LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 110
Chương 3: TRÍ UẨN
Phẩm 5: BÀN VỀ BẢY THÁNH, phần 2
Hỏi: Các pháp tương ưng với tập trí thì chúng tương ưng với diệt trí chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Nếu như các pháp tương ưng với diệt trí thì chúng tương ưng với tập trí chăng?
Đáp: Không có.
Đối với đạo trí, Tam-ma-địa không, vô tướng cũng như thế. Vì sao? Vì không phải là một tâm, vì hành tướng khác nhau, hoặc đối tượng duyên khác nhau.
Hỏi: Các pháp tương ưng với tập trí thì chúng tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với tập trí không phải là Tam-ma-địa vô nguyện. Nghĩa là tập trí tương ưng với vô nguyện, tức là tập trí cùng sinh với Tam-ma-địa vô nguyện. Tam-ma-địa này cùng với tập trí tương ưng không phải là vô nguyện, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện không phải là tập trí. Nghĩa là tập trí và tập trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô nguyện. Trong đây: Tập trí: Tức là vô nguyện cùng sinh với tập trí. Trí này cùng với vô nguyện tương ưng không phải là tập trí, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và tập trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô nguyện: Tức là khổ nhẫn, khổ trí, tập nhẫn, tập trí, đạo nhẫn, đạo trí cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của vô nguyện. Pháp này cùng với vô nguyện tương ưng không phải là tập trí, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với tập trí cũng tương ưng với Tam-mađịa vô nguyện. Nghĩa là pháp tương ưng với hai thứ. Pháp này là thế nào? Đó là tập trí cùng sinh trong tụ, trừ tập trí và vô nguyện, còn lại là các tâm tâm sở pháp khác, tức là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tầm, tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với tập trí cũng không tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện. Nghĩa là tập trí không tương ưng với vô nguyện, cho đến nói rộng.
Trong đây: Tập trí không tương ưng với vô nguyện: Tức là khổ nhẫn, khổ trí, tập nhẫn, đạo nhẫn, đạo trí cùng sinh trong tụ thuộc vô nguyện. Tam-ma-địa này không tương ưng với tập trí, vì là tụ khác, cũng không tương ưng với vô nguyện, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các tâm tâm sở pháp cùng sinh trong tụ của không, vô tướng, và tất cả các tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các pháp này đều cùng không tương ưng, vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Ở đây đều cùng không tương ưng vì không có đối tượng duyên.
Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám đạo chi… như nói về pháp trí. Như pháp trí đối với ba căn vô lậu, thì ở đây tập trí đối với ba căn vô lậu nói rộng cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với diệt trí thì chúng tương ưng với đạo trí chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Nếu như các pháp tương ưng với đạo trí thì chúng tương ưng với diệt trí chăng?
Đáp: Không có.
Đối với Tam-ma-địa không và vô nguyện cũng như vậy. Vì sao? Vì không là một tâm, vì hành tướng khác nhau, hoặc đối tượng duyên khác nhau.
Hỏi: Các pháp tương ưng với diệt trí thì chúng tương ưng với Tam-ma-địa vô tướng chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với diệt trí không phải là Tam-ma-địa vô tướng. Nghĩa là diệt trí tương ưng với vô tướng, tức diệt trí cùng sinh với Tam-ma-địa vô tướng. Tam-ma-địa này cùng với diệt trí tương ưng không phải là vô tướng, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa vô tướng không phải là diệt trí. Nghĩa là diệt trí và diệt trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô tướng. Trong đây: Diệt trí: Tức là vô tướng cùng sinh với diệt trí. Trí này cùng với vô tướng tương ưng không phải là diệt trí, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và diệt trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô tướng: Tức là diệt nhẫn cùng sinh với pháp tương ưng của vô tướng. Pháp này cùng với vô tướng tương ưng không phải là với diệt trí, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với diệt trí cũng tương ưng với Tam-mađịa vô tướng. Nghĩa là pháp cùng tương ưng với hai thứ. Pháp này là gì? Đó là diệt trí cùng sinh trong tụ, trừ diệt trí và vô tướng, còn lại là các tâm tâm sở pháp, tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với diệt trí cũng không tương ưng với Tam-ma-địa vô tướng. Nghĩa là diệt trí không tương ưng với vô tướng, cho đến nói rộng.
Trong đây: Diệt trí không tương ưng với vô tướng: Tức là diệt nhẫn cùng sinh với vô tướng. Tam-ma-địa này không tương ưng với diệt trí, vì là tụ khác, cũng không phải là vô tướng, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các tâm tâm sở pháp cùng sinh trong tụ của không, vô nguyện, và tất cả tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các pháp này đều cùng không tương ưng, vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám đạo chi như nói về pháp trí. Như pháp trí đối với ba căn vô lậu v.v… thì ở đây diệt trí đối với ba căn vô lậu v.v… nói rộng cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với đạo trí thì chúng tương ưng với Tam-ma-địa không chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Nếu như các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng tương ưng với đạo trí chăng?
Đáp: Không có.
Đối với Tam-ma-địa vô tướng cũng như thế. Vì sao? Vì không phải là một tâm, vì hành tướng khác, vì đối tượng duyên khác.
Hỏi: Các pháp tương ưng với đạo trí thì chúng tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với đạo trí không phải là Tam-ma-địa vô nguyện. Nghĩa là đạo trí tương ưng với vô những tức đạo trí cùng sinh với vô nguyện. Tam-ma-địa này cùng với đạo trí tương ưng không phải là vô nguyện, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện không phải là đạo trí. Nghĩa là đạo trí và đạo trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô nguyện. Trong đây: Đạo trí: Tức là đạo trí cùng sinh với vô nguyện. Trí này cùng với vô nguyện tương ưng không phải là đạo trí, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và đạo trí không tương ưng với pháp tương ưng của vô nguyện. Tức là khổ nhẫn khổ trí, tập nhẫn tập trí, đạo nhẫn… cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của vô nguyện. Pháp này cùng với vô nguyện tương ưng không phải là đạo trí, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với đạo trí cũng tương ưng với Tam-mađịa vô nguyện. Nghĩa là pháp tương ưng với hai thứ. Pháp này là gì? Nghĩa là đạo trí cùng sinh trong tụ, trừ đạo trí và vô nguyện, còn lại là các tâm tâm sở pháp khác, tức tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với đạo trí cùng không tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện. Nghĩa là đạo trí không tương ưng với vô nguyện, cho đến nói rộng.
Trong đây: Đạo trí không tương ưng với vô nguyện: Tức là khổ nhẫn khổ trí, tập nhẫn tập trí, đạo nhẫn… cùng sinh trong tụ thuộc vô nguyện. Tam-ma-địa này không tương ưng với đạo trí vì là tụ khác, cũng không tương ưng với vô nguyện, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các tâm tâm sở pháp khác cùng sinh trong tụ của không, vô tướng, và tất cả tâm tâm sở pháp hữu lậu, những pháp này cùng đều không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng vì không có đối tượng duyên.
Đối với ba căn vô lậu, bảy giác chi, tám đạo chi… như nói về pháp trí. Như pháp trí đối với ba căn vô lậu v.v… thì ở đây đạo trí đối với ba căn vô lậu v.v… nói rộng cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì cũng tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện chăng?
Đáp: Không có.
Hỏi: Nếu như các pháp tương ưng với Tam-ma-địa vô nguyện thì chúng tương ưng với Tam-ma-địa không chăng?
Đáp: Không có. Đối với vô tướng cũng như thế. Vì sao? Vì không phải là một tâm, vì hành tướng khác, hoặc đối tượng duyên khác.
Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng tương ưng với vị tri đương tri căn chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không không phải là vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu các pháp tương ưng với không. Pháp này là thế nào? Nghĩa là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh với pháp tương ưng của không. Pháp này cùng với không tương ưng không phải là vị tri đương tri căn, vì là tụ khác
2. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn không phải là Tam-ma-địa không. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu không và không không gồm thâu, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri đương tri căn. Trong đây: Vị tri đương tri căn gồm thâu không: Tức là vị tri đương tri căn cùng sinh trong tụ của không. Tam-ma-địa này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không phải là không, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và không không gồm thâu, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri đương tri căn: Tức là vô nguyện, vô tướng cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của vị tri đương tri căn. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không phải là không vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không cũng tương ưng với vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu các pháp tương ưng với không. Pháp này là thế nào? Tức là tám căn trong tụ này và các tâm tâm sở pháp không phải là căn tương ưng với chúng.
4. Có pháp không tương ưng với Tam-ma-địa không cũng không tương ưng với vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu không, cho đến nói rộng.
Trong đây: Vị tri đương tri căn không gồm thâu không: Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ thuộc không. Tam-mađịa này không tương ưng với không, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng, cũng không tương ưng với vị tri đương tri căn, vì là tụ khác.
Và không, vị tri đương tri căn không gồm thâu, không tương ưng, các tâm tâm sở pháp khác: Tức là dĩ tri căn và cụ tri căn gồm thâu các tâm tâm sở pháp cùng sinh trong tụ của vô nguyện, vô tướng và tất cả các tâm tâm sở pháp hữu lậu. Ở đây đều cùng không tương ưng, vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, những pháp này đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Đối với dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như thế. Như Tam-ma-địa không đối với vị tri đương tri căn có bốn trường hợp, ở đây đối với dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng tương ưng với niệm giác chi chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không không phải là niệm giác chi. Nghĩa là không tương ưng với niệm giác chi, tức là Tam-ma-địa không cùng sinh với niệm giác chi. Pháp này cùng với không tương ưng không phải là niệm giác chi, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với niệm giác chi không phải là Tamma-địa không. Nghĩa là không và không không tương ưng với pháp tương ưng của niệm giác chi.
Trong đây: Không: Tức là Tam-ma-địa không cùng sinh với niệm giác chi. Tam-ma-địa này cùng với niệm giác chi tương ưng không phải là không, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và không không tương ưng với pháp tương ưng của niệm giác chi: Tức là vô nguyện, vô tướng cùng sinh với pháp tương ưng của niệm giác chi. Pháp này cùng với niệm giác chi tương ưng không phải là không, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không cũng tương ưng với niệm giác chi. Nghĩa là pháp tương ưng với cả hai thứ. Tức là không cùng sinh trong tụ, trừ không và niệm giác chi còn lại là các tâm tâm sở pháp khác. Pháp này là thế nào? Nghĩa là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với Tam-ma-địa không cũng không tương ưng với niệm giác chi. Nghĩa là không không tương ưng với niệm giác chi, cho đến nói rộng.
Trong đây: Không không tương ưng với niệm giác chi: Tức là vô nguyện, vô tướng cùng sinh với niệm giác chi. Pháp này không tương ưng với không, vì là tụ khác, cũng không tương ưng với niệm giác chi, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là tất cả tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các pháp này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Đối với các giác chi trạch pháp, tinh tấn, khinh an, xả… và chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm… cũng như thế. Như Tamma-địa không đối với niệm giác chi có bốn trường hợp, ở đây đối với trạch pháp v.v… cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng tương ưng với hỷ giác chi chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không không phải là hỷ giác chi. Nghĩa là không tương ưng với hỷ giác chi và hỷ giác chi không tương ưng với pháp tương ưng của không. Trong đây: Không tương ưng với hỷ giác chi: Tức là không cùng sinh trong tụ thuộc hỷ giác chi. Pháp này cùng với không tương ưng không phải là hỷ giác chi, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và hỷ giác chi không tương ưng với pháp tương ưng của không: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước là pháp tương ưng của Tam-ma-địa không. Pháp này cùng với không tương ưng, không phải là hỷ giác chi vì ở địa khác.
2. Có pháp tương ưng với hỷ giác chi không phải là Tam-mađịa không. Nghĩa là hỷ giác chi tương ưng với không và không không tương ưng với pháp tương ưng của hỷ giác chi. Trong đây: Hỷ giác chi tương ưng với không: Tức là hỷ giác chi cùng sinh trong tụ thuộc Tam-ma-địa không. Tam-ma-địa này cùng với hỷ giác chi tương ưng không phải là không, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và không không tương ưng với pháp tương ưng của hỷ giác chi. Tức là vô nguyện, vô tướng cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của hỷ giác chi. Pháp này cùng với hỷ giác chi tương ưng không phải là không, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với Tam-ma-địa không cũng tương ưng với hỷ giác chi. Nghĩa là pháp tương ưng với hai thứ, tức là hai tĩnh lự đầu ở trong tụ cùng sinh của không, trừ không và hỷ giác chi, còn lại là các tâm tâm sở pháp khác. Pháp này là gì? Đó là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với Tam-ma-địa không cũng không tương ưng với hỷ giác chi. Nghĩa là không không tương ưng với hỷ giác chi, cho đến nói rộng.
Trong đây: Không không tương ưng với hỷ giác chi: Tức là vô nguyện, vô tướng cùng sinh trong tụ thuộc hỷ giác chi. Pháp này không tương ưng với không vì là tụ khác, cũng không tương ưng với hỷ giác chi vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Hỷ giác chi không tương ưng với không: Tức là các thứ định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, và Tam-ma-địa không trong ba địa vô sắc trước. Tam-ma-địa này không tương ưng với không, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng, cũng không tương ưng với hỷ giác chi vì là địa khác.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba địa vô sắc trước, các tâm tâm sở pháp khác cùng sinh trong tụ của vô nguyện, vô tướng và tất cả tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các thứ này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, những thứ này đều cùng không tương ưng vì không có đối tượng duyên.
Đối với chánh tư duy cũng như thế. Như Tam-ma-địa không đối với hỷ giác chi nêu ra bốn trường hợp, thì ở đây đối với chánh tư duy cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng tương ưng với định giác chi chăng?
Đáp: Các pháp tương ưng với Tam-ma-địa không thì chúng cũng tương ưng với định giác chi. Vì tất cả Tam-ma-địa không đều thuộc về định giác chi.
Có các pháp tương ưng với định giác chi không phải là không. Nghĩa là không không gồm thâu các pháp tương ưng với định giác chi. Pháp này là gì? Đó là vô nguyện, vô tướng cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của định giác chi. Pháp này cùng với định giác chi tương ưng không phải là không vì là tụ khác.
Đối với chánh định cũng như thế. Tức như Tam-ma-địa không đối với định giác chi tạo thuận trường hợp đầu, thì ở đây đối với chánh định cũng như thế. Như không đối với phần sau thì vô nguyện, vô tướng đối với phần sau cũng như thế. Như Tam-ma-địa không đối với phần sau, thì Tam-ma-địa vô nguyện, vô tướng đối với phần sau nói rộng cũng như thế. Có sai khác: Như không đối với hỷ giác chi, chánh tư duy, thì vô nguyện, vô tướng đối với hỷ giác chi, chánh kiến, chánh tư duy cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri đương tri căn thì chúng tương ưng với dĩ tri căn chăng?
Đáp: Không có
Hỏi: Nếu như các pháp tương ưng với dĩ tri căn thì chúng tương ưng với vị tri đương tri căn chăng?
Đáp: Không có.
Đối với cụ tri căn cũng như thế. Vì sao? Vì không phải là một tâm nên phần vị đều khác.
Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri đương tri căn thì chúng tương ưng với niệm giác chi chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn không phải là niệm giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu niệm giác chi. Tức vị tri đương tri căn cùng sinh trong tụ thuộc niệm giác chi. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không phải là niệm giác chi, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với niệm giác chi không phải là vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu pháp tương ưng với niệm giác chi. Pháp này là thế nào? Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của các pháp tương ưng với niệm giác chi. Pháp này cùng với niệm giác chi tương ưng không phải là vị tri đương tri căn vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn cũng tương ưng với niệm giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu các pháp tương ưng với niệm giác chi. Pháp này là gì? Đó là tám căn còn lại và các tâm tâm sở pháp không phải là căn tương ưng với chúng.
4. Có pháp không tương ưng với vị tri đương tri căn cũng không tương ưng với niệm giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu niệm giác chi, cho đến nói rộng.
Trong đây: Vị tri đương tri căn không gồm thâu niệm giác chi: Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của niệm giác chi. Pháp này không tương ưng với vị tri đương tri căn vì là tụ khác, cũng không tương ưng với niệm giác chi vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là tất cả các tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các pháp này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng vì không có đối tượng duyên.
Đối với các giác chi trạch pháp, tinh tấn, định và chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định cũng như thế. Nghĩa là như vị tri đương tri căn đối với niệm giác chi có bốn trường hợp, thì ở đây đối với giác chi trạch pháp v.v… cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri đương tri căn thì chúng tương ưng với hỷ giác chi chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn không phải là hỷ giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu hỷ giác chi và hỷ giác chi không gồm thâu, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri đương tri căn. Trong đây: Vị tri đương tri căn gồm thâu hỷ giác chi: Tức là vị tri đương tri căn cùng sinh trong tụ của hỷ giác chi. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không phải là hỷ giác chi, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và hỷ giác chi không gồm thâu, không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri đương tri căn. Tức là các thứ định vị chí, tĩnh lự trung gian, các địa của tĩnh lự thứ ba, thứ tư là pháp tương ưng với vị tri đương tri căn. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không tương ưng với hỷ giác chi, vì là địa khác.
2. Có pháp tương ưng với hỷ giác chi không phải là vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu các pháp tương ưng với hỷ giác chi. Pháp này là gì? Đó là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của pháp tương ưng với hỷ giác chi. Pháp này cùng với hỷ giác chi tương ưng, không tương ưng với vị tri đương tri căn, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn cũng tương ưng với hỷ giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn gồm thâu các pháp tương ưng với hỷ giác chi. Pháp này là gì? Đó là tám căn còn lại và các tâm sở pháp không phải là căn tương ưng với chúng.
4. Có pháp không tương ưng với vị tri đương tri căn cũng không tương ưng với hỷ giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn không gồm thâu hỷ giác chi, cho đến nói rộng.
Trong đây: Vị tri đương tri căn không gồm thâu hỷ giác chi: Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của hỷ giác chi. Pháp này không tương ưng với vị tri đương tri căn vì là tụ khác, cũng không tương ưng với hỷ giác chi vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và hỷ giác chi, vị tri đương tri căn không gồm thâu, không tương ưng, các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các thứ định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba địa vô sắc trước, các tâm tâm sở pháp cùng sinh trong tụ của dĩ tri căn, cụ tri căn và tất cả các tâm tâm sở pháp hữu lậu. Những pháp này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Hỏi: Các pháp tương ưng với vị tri đương tri căn thì chúng tương ưng với khinh an giác chi chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn không phải là khinh an giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn tương ưng với khinh an. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không tương ưng với khinh an, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
2. Có pháp tương ưng với khinh an giác chi không phải là vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không tương ưng với các pháp tương ưng của khinh an. Pháp này là gì? Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của các pháp tương ưng với khinh an. Pháp này cùng với khinh an tương ưng không tương ưng với vị tri đương tri căn, vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn cũng tương ưng với khinh an giác chi: Nghĩa là vị tri đương tri căn tương ưng với pháp tương ưng của khinh an. Pháp này là gì? Đó là mười pháp đại địa, chín pháp đại thiện địa, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với vị tri đương tri căn cũng không tương ưng với khinh an giác chi. Nghĩa là vị tri đương tri căn không tương ưng với khinh an. Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ thuộc khinh an. Pháp này không tương ưng với vị tri đương tri căn, vì là tụ khác, cũng không tương ưng với khinh an, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng. Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là tất cả tâm tâm sở pháp hữu lậu. Các pháp này đều cùng không tương ưng, vì là tụ khác. Sắc vô vi tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành, ở đây đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Đối với xả giác chi cũng như thế. Nghĩa là như vị tri đương tri căn đối với khinh an giác chi có bốn trường hợp, thì ở đây đối với xả giác chi cũng như thế.
Hỏi: Các pháp tương ứng với vị tri đương tri căn thì chúng tương ưng với chánh tư duy chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định.
1. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn không phải là chánh tư duy: Nghĩa là vị tri đương tri căn tương ưng với chánh tư duy và chánh tư duy không tương ưng với các pháp tương ưng của vị tri đương tri căn.
Trong đây: Vị tri đương tri căn tương ưng với chánh tư duy: Tức là vị tri đương tri căn cùng sinh trong tụ thuộc chánh tư duy. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không tương ưng với chánh tư duy, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và chánh tư duy không tương ưng với pháp tương ưng của vị tri đương tri căn: Tức là các thứ tĩnh lự trung gian, địa của ba tĩnh lự sau… là các pháp tương ưng với vị tri đương tri căn. Pháp này cùng với vị tri đương tri căn tương ưng không tương ưng với chánh tư duy vì là tụ khác.
2. Có pháp tương ưng với chánh tư duy không phải là vị tri đương tri căn. Nghĩa là vị tri đương tri căn không tương ưng với các pháp tương ưng của chánh tư duy tương ưng. Pháp này là thế nào? Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ thuộc các pháp tương ưng với chánh tư duy. Pháp này cùng với chánh tư duy tương ưng không tương ưng với vị tri đương tri căn vì là tụ khác.
3. Có pháp tương ưng với vị tri đương tri căn cũng tương ưng với chánh tư duy. Nghĩa vị tri đương tri căn tương ưng với các pháp tương ưng của chánh tư duy tương ưng. Pháp này là gì? Đó là mười pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tầm tứ và tâm.
4. Có pháp không tương ưng với vị tri đương tri căn cũng không tương ưng với chánh tư duy. Nghĩa là vị tri đương tri căn không tương ưng với chánh tư duy, cho đến nói rộng.
Trong đây: Vị tri đương tri căn không tương ưng với chánh tư duy: Tức là dĩ tri căn, cụ tri căn cùng sinh trong tụ của chánh tư duy. Pháp này không tương ưng với vị tri đương tri căn vì là tụ khác, cũng không tương ưng với chánh tư duy vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Tức là các thứ tĩnh lự trung gian, ba tĩnh lự sau, ba địa vô sắc trước, và các tâm tâm sở pháp cùng sinh trong tụ của dĩ tri căn, cụ tri căn, cùng tất cả tâm tâm sở hữu lậu pháp. Các thứ này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành: Tức là tất cả sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Những pháp này đều cùng không tương ưng vì không có đối tượng duyên.
Như vị tri đương tri căn đối với phần sau thì dĩ tri căn, cụ tri căn đối với phần sau cũng như thế. Có chỗ khác nhau: Là cụ tri căn đối với chánh kiến nên nêu ra bốn trường hợp, so với trước có khác.
Có pháp tương ưng với cụ tri căn không tương ưng với chánh kiến. Nghĩa là cụ tri căn gồm thâu chánh kiến, và chánh kiến không gồm thâu, không tương ưng với các pháp tương ưng của cụ tri căn.
Trong đây: Cụ tri căn gồm thâu chánh kiến: Nghĩa là cụ tri căn cùng sinh với chánh kiến. Pháp này cùng với cụ tri căn tương ưng không tương ưng với chánh kiến, vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và chánh kiến không gồm thâu, không tương ưng với các pháp tương ưng của cụ tri căn: Nghĩa là tận trí, vô sinh trí cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng với cụ tri căn. Pháp này cùng với cụ tri căn tương ưng không tương ưng với chánh kiến, vì là tụ khác.
Có pháp tương ưng với chánh kiến không tương ưng với cụ tri căn. Nghĩa là cụ tri căn không gồm thâu các pháp tương ưng của chánh kiến. Pháp này là gì? Nghĩa là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn cùng sinh trong tụ thuộc pháp tương ưng của chánh kiến. Pháp này cùng với chánh kiến tương ưng không tương ưng với cụ tri căn vì là tụ khác.
Có pháp tương ưng với cụ tri căn cũng tương ưng với chánh kiến. Nghĩa là cụ tri căn gồm thâu các pháp tương ưng với chánh kiến. Pháp này là gì? Nghĩa là tám căn còn lại và các tâm sở pháp không phải là căn tương ưng với chúng.
Có pháp không tương ưng với cụ tri căn cũng không tương ưng với chánh kiến. Nghĩa là cụ tri căn không gồm thâu chánh kiến, cho đến nói rộng.
Trong đây: Cụ tri căn không gồm thâu chánh kiến: Nghĩa là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn cùng sinh trong tụ của chánh kiến. Pháp này không tương ưng với cụ tri căn vì là tụ khác, cũng không tương ưng với cụ tri căn vì tự tánh cùng với tự tánh là không tương ưng.
Và các tâm tâm sở pháp khác: Nghĩa là tất cả các tâm tâm sở pháp hữu lậu. Những pháp này đều cùng không tương ưng vì là tụ khác.
Sắc vô vi tâm bất tương ưng hành: Nghĩa là tất cả sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Ở đây đều cùng không tương ưng, vì không có đối tượng duyên.
Niệm giác chi cho đến chánh niệm đối với phần sau nói rộng như nơi phẩm nói về giác chi. Như nơi phẩm đầu của Chương Uẩn này đã nói rộng.
***
* Như nói: Bí-sô! Ta sẽ vì các ông giảng nói về bốn mươi bốn trí sự. Các ông nên lắng nghe, hết sức khéo tác ý, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì muốn phân biệt rộng về nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Đức Phật nói với các Bí-sô: Ta sẽ vì các ông giảng nói về bốn mươi bốn trí sự. Các ông nên lắng nghe, cho đến nói rộng. Khế kinh tuy nói như thế nhưng không phân biệt về nghĩa. Kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì Kinh kia chưa nói thì nay nên nêu bày. Thế nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Đức Thế Tôn vì sao thuyết giảng Khế kinh này?
Đáp: Đức Thế Tôn từ xưa, do gia hạnh này làm môn, làm đường đi, nên chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Bồ đề vô thượng. Nay lại thuyết giảng điều ấy để chỉ rõ các đệ tử: Các ông nếu có thể không xả bỏ môn, đường đi, gia hạnh như thế thì không lâu sẽ đạt được các lậu vĩnh viễn dứt hết. Ví như có vị trưởng giả do phương tiện ấy tích tập được của cải châu báu, thọ nhận giàu vui, lại cũng đem phương tiện ấy để chỉ dạy cho các con cháu, nói: Các con các cháu nếu có thể không xả bỏ phương tiện như thế, tất đạt được của cải châu báu, cũng thọ nhận giàu vui. Đức Thế Tôn cũng như vậy.
Những gì là bốn mươi bốn trí sự? Nghĩa là trí nhận biết về lão tử (già chết). Trí nhận biết về lão tử tập. Trí nhận biết về lão tử diệt. Trí nhận biết về hành hướng đến lão tử diệt. Như thế, trí nhận biết về sinh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục xứ, danh sắc, thức, hành. Trí nhận biết về hành tập. Trí nhận biết về hành diệt. Trí nhận biết về hành hướng đến hành diệt. Đó gọi là bốn mươi bốn trí sự.
Hỏi: Trong đây vì sao không nói đến trí nhận biết về vô minh?
Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, nếu pháp thuộc về chi hữu, do chi hữu làm nhân, là quả của chi hữu, thì ở đây nói đến. Vô minh tuy cũng thuộc về chi hữu, nhưng không do chi hữu làm nhân, cũng không phải là quả của chi hữu, nên ở đây không nói.
Lại nữa, nếu dựa vào pháp này khởi đủ bốn trí thì ở đây nói đến. Dựa vào vô minh chỉ khởi ba trí, không khởi trí duyên nơi tập của chi hữu, nên ở đây không nói.
Hỏi: Trong đây bốn mươi bốn trí sự như trí nhận biết về lão tử v.v… nên nói là pháp trí cho đến đạo trí chăng?
Đáp: Nên nói trí nhận biết về lão tử là bốn trí. Nghĩa là pháp, loại, thế tục, khổ trí, cho đến nói rộng. Trong đây: Trí nhận biết về lão tử là bốn trí, nghĩa là pháp trí: Tức nhận biết về lão tử của cõi dục. Loại trí: Là nhận biết về lão tử của cõi sắc, vô sắc. Thế tục trí, khổ trí: Là cũng nhận biết về lão tử của ba cõi. Như nhận biết về khổ có bốn trí, thì nhận biết về tập, diệt, đạo, nên biết cũng như thế. Như dựa nơi lão tử khởi mười sáu trí sự, cho đến dựa nơi hành nên biết cũng như thế. Như vậy là hợp có một trăm bảy mươi sáu trí sự (16 x 11). Nếu lấy sát-na cùng nối tiếp để phân biệt thì có vô lượng vô biên trí sự. Ở đây, Đức Thế Tôn dựa vào mười một chi nơi bốn đế có sai biệt, đều khởi bốn trí nên chỉ nói có bốn mươi bốn trí sự.
Bốn mươi bốn trí sự này:
Hỏi: Có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
Đáp: Tất cả đều chung cho hữu lậu và vô lậu.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ duyên với hữu lậu, bao nhiêu thứ duyên với vô lậu?
Đáp: Có hai mươi hai thứ duyên với hữu lậu, hai mươi hai thứ duyên với vô lậu.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ là hữu vi, bao nhiêu thứ là vô vi?
Đáp: Tất cả đều là hữu vi.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ duyên với hữu vi, bao nhiêu thứ duyên với vô vi?
Đáp: Có ba mươi ba thứ duyên với hữu vi, mười một thứ duyên với vô vi.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ ở quá khứ, bao nhiêu thứ ở vị lai, bao nhiêu thứ ở hiện tại?
Đáp: Tất cả đều chung nơi ba đời.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ duyên với quá khứ, bao nhiêu thứ duyên với vị lai, bao nhiêu thứ duyên với hiện tại?
Đáp: Có ba mươi ba thứ duyên với ba đời, mười một thứ duyên với không phải đời.
Nếu như nơi phần Tập uẩn có phần vị ở ba đời, nên nói có ba trí sự duyên với quá khứ, nghĩa là trí nhận biết về hành, trí nhận biết về hành tập, trí nhận biết về thức tập. Có ba trí sự duyên với vị lai, nghĩa là trí nhận biết về lão tử, trí nhận biết về lão tử tập, trí nhận biết về sinh. Có mười sáu trí sự duyên với hiện tại, nghĩa là trí nhận biết về sinh tập, trí nhận biết về hữu, trí nhận biết về hữu tập, trí nhận biết về thủ, trí nhận biết về thủ tập, trí nhận biết về ái, trí nhận biết về ái tập, trí nhận biết về thọ, trí biết về thọ tập, trí nhận biết về xúc, trí biết về xúc tập, trí nhận biết về lục xứ, trí nhận biết về lục xứ tập, trí nhận biết về danh sắc, trí nhận biết về danh sắc tập, trí nhận biết về thức. Hai mươi hai trí sự còn lại, mười một trí sự duyên với ba đời và mười một trí sự duyên với không phải đời.
Hỏi: Các trí sự như thế đã không thể nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả, lìa nhiễm, cùng dứt hết các lậu, do đâu các Thánh giả tu tập khiến chúng hiện tiền?
Đáp: Do bốn duyên sau đây:
- Là trụ nơi hiện pháp lạc.
- Là do công đức diệu dụng.
- Là quán các việc làm từ gốc.
- Là thọ nhận Thánh tài.
***
* Như nói: Này các Bí-sô! Ta sẽ vì các ông giảng nói về bảy mươi bảy trí sự. Các ông nên lắng nghe, hết sức khéo tác ý, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì muốn phân biệt rộng nghĩa của Khế kinh. Nói rộng như trước.
Hỏi: Đức Thế Tôn vì sao giảng nói kinh ấy?
Đáp: Vì Đức Thế Tôn từ xưa do gia hạnh này làm môn, làm đường đi, nói rộng như trước.
Những gì là bảy mươi bảy trí sự? Nghĩa là trí nhận biết về sinh duyên với lão tử. Trí nhận biết về sinh kia không phải là không duyên với lão tử. Trí nhận biết về sinh quá khứ duyên với lão tử. Trí nhận biết về sinh quá khứ kia không phải là không duyên với lão tử. Trí nhận biết về sinh vị lai duyên với lão tử. Trí nhận biết về sinh vị lai kia không phải là không duyên với lão tử. Và trí pháp trụ nhận biết khắp đây là vô thường, hữu vi, do tư đã tạo, từ duyên sinh, các thứ pháp tận, pháp giảm, pháp lìa, pháp diệt… Như dựa vào sinh duyên với lão tử khởi lên bảy trí, cho đến dựa vào vô minh duyên với hành cũng như thế, nên có bảy mươi bảy trí sự.
Hỏi: Trong đây vì sao không nói trí nhận biết về vô minh theo đối tượng duyên?
Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, nếu pháp thuộc về chi hữu, do chi hữu làm nhân, là quả của chi hữu thì trong đây nói đến. Vô minh tuy cũng thuộc về chi hữu nhưng không do chi hữu làm nhân, cũng không phải là quả của chi hữu, nên ở đây không nói.
Lại nữa, nếu dựa vào pháp này khởi bảy trí duyên với chi hữu thì trong đây nói đến. Còn dựa vào vô minh theo đối tượng duyên thì không khởi bảy trí duyên với chi hữu nên ở đây không nói.
Hỏi: Trong đây, trí nhận biết về sinh duyên với lão tử nơi bảy mươi bảy trí sự, nên nói là pháp trí cho đến đạo trí chăng?
Đáp: Nên nói trí nhận biết về sinh duyên với lão tử v.v…, thì nơi sáu trí sự trước đều là bốn trí, đó là pháp trí, loại trí, thế tục trí và tập trí. Còn trí pháp trụ thứ bảy là một thế tục trí.
Như bảy trí nhận biết về sinh duyên với lão tử, cho đến bảy trí nhận biết về vô minh duyên với hành cũng như thế.
Ở đây, pháp trí là nhận biết về sinh duyên với lão tử ở cõi dục. Loại trí là nhận biết về sinh duyên với lão tử ở cõi sắc và cõi vô sắc. Thế tục trí và tập trí là cùng nhận biết về sinh duyên với lão tử ở ba cõi.
Hỏi: Đã nói về sinh duyên với lão tử v.v…, vì sao còn nói sinh kia không phải là không duyên với lão tử?
Đáp: Luận có hai thứ:
- Là lập ra Tông chỉ của mình.
- Là ngăn chận các Tông chỉ khác.
Lập ra Tông chỉ của mình: Tức là như người nói pháp thiện thì lập ra Tông chỉ nói pháp thiện. Kẻ nói pháp ác thì lập ra Tông chỉ nói pháp ác. Luận giả ứng lý thì lập ra Tông chỉ của luận ứng lý. Luận giả phân biệt thì lập ra Tông chỉ của luận phân biệt.
Ngăn chận các Tông chỉ khác: Như người nói pháp thiện thì ngăn chận Tông chỉ nói pháp ác. Kẻ nói pháp ác thì ngăn chận Tông chỉ nói pháp thiện. Luận giả ứng lý thì ngăn chặn Tông chỉ của luận phân biệt. Luận giả phân biệt thì ngăn chận Tông chỉ của luận ứng lý.
Nếu chỉ nói sinh duyên với lão tử v.v… thì hoặc có kẻ sinh nghi khởi ngôn thuyết cho: “Lý chưa hẳn như thế”. Để phá bỏ nghi kia, làm sáng tỏ lý ấy là quyết định, thế nên lại nói sinh kia không phải là không duyên với lão tử.
Trong đây, trí nhận biết về sinh duyên với lão tử là bốn trí: Pháp trí, loại trí, thế tục trí, tập trí. Nhận biết sinh kia không phải là không duyên với lão tử cũng là bốn trí, hợp thành tám trí. Nhận biết sinh quá khứ, vị lai duyên với lão tử cũng có tám trí, hợp thành hai mươi bốn trí. Còn trí pháp trụ thứ bảy chỉ là một thế tục trí, cộng với trước là hai mươi lăm trí.
Như nhận biết về sinh duyên với lão tử, cho đến nhận biết về vô minh duyên với hành cũng như thế. Như vậy hợp thành hai trăm bảy mươi lăm trí (25 x 11). Nếu lấy các sát-na cùng nối tiếp để phân biệt tức có vô lượng vô biên trí sự. Ở đây, Đức Thế Tôn dựa vào mười một chi, nơi ba đời có sai biệt đều khởi bảy trí, nên chỉ nói có bảy mươi bảy trí sự.
Hỏi: Vì sao không nói nhận biết về hiện tại?
Đáp: Có thuyết cho: Hai thứ trước trong bảy trí sự là nhận biết về hiện tại.
Lại có thuyết nói: Hai thứ trước trong bảy trí sự là nói về cả ba đời. Vì quá khứ và vị lai thì khó nhận biết rõ, nên phải nói riêng là nhận biết, còn hiện tại thì không như thế, nên không nói riêng.
Bảy mươi bảy trí sự này:
Có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
Đáp: Mười một trí pháp trụ chỉ là hữu lậu, chỉ là thuộc về tánh của thế tục trí. Sáu mươi sáu trí còn lại thì chung cho cả hữu lậu và vô lậu, do bốn trí gồm thâu.
Lại có thuyết cho: Tất cả đều chung nơi hữu lậu và vô lậu.
Có bao nhiêu thứ duyên với hữu lậu, bao nhiêu thứ duyên với vô lậu?
Đáp: Tất cả đều duyên với hữu lậu.
Có bao nhiêu thứ là hữu vi, bao nhiêu thứ là vô vi?
Đáp: Tất cả đều là hữu vi. Tất thể của không trí là vô vi.
Có bao nhiêu thứ duyên với hữu vi, bao nhiêu thứ duyên với vô vi?
Đáp: Tất cả đều duyên với hữu vi.
Có bao nhiêu thứ ở quá khứ, bao nhiêu thứ ở vị lai, bao nhiêu thứ ở hiện tại?
Đáp: Tất cả đều chung nơi ba đời.
Có bao nhiêu thứ duyên với quá khứ, bao nhiêu thứ duyên với vị lai, bao nhiêu thứ duyên với hiện tại?
Đáp: Có những người muốn khiến hai trí trước trong bảy trí sự chỉ duyên với hiện tại, họ nói: Hai mươi hai trí duyên với quá khứ, hai mươi hai trí duyên với vị lai, hai mươi hai trí duyên với hiện tại, mười một trí duyên cả ba đời.
Những người khác muốn khiến hai trí trước trong bảy trí sự duyên chung cả ba đời, họ nói: Hai mươi hai trí duyên với quá khứ, hai mươi hai trí duyên với vị lai, ba mươi ba trí duyên cả ba đời.
Trí này không thể nhập chánh tánh ly sinh… do bốn duyên nên tu tập khiến hiện tiền, nghĩa như trước đã nói.
Hỏi: Vì sao trí thứ bảy gọi là trí pháp trụ?
Đáp: Pháp nghĩa là quả, trụ tức là nhân. Nhận biết nhân là chỗ trụ của pháp quả nên gọi là trí pháp trụ. Nghĩa là nhận biết rõ quả thượng trung hạ ở ba cõi chỗ trụ là nhân nên gọi là trí pháp trụ. Trí này chỉ nhận biết về tướng riêng của nhân, không phải là hành tướng của bậc Thánh nên chỉ thuộc thế tục trí.
Lại có thuyết nói: Trí này chung cả bốn trí, là pháp trí, loại trí, thế tục trí và tập trí.
Hỏi: Nếu như thế thì vì sao nói là một thế tục trí?
Đáp: Thật sự thì chung cả vô lậu, nhưng trong đây lại nói là hữu lậu, vì trí này phần nhiều là nhận biết về tướng riêng của nhân.
Lại có thuyết cho: Sáu trí trước là trí nhận biết về nhân, nên gọi là pháp trụ. Duyên với pháp trụ kia để khởi trí nên gọi là trí pháp trụ. Trí này nhận biết về đạo, không phải nhận biết về tập nhân, cũng thuộc về bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và đạo trí.
Hỏi: Nếu như thế vì sao lại nói là nhận biết khắp đây là vô thường, hữu vi, do tư đã tạo, từ duyên sinh, các thứ pháp tận, pháp giảm, pháp lìa, pháp diệt. Vô lậu sao được gọi là pháp lìa?
Đáp: Ở đây chỉ nên nói như vầy: Nhận biết khắp đây là vô thường, hữu vi… cho đến pháp diệt, không nên nói là pháp lìa. Nhưng nói pháp lìa, tức muốn hiển bày là Thánh giả cũng nhàm chán vô lậu không sinh vui thích nên nói pháp lìa.
Lại có thuyết nêu: Trí nhận biết về nhân ở trước là tánh của bốn trí. Nay nhận biết trí đó gọi là trí pháp trụ, nên trí pháp trụ này nhận biết về thế tục trí kia, cũng gọi là nhận biết pháp lìa.
Lời bình: Ở đây nên biết thuyết nêu trước nhất là đúng.
Như Đức Thế Tôn nói: Tô-thi-ma nên biết! Trước có trí pháp trụ, sau có trí Niết-bàn.
Hỏi: Trong đây, thế nào là trí pháp trụ, thế nào là trí Niết-bàn?
Có thuyết nói: Trí nhận biết về tập là trí pháp trụ. Trí nhận biết về diệt là trí Niết-bàn.
Lại có thuyết cho: Trí nhận biết về khổ, tập là trí pháp trụ. Trí nhận biết về diệt đạo là trí Niết-bàn.
Hoặc có thuyết nêu: Trí nhận biết về khổ, tập, đạo là trí pháp trụ. Trí nhận biết về diệt là trí Niết-bàn.
Hỏi: Nếu như thế vì sao nói trước có trí pháp trụ sau có trí Niết-bàn?
Đáp: Tuy có trí pháp trụ ở sau trí Niết-bàn, nhưng có trí pháp trụ ở trước trí Niết-bàn, nên nói như thế.
Lại có thuyết cho: Trí nhận biết về lưu chuyển là trí pháp trụ. Trí nhận biết về hoàn diệt là trí Niết-bàn.
Lại nữa, trí nhận biết về duyên khởi là trí pháp trụ. Trí nhận biết về duyên khởi diệt là trí Niết-bàn.
Lại nữa, trí nhận biết về sinh tử là trí pháp trụ. Trí nhận biết về sinh tử diệt là trí Niết-bàn.
Có Sư khác cho: Trí của địa cận phần là trí pháp trụ. Trí của địa căn bản là trí Niết-bàn. Làm sao nhận biết như thế? Vì lấy kinh làm lượng (Thánh giáo lượng) Như Khế kinh nói: Có các ngoại đạo cùng tụ tập luận bàn: Khi Phật chưa ra đời, chúng ta có được nhiều lợi dưỡng, tiếng tăm, lời khen. Từ khi Phật ra đời thì danh lợi của chúng ta liền dứt hết. Như lúc mặt trời hiện ra thì các thứ lửa đuốc đều mờ nhạt. Nên tạo ra phương tiện gì để có được danh lợi như xưa. Tuy nhiên Sa-môn Kiều Đáp Ma có hai sự thù thắng đó là Kinh Luận thiện và hình tướng đoan nghiêm. Tuy hình tướng thì khó chuyển dời, nhưng về Kinh Luận thì dễ trộm lấy. Trong chúng của chúng ta có Tô-thi-ma là hạng niệm tuệ vững chắc, có thể làm được việc đến nghe trộm pháp của Sa-môn ấy. Nếu có được pháp kia tức lợi dưỡng của chúng ta sẽ được như cũ.
Bàn luận xong, liền nói cho Tô-thi-ma biết. Tô-thi-ma được cả nhóm chọn lựa tin dùng vì căn thiện thuần thục và yêu mến bạn thân.
Ra khỏi thành Vương-xá, thẳng đến Tinh xá Trúc lâm, Tô-thi-ma tới thưa với một vị Bí-sô là mình muốn xuất gia. Các Bí-sô liền dẫn đến gặp Phật. Đức Phật nhận biết rõ về căn tánh nên bảo các Bí-sô giúp Tô-thi-ma xuất gia và truyền cho giới cụ túc. Ít lâu sau, Tô-thi-ma đọc tụng văn của ba tạng, cũng hiểu chút ít về nghĩa lý. Khi ấy, ông ta thầm nghĩ: “Chính là đến lúc làm lợi cho bạn bè của mình”, liền ra khỏi Trúc lâm nhằm trở về thành Vương-xá. Nhưng Đức Phật có thiên nhãn hộ pháp soi chiếu khắp nơi, luôn quán xét thế gian ai là kẻ có thể trộm pháp. Bấy giờ, có năm trăm vị Bí-sô A-la-hán ở trước mặt Tô-thi-ma tự tán thán về công đức của mình: “Nẻo sinh tử của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ nhận thân sau”.
Tô-thi-ma hỏi: Chẳng hay các vị chứng đạo như thế là dựa vào định gì? Là tĩnh lự thứ nhất hay cho đến Vô sở hữu xứ?
Các Bí-sô đáp: Chúng tôi chứng đắc đều không dựa vào các định ấy.
Tô-thi-ma nói: Nếu không dựa nơi các định ấy thì do đâu mà chứng đắc?
Các Bí-sô đáp: Chúng tôi đều là hạng tuệ giải thoát.
Tô-thi-ma nghe xong thì hoang mang, không nhận biết điều vừa nghe nói là gì… bèn nghĩ: Nếu các đồng đạo ta hỏi về nghĩa này thì ta biết trả lời làm sao? Liền trở lại đi đến chỗ Phật thưa hỏi về nghĩa như vậy.
Đức Thế Tôn nói: Tô-thi-ma nên biết! Trước có trí pháp trụ sau có trí Niết-bàn.
Tô-thi-ma thưa: Hiện nay con không nhận biết trí pháp trụ là gì, trí Niết-bàn là thế nào?
Đức Phật bảo: Ấy là do ông nhận biết hay không nhận biết, nhưng pháp luôn là như thế.
Bấy giờ, Tô-thi-ma không thâu lượm được kết quả theo như ý nguyện trước đây. Thật ra năm trăm Bí-sô A-la-hán kia là dựa vào định vị chí mà được dứt hết các lậu, sau đó mới có thể khởi đẳng chí căn bản. Do đấy nên biết, trí của địa cận phần là trí pháp trụ, còn trí của địa căn bản là trí Niết-bàn.
HẾT – QUYỂN 110