LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 134

Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN, phần 4

Đã nói về sự thành lập phong luân, thủy luân, kim luân, các biển, núi, châu, các trụ xứ nơi đất liền. Tiếp theo là biện biệt về sự thành lập các trụ xứ trên không thuộc chư thiên, như trụ xứ của Đại Phạm thiên v.v…

Về cung điện của các trời như Đại Phạm Thiên, có thuyết nói: Dựa vào hư không. Có thuyết nêu: Trong không trung có lớp mây dày giăng kín khắp như đất, là chỗ dựa của các cung điện thuộc những trời kia, ở bên ngoài khí thế gian, cho đến trời Sắc Cứu Cánh. Trên đấy là cõi vô sắc nên không thể nêu bày.

Hỏi: Từ trời Dạ Mạ đến trời Sắc Cứu Cánh thì chỗ dựa là lớp đất mây, về lượng như thế nào?

Đáp: Có thuyết cho: Từ trời Dạ Mạ đến trời Tha Hóa Tự Tại, lượng đất mây đều ngang bằng đỉnh Diệu Cao. Đất mây của cõi sắc, dưới thấp thì hẹp, trên cao thì rộng. Nghĩa là cảnh giới của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, như thứ lớp ngang bằng với bốn châu kia nơi số lượng các thế giới trong tiểu thiên, trung thiên, đại thiên.

Có Sư khác biện: Lớp đất mây của thiên cung Dạ Ma gấp đôi so với đỉnh núi Diệu Cao. Cho đến lớp đất mây của thiên cung Tha Hóa Tự Tại, so với trước, lần lượt cùng tăng bội. Nơi các định một, hai, ba, như thứ lớp ngang với dung lượng của tiểu thiên, trung thiên, đại thiên thế giới. Dung lượng của tĩnh lự thứ tư là vô biên. Do đấy, nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để dấy khởi hữu thân kiến thì hết sức khó đoạn trừ, do chấp cảnh giới vô biên làm ngã.

Hỏi: Cảnh giới của tĩnh lự thứ tư nếu là vô biên thì các tai họa không thể đạt tới. Vì sao nó không phải là thường trụ?

Đáp: Vì sát-na vô thường, nên không có lỗi ấy.

Có thuyết nói: Trong cảnh giới của tĩnh lự thứ tư, chỗ dựa của cung điện đều là định vô thường. Nghĩa là cung điện, ao hồ v.v… tùy theo lúc sinh lúc mất của chư thiên kia mà cùng khởi lên hay mất đi.

Thuyết này phi lý. Vì sao? Vì thế là không có nghiệp của hữu tình cùng với khí thế gian. Do vậy, theo như thuyết trước là đúng.

Các cõi của khí thế gian đã được thành lập rồi, đầu tiên có một xứ là trời Cực quang tịnh, do phước nghiệp của thọ mạng nơi một vị đã hết, nên từ xứ ấy mạng chung, sinh nơi xứ Đại Phạm. Về sau, các hữu tình cũng từ cõi đó mạng chung, có kẻ sinh nơi xứ Phạm Phụ, có kẻ sinh nơi xứ Phạm chúng, có kẻ sinh nơi Tha Hóa Tự Tại. Dần dần hạ sinh cho đến nẻo người, khởi đầu là châu Bắc, tiếp đến là châu Cù Đà Ni, tiếp theo là Tỳ Đề Ha, sau sinh nơi châu Thiệm Bộ, tiếp đấy là sinh nơi các nẻo quỷ giới, bàng sinh, địa ngục, là do lực dụng của pháp như thế. Nếu ở nơi sau không thì các hữu tình kia tất trụ trước. Nếu ở nơi trước không thì các hữu tình kia tất trụ sau. Như nơi đại địa ngục, một hữu tình sinh, bấy giờ đã trải qua hai mươi kiếp thành, hai mươi kiếp trụ, đây là đầu tiên.

Hỏi: Bao nhiêu kiếp để khí thế gian thành tựu? Bao nhiêu kiếp để hữu tình dần trụ?

Đáp: Có thuyết nói: Mười kiếp để khí thế gian thành lập. Một kiếp để hữu tình dần trụ.

Có thuyết nêu: Năm kiếp để khí thế gian thành. Mười lăm kiếp để hữu tình dần trụ.

Hỏi: Bằng bao nhiêu số thế giới cùng hoại cùng thành?

Đáp: Có thuyết cho: Bằng trăm câu chi bốn cảnh giới đại châu.

Có thuyết nêu: Vô số thế giới cùng hủy hoại, cùng hình thành. Làm sao nhận biết? Là do căn cứ nơi kinh. Như Khế kinh nói: Phật bảo các Bí-sô: Mắt của Ta thanh tịnh hơn hẳn mắt người, thấy vô số thế giới nơi phương Đông, hoặc có thế giới đang hoại, hoặc có thế giới hoại rồi không, hoặc có thế giới đang hình thành, hoặc có thế giới thành rồi trụ. Như trời tuôn mưa lớn, hạt mưa như trục bánh xe, không gián đoạn, không thiếu sót. Ở đây cũng như thế.

Hỏi: Vì sao tất cả thế giới không cùng hoại, cùng thành?

Đáp: Do nghiệp của các hữu tình không như nhau. Nghĩa là có loài hữu tình nơi xứ sở này là cộng nghiệp tăng trưởng, nên thế giới liền thành. Cộng nghiệp nếu hết thì thế giới liền hoại.

Lại có loài hữu tình nơi xứ sở kia, tịnh nghiệp nếu tăng thì thế giới ấy liền hoại. Tịnh nghiệp nếu giảm thì cõi ấy liền thành.

Hỏi: Nếu các hữu tình, ở nơi kiếp sắp hoại hãy còn nửa kiếp, tạo nên việc phá hòa hợp Tăng, bị đọa địa ngục Vô gián. Vậy kẻ đó có chết yểu giữa chừng chăng? Nếu có chết yểu giữa chừng thì nghiệp kia vì sao chiêu cảm một kiếp thọ mạng? Nếu không chết yểu giữa chừng thì kẻ kia đối với kiếp hoại sao không giữ chậm lại? Như nơi Khế kinh nói: Nếu ở chốn nào cho dù chỉ còn sót lại một trứng kiến thì ở đó tai họa vẫn không mất, huống là kẻ kia đang ở đó.

Đáp: Có thuyết nêu: Kẻ kia không chết giữa chừng.

Nếu thế thì kẻ ấy, đối với kiếp hoại sao không được giữ chậm lại? Khi kiếp sắp hoại, do sức tăng thượng của nghiệp đã đưa kẻ ấy tới cảnh giới khác là trong đại địa ngục. Ví như kinh đô của vua có sự việc vui mừng thì trước đó phải dời các tội phạm cực nặng sang nhà ngục bên, sau đấy vương đô mới ban hành lệnh ân xá.

Có Sư khác nói: Khi kiếp sắp hoại, thì theo như pháp, tâm của các hữu tình hướng theo thiện, nên đối với các trọng tội khác hãy còn không gây tạo, huống hồ là tạo việc phá hòa hợp Tăng.

Lại có thuyết nói: Lúc kiếp sắp hoại, nếu kẻ tạo nghiệp vô gián là phá hoại Tăng, thì mạng chung liền bị đọa nơi cảnh giới khác là địa ngục. Pháp là như thế, nên không sinh vào nơi chốn sắp hoại. Như nói: Khi kiếp hỏa hủy hoại thế gian, thì hữu tình sinh lên cõi trên. Vào lúc tai họa dấy khởi, thì kiếp nước, kiếp gió, nói rộng cũng như vậy. Song, tai họa của nước, gió, hình tướng hủy hoại có khác. Nghĩa là nước có thể ngâm thấm, làm cho rữa nát. Gió có thể thổi giạt, xô đánh. Về sức mạnh của chỗ hủy hoại, xa gần không đồng. Lại như kiếp lửa, khi thế gian thành thì thời gian trước, sau phân rõ. Gió, nước cũng như thế.

Như nơi đại kiếp kia có ba tai họa lớn: Cũng vậy, nơi trung kiếp có ba tai họa nhỏ hiện bày: Một là đao binh. Hai là bệnh tật. Ba là đói khát.

Đầu tiên là đao binh. Lúc kiếp sắp dấy khởi, người của châu Thiệm Bộ thọ mạng tối đa là mười tuổi, vì tạo các thứ phi pháp như tham lam, nhiễm ô nối tiếp không dứt, yêu thương không bình đẳng che lấp tâm ý, pháp tà vây buộc giận độc tăng mạnh, gặp nhau liền khởi tâm hãm hại dữ dội. Như hiện tại kẻ săn bắn trông thấy chim, thú rừng, theo chỗ tay cầm nắm đều thành đao gậy, đều mặc sức hung bạo, tàn hại lẫn nhau. Trong bảy ngày bảy đêm số tử vong gần hết, nơi châu Thiệm Bộ, số còn sống sót hơn vạn người đều khởi tâm từ, dần dần tuổi thọ tăng lên. Bấy giờ, gọi là đã qua khỏi kiếp đao binh.

Tiếp đến là bệnh tật. Khi kiếp sắp sửa phát khởi, người châu Thiệm Bộ tuổi thọ cao nhất là mười tuổi. Do tạo đủ các thứ tội lỗi như trước nên hàng phi nhân tung ra các độc gây bệnh tật cùng khắp, ai gặp phải liền mạng chung, khó có thể cứu chữa, không hề nghe có tên các thứ thuốc men. Lúc này, trải qua bảy tháng, bảy ngày bảy đêm, bệnh tật hoành hành khắp chốn khiến người chết gần hết. Nơi châu Thiệm Bộ, số còn sống sót chừng hơn vạn người, đều khởi tâm từ, tuổi thọ tăng dần. Bấy giờ, gọi là đã qua khỏi kiếp bệnh tật.

Sau cùng là đói khát. Thời gian kiếp sắp sửa dấy khởi, người nơi châu Thiệm Bộ thọ mạng tối đa là mười tuổi. Cũng tạo đủ các thứ tội lỗi như trước, nên trời, rồng giận trách, gây mưa gió không đúng thời, do vậy thế gian gặp phải cảnh đói khát kéo dài. Vì đói khát nên liền có ba thứ ngôn từ khác nhau: Tụ tập, xương trắng và toan tính.

Do hai nhân nên gọi là có tụ tập: Một là người tụ tập. Nghĩa là người thời bấy giờ, do quá đói kém nên tụ tập mà chết. Hai là hạt giống tụ tập. Nghĩa là người thời ấy, vì muốn tạo ích cho người sau, nên giữ lại chỗ ăn uống của mình bỏ vào rương, tráp nhỏ, xem như là hạt giống, do vậy thời gian đói khát có lời nói “gọi là tụ tập”.

Có xương trắng cũng do hai nhân: Một là người thời đó thân hình khô héo, mạng chung chưa lâu, xương trắng liền hiện. Hai là người thời bấy giờ bị đói khát bức bách, nên thu nhặt, tụ tập xương trắng để chưng, sắc lấy nước uống.

Có lời nói gọi là toan tính cũng do hai nhân: Một là do lương thực ít ỏi, phải bảo nhau trù tính để ăn uống. Tức như trong một nhà, từ lớn đến nhỏ, theo chỗ trù tính, đến ngày mới được phần ăn ít, dở. Hai là do trù liệu nên phần gạo thóc góp nhặt được ít, phải dùng nhiều nước để nấu, chia ra cùng uống để cứu giúp những kẻ còn sống.

Thời kỳ đói khát như vậy trải qua bảy năm, bảy tháng bảy ngày bảy đêm, đói khát bức ngặt khiến người chết gần hết, số người sống sót nơi châu Thiệm Bộ chỉ hơn vạn người, đều khởi tâm từ, tuổi thọ dần tăng. Lúc ấy, gọi là vượt qua kiếp đói khát.

Ba tai họa này hoành hành tuy rất khó diệt trừ, nhưng có bậc Thánh giảng nói về cách đối trị. Nghĩa là nếu có người, trong một ngày đêm có thể thọ giữ giới không sát sinh, thì nơi đời vị lai quyết định không gặp phải tai họa đao binh dấy khởi. Hoặc có thể dùng một loại thuốc Ha lê đát kê khởi lên hoàn toàn thanh tịnh, phụng thí Tăng chúng, thì ở đời vị lai nhất định không gặp phải tai ương bệnh tật. Nếu có người có thể dùng một nắm thức ăn, khởi tâm hoàn toàn thanh tịnh dâng cúng cho chúng Tăng, thì nơi đời vị lai nhất định không gặp phải tai ương đói khát dấy phát.

Hỏi: Ba thứ tai họa như thế, các châu khác có chăng?

Đáp: Không có tai họa căn bản, nhưng có sự tương tợ. Nghĩa là nếu sân giận tăng mạnh thì thân lực suy yếu, luôn thêm đói khát. Đây là nói về hai châu, còn châu Bắc Câu Lô cũng không có sự tương tợ, do không tạo nghiệp tội lỗi, nên được sinh vào cõi ấy. Lại nữa, cõi ấy không có sân hận tăng mạnh.

***

Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ NHẬN THỨC ĐẦY ĐỦ, phần 1

* Đã nhận thức đầy đủ về đế, đệ tử của Đức Thế Tôn, nơi chỗ thành tựu chưa lìa nhiễm dục, nghiệp nơi thân, ngữ thuộc cõi sắc, sắc ấy được đại chủng nào tạo ra? Các chương như thế cùng việc giải thích nghĩa của chương đã được lãnh hội rồi, nên phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Nghĩa là như Khế kinh nói: “Phật nói với các Bí-sô: Nếu trong thân này lìa sinh hỷ lạc, càng được thấm nhuần khắp, thích hợp, vui vẻ hiện hữu khắp. Ở trong thân này, không có phần ít nào lìa sinh hỷ lạc mà không hiện bày đầy khắp”. Nơi Khế kinh này đã nói về địa căn bản. Chớ cho chỉ trong địa căn bản ấy mới có pháp có khả năng lìa, không phải là địa cận phần. Nhằm đoạn trừ nghi hoặc này, hiển bày trong cận phần cũng có pháp thiện tương tợ có khả năng lìa bỏ.

Có Sư khác nói: Nhằm ngăn chận người thuộc phái Luận Phân Biệt, cho các bậc Dự lưu, Nhất lai cũng đạt được tĩnh lự căn bản. Phái ấy do đâu nói như thế? Là họ đã dựa nơi Khế kinh. Như nói: “Tuệ thiếu, không có tĩnh lự. Tĩnh lự thiếu thì không có tuệ. Hai thứ ấy đầy đủ thì đi tới Niết-bàn không xa”. Bậc Dự lưu, Nhất lai không ai là không có tuệ, nên hai bậc ấy cũng có tĩnh lự căn bản. Để ngăn chận lối chấp ấy, nêu rõ hai quả đầu chưa đạt được tĩnh lự.

Hỏi: Nếu thế thì chỗ nêu dẫn Tụng của phái kia làm sao có thể thông?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Phái kia nói suy nghĩ, lựa chọn chính đáng gọi là tĩnh lự. Nếu không như thế thì ngoại đạo cũng đạt được tĩnh lự căn bản. Há lại chấp nhận ngoại đạo kia cũng có tuệ chăng?

Người của Luận Phân Biệt nói: Chấp nhận ngoại đạo kia có tuệ lại có lỗi gì? Nói như thế là không đúng. Vì sao? Vì phải gồm đủ hai thứ ấy thì đối với Niết-bàn không còn xa nữa. Không phải là các ngoại đạo đến gần với Niết-bàn, do họ không có pháp giải thoát.

Có thuyết cho: Vì nhằm ngăn chận ý tưởng của phái Thí Dụ. Phái ấy nói: Các địa cận phần chỉ có pháp thiện. Nay nêu rõ cận phần có đủ ba thứ: Thiện, nhiễm và vô ký. Nếu địa cận phần chỉ có thiện, thì đệ tử của Đức Thế Tôn chưa lìa dục tham, dựa nơi định vị chí khởi đạo thế tục. Vị ấy theo luật nghi chuyển đổi, thì đại chủng của địa nào tạo ra.

Tôn giả thuộc phái Thí Dụ nói: Là do đại chủng của tĩnh lự thứ nhất tạo ra. Há không phải các ông đã nói: Bậc Dự lưu, Nhất lai chưa đạt được tĩnh lự. Vị ấy nói như vầy: Tôi nhằm ngăn chận tĩnh lự thiện, không phải là nhiễm và vô ký. Nói như thế là không đúng lý. Chưa lìa dục tham, hãy còn không thể khởi tĩnh lự thiện thứ nhất, huống là có thể khởi tĩnh lự vô phú vô ký.

Do vậy, nhằm ngăn chận tông chỉ của kẻ khác cùng hiển bày chánh lý nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Đã nói là đã nhận thức đầy đủ về đế. Vì sao còn nói đến đệ tử của Đức Thế Tôn?

Đáp: Người nhận thức đầy đủ về đế là muốn nêu chỗ khác biệt với hàng tùy tín hành, tùy pháp hành. Còn đệ tử của Đức Thế Tôn là muốn nêu chỗ khác biệt với hàng phàm phu.

Hỏi: Đây là bậc nào?

Đáp: Đây là quả Dự lưu và Nhất lai, không phải là các quả khác, do nói chưa lìa dục nhiễm.

Hỏi: Tùy tín hành, tùy pháp hành, vì sao không gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế?

Đáp: Có thuyết nói: Đã thấy rõ về bốn đế cùng đã trừ bỏ tà kiến, gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế. Hàng tùy tín hành, tùy pháp hành, không phải là đã thấy rõ về bốn đế, nay đang thấy rõ. Không phải là đã trừ bỏ tà kiến, nay đang trừ bỏ. Do đấy nên không gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế.

Có Sư khác nêu: Nếu trong sự nối tiếp đã trừ bỏ tất cả kiến điên đảo, hành ác, phiền não của nẻo ác, mới được gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế. Hàng tùy tín hành, tùy pháp hành nay đang có thể trừ bỏ, nên không gọi là đã trừ bỏ, vì còn đang thành tựu, do đấy không gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế. Như trong ruộng tốt, không có tất cả các thứ tai vạ như mưa đá v.v…, gọi là ruộng gồm đủ yếu tố đưa đến việc gieo trồng, gặt hái lúa thóc.

Lại có thuyết cho: Nếu trong sự tương tục đã trừ bỏ bốn nghi, sinh bốn quyết định, khi ấy được gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế. Hàng tùy tín hành, tùy pháp hành hiện đang dứt trừ bốn nghi, sinh khởi bốn quyết định, nên không gọi là đã nhận thức đầy đủ.

Có thuyết nói: Nếu trong thân đã trừ bỏ bốn tăm tối, đã dấy khởi bốn sáng tỏ, đã dứt trừ bốn vô trí, đã phát khởi bốn trí, gọi là đã nhận thức đầy đủ về đế. Hàng tùy tín hành, tùy pháp hành thì không như thế, nên không gọi là đã nhận thức đầy đủ.

Có thuyết nêu rõ: Đã hàng phục các thứ khu vực của bốn đế, đã trừ bỏ các phiền não oán địch trong thân, nên gọi là đã nhận thức đầy đủ. Hàng tùy tín hành, tùy pháp hành hiện đang hàng phục, hiện đang trừ bỏ, nên không gọi là đã nhận thức đầy đủ.

Hỏi: Vì sao hàng phàm phu không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn?

Đáp: Nếu chỉ thuận theo lời Phật dạy, không thọ nhận giáo pháp khác, gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Hàng phàm phu, hoặc thuận theo lời Phật dạy, hoặc thuận theo lời của tà đạo, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Có thuyết nói: Các hữu tình lãnh hội, thuận theo chánh pháp, không phải là nghe theo tà pháp, mới gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Hàng phàm phu thì không như vậy.

Có thuyết cho: Nếu thành tựu bốn thứ chứng tịnh, gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Hàng phàm phu không có bốn thứ chứng tịnh, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Có thuyết nêu rõ: Nếu chỉ tôn xưng Phật là bậc Đại sư, gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Hàng phàm phu, hoặc tôn xưng tà ma ngoại đạo là sư, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Có thuyết cho: Nếu chỉ quy kính Tam bảo, xem đó là phước điền, gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Các hàng phàm phu, hoặc cho tà thần, các ngoại đạo v.v… là phước điền, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Có thuyết biện: Nếu tin tưởng chỉ có Phật là bậc Nhất thiết trí, chỉ có giáo pháp do Phật thuyết giảng mới có thể vượt khỏi sinh tử, chỉ có Bí-sô Tăng là hàng phạm hạnh, nên gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Các hàng phàm phu so với những điều vừa nêu đều trái, do đó không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Có thuyết cho: Đối với Thánh giáo của Phật, tâm luôn tin tưởng bền chắc, như ngọn cờ của Thiên Đế Thích, nên gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Các loài phàm phu, ở trong giáo pháp của Phật, tâm không bền chắc, giống như những sợi tơ lụa theo gió thổi lên cao xuống thấp, chuyển động không thường, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Đã nhận thức đầy đủ về đế, đệ tử của Đức Thế Tôn, nơi chỗ thành tựu của mình chưa lìa nhiễm dục, nghiệp nơi thân ngữ thuộc cõi sắc, sắc ấy được đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Thuộc cõi sắc. Đây là dựa vào tổng tướng của chủng loại để nói. Nếu nói riêng nên nói do đại chủng của địa vị chí tạo ra. Đây là nhằm ngăn chận thuyết cho bậc Dự lưu, Nhất lai cũng đạt được tĩnh lự. Ý nói: Chưa lìa nhiễm dục, nên không có việc chưa lìa nhiễm dục mà có thể đạt được tĩnh lự. Lại cũng nhằm ngăn chận ý cho: Trong địa vị chí không có vô ký. Ý nói: Do đại chủng của cõi sắc tạo, nên không có việc chưa được địa tĩnh lự mà có thể khởi đại chủng của cõi kia.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ hỏi: Nghiệp nơi thân, ngữ theo đạo thế tục không phải là vô lậu?

Đáp: Là do người tạo luận ý muốn như thế. Tùy theo ý muốn của người tạo luận tạo ra phần luận này, chỉ khiến không trái với pháp tướng, vậy không nên nêu vấn nạn về lý do.

Có thuyết nêu: Đáng lẽ hỏi đầy đủ nhưng không nêu hỏi, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Nghiệp nơi thân ngữ vô lậu quyết định không lìa theo nghiệp nơi thân ngữ của đạo thế tục. Nên nếu hỏi về thế tục, nên biết là đã hỏi về vô lậu.

Có thuyết cho: Luật nghi vô lậu dùng giới thế tục làm gia hạnh, làm cửa ngõ, làm chỗ dựa, làm nơi chốn an ổn đầy đủ. Nên nếu hỏi về gia hạnh kia tức đã hỏi về vô lậu.

Có thuyết biện: Giới vô lậu dựa nơi giới thế tục mà đạt được, nên hỏi về thế tục tức là hỏi về vô lậu.

Có thuyết nêu: Luật nghi của thân ngữ tùy theo đạo thế tục, tất cùng với chủ thể tạo ra đồng chủng loại. Nay chỉ hỏi về chỗ sai biệt theo địa đồng loại, vô lậu là dị loại, vì thế không hỏi.

Có thuyết chủ trương: Đây là tùy theo đạo thế tục, nên sắc có sự tranh luận dị biệt. Tức như có thuyết nói là do đại chủng của địa vị chí tạo ra.

Có thuyết nói: Là do đại chủng của tĩnh lự thứ nhất tạo nên, do vậy nên hỏi. Còn vô lậu nhất định là do đại chủng của cõi dục tạo ra, do đấy không hỏi.

Vì các duyên như thế, nên chỉ hỏi về nghiệp nơi thân, ngữ của thế tục, không hỏi về vô lậu.

Hỏi: Sinh nơi cõi dục, nhập bốn tĩnh lự hữu lậu, sắc của thân ngữ nghiệp do đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Thuộc cõi sắc. Đây là dựa vào tổng tướng của chủng loại để nói. Nếu nói riêng thì sắc của đạo thế tục tùy theo tĩnh lự thứ nhất, tức đại chủng thuộc tĩnh lự thứ nhất tạo ra, cho đến sắc của đạo thế tục tùy theo tĩnh lự thứ tư, tức đại chủng của tĩnh lự thứ tư tạo ra.

Hỏi: Sinh nơi cõi dục, nhập bốn tĩnh lự vô lậu, sắc của thân ngữ nghiệp do đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Thuộc cõi dục, dựa nơi thân hiện tiền của cõi dục.

Hỏi: Vì sao chỗ dựa của hữu lậu là đại chủng tất cùng với chỗ tạo ra đồng thuộc một địa. Còn chỗ dựa của vô lậu thì tùy thuận thân nào để khởi, tức thuộc nơi thân ấy chăng?

Đáp: Luật nghi hữu lậu có trói buộc, có liên hệ, nên do đại chủng của đồng địa tạo ra. Luật nghi vô lậu lìa mọi liên hệ, trói buộc, nhưng dựa nơi thân khởi, nên tùy theo địa nào hiện tiền trong thân, tức do đại chủng của địa ấy tạo ra.

Có thuyết cho: Luật nghi hữu lậu vướng vào cảnh giới, vào địa, nên do đại chủng của cảnh giới, địa mình tạo ra. Luật nghi vô lậu, tuy vướng nơi địa, không vướng nơi cảnh giới, nhưng dựa nơi thân để khởi, nên tùy theo đại chủng của chỗ dựa tạo ra.

Có thuyết nêu rõ: Luật nghi hữu lậu là do đại chủng của đồng loại tạo ra nên địa tất đồng. Luật nghi vô lậu là do đại chủng của dị loại tạo ra, nên tùy theo thân mà sai biệt, do thảy đều dựa nơi thân hiện tiền.

Hỏi: Sinh nơi cõi sắc, nhập bốn tĩnh lự hữu lậu, sắc của thân ngữ nghiệp do đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Thuộc cõi sắc. Đây là dựa vào tổng tướng của chủng loại để nói. Nếu nói riêng thì sắc của đạo thế tục tùy theo tĩnh lự thứ nhất, tức đại chủng thuộc tĩnh lự thứ nhất tạo ra, cho đến sắc của đạo thế tục tùy theo tĩnh lự thứ tư, tức đại chủng thuộc tĩnh lự tạo ra.

Hỏi: Sinh nơi cõi sắc, nhập bốn tĩnh lự vô lậu, sắc của thân ngữ nghiệp do đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Thuộc cõi sắc. Đây cũng dựa vào tổng tướng để nói. Nếu nói riêng, hoặc sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, nhập bốn tĩnh lự vô lậu, thì thân ngữ nghiệp đều do đại chủng của tĩnh lự thứ nhất tạo ra. Hoặc sinh nơi tĩnh lự thứ hai, nhập ba tĩnh lự vô lậu, thì thân ngữ nghiệp kia đều do đại chủng của tĩnh lự thứ hai tạo ra. Hoặc sinh nơi tĩnh lự thứ ba, nhập hai tĩnh lự vô lậu, thì thân ngữ nghiệp kia đều do đại chủng của tĩnh lự thứ ba tạo ra. Hoặc sinh nơi tĩnh lự thứ tư, nhập tĩnh lự thứ tư vô lậu thì thân ngữ nghiệp kia đều do đại chủng của tĩnh lự thứ tư tạo ra.

Ở đây nên biết: Sinh nơi địa dưới thì định của địa trên hiện tiền. Sinh nơi địa trên thì định của địa dưới không hiện tiền.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì định của địa dưới yếu kém, định của địa trên hơn hẳn. Ở nơi hơn hẳn sinh vui thích ưa chuộng nên dấy khởi. Ở chỗ yếu kém sinh chán bỏ nên không dấy khởi.

Có thuyết nói: Dưới hướng đến trên, trên không hướng tới dưới. Như quan chầu vua, chứ vua không chầu quan.

Có thuyết cho: Sinh nơi địa dưới, đối với pháp của địa trên lại có chỗ tạo tác, nên khởi hiện tiền. Sinh nơi địa trên, đối với pháp của địa dưới không còn chỗ tạo tác, do vậy không dấy khởi. Như bậc A-la-hán không khởi đạo đối trị để đoạn trừ ba cõi, do không còn công dụng.

Có thuyết nêu: Pháp thiện gia hạnh do công dụng nên khởi. Sinh nơi địa trên thì pháp của địa dưới là vô dụng. Tạo tác nơi pháp vô dụng lại khởi công sức khiến hiện tiền, không phải như vô ký.

Hỏi: Đại chủng tùy theo địa mà có năm loại sai biệt. Vậy có bao nhiêu vô gián diệt, có bao nhiêu vô gián hiện tiền?

Đáp: Sinh nơi cõi dục, nếu tâm của cõi dục vô gián thì tĩnh lự thứ nhất hữu lậu hiện tiền, một loại đại chủng kia diệt, tức nơi cõi dục. Hai loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục, tĩnh lự thứ nhất.

Nếu tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vô gián, thì tĩnh lự thứ nhất hữu lậu hiện tiền, hai loại đại chủng kia diệt, hai loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục và tĩnh lự thứ nhất.

Nếu tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vô gián, thì tĩnh lự thứ nhất vô lậu hiện tiền, hai loại đại chủng kia diệt, tức cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, một loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục.

Nếu tĩnh lự thứ nhất vô lậu vô gián, thì tĩnh lự thứ nhất vô lậu hiện tiền, một loại đại chủng kia diệt, một loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục.

Nếu tĩnh lự thứ nhất vô lậu vô gián, thì tĩnh lự thứ nhất hữu lậu hiện tiền, một loại đại chủng kia diệt, tức là cõi dục, hai loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục và tĩnh lự thứ nhất.

Nếu tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vô gián, tâm nơi cõi dục hiện tiền, hai loại đại chủng kia diệt, tức là cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, một loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục.

Nếu tâm thiện của cõi dục vô gián, tĩnh lự thứ nhất vô lậu hiện tiền. Nếu tĩnh lự thứ nhất vô lậu vô gián, tâm thiện của cõi dục hiện tiền, cùng một loại đại chủng diệt, một loại đại chủng vô gián hiện tiền, tức là cõi dục.

Như nhập xuất tĩnh lự thứ nhất, cho đến nhập xuất tĩnh lự thứ tư, tùy chỗ ứng hợp, đều nên nói rộng.

Như sinh nơi cõi dục, cho đến sinh nơi tĩnh lự thứ tư, theo chỗ ứng hợp, cũng nên nói rộng.

Hỏi: Nếu sinh nơi cõi dục, khi đại chủng của cõi sắc hiện tiền thì hiện tiền nơi nào?

Đáp: Có thuyết nói: Hiện tiền nơi giữa đôi lông mày.

Có thuyết cho: Nơi đầu mũi.

Có thuyết nêu: Nơi bên tim.

Có thuyết nói: Nơi bên rốn.

Có thuyết biện: Nơi ngón chân.

Các thuyết nêu: Như vậy là tùy theo gia hạnh trước tạo nơi chốn an tâm là nơi hiện tiền.

Có Sư khác nói: Đại chủng của cõi dục thì thô trọng. Đại chủng của cõi sắc thì vi tế. Vi tế nhập vào chỗ trống của thô, như dầu chảy vào cát. Nhưng khi tĩnh lự căn bản hiện tiền, đại chủng của cõi sắc có mặt khắp trong thân dấy khởi. Nếu lúc định cận phần hiện tiền, đại chủng của cõi sắc chỉ ở bên tâm khởi.

Có thuyết nêu rõ: Lúc định cận phần hiện tiền, đại chủng của cõi sắc cũng có mặt khắp thân dấy khởi, nhưng sự nuôi lớn thân không như căn bản. Như có hai người cùng đi đến ao tắm. Một người ở nơi mé ao, vốc lấy nước để tắm rửa thân. Một người vào giữa ao, ngâm mình nơi nước mà tắm rửa. Hai người dùng nước, tuy đều có khắp thân, nhưng nuôi lớn thân thì người vào nơi giữa ao hơn hẳn.

Hỏi: Trong thân của cõi dục, trước có khoảng trống, đại chủng của cõi sắc đến nhập vào trong chăng?

Đáp: Không phải vậy. Thân của cõi dục vị lai tự có hai thứ: Một là chỉ có đại chủng của cõi dục. Hai là có xen lẫn đại chủng của cõi sắc. Nếu gặp khi nhập định cõi sắc, duyên nơi thân kia, thì phần đại chủng chỉ là cõi dục liền diệt, phần có xen lẫn đại chủng của cõi sắc liền sinh, nên không thể nói trước có khoảng trống, sau đến trụ trong ấy.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn sinh nơi cõi vô sắc, chỗ thành tựu về vô lậu thì sắc của thân ngữ nghiệp do đại chủng nào tạo ra?

Đáp: Hoặc thuộc cõi dục. Hoặc thuộc cõi sắc.

Hỏi: Ở đây vì sao lại tạo ra phần luận này?

Đáp: Là nhằm khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Nghĩa là nơi cõi vô sắc không có các sắc. Hoặc có kẻ sinh nghi: Đệ tử của Đức Thế Tôn sinh nơi cõi vô sắc, chỗ thành tựu về sắc vô lậu không phải do đại chủng tạo ra. Nhằm loại trừ chỗ nghi ấy, nên nói: Hoặc thuộc đại chủng nơi cõi dục, hoặc thuộc đại chủng nơi cõi sắc tạo ra.

Hỏi: Chỗ thành tựu về sắc của nghiệp ấy định rõ là đại chủng của cõi dục, cõi sắc tạo ra. Vì sao lại nói là hoặc?

Đáp: Đáng lẽ nói là quyết định, nhưng nói là hoặc, là nhằm hiển bày về cảnh giới (cõi) không lẫn lộn. Vô lậu đối trị chỗ có lẫn lộn. Vì cảnh giới (cõi) không tạp loạn, nên đại chủng của cõi dục tạo ra khác, đại chủng của cõi sắc tạo ra khác. Không có việc đại chủng tạo ra một sắc nơi hai cõi. Do đó nói là hoặc. Đây tức là nói chung. Nhưng sắc vô lậu theo chỗ dựa nơi địa để khởi, đại chủng của chủ thể tạo ra có năm loại khác biệt: Tức là đại chủng thuộc cõi dục và bốn tĩnh lự tạo ra.

Đệ tử của Đức Thế Tôn sinh nơi cõi vô sắc, nếu là A-la-hán, chỉ thành tựu đại chủng của năm địa vị lai, sắc vô lậu được tạo ra, không phải là hiện tại không khởi, không phải là quá khứ đã buông bỏ.

Nếu là bậc Bất hoàn, cũng thành tựu đại chủng của năm địa vị lai, sắc vô lậu được tạo ra, không phải là hiện tại không khởi, vì quá khứ bất định, dựa nơi thân của năm địa để khởi có nhiều ít, hoặc hoàn toàn không có. Do đấy nên nói: Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu năm địa vị lai, dựa nơi giới, quá khứ hoàn toàn không. Nghĩa là trước dựa nơi thân của cõi dục và bốn tĩnh lự, nơi quả thứ ba và hướng thứ tư, các đạo vô lậu chưa khởi, chưa diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu về vị lai năm, quá khứ một. Nghĩa là trước tiên khi ở cõi dục và bốn tĩnh lự, theo chỗ dựa nơi một thân, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu vị lai năm, quá khứ hai. Nghĩa là trước tiên khi ở cõi dục và bốn tĩnh lự, theo chỗ dựa nơi hai thân, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu về vị lai năm, quá khứ ba. Nghĩa là trước tiên khi ở cõi dục và bốn tĩnh lự, theo chỗ dựa nơi ba thân, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu về vị lai năm, quá khứ bốn. Nghĩa là trước tiên khi ở cõi dục và bốn tĩnh lự, theo chỗ dựa nơi bốn thân, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu về vị lai năm, quá khứ năm. Nghĩa là dựa đủ nơi thân của cõi dục và bốn tĩnh lự, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Có thuyết khác nói: Không có bậc hữu học sinh nơi cõi vô sắc, không thành tựu sắc quá khứ, do vị ấy, lúc trước ở nơi cõi dục, cõi sắc, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư tất đã khởi, đã diệt, nên mới mạng chung. Do đó Bản Luận nói: Nếu các bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu sắc được tạo của quá khứ, vị lai. Nếu ở nơi ấy đạt được quả A-la-hán, thành tựu sắc được tạo của vị lai, không phải là sắc được tạo của quá khứ. Nếu cho là không phải như thế, Bản Luận nên nói: Bậc hữu học sinh nơi cõi vô sắc, có trường hợp không thành tựu sắc được tạo của quá khứ.

Tôn giả Tăng-già-phạt-tô nói: Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, đều không thành tựu sắc của nghiệp vô lậu trong thân của năm địa thuộc quá khứ vị lai. Nghĩa là trước dựa nơi thân của cõi dục và bốn tĩnh lự, đối với quả thứ ba cùng hướng thứ tư, các đạo vô lậu chưa khởi chưa diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Hoặc là bậc hữu học, sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu về quá khứ vị lai đều một. Nghĩa là trước ở cõi dục, khi bốn tĩnh lự hiện tiền, theo chỗ dựa nơi một thân, đối với quả thứ ba hoặc hướng thứ tư, các đạo vô lậu đã khởi đã diệt, từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Như vậy, thành tựu hai, ba, bốn, căn cứ theo trước để nói rộng, như lý nên suy xét.

Nếu sinh nơi cõi kia, chứng quả A-la-hán, được riêng năm địa vị lai, dựa nơi giới. Thuyết này là phi lý. Vì khi không được quả chỉ được vô vi, không phải là hữu vi. Lại, so với chỗ nêu bày của Bản Luận là trái nhau. Như nói: Bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu sắc được tạo của vị lai, không phải là đại chủng của quá khứ. Nếu như ý của thuyết kia thì Bản Luận nên nói: Bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc, không có thành tựu sắc được tạo ở vị lai. Nên chỗ nói ở trước, đối với lý là thích hợp.

* Nơi cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn, thì đại chủng nào làm nhân? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần luận này?

Đáp: Là nhằm khiến cho kẻ nghi đạt được quyết định. Nghĩa là nơi cõi vô sắc đều không có các sắc. Hoặc có kẻ sinh nghi: Nơi cõi dục, cõi sắc mất sinh nơi cõi vô sắc, sắc kia hoặc trải qua tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn kiếp đoạn trừ, từ đấy mạng chung, sinh nơi cõi dục, cõi sắc, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn, không nhân mà sinh. Nhằm loại trừ chỗ nghi hoặc ấy, hiển bày các sắc kia không phải là sinh ra từ không nhân. Vì thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nơi cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn, thì đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Thuộc cõi dục. Đây là dựa vào tổng tướng của chủng loại để nói. Nếu nói riêng, nên nói như vầy: Nơi cõi vô sắc mất, sinh lại cõi dục, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn. Nếu sinh nơi địa ngục, trở lại dùng đại chủng của địa ngục làm nhân. Cho đến nếu sinh nơi nẻo trời, trở lại dùng đại chủng của nẻo trời làm nhân. Nếu là nhãn căn cùng với đại chủng kia, trở lại dùng đại chủng là chỗ dựa của nhãn căn làm nhân. Các căn còn lại cùng với cảnh giống như ở đây, nên biết.

Trong mắt, mắt bên trái cùng với đại chủng của nó trở lại dùng đại chủng là chỗ dựa của mắt bên trái làm nhân. Trong mắt bên trái, dị thục trở lại dùng dị thục làm nhân. Nuôi lớn trở lại dùng nuôi lớn làm nhân. Như bên trái, bên phải cũng vậy. Các căn còn lại cùng với cảnh, nói rộng cũng như thế. Nhưng tâm nối tiếp sinh cùng khởi đại chủng, lần lượt làm nhân câu hữu. Đối với nhãn v.v… làm nhân như nhân sinh ra v.v… đại chủng của sinh tử từ vô thỉ lâu xa diệt, cùng với đại chủng hiện tại làm nhân đồng loại.

Hỏi: Vì sao ở đây không nêu hỏi nhãn (mắt) v.v… cùng với chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của căn làm nhân?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là lời nói tóm lược chỗ chính yếu, nên không nêu hỏi.

Có Sư khác nói: Đại chủng cùng chung với căn đại làm nhân, do vậy nên hỏi. Còn nhãn v.v… không cùng với đại chủng làm nhân, do đó không hỏi.

Có thuyết nêu: Đại chủng lâu xa diệt cùng với hiện tại đều có nghĩa nhân. Nhãn v.v… chỉ có lâu xa diệt làm nhân, vì thế không nói.

Hỏi: Nơi cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi sắc, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn. Vậy đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Thuộc cõi sắc. Đây cũng là dựa nơi chủng loại để nói chung. Nếu nêu bày riêng, nên nói như vầy: Nơi cõi vô sắc mất, sinh đến cõi sắc, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn. Nếu sinh nơi tĩnh lự thứ nhất thì trở lại dùng đại chủng của tĩnh lự thứ nhất làm nhân. Cho đến nếu sinh nơi tĩnh lự thứ tư thì trở lại dùng đại chủng của tĩnh lự thứ tư làm nhân.

Nếu nhãn căn cùng với đại chủng kia, trở lại dùng đại chủng nơi chỗ dựa của nhãn căn làm nhân. Trong nhãn, thì bên trái, bên phải, dị thục, nuôi lớn, nói rộng như trước. Các căn còn lại cùng với cảnh, nói rộng cũng vậy. Nhưng tâm nối tiếp sinh cùng khởi đại chủng lần lượt làm nhân câu hữu. Các sự việc như thế, nói rộng như trước.

Hỏi: Nơi cõi sắc mất, sinh nơi cõi dục, chỗ đạt được đầu tiên là đại chủng của các căn. Vậy đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Thuộc cõi dục. Đây cũng là nói chung. Nếu nói sai biệt như trước nên biết. Các nghĩa còn lại, cũng nói rộng như trước.

HẾT – QUYỂN 134