ tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là ý căn của cõi dục và tĩnh lự thứ nhất.

Thế nào là không tầm chỉ có tứ? Nghĩa là tác ý không tầm chỉ có tứ tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là ý căn của tĩnh lự trung gian.

Thế nào là không tầm không tứ? Nghĩa là tác ý không tầm không tứ tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là ý căn của tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Như ý căn, thì xả căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu cũng như vậy.

Lạc căn hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm không tứ.

Thế nào là có tầm có tứ? Nghĩa là tác ý có tầm có tứ tương ưng với lạc căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là lạc căn của cõi dục và tĩnh lự thứ nhất.

Thế nào là không tầm không tứ? Nghĩa là tác ý không tầm không tứ tương ưng với lạc căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là lạc căn của tĩnh lự thứ ba.

Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy. Nhưng có sai khác là hỷ căn của tĩnh lự thứ hai gọi là không tầm không tứ.

Đã phân biệt về các căn có tầm có tứ v.v…, nay sẽ nói về các nghĩa của chúng.

Hỏi: Thế nào gọi là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, không tầm không tứ?

Đáp: Nếu pháp cùng với tầm tứ kết hợp, cùng tương ưng với tầm tứ, cùng với tầm tứ đẳng khởi, cùng với tầm tứ cùng chuyển, gọi là có tầm có tứ.

Nếu pháp không cùng với tầm kết hợp chỉ cùng với tứ kết hợp, không tương ưng với tầm chỉ tương ưng với tứ, không phải cùng với tầm đẳng khởi chỉ cùng với tứ đẳng khởi, tầm đã dứt mất chỉ có tứ cùng chuyển, gọi là không có tầm chỉ có tứ.

Nếu pháp không cùng với tầm tứ kết hợp, không tương ưng với tầm tứ, không cùng với tầm tứ đẳng khởi, tầm tứ đã dứt hết, gọi là không tầm không tứ.

Có thuyết nói: Nếu pháp có tìm cầu, có suy xét, gọi là có tầm có tứ. Nếu pháp không tìm cầu chỉ có suy xét, gọi là không có tầm chỉ có tứ. Nếu pháp không tìm cầu, không suy xét, gọi là không tầm không tứ.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận tông chỉ của người khác hiển bày nghĩa lý của mình. Như phái Thí Dụ nói: Tâm và tâm sở theo thứ lớp sinh. Vị Đại đức ấy nói: Tâm và tâm sở pháp chỉ riêng từng thứ khởi lên. Như khi đi qua một con đường hẹp, hai người không thể cùng đi huống nữa là nhiều người.

Hoặc lại có thuyết nói: Nếu pháp do sức kia khởi lên tức nói cùng với pháp kia tương ưng không phải là pháp khác. Nghĩa là tâm có thể sinh ra tâm và tâm sở, nên tâm và tâm sở cùng tương ưng với tâm. Tâm sở chỉ có thể sinh ra tâm sở nên các tâm sở cũng cùng tương ưng với nhau. Tâm sở không thể sinh ra tâm, nên không nói tâm cùng tâm sở tương ưng.

Hoặc có thuyết nêu: Các pháp chỉ cùng với tự thể tương ưng. Họ nói: Nghĩa hòa hợp khắp là nghĩa của tương ưng. Lại không có thứ hòa hợp khắp nào khác như tự thể đối với tự thể, nên nói tự thể tương ưng với nhau không phải thứ khác.

Có thuyết cho: Tự thể của các pháp đối với tự thể không phải tương ưng cũng không phải không tương ưng. Không phải tương ưng: Nghĩa là không tự quán. Không phải không tương ưng: Nghĩa là hòa hợp khắp.

Vì nhằm ngăn chận tất cả các thứ dị thuyết như thế cùng nêu bày rõ tâm và tâm sở đồng thời cùng sinh và lần lượt tương ưng, nhưng không tương ưng với tự thể, chỉ trông cậy vào thứ khác, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn, khổ căn, hỷ căn, xả căn, ưu căn?

Đáp: Lạc căn, hỷ căn, xả căn có phần ít của chín căn tương ưng. Còn khổ căn, ưu căn có phần ít của sáu căn tương ưng.

Phần ít của chín căn tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn: Tức là ý căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Hỏi: Thế nào là phần ít của chín căn tương ưng với ba căn lạc, hỷ, xả?

Đáp: Ý căn, năm căn như tín v.v… cùng tương ưng chung với năm thọ, nhưng ở đây chỉ lấy tương ưng với ba thọ, nên nói là phần ít. Còn ba căn vô lậu, vì lấy nhiều pháp làm tánh, nay trừ thể của thọ cùng tương ưng với các thứ khác, nên nói là phần ít.

Phần ít của sáu căn tương ưng với khổ căn, ưu căn: Tức là ý căn và năm căn như tín v.v…

Hỏi: Thế nào là phần ít của sáu căn tương ưng với khổ căn, ưu căn?

Đáp: Sáu căn này tương ưng với năm thọ, nhưng ở đây chỉ lấy khổ và ưu tương ưng, nên nói là phần ít.

Hỏi: Vì sao chỉ hỏi phần tương ưng với thọ không hỏi các tâm tâm sở khác?

Đáp: Đây là ý muốn của người tạo luận như thế, tùy theo ý muốn ấy để luận, chỉ cần không trái với pháp tướng, tức không nên nêu vấn nạn.

Có thuyết nói: Vì tất cả pháp đều quy hướng về thọ, cho nên phải hỏi thọ.

Có thuyết nêu: Vì một thọ có nhiều tướng của căn. Nghĩa là nơi một thọ phân làm năm căn. Các pháp khác thì không như thế, nên chỉ hỏi về thọ.

Có thuyết cho: Các thọ khi thành tựu thì không trái nhau, chỉ có hiện hành là trái nhau, thế nên hỏi riêng về thọ.

Thành tựu không trái nhau: Nghĩa là một hữu tình thành tựu cả năm thọ.

Hiện hành trái nhau: Nghĩa là một hữu tình trong một sát-na không thể khởi lên hai thọ, huống là nhiều thọ cùng khởi.

Có thuyết biện: Vì thọ là duyên để khởi động chuyển biến, nên hỏi riêng về thọ.

Có thuyết nói: Nếu trừ thọ ra thì hỏi về những gì? Nếu hỏi về năm căn như tín v.v… hay ba căn vô lậu thì chúng chỉ là thiện, không cùng với tất cả có nghĩa tương ưng. Nếu hỏi về tám căn như mạng v.v… thì chúng chỉ là vô ký, lại không tương ưng.

Hỏi: Nếu vậy vì sao không hỏi về ý căn?

Đáp: Vì gốc do ý căn nên lập ra pháp tương ưng, tức không thể trở lại hỏi cùng với ý tương ưng. Thế nên ở đây chỉ hỏi về nghĩa cùng tương ưng với thọ. Vì tự tánh của năm thọ không tự tương ưng, lại chỉ tương ưng với các pháp khác, nên hỏi về thọ.

Đã phân biệt về các căn tương ưng với thọ, nay sẽ nói về các nghĩa ấy.

Hỏi: Thế nào gọi là tương ưng? Tương ưng nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa như nhau là nghĩa của tương ưng.

Hỏi: Trong các phẩm tâm tâm sở pháp có nhiều, có ít, vì sao gọi là như nhau? Nghĩa là như ở cõi dục nhiều ở cõi sắc ít. Ở cõi sắc nhiều ở cõi vô sắc ít. Thiện nhiều bất thiện ít, bất thiện nhiều vô ký ít, hữu phú vô ký nhiều vô phú vô ký ít. Vì sao nói nghĩa như nhau lại là nghĩa của tương ưng?

Đáp: Do sự việc như nhau nên gọi là như nhau. Nghĩa là trong một phẩm tâm, nếu có hai thọ, một tưởng tức có thể nói là không như nhau. Nhưng trong một phẩm tâm như thọ có một thì tưởng cũng như thế, nên gọi là như nhau.

Có thuyết nói: Năm thứ có nghĩa như nhau là nghĩa của tương ưng. Tức chỗ nương dựa như nhau, đối tượng duyên như nhau, hành tướng như nhau, thời gian như nhau, sự việc như nhau.

Phần còn lại đã nói rộng nơi phẩm đầu trong chương Kiết Uẩn.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu căn thuộc cõi dục? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận tông chỉ của người khác cùng hiển bày nghĩa lý của mình. Nghĩa là hoặc có thuyết chấp: Ở cõi sắc có nam căn và nữ căn. Họ nói như vầy: Xứ nào có sắc thân, đều có hai căn nam và nữ có thể đạt được. Nay vì muốn ngăn chận ý tưởng ấy và nêu rõ: Nam căn và nữ căn chỉ có ở cõi dục, nên tạo ra phần Luận này.

Lại có thuyết nêu: Lạc căn, khổ căn cả năm địa đều có thể đạt được. Nghĩa là cõi dục và bốn tĩnh lự. Họ nói như vầy: Hễ có thân tức đều có khổ lạc. Nay ngăn chận lối chấp ấy nói rõ khổ căn chỉ có ở cõi dục, còn lạc căn chỉ có ở ba địa, nên tạo ra phần Luận này.

Lại có thuyết biện: Hỷ căn và ưu căn cả chín địa đều có thể đạt được. Nghĩa là từ cõi dục cho đến cõi trời Hữu đảnh. Họ nói: Hễ có tâm tức đều có ưu, hỷ, cả chín địa ở ba cõi đều có tâm. Lại, ở cõi dục thân bất tịnh đáng chán, vậy mà khi hợp hãy còn sinh hỷ, khi lìa thì sinh ưu, huống là ở các cõi trên thân rất tịnh diệu cũng như đèn sáng, còn tâm thì không loạn đục, như nước ao trong mát mà khi hợp lìa lại không ưu, hỷ sao?

Vì để ngăn chận lối chấp này và nêu rõ ưu căn chỉ có ở cõi dục, hỷ căn lên đến tĩnh lự thứ hai, còn các địa trên đều không có, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ thuộc cõi dục, thuộc cõi sắc, thuộc cõi vô sắc và không thuộc cõi nào?

Đáp: Có bốn căn thuộc cõi dục, ba căn không thuộc cõi nào, mười lăm căn cần phân biệt.

Bốn căn thuộc cõi dục: Tức nam căn, nữ căn, khổ căn và ưu căn.

Ba căn không thuộc cõi nào: Tức là ba căn vô lậu.

Mười lăm căn cần phân biệt: Tức năm sắc căn, mạng căn, ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…

Nhãn căn hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc.

Thế nào là thuộc cõi dục? Tức là nhãn căn do đại chủng tạo thuộc cõi dục.

Thế nào là thuộc cõi sắc? Tức là nhãn căn do đại chủng tạo thuộc cõi sắc.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như thế.

Mạng căn hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, hoặc thuộc cõi vô sắc.

Thế nào là thuộc cõi dục? Tức là thọ mạng thuộc cõi dục.

Thế nào là thuộc cõi sắc? Tức là thọ mạng thuộc cõi sắc.

Thế nào là thuộc cõi vô sắc? Tức là thọ mạng thuộc cõi vô sắc.

Ý căn hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không thuộc cõi nào.

Thế nào là thuộc cõi dục? Tức là ý căn tác ý tương ưng thuộc cõi dục.

Thế nào là thuộc cõi sắc? Tức là ý căn tác ý tương ưng thuộc cõi sắc.

Thế nào là thuộc cõi vô sắc? Tức là ý căn tác ý tương ưng cõi vô sắc.

Thế nào là không thuộc cõi nào? Tức là ý căn tác ý tương ưng với vô lậu.

Như ý căn, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng thế.

Lạc căn hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, hoặc không thuộc cõi nào.

Thế nào là thuộc cõi dục? Tức là lạc căn tác ý tương ưng thuộc cõi dục.

Thế nào là thuộc cõi sắc? Tức là lạc căn tác ý tương ưng thuộc cõi sắc.

Thế nào là không thuộc cõi nào? Tức là lạc căn tác ý tương ưng với vô lậu.

Như lạc căn, hỷ căn cũng vậy.

Hỏi: Vì sao ở cõi sắc không có nam căn và nữ căn?

Đáp: Vì ở cõi ấy không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Vì muốn trừ bỏ các căn nam nữ nên tu các thứ tĩnh lự để được sinh về cõi sắc. Nếu nơi cõi đó cũng có nam căn, nữ căn, tức nên không có việc cầu sinh về cõi ấy. Nếu pháp ở địa dưới hiện có, địa trên cũng có, tức nên không thiết lập có pháp diệt dần. Nếu không có pháp diệt dần thì cũng nên không có pháp diệt trừ rốt ráo, do pháp diệt dần dẫn đến pháp diệt trừ rốt ráo. Nếu không có pháp diệt trừ rốt ráo tức cũng nên không có giải thoát. Nếu không có giải thoát tức nên không có xuất ly. Chớ có phạm vào các lỗi lầm như thế. Nên ở cõi sắc không có nam căn, nữ căn.

Có thuyết nêu: Hai căn nam, nữ là do đoạn thực dẫn đến. Như Khế kinh nói: Người vào lúc kiếp sơ không có các căn nam, nữ, hình tướng đều không khác. Sau ăn vị đất thì các căn nam, nữ sinh, do đó nên có hình tướng nam, nữ khác nhau. Ở cõi sắc đã lìa đoạn thực, nên không có hai căn ấy.

Có thuyết cho: Hai căn nam nữ ở cõi dục có tác dụng, không phải ở cõi sắc, nên nơi cõi ấy không có.

Hỏi: Hai căn tỷ, thiệt (mũi, lưỡi) ở cõi ấy không có tác dụng vì sao cũng có?

Đáp: Hai căn tỷ, thiệt ở cõi ấy có tác dụng, vì khiến cho thân tướng đoan nghiêm, không phải như hai căn nam nữ không có nghĩa đoan nghiêm, chỉ có thể khiến thô bỉ xấu hổ.

Hỏi: Các chúng trời ở cõi sắc là nam hay là nữ? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Nếu là nữ thì nên có nữ căn. Nếu là năm thì nên có nam căn. Nếu không phải là hai thì trái với Khế kinh. Như nói: Thân nữ không được làm Phạm vương v.v… việc này không ngăn cản thân nam.

Đáp: Nên nói các chúng trời kia đều là nam.

Hỏi: Nếu thế thì các chúng trời ấy há chẳng thành tựu nam căn?

Đáp: Tuy không có nam căn nhưng có các tướng trượng phu khác. Lại, có thể lìa nhiễm gọi là nam. Như trong Khế kinh nói: Những người được quả hướng đều gọi là trượng phu, không phải không có người nữ hành hướng trụ quả. Nên biết cũng do có thể lìa nhiễm nên gọi là trượng phu. Trong Tỳ-nại-da cũng nói: Đức Phật dùng hai tay nâng hài cốt của Đại Sinh Chủ (Ma Ha Ba Xà Ba Đề), nói với các Bí-sô: Các vị nên lắng nghe, tánh của tất cả người nữ thường nhẹ dạ hay thay đổi, có nhiều ganh ghét, dua nịnh, keo kiệt, tham lam v.v… chỉ có bà Đại Sinh Chủ đây tuy là người nữ, nhưng đã lìa bỏ tất cả lỗi lầm của người nữ, làm việc làm của kẻ trượng phu, nên có được những thứ của bậc trượng phu đạt được. Thế nên Ta nói hạng này gọi là bậc trượng phu. Các chúng trời ở cõi sắc về lý cũng nên như thế, do có thể lìa nhiễm nên gọi là trượng phu. Nên nêu ra bốn trường hợp để phân biệt:

1. Có trường hợp là người nam nhưng không thành tựu nam căn. Tức là các cõi trời ở cõi sắc và cõi vô sắc, hay Đại Sinh Chủ v.v…

2. Có trường hợp thành tựu nam căn nhưng không phải là người nam. Tức là hạng người hai hình.

3. Có trường hợp là người nam cũng thành tựu nam căn. Tức là tất cả các trượng phu thành tựu nam căn.

4. Có trường hợp không phải là người nam cũng không thành tựu nam căn. Tức là trừ các tướng nêu trước.

Các người là người nữ tất thành tựu nữ căn. Có trường hợp thành tựu nữ căn nhưng không phải là người nữ. Đó là hạng người hai hình. Nếu căn cứ vào nghĩa đã dẫn của Tỳ-nại-da, về người nữ cũng nên nêu ra bốn trường hợp để suy xét, nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở các cõi trên không có ưu và khổ căn?

Đáp: Vì ở cõi ấy không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Vì muốn trừ bỏ các căn khổ, ưu, nên tu các tĩnh lự để sinh lên cõi sắc. Nay, nếu cõi ấy cũng có khổ căn, ưu căn, tức nên không có việc cầu sinh nơi cõi ấy. Nếu hiện có ở địa dưới, địa trên cũng có, tức nên không thiết lập có pháp diệt dần dần. Nói rộng như trước. Chớ có phạm các lỗi ấy, nên ở cõi trên không có ưu căn, khổ căn.

Có thuyết nêu: Vì sao nơi cõi sắc không có ưu căn, khổ căn? Là do cõi ấy không có chung các lỗi lầm của cõi dục. Vì trong các cõi, địa đều có công đức và lỗi lầm không chung. Lỗi lầm của cõi dục là khổ căn v.v… Công đức là có thể nhân nơi kiến đạo v.v… Còn công đức và lỗi lầm của cõi trên tùy theo địa nên nói rộng.

Có thuyết cho: Cõi dục là cõi lỗi lầm. Do là cõi lỗi lầm nên tuy có thân thù thắng cũng còn có khổ. Như Đức Phật, Độc giác, Thanh văn, Chuyển luân vương v.v… Cõi trên là cõi công đức. Do là cõi công đức nên tuy có thân thấp kém cũng không có các khổ. Như gặp năm mất mùa, tuy có gieo trồng đầy đủ nhưng không thể tránh khỏi tai họa. Nếu gặp năm thời tiết thuận lợi, thì tuy là cỏ dại cũng được tươi tốt. Cõi dục và cõi trên nên biết cũng như vậy.

Sở dĩ cõi trên cũng không có ưu căn, là do các ưu căn khi lìa dục đã bỏ hết. Lại, ưu căn là quả đẳng lưu của hai lớp vô tri. Khi sinh ở cõi trên là đã lìa hai lớp vô tri, nên ưu căn ở nơi cõi ấy không có.

Đã phân biệt về các căn thuộc cõi dục v.v…, nay sẽ nói về các nghĩa ấy.

Hỏi: Thế nào gọi là thuộc cõi dục, thuộc cõi sắc, thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Nếu pháp bị trói buộc nơi cõi dục gọi là thuộc cõi dục, bị trói buộc nơi cõi sắc gọi là thuộc cõi sắc, bị trói buộc nơi cõi vô sắc gọi là thuộc cõi vô sắc. Như con bò bị buộc chặt vào cây cột gọi là thuộc cây cột v.v…

Hoặc có thuyết biện: Nếu pháp hệ thuộc vào chân của cõi dục gọi là thuộc cõi dục, hệ thuộc vào chân của cõi sắc và cõi vô sắc gọi là thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Chân gọi là phiền não. Như nói: Nẻo hành hóa của Đức Phật là vô biên nhưng không có phiền não. Những ai sắp đi, như người có chân tức có thể đi đến bốn phương. Nếu không có chân tức không thể đi đến. Như vậy, nếu có chân phiền não thì có thể đi đến các cõi, các nẻo, các loài sinh tử lưu chuyển. Nếu không có chân phiền não thì không thể đi đến.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu pháp bị trói buộc theo sinh tử ở cõi dục gọi là thuộc cõi dục, bị trói buộc theo sinh tử ở cõi sắc và cõi vô sắc gọi là thuộc cõi sắc, cõi vô sắc.

Hoặc có thuyết cho: Nếu pháp nào bị A-lại-da của cõi dục cất chứa, bị Ma-ma-dị-đa nắm giữ, gọi là thuộc cõi dục. Nếu pháp nào bị A-lại-da của cõi sắc và cõi vô sắc cất giấu, bị Ma-ma-dị-đa nắm giữ, gọi là thuộc cõi sắc và cõi vô sắc. A-lại-da nghĩa là ái. Ma-ma-dị-đa nghĩa là kiến.

Hoặc có thuyết chủ trương: Nếu pháp bị ái nơi cõi dục làm thấm nhuần, bị kiến chấp làm ngã, ngã sở, gọi là thuộc cõi dục. Nếu pháp bị ái nơi cõi sắc và cõi vô sắc làm thấm nhuần, bị kiến chấp làm ngã, ngã sở, gọi là thuộc cõi sắc và cõi vô sắc.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu pháp do lạc dục ở cõi dục hợp thành, gọi là thuộc cõi dục. Nếu pháp do lạc dục ở cõi sắc và cõi vô sắc hợp thành, gọi là thuộc cõi sắc và cõi vô sắc. Lạc gọi là ái. Dục gọi là kiến.

Hoặc có thuyết cho: Nếu pháp bị các thứ cấu nhiễm, độc hại uế trược ở cõi dục làm cấu nhiễm, uế trược, gọi là thuộc cõi dục. Nếu pháp bị các thứ cấu nhiễm, độc hại, uế trược ở cõi sắc và cõi vô sắc làm cấu nhiễm, uế trược, gọi là thuộc cõi sắc và cõi vô sắc. Trong đây, tất cả phiền não gọi là uế trược, không phải chỉ nói có sân giận.

HẾT – QUYỂN 145