LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 108

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ TU TRÍ, phần 4

* Các kiết do pháp trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là pháp trí tác chứng chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm sáng tỏ chánh lý. Nghĩa là hoặc có người chấp: Đạo vô gián do đoạn trừ các kiết nên được. Đạo giải thoát do chứng biết các kiết ấy dứt hết nên được, như các Luận sư ở nước ngoài đã chủ trương. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng ấy để chỉ rõ: Đạo vô gián có khả năng đoạn trừ các kiết nên được. Cũng chứng biết các kiết ấy diệt hết nên được. Nếu đạo vô gián chỉ do đoạn trừ các kiết nên được, đạo giải thoát mới có thể chứng biết các kiết ấy diệt hết nên được, thì trái với điều ở đây nói: Các kiết do pháp trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là pháp trí tác chứng”.

Nếu do pháp trí của diệt đạo nên xa lìa rốt ráo nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì điều ấy do pháp trí làm đạo vô gián, loại trí làm đạo giải thoát vì sao có thể nói là các kiết do pháp trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là pháp trí tác chứng.

Vì thế nên biết đạo vô gián có khả năng đoạn trừ các kiết nên được cũng chứng biết các kiết ấy diệt nên được. Tức lý không thể trái.

Do các nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các kiết do pháp trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là pháp trí tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do pháp trí đoạn trừ, thì khi các kiết ấy diệt, là pháp trí tác chứng. Nghĩa là tùy theo pháp trí làm đạo vô gián đoạn trừ từng ấy kiết, thì đạo vô gián này tức có thể chứng biết từng ấy kiết kia đã diệt.

Có kiết diệt, pháp trí tác chứng, nhưng kiết ấy không phải do pháp trí đoạn trừ. Nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, nhưng các kiết ấy diệt, pháp trí tác chứng.

Như bậc Dự lưu, do đạo thế tục đoạn trừ một phẩm cho đến năm phẩm kiết ở cõi dục rồi, lại do pháp trí làm đạo vô gián đoạn trừ tiếp phẩm thứ sáu để chứng quả Nhất lai. Bấy giờ, pháp trí của đạo vô gián chứng biết các kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn trừ, và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi, cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ năm phẩm trước trong cõi dục.

Bậc Nhất lai dùng đạo thế tục đoạn trừ hai phẩm kiết thứ bảy, thứ tám ở cõi dục xong, lại dùng pháp trí làm đạo vô gián đoạn trừ phẩm thứ chín, được quả Bất hoàn. Khi đó, pháp trí đạo của vô gián chứng biết kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ tám phẩm trước trong cõi dục.

Bậc Bất hoàn dùng đạo thế tục hoặc loại trí lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, dùng loại trí đoạn trừ tám phẩm kiết nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi, lại dùng pháp trí làm đạo vô gián đoạn trừ phẩm thứ chín, đắc quả vô học (A-la-hán). Khi đó, pháp trí của đạo vô gián chứng biết các kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi, cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ ở cõi dục.

Diệt loại trí, thế tục trí đoạn trừ kiết diệt nơi bảy địa, do tu đạo đoạn. Loại trí đoạn trừ kiết diệt nơi tám phẩm trước ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ do tu đạo đoạn.

Như vậy, các kiết diệt, pháp trí tác chứng, nhưng các kiết ấy không phải do pháp trí đoạn.

Hỏi: Các kiết do loại trí đoạn trừ khi các kiết ấy diệt là loại trí tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do loại trí đoạn trừ, thì khi các kiết ấy diệt là loại trí tác chứng. Nghĩa là tùy theo loại trí làm đạo vô gián đoạn trừ từng ấy kiết thì đạo vô gián này tức có thể chứng biết từng ấy các kiết kia đã diệt.

Có kiết diệt, loại trí tác chứng, nhưng kiết ấy không phải do loại trí đoạn trừ. Nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, nhưng kiết ấy diệt, loại trí tác chứng.

Như các bậc Thánh dùng pháp trí hoặc đạo thế tục lìa nhiễm ở cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, rồi dùng pháp trí đoạn trừ tám phẩm kiết của Phi tưởng phi phi tưởng xứ xong, lại do loại trí đoạn trừ tiếp phẩm thứ chín, đắc quả vô học (A-la-hán). Bấy giờ, loại trí của đạo vô gián chứng biết các kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn và do kiến đạo đoạn trong ba cõi, cùng chứng biết kiết diệt trước đây do pháp trí, thế tục trí đoạn và do tu đạo đoạn nơi tám địa. Pháp trí cũng đoạn kiết diệt nơi tám phẩm trước của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, do tu đạo đoạn.

Như vậy, các kiết diệt, loại trí tác chứng, nhưng các kiết ấy không phải do loại trí đoạn trừ.

Hỏi: Các kiết do khổ trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là khổ trí tác chứng chăng?

Đáp: Các kiết do khổ trí đoạn trừ, khi các kiết ấy diệt là khổ trí tác chứng. Nghĩa là tùy theo khổ trí làm đạo vô gián đoạn trừ từng ấy kiết thì đạo vô gián này tức có thể chứng biết từng ấy kiết kia đã diệt.

Có kiết diệt, khổ trí tác chứng, nhưng kiết ấy không phải do khổ trí đoạn trừ. Nghĩa là hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, nhưng các kiết ấy diệt, khổ trí tác chứng.

Như bậc Dự lưu do đạo thế tục hoặc tập diệt đạo trí đoạn trừ một phẩm cho đến năm phẩm kiết ở cõi dục rồi, lại do khổ trí làm đạo vô gián đoạn trừ tiếp phẩm thứ sáu. Bấy giờ khổ trí của đạo vô gián chứng biết kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục, diệt đạo trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ năm phẩm trước trong cõi dục.

Bậc Nhất lai do đạo thế tục và tập diệt đạo trí đoạn trừ hai phẩm kiết thứ bảy, thứ tám ở cõi dục rồi, lại nhờ khổ trí làm đạo vô gián đoạn trừ tiếp phẩm thứ chín, chứng được quả Bất hoàn. Bấy giờ, khổ trí của đạo vô gián chứng biết kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn trừ và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục trí, tập diệt đạo trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ tám phẩm trước ở cõi dục.

Bậc Bất hoàn do đạo thế tục hoặc tập diệt đạo trí lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, rồi dùng tập diệt đạo trí đoạn trừ tám phẩm kiết của Phi tưởng phi phi tưởng xứ xong, lại do khổ trí làm đạo vô gián đoạn trừ tiếp phẩm thứ chín để chứng quả vô học. Bấy giờ, khổ trí của đạo vô gián chứng biết kiết diệt trước đây do nhẫn đoạn và do kiến đạo đoạn trừ trong ba cõi cùng chứng biết kiết diệt trước đây do thế tục trí, tập diệt đạo trí đoạn trừ và do tu đạo đoạn trừ nơi tám địa. Tập diệt đạo trí đã đoạn trừ kiết diệt nơi tám phẩm trước của Phi tưởng phi phi tưởng xứ do tu đạo đoạn.

Như thế các kiết diệt, khổ trí tác chứng nhưng các kiết ấy không phải do khổ trí đoạn trừ.

Như nói về khổ trí, thì nói về tập, diệt, đạo trí nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Môn trước và môn này có gì sai khác?

Đáp: Có nhiều người muốn khiến đạo vô gián đoạn trừ hết các kiết nên được, còn đạo giải thoát thì chứng biết các kiết kia diệt nên được. Họ nói môn trước là làm rõ tác dụng của đạo vô gián, còn môn này là hiển bày tác dụng của đạo giải thoát. Các người khác lại muốn khiến đạo vô gián có khả năng đoạn trừ các kiết nên được, và cũng chứng biết khi các kiết ấy diệt nên được. Họ cho môn trước là làm sáng tỏ đạo vô gián có khả năng đoạn trừ các kiết nên được và cũng chứng biết khi các kiết ấy diệt nên được, còn môn này chỉ làm rõ về đạo vô gián chứng biết các kiết ấy diệt hết nên được.

Như đoạn trừ kiết nên được, chứng biết kiết ấy diệt nên được, thì các thứ xả bỏ lỗi lầm tu tập công đức, bỏ vô nghĩa được có nghĩa, bỏ thấp kém được thắng diệu, lìa khổ của ái nhiễm chứng an vui của tịch tĩnh… nên biết cũng như thế.

Lại nữa, môn trước là hiển bày việc đoạn trừ hữu vi, còn môn này là hiển bày việc chứng đắc vô vi.

Lại nữa, môn trước là nêu bày việc đoạn trừ nhanh chóng, còn môn này là nêu bày việc đoạn trừ thường xuyên.

Lại nữa, môn trước là hiển bày lúc đoạn trừ liền chứng đắc, môn này thì làm rõ đoạn trước chứng sau.

Đó là sự khác nhau của môn trước và môn sau.

***

* Từ nhãn căn cho đến tùy miên vô minh cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, ở trong mười trí có bao nhiêu trí nhận biết? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm sáng tỏ chánh lý. Tức hoặc có người chấp: Có các tuệ giác không có cảnh của đối tượng duyên. Như nhận lấy các sự việc huyễn hóa nơi thành Càn-thát-bà, hình tượng trong gương, trăng trong nước, ánh sáng của hình bóng vòng lửa xoay vòng tròn, dương diệm (Dợn nắng khiến loài hươu tưởng là nước). Các thứ tuệ giác ấy đều không có cảnh thật. Nay nhằm ngăn chận lối chấp ấy và chỉ rõ các tuệ giác đều là cảnh có thật.

Hoặc lại có kẻ chấp: Có trí của chủ thể nhận biết, không nhận biết về đối tượng nhận biết. Có cảnh của đối tượng nhận biết, không phải là đối tượng nhận biết của trí. Nay nhằm ngăn chận lối chấp ấy và chỉ rõ: Không có trí của chủ thể nhận biết, không biết về đối tượng nhận biết. Cũng không có cảnh của đối tượng nhận biết, không phải là đối tượng nhận biết của trí.

Do các nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Nếu hỏi về gồm thâu, nên dựa vào mười tám giới, suy xét kỹ để đáp, Nếu hỏi về thức, nên dựa vào mười hai xứ, suy xét kỹ để đáp. Nếu hỏi về tùy miên, tức nên dựa vào năm bộ, suy xét kỹ để trả lời. Như hỏi về trí thì nên căn cứ vào bốn Thánh đế, suy xét kỹ để trả lời. Như thế, các pháp mới dễ có thể hiển bày, chỉ rõ, mới dễ có thể thành lập, đặt ra. Ở đây hỏi về trí, nên căn cứ vào bốn Thánh đế, suy xét kỹ để đáp. Nhưng tất cả pháp tóm lược có năm thứ. Nghĩa là do bốn đế gồm thâu và không gồm thâu.

Trong đây, khổ, tập của ba cõi và các pháp thuộc về đạo đế đều có hai thứ là tương ưng và không tương ưng. Còn diệt đế gồm thâu các pháp và các pháp không do đế gồm thâu chỉ có một thứ là không tương ưng.

Khổ tập đế ở cõi dục gồm thâu, nếu là các pháp tương ưng thì có bảy trí nhận biết, trừ ba trí loại, diệt, đạo. Các pháp không tương ưng thì có sáu trí nhận biết, tức trừ bốn trí loại, tha tâm, diệt, đạo.

Khổ tập đế ở cõi sắc gồm thâu, nếu là các pháp tương ưng thì có bảy trí nhận biết, trừ ba trí pháp, diệt, đạo. Các pháp không tương ưng thì có sáu trí nhận biết, tức trừ bốn trí là tha tâm, pháp, diệt, đạo.

Khổ tập đế ở cõi vô sắc gồm thâu, pháp tương ưng và không tương ưng đều có sáu trí nhận biết, tức trừ bốn trí là pháp, tha tâm, diệt, đạo.

Diệt đế gồm thâu các pháp có sáu trí nhận biết, là trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo.

Đạo đế gồm thâu các pháp, nếu là các pháp tương ưng thì có bảy trí nhận biết, tức trừ ba trí khổ, tập, diệt. Còn pháp không tương ưng thì có sáu trí nhận biết, tức trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, diệt.

Các pháp không do đế gồm thâu thì có một trí nhận biết là thế tục trí.

Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Trong đây, nhãn căn có bảy trí nhận biết, căn cứ theo trước đã nói nên biết về tướng.

Hỏi: Vì sao gọi là trí?

Đáp: Là chủ thể nhận biết (Năng tri) về đối tượng nhận biết (Sở tri) nên gọi là trí.

Hỏi: Vì sao gọi là sở tri (Đối tượng nhận biết)?

Đáp: Là đối tượng nhận biết của trí nên gọi là Sở tri.

Tôn giả Diệu Âm nói: Chủ thể lường xét nên gọi là trí. Đối tượng được lường xét nên gọi là sở tri. Chủ thể nêu xưng, đối tượng được nêu xưng, chủ thể suy tính, đối tượng được suy tính, nên biết cũng như thế.

Hiếp Tôn giả nói: Chủ thể nhận biết nên gọi là trí. Nếu pháp là sự việc của cảnh nơi đối tượng hành trì, đối tượng duyên hợp, đối tượng chọn lấy của trí thì gọi là sở tri. Vì trí cùng với đối tượng nhận biết (Sở tri) do đối nhau mà lập ra, nên không có trí không nhận biết về sở tri, cũng không có sở tri chẳng phải là đối tượng nhận biết của trí. Tức là không có trí thì không có sở tri và không có sở tri thì không có trí.

***

* Như nói về tưởng vô thường, hoặc tập hoặc tu, hoặc tạo tác nhiều, có thể dứt trừ tất cả tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, trạo cử, ngã mạn, vô minh. Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt rộng về nghĩa lý của Khế kinh. Nghĩa là như Khế kinh nói: Tưởng vô thường, hoặc tập, hoặc tu, hoặc tạo tác nhiều… nói rộng như trước. Khế kinh tuy có nói như thế, nhưng không phân biệt về nghĩa. Kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều kinh kia chưa nói thì nay nên nêu bày đầy đủ, thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn giảng nói Khế kinh này?

Đáp: Vì có những hữu tình tâm có nhiều biếng trễ, không siêng năng tinh tấn, lìa bỏ các liên hệ thiện. Vì nhằm khuyến khích họ nên Đức Phật giảng nói kinh này.

Lại nữa, vì muốn khuyên người tu học nên từ bỏ sự ưa thích thân sau nên giảng nói kinh này. Nghĩa là Đức Thế Tôn nói về việc Bồ-tát Di Lặc sẽ thành Phật vào đời vị lai, có người tu học suy nghĩ: Ta mong sẽ được gặp Ngài khi thành Phật rồi mới nhập Niết-bàn. Vì vậy Đức Phật bảo: Hôm nay các vị có các thứ vật dụng tạm thời hợp ý nên ưa thích thân sau. Nếu thiếu các duyên hỗ trợ thì sẽ bị khổ sở bức bách tức đối với các cõi không còn ham chuộng. Bấy giờ, nên tu tưởng vô thường này để vĩnh viễn dứt hết các lậu, chứng nhập Niếtbàn. Vì thế đừng nên ưa thích thân sau. Do đó, Đức Phật giảng nói kinh này cho những vị tu học.

Nhưng nơi tưởng vô thường hoặc tập, hoặc tu, hoặc tạo tác nhiều có thể diệt trừ tất cả tham cõi dục: Tưởng này nên nói tương ưng với pháp trí tức là khổ pháp trí. Tưởng này nên nói là có tầm có tứ, tức là định vị chí có tầm tứ cùng sinh. Tưởng này nên nói là tương ưng với xả căn, tức là định vị chí có xả căn cùng sinh. Tưởng này nên nói là cùng với vô nguyện kết hợp, tức là khổ cùng tương ưng với vô nguyện. Tưởng này nên nói là duyên nơi các thứ thuộc cõi dục, tức là duyên với năm uẩn của cõi dục.

Có thể diệt trừ tất cả tham cõi sắc: Tưởng này nên nói là tương ưng với loại trí, tức là khổ loại trí. Tưởng này nên nói hoặc có tầm có tứ, nghĩa là định vị chí và tĩnh lự thứ nhất có tầm tứ cùng sinh. Hoặc không có tầm chỉ có tứ, nghĩa là tĩnh lự trung gian chỉ có tứ cùng sinh. Hoặc không tầm không tứ, nghĩa là ở nơi ba tĩnh lự sau. Tưởng này nên nói là hoặc tương ưng với lạc căn, tức là ở nơi tĩnh lự thứ ba, hoặc tương ưng với hỷ căn, tức là ở nơi hai tĩnh lự đầu, hoặc tương ưng với xả căn, tức là ở nơi định vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư. Tưởng này nên nói là cùng với vô nguyện kết hợp, nghĩa là khổ cùng tương ưng với vô nguyện. Tưởng này nên nói là duyên với các thứ thuộc cõi sắc, nghĩa là duyên với năm uẩn thuộc cõi sắc.

Có thể diệt trừ tất cả tham cõi vô sắc: Tức tưởng này nên nói là tương ưng với loại trí, tức là khổ loại trí. Hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, hoặc không tầm không tứ. Lạc căn, hỷ căn, xả căn tương ưng cùng với vô nguyện kết hợp. Duyên với các thứ thuộc cõi vô sắc. Như trước đã nói về tưởng có thể diệt trừ tham cõi sắc. Có sai biệt: Tức là tưởng này hoặc không tầm không tứ, nghĩa là ở nơi ba tĩnh lự sau và ở ba vô sắc trước. Hoặc tương ưng với xả căn, nghĩa là ở nơi định vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư và ba vô sắc trước. Còn duyên với các thứ thuộc cõi vô sắc, tức là duyên với bốn uẩn ở cõi vô sắc.

Có thể diệt trừ tất cả trạo cử, ngã mạn, vô minh: Tưởng này nên nói là tương ưng với pháp loại trí, tức là khổ pháp loại trí. Tưởng này nên nói hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có từ, hoặc không tầm không tứ, tương ưng với lạc căn, hỷ căn, xả căn, cùng với vô nguyện kết hợp, đều như trước nói về tưởng có thể diệt trừ tất cả tham cõi vô sắc.

Tưởng này nên nói hoặc duyên với các thứ thuộc cõi dục, nghĩa là duyên với năm uẩn của cõi dục. Hoặc duyên với các thứ thuộc cõi sắc, nghĩa là duyên với năm uẩn thuộc cõi sắc. Hoặc duyên với các thứ thuộc cõi vô sắc, nghĩa là duyên với bốn uẩn thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Tất cả Thánh đạo đều có thể đoạn trừ kiết, vì sao chỉ nói tưởng vô thường?

Đáp: Trong đây, tiếng tưởng là hiển bày về các Thánh đạo. Nghĩa là Đức Phật hoặc có lúc dùng tiếng thọ, tiếng tưởng, tiếng tư, tiếng ý, tiếng đèn sáng, tiếng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ… tiếng thuyền bè, tiếng đá núi, tiếng nước, tiếng hoa, tiếng từ, bi, hỷ, xả, để hiển bày về các Thánh đạo. Nói rộng như trước. Ở đây cũng thế, cho nên đừng nêu vấn nạn.

Hỏi: Tưởng vô thường chỉ có thể đối trị hai bộ phiền não, tức là do kiến khổ và do tu đạo đoạn trừ. Vì sao ở đây nói có thể dứt trừ tất cả các tham v.v… nơi ba cõi?

Đáp: Ở đây chỉ nên nói là có thể đoạn trừ tham v.v… ở ba cõi, không nên nói là tất cả. Nhưng nói về tất cả thì có hai thứ: Nghĩa là tất cả của phần ít và tất cả của tất cả. Trong đây chỉ nói về tất cả của phần ít, nghĩa là do kiến khổ và tu đạo đoạn trừ tất cả, không phải là thứ khác.

Lại nữa, Đức Phật giảng nói kinh này cho các Thánh giả, các vị ấy đã dứt hẳn các kiết do kiến đạo đoạn, nên khuyên các vị ấy tu tập tưởng vô thường này, khiến họ đoạn trừ tất cả các kiết ở cả ba cõi, do tu đạo đoạn trừ, nên không có lỗi.

Hỏi: Tưởng vô thường có thể đối trị bảy thứ tùy miên, vì sao ở đây chỉ nói có thể đoạn trừ tham, mạn và vô minh?

Đáp: Do ba thứ này có chung nơi ba cõi, hiện hữu khắp năm bộ, thế nên nói riêng. Còn năm kiến và nghi tuy chung nơi ba cõi nhưng không hiện hữu khắp năm bộ. Sân tuy hiện hữu khắp năm bộ nhưng không chung nơi ba cõi, cho nên không nói.

Lại nữa, do ba thứ này chung nơi ba cõi, hàng phàm phu cho đến bậc Thánh đều cùng có thể hiện hành, thế nên nói riêng. Còn năm kiến và nghi tuy chung nơi ba cõi, nhưng các Thánh giả tất không hiện hành. Sân tuy nơi hàng phàm phu và bậc Thánh đều cùng có thể hiện hành, nhưng lại không chung ở ba cõi, thế nên không nói.

Hỏi: Vì sao tham được phân ở ba cõi có sai khác, nhưng trạo cử v.v… thì không như thế?

Đáp: Trạo cử v.v… cũng nên phân ở ba cõi, có sai khác, nhưng không phân, nên biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nhằm hiển bày cách nói khác lời văn để tạo sự trang nghiêm đối với nghĩa khiến người thọ trì thêm vui thích.

Lại nữa, vì muốn hiện bày hai môn, hai tóm lược, cho đến nói rộng.

Lại nữa, tham ái là rất nặng, khó đoạn trừ, khó phá bỏ, có nhiều lỗi lầm tai hại, thế nên phân riêng.

Lại nữa, do tham ái nên các cõi, các địa, các bộ đều sai biệt, thế nên phân riêng.

Hỏi: Tu tưởng vô thường có thể diệt trừ bảy mạn, vì sao ở đây chỉ nói đoạn trừ ngã mạn?

Đáp: Ở đây là nói về phần đối trị gần, vì tưởng vô thường là đối trị gần của ngã mạn. Như Khế kinh nói: Nếu các Bí-sô, tu tưởng vô thường, thì có khả năng dẫn sinh tưởng vô ngã. Nếu trụ nơi tưởng vô thường, vô ngã thì có thể đoạn trừ ngã mạn và nhanh chóng dứt hết các lậu.

Hỏi: Vì sao trong tất cả tùy phiền não chỉ nói trạo cử?

Đáp: Trong tùy phiền não có lỗi lầm tai hại tăng nhiều chính là trạo cử. Nghĩa là trạo cử chung nơi ba cõi, là thuộc về tánh của triền. Hôn trầm tuy có đủ hai nghĩa như thế, nhưng ở nơi cõi trên thuận với đẳng chí, nên lỗi lầm tai hại không tăng, thế nên ở đây nói riêng về trạo cử. Như nói về bảy xứ thiện, ba nghĩa quán, có thể ở trong pháp Tỳ-nại-da này mau chóng dứt hết các lậu.

Hỏi: Thế nào là bảy xứ thiện?

Đáp: Nghĩa là nhận biết đúng như thật về sắc, sắc tập, sắc diệt, hành hướng đến sắc diệt, sắc vị, sắc hoạn, sắc xuất. Nhận biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức theo bảy thứ cũng như thế.

***

* Trí này nên nói là pháp trí cho đến đạo trí chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt rộng nghĩa lý của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Các Bí-sô nên biết: Có bảy xứ thiện và ba nghĩa quán, nói rộng như trước… Khế kinh tuy nói như thế nhưng không phân biệt về nghĩa. Kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều kinh kia chưa nói thì nay sẽ nêu bày, thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn giảng nói kinh ấy?

Đáp: Vì có nhiều người tu học, đã nhập kiến đạo, trụ nơi tu đạo, bị các phiền não do tu đạo đoạn trừ, gây tổn não. Đức Thế Tôn vì nhằm khiến họ tu tập cách đối trị chúng nên bảo: Các vị đã được Thánh đạo, vì sao không dựa vào đó để đoạn trừ các phiền não khác. Cũng như một người rất mạnh mẽ bị kẻ oán đối gây não hại, người khác nói với người ấy: Ông vốn rất mạnh mẽ, vì sao không trừ bỏ kẻ oán địch lại để nó não hại mình?

Lại nữa, có nhiều người tu học, đã chứng được quả thứ nhất, nhưng đối với quả thù thắng tiếp sau lại không tạo gia hạnh. Nếu như có tạo gia hạnh cũng không nhận biết đúng như thật.

Đức Thế Tôn vì muốn khiến những người ấy khởi gia hạnh hơn hẳn, nên nói với họ: Các vị nếu có thể giữ lấy các thứ gia hạnh đã tạo ở trước để chứng đắc quả Dự lưu, thì không lâu tất hoàn toàn dứt hết các lậu. Tức Đức Phật vì chư vị tu học kia nên giảng nói kinh này.

Nhận biết như thật về sắc là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí, khổ trí. Trong đó, pháp trí nhận biết về quả của sắc nơi cõi dục. Loại trí nhận biết về quả của sắc nơi cõi sắc. Thế tục trí thì nhận biết về quả của tất cả sắc. Khổ trí thì nhận biết về quả của sắc hữu lậu, là vô thường, khổ, không, vô ngã. Ở đây tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về quả của một sắc.

Nhận biết như thật về sắc tập là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và tập trí. Trong đó, pháp trí nhận biết về nhân của sắc nơi cõi dục. Loại trí nhận biết về nhân của sắc nơi cõi sắc. Thế tục trí nhận biết về nhân của tất cả sắc. Tập trí thì nhận biết về nhân của sắc hữu lậu, là nhân tập sinh duyên. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về nhân của một sắc.

Nhận biết như thật về sắc diệt là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và diệt trí. Trong đó, pháp trí nhận biết về sắc diệt ở cõi dục. Loại trí nhận biết về sắc diệt ở cõi sắc. Thế tục trí nhận biết về tất cả sắc diệt. Diệt trí nhận biết về sắc hữu lậu diệt, là diệt tĩnh diệu ly. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về diệt của một sắc.

Nhận biết như thật về hành hướng đến sắc diệt là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và đạo trí. Trong đó, pháp trí nhận biết về đạo đối trị sắc ở cõi dục. Loại trí nhận biết về đạo đối trị sắc ở cõi sắc. Thế tục trí nhận biết về đạo đối trị tất cả sắc. Đạo trí nhận biết về đạo đối trị sắc hữu lậu, là đạo như hành xuất. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về đạo của một sắc.

Nhận biết như thật về sắc vị là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và tập trí. Trong đó, cả bốn trí đều nhận biết về sắc vị, như trước nên biết. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về tập của một sắc.

Nhận biết như thật về sắc hoạn (Tai họa của sắc) là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và khổ trí. Trong đó, cả bốn trí đều nhận biết về sắc hoạn, như trước nên biết. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về khổ của một sắc.

Nhận biết như thật về sắc xuất (Nẻo xuất ly của sắc) là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và diệt trí. Trong đó, cả bốn trí đều nhận biết về sắc xuất, như trước nên biết. Ở đây, tuy có bốn thứ nhưng lập làm một thiện, đều cùng quán sát về diệt của một sắc.

Nhận biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức theo bảy thứ cũng như vậy. Tức như đã nói ở phần quán về sắc.

Hỏi: Nếu như thế tức nên nói có ba mươi lăm xứ thiện, hoặc có vô lượng xứ thiện, vì sao nói có bảy?

Đáp: Vì khi quán sát mỗi mỗi uẩn, thì mỗi mỗi thứ đều có bảy, không vượt quá số bảy, nên nói có bảy. Như nơi kinh khác nói: Các vị Dự lưu tối đa là bảy lần trở lại sinh tử. Nếu tách biệt mà nói thì hai nẻo, hai cõi (Hữu) nên là hai mươi tám. Tức là ở nẻo người có bảy, ở nẻo trời có bảy, trung hữu của người có bảy, trung hữu của trời có bảy, nhưng không quá số bảy, nên nói là bảy.

Lại như kinh khác nói: Có hai pháp, tức là nhãn và sắc, cho đến ý và pháp. Lại như kinh khác nói: Ba lần chuyển pháp luân có mười hai hành tướng. Vì số kia không quá hai và mười hai cho nên nói là hai lần, mười hai. Đây cũng như thế.

Hiếp Tôn giả nói: Kinh này nên nói nhận biết như thật về sắc cho đến về thức. Nhận biết như thật về sắc tập cho đến thức tập. Nhận biết như thật về sắc diệt cho đến thức diệt. Nhận biết như thật về hành hướng đến sắc diệt cho đến hành hướng đến thức diệt. Nhận biết thực về sắc vị cho đến thức vị. Nhận biết như thật về sắc hoạn cho đến thức hoạn. Nhận biết như thật về sắc xuất cho đến thức xuất. Nếu nói như thế thì có bảy xứ thiện, không phải là ba mươi lăm hay vô lượng.

Lại nữa, nếu lược nói thì có bảy xứ thiện. Nếu nói rộng thì có ba mươi lăm xứ hoặc có vô lượng thứ. Khế kinh nêu tóm lược nên chỉ có bảy. Như nói lược nói rộng, thì các thứ chung riêng, phân biệt không phân biệt, nói tức khắc nói lần lượt, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, vì kẻ lợi căn nên nói bảy xứ thiện. Vì kẻ độn căn nên nói ba mươi lăm hoặc có vô lượng thứ. Như lợi căn, độn căn, thì các thứ sức của nhân, sức của duyên, sức của phần bên trong, sức của phần bên ngoài, sức suy nghĩ bên trong, sức nghe pháp bên ngoài, khai trí thuyết trí, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, dựa vào quan sát gần nên nói bảy xứ thiện, dựa vào quan sát xa nên nói ba mươi lăm hay vô lượng thứ. Như gần và xa, thì các thứ bức bách gần không bức bách gần, hiện tiền không hiện tiền, chúng đồng phần này chúng đồng phần khác… nên biết cũng như thế.

Lại nữa, dựa vào quán vô lậu nên nói bảy xứ thiện, dựa vào quán hữu lậu nên nói ba mươi lăm hay vô lượng thứ. Như hữu lậu vô lậu, thì thế gian xuất thế gian, trói buộc giải thoát, hệ thuộc không hệ thuộc, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, dựa vào khi hiện quán nên nói bảy xứ thiện, dựa vào khi quán sát nên nói ba mươi lăm hay vô lượng thứ.

Lại nữa, dựa vào quán tướng chung nên nói bảy xứ thiện, dựa vào quán tướng riêng nên nói ba mươi lăm hay vô lượng thứ. Như quán tướng chung quán tướng riêng, thì các thứ quán tự tướng cộng tướng, biết tự tướng cộng tướng, tác ý tự tướng cộng tướng, nên biết cũng như thế.

Hỏi: Trong đây là nói về tác ý tự tướng hay là tác ý cộng tướng? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Nếu nói tác ý tự tướng, thì các điều trong đây nêu bày làm sao thông? Như nói: Có bảy xứ thiện và ba nghĩa quán tức có thể đối với pháp Tỳ-nại-da này mau chóng dứt hết các lậu. Vì tác ý tự tướng là không thể dứt hết các lậu. Nếu nói là tác ý cộng tướng, thì các điều trong đây nêu ra làm sao thông? Như nói: Nhận biết như thật về sắc, cho đến nhận biết như thật về thức.

Đáp: Nên nói như vầy: Trong đây chính là nói về tác ý tự tướng. Hỏi: Nếu như thế thì làm sao có thể mau chóng dứt hết các lậu?

Đáp: Do tác ý tự tướng này có thể dẫn đến tác ý cộng tướng và do tác ý cộng tướng ấy có thể mau chóng dứt hết các lậu. Dựa vào nhân lần lượt nên nói như thế.

Lại có thuyết cho: Ở đây, chính là nói về tác ý cộng tướng.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao Khế kinh này nói: Nhận biết như thật về sắc cho đến nhận biết như thật về thức?

Đáp: Trong Khế kinh này nên nói như thế này: Nhận biết như thật về uẩn, uẩn tập, uẩn diệt, hành hướng đến uẩn diệt, uẩn vị, uẩn hoạn, uẩn xuất. Nhưng lại nói khác, nên biết là khi giảng nói thì nói khác lúc hiện quán lại khác. Cũng như Đức Phật đã vì bốn Thiên vương trước dùng Thánh ngữ giảng nói về bốn Thánh đế, có hai vị hiểu và hai vị không hiểu… như trước đã nói. Nên biết là khi thuyết giảng thì khác lúc hiện quán thì khác. Tức là khi thuyết giảng thì nói riêng, còn lúc hiện quán thì hiện quán chung.

Hỏi: Bảy xứ thiện và ba nghĩa quán có gì sai biệt?

Đáp: Về tên gọi tức là sai khác. Tức gọi là bảy xứ thiện và gọi là ba nghĩa quán.

Có thuyết cho: Bảy xứ thiện là vô lậu, còn ba nghĩa quán là hữu lậu.

Hỏi: Nếu như thế thì ở đây nói làm sao thông? Như nói: Nhận biết như thật về sắc là bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí và khổ trí?

Đáp: Thế tục trí này tuy cũng cùng có nhưng không hiện hành. Lại nữa, bảy xứ thiện này là hành tướng của Thánh, nói là vô lậu nhưng thật ra là chung cả hữu lậu. Đối với ba nghĩa quán không phải là hành tướng của Thánh, chỉ là hữu lậu, cho nên bảy xứ thiện gọi là vô lậu.

Hỏi: Là có thể đem bảy xứ thiện nhập vào ba nghĩa quán chăng?

Đáp: Không thể nhập chung được, vì bảy xứ thiện là hành tướng vô lậu, còn ba nghĩa quán là hành tướng hữu lậu.

Lại có thuyết nêu: Bảy xứ thiện thì chung cho cả vô lậu và hữu lậu, còn ba nghĩa quán chỉ là hữu lậu.

Hỏi: Vậy có thể đem bảy xứ thiện nhập chung vào ba nghĩa quán không?

Đáp: Có thể. Nhưng phải dụng công sức nhiều, khởi tác ý nhiều, tạo gia hạnh nhiều. Nghĩa là nhận biết như thật về sắc cho đến thức. Nhận biết như thật về sắc hoạn cho đến thức hoạn để nhập vào quán uẩn. Nhận biết như thật về sắc tập cho đến thức tập. Nhận biết như thật về sắc vị cho đến thức vị để nhập vào quán xứ. Nhận biết như thật về sắc diệt cho đến thức diệt. Nhận biết như thật về sắc xuất cho đến thức xuất để nhập vào quán giới. Tuy có thể đem bảy xứ thiện nhập vào ba nghĩa quán như thế, nhưng phải dùng nhiều công sức, khởi tác ý nhiều và tạo gia hạnh nhiều.

Hỏi: Ba nghĩa quán ở trước còn bảy xứ thiện ở sau, vì sao Đức Thế Tôn nói bảy xứ thiện trước và ba nghĩa quán sau?

Đáp: Tuy ba nghĩa quán ở trước, bảy xứ thiện ở sau, nhưng trước nói về bảy xứ thiện và sau nói về ba nghĩa quán, ấy là tùy thuận nơi lời văn và cách giảng nói.

Lại nữa, như thế là tùy theo thứ lớp người giảng nói và người thọ nhận.

Lại nữa, nếu nói như thế thì đối với văn nghĩa đều viên mãn. Nếu trước nói về ba nghĩa quán sau nói bảy xứ thiện thì đối với nghĩa tuy viên mãn, nhưng đối với văn thì không viên mãn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Điều nào nên nói trước thì nói trước, điều nào nên nói sau thì nói sau, như thế cả hai đều không lỗi. Vì ba nghĩa quán phần vị của nó có hai nơi: Một là ở trước kiến đạo. Hai là ở trước tu đạo. Ở trước kiến đạo thì trong đây không nói, chỉ nói ở trước tu đạo. Như kiến đạo tu đạo, thì các thứ kiến địa tu địa, vị tri đương tri căn dĩ tri căn, nên biết cũng như thế.

Hiếp Tôn giả nói: Trong đây là nói về bốn địa, tức là địa tu hành, địa kiến, địa tu, địa vô học.

Như khi nói bảy xứ thiện, ba nghĩa quán là nói về địa tu hành. Nhận biết như thật về sắc, sắc tập, sắc diệt, hành hướng đến sắc diệt, cho đến thức cũng như vậy, là nói về địa kiến. Nhận biết như thật về sắc vị, sắc hoạn, sắc xuất, cho đến thức cũng như vậy, tức là nói về địa tu. Còn nhanh chóng dứt hết các lậu là nói về địa vô học.

Hỏi: Vì sao trong kiến đạo nói có bốn xứ thiện, còn trong tu đạo chỉ nói có ba xứ thiện?

Đáp: Do xứ sở quyết định đối trị của kiến đạo, quyết định không phải là tu đạo.

Lại nữa, vì đối tượng duyên quyết định đối trị của kiến đạo, quyết định không phải là tu đạo.

Lại nữa, vì kiến đạo là đầu tiên được kiến đế, đầu tiên được hiện quán, còn tu đạo thì đã được kiến đế, đã được hiện quán.

Lại nữa, vì kiến đạo là đầu tiên được chủng tánh của Thánh, đầu tiên được hành tướng của Thánh, còn tu đạo thì đã được chủng tánh của Thánh, đã được hành tướng của Thánh.

Hỏi: Vì sao trong bảy xứ thiện này thì mấy lần nói về ba đế trước mà chỉ một lần nói về đạo đế?

Đáp: Trong đây về đạo đế là luôn phân biệt. Tức là nhận biết như thật về sắc cho đến thức. Các thứ nhận biết như thật này đều là đạo đế. Nhận biết như thật về sắc tập cho đến thức tập, về sắc diệt cho đến thức diệt, về hành hướng đến sắc diệt cho đến hành hướng đến thức diệt, về sắc vị cho đến thức vị, về sắc hoạn cho đến thức hoạn, về sắc xuất cho đến thức xuất… Các thứ nhận biết như thật này cùng đều là đạo đế. Đã ở nơi đạo đế thường phân biệt như thế, nên không nói lại.

Lại nữa, có khổ đã sinh, có khổ chưa sinh, có nhân của khổ đã sinh, có nhân của khổ chưa sinh, có diệt của khổ đã sinh, có diệt của khổ chưa sinh. Các pháp như thế chỉ có đạo đế là có thể nhận biết, đoạn trừ và chứng đắc, nên nói ba đế tức đã nói về đạo đế.

Lại nữa, có khổ gần, có khổ xa, có nhân của khổ gần, có nhân của khổ xa, có diệt của khổ gần, có diệt của khổ xa… Các pháp như thế chỉ có đạo đế là có thể nhận biết, đoạn trừ và chứng đắc, nên nói ba đế tức đã nói về đạo đế.

Lại nữa, ba đế là hữu biên, nên phải nói lại. Đạo đế là vô biên, nên chỉ nói một lần.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao nói ba đế là hữu biên, còn đạo đế nói là vô biên?

Đáp: Vì khổ thì có thể nhận biết hết, tập thì có thể đoạn dứt hết, diệt thì có thể chứng đắc hết, nhưng đạo thì không thể tu hết. Các nghĩa còn lại nói rộng như nơi xứ thế tục trí hiện quán biên.

Lại nữa, bốn xứ thiện trước là nói về phần vị của kiến đạo, kiến đạo tất quán xét đầy đủ về bốn đế, cho nên nói đủ bốn. Ba xứ thiện sau là nói về phần vị của tu đạo. Trong phần vị của tu đạo, đã tu Thánh đạo tức là đạo đế, chưa hẳn đã quán xét đầy đủ về bốn Thánh đế, nên chỉ nói ba thứ.

Lại nữa, tất cả các Hiền Thánh đều nhàm chán khổ, tập, vui thích Niết-bàn, còn Thánh đạo thì không như thế, nên Đức Thế Tôn nói nhiều lần về ba đế, nhưng chỉ một lần nói về đạo đế.

Hỏi: Vì sao ở trong kiến đạo trước nói khổ đế, sau nói tập đế. Còn trong tu đạo thì trước nói tập đế, sau nói khổ đế?

Đáp: Vì ở trong kiến đạo thì dựa vào thứ lớp của hiện quán, còn trong tu đạo thì dựa vào thứ lớp của nhân quả, nên nói như thế.

Lại nữa, ở trong kiến đạo thì dựa vào thứ lớp của sự thấy biết, còn trong tu đạo thì dựa vào thứ lớp của nêu bày, nên nói như thế. Vì thứ lớp của thấy biết là quả trước nhân sau. Còn thứ lớp của nêu bày thì nhân trước quả sau.

Lại nữa, Đức Phật dựa vào tu đạo là kẻ ái hành để giảng nói pháp đoạn trừ ái: Các Bí-sô trước nên quán xét về vị của các uẩn. Quán xét về vị rồi tức thấy rõ lỗi lầm tai hại của vị. Thấy rõ lỗi lầm tai hại rồi, tức có thể nhanh chóng xuất ly.

Lại nữa, ở trong phần vị tu đạo, đối với sinh tử đã có giới hạn sai biệt nên không chán lìa khổ nhiều, chỉ vì bị phiền não nhiễu loạn làm đục tâm, nên rất chán lìa phiền não. Nơi các phiền não thì ái luôn hiện hành, nên phần nhiều đều chán bỏ ái. Do đó, ở trong tu đạo, trước quán xét về ái vị, kế đến quán xét về tai họa của ái và sau thì quán về nẻo xuất ly khỏi ái.

Lại nữa, đối với hiện tại thì ái là đứng đầu có thể dẫn dắt tâm dong ruổi nơi các cảnh. Đối với vị lai thì ái cũng đứng đầu trong việc có thể làm thấm ướt các hữu, khiến không đoạn dứt, nên các bậc Thánh sinh tâm chán bỏ ái thêm nhiều. Như vậy, nơi phần vị tu đạo trước nên quán xét về vị của ái, kế đến là quán xét về tai họa của ái, sau là quán xét về nẻo xuất ly khỏi ái.

Hỏi: Do đâu Đức Thế Tôn khiến những người được hóa độ thường xuyên quán xét về cảnh giới của đối tượng nhận biết?

Đáp: Do từ vô thỉ đến giờ hữu tình luôn mê lầm nơi cảnh của đối tượng nhận biết, mất hẳn chánh đạo, chìm dắm trong sinh tử, thọ nhận vô số khổ não. Đức Thế Tôn muốn khiến tỉnh ngộ nơi cảnh của đối tượng nhận biết hướng tới chánh đạo, ra khỏi sinh tử, lìa các thứ khổ, nên khiến phải thường xuyên quán xét cảnh giới của đối tượng nhận biết. Ở đây, chỗ trọng yếu là bảy xứ thiện và ba nghĩa quán.

Hỏi: Tập ở trước vị ở sau thì có gì khác nhau?

Đáp: Tên gọi tức sai khác. Nghĩa là gọi là tập của sắc, gọi là vị của sắc…

Lại nữa, tập thì chung nơi sáu thức, còn vị thì chỉ ở nơi ý địa.

Lại nữa, tập thì chung cả nhiễm ô và không nhiễm ô, còn vị chỉ là nhiễm ô.

Lại nữa, tập thì chung cả ba cõi, còn vị thì chỉ ở nơi cõi dục.

Lại nữa, tập thì chung cả nghiệp và phiền não, còn vị thì chỉ ở nơi phiền não.

Lại nữa, tập thì chung nơi các phiền não, còn vị chỉ là ái.

Đó là sự sai khác của tập và vị.

Hỏi: Các uẩn tập là một hay là có khác? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì?

Nếu là một, thì các điều nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Vì có hỷ tập nên có sắc tập. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập. Vì có danh sắc tập nên có thức tập.

Còn nếu có khác, thì nơi Luận Thi Thiết nói lại làm sao thông? Như nói: Ái này hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, đều là nhân của khổ, là cội rễ của khổ, là đường đi của khổ, là đầu mối của khổ, là chủ thể tạo tác của khổ, là thứ sinh ra của khổ, là duyên của khổ, là hữu của khổ, là tập của khổ, cùng với khổ cùng khởi

Đáp: Nên nói như thế này: Vì có duyên riêng nên các uẩn tập là một. Vì có duyên riêng nên các uẩn tập có khác. Nghĩa là nếu dựa vào nhân xa thì các uẩn tập là một. Nếu dựa vào nhân gần thì các uẩn tập có khác. Như dựa vào xa gần, thì ở đây ở kia, hiện tiền không hiện tiền, chúng đồng phần của thân khác chúng không đồng phần của thân này… nên biết cũng như thế.

Lại nữa, trong Khế kinh có nói ba thứ tập khác nhau: Một là tập của phiền não. Hai là tập của khổ. Ba là tập của nghiệp. Nghĩa là: Vì có hỷ tập nên có sắc tập, là nói về tập của phiền não. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập, là nói về tập của khổ. Vì có danh sắc tập nên có thức tập, là nói về tập của nghiệp. Tức trong kinh này nói về nghiệp và danh sắc.

Như nói về tập của phiền não, của khổ, của nghiệp, thì hữu của phiền não, của khổ, của nghiệp, sinh của phiền não, của khổ, của nghiệp, đường đi của phiền não, của khổ, của nghiệp, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, trong Khế kinh nói về ba thời có khác. Một là thời tích tập. Hai là thời thọ dụng. Ba là thời giữ gìn. Nghĩa là: Vì có hỷ tập nên có sắc tập, là nói về thời tích tập. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập, là nói về thời thọ dụng. Vì có danh sắc tập nên có thức tập, là nói về thời giữ gìn.

Lại nữa, trong đây nói riêng về ba thời có khác. Một là thời sắp hòa hợp. Hai là thời đang hòa hợp. Ba là thời không biệt ly. Nghĩa là: Vì có hỷ tập nên có sắc tập, là nói về thời sắp hòa hợp. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập, là nói về thời đang hòa hợp. Vì có danh sắc tập nên có thức tập, là nói về thời không biệt ly.

Lại nữa, trong Khế kinh ấy nói về ba thứ hữu có khác. Một là trung hữu. Hai là bản hữu. Ba là sinh hữu. Nghĩa là: Vì có hỷ tập nên có sắc tập, là nói về trung hữu. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập, là nói về bản hữu. Vì có danh sắc tập nên có thức tập, là nói về sinh hữu.

Lại nữa, vì có hỷ tập nên có sắc tập, là nói về danh duyên với sắc. Vì có xúc tập nên có ba uẩn tập, là nói về danh duyên với danh. Vì có danh sắc tập nên có thức tập, là nói về danh sắc duyên với danh.

Lại nữa, vì ái mong cầu về tự thể của thân phần các hữu ở vị lai, nên Đức Thế Tôn nói: Vì hỷ tập nên có sắc tập. Còn xúc có khả năng nuôi lớn các tâm tâm sở pháp, nhận giữ, dẫn dắt, khiến chúng hiện tiền, nên Đức Thế Tôn nói: Vì xúc tập nên có ba uẩn tập. Thức dựa vào danh sắc mà tăng trưởng rộng lớn, nên Đức Thế Tôn nói: Vì danh sắc tập nên có thức tập.

Hỏi: Trước là khổ, sau là tai họa thì có gì khác nhau?

Đáp: Về tên gọi là khác nhau. Tức gọi là khổ của sắc… gọi là tai họa của sắc…

Lại nữa, khổ thì chung cả ba thọ, còn tai họa chỉ là khổ thọ.

Lại nữa, khổ thì chung cả nhiễm ô và không nhiễm ô, còn tai họa chỉ là nhiễm ô.

Lại nữa, khổ thì chung cả ba cõi, còn tai họa chỉ ở nơi cõi dục.

Lại nữa, khổ thì chung nơi phiền não, nghiệp và khổ, còn tai họa chỉ ở nơi phiền não.

Lại nữa, khổ thì chung nơi các phiền não, còn tai họa chỉ ở nơi ái.

Đó là chỗ sai khác.

Hỏi: Sắc cho đến thức diệt, sắc cho đến thức xuất, có gì khác nhau?

Đáp: Nếu do ái này mà các sắc tập khởi, khi nó được đoạn trừ gọi là sắc diệt. Nếu các ái khác duyên với sắc tăng rộng, khi nó được đoạn trừ gọi là sắc xuất. Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở đây hỏi sắc v.v… diệt mà đáp là ái v.v… diệt?

Đáp: Vì nhân đoạn trừ nên quả cũng đoạn trừ theo. Nhân diệt nên quả cũng diệt theo. Nhân dứt bỏ nên quả cũng dứt bỏ theo. Xả bỏ nhân nên cũng xả bỏ quả. Đã trục xuất nhân nên quả cũng trục xuất. Nếu đã cắt đứt các lối đi khiến các hữu không còn nối tiếp, thì sắc v.v… vĩnh viễn diệt liền đến biên vực tận cùng của khổ. Nên hỏi về sắc v.v… diệt mà đáp về ái v.v… diệt.

Hỏi: Vì sao trong đây nói ái đã sinh đoạn trừ nó gọi là diệt. Còn ái chưa sinh đoạn trừ nó gọi là xuất?

Đáp: Khi đã sinh các nghiệp, phiền não rồi, là đã có đối tượng tạo tác, đã gây chướng ngại cho Thánh đạo, đã nhận quả, đã cho quả, đã làm các nhân đồng loại, biến hành, dị thục, đã nhận các quả đẳng lưu, dị thục, ở nơi tự tương tục đã tạo các nhiễm ô, đã tạo ra trói buộc, đã gây nên các sự khổ, chỉ có thể đoạn dứt diệt trừ mà không thể xuất ly nên nói là diệt. Còn khi chưa sinh các nghiệp, phiền não, thì cùng với các điều nói trên là trái nhau, tức có thể xuất ly nên gọi là xuất.

Như có ba sự việc khổ: 1. Là đã thọ nhận. 2. Là đang thọ nhận. 3. Là sẽ thọ nhận. Nếu đã và đang thọ nhận thì không thể xuất ly. Còn nếu sẽ thọ nhận thì có thể, hoặc do sức của chính mình, hoặc nhờ sức của người khác, hoặc nhờ sức của tiền vật, mà có thể xuất ly.

Hỏi: Vì sao ở đây ba lần nói về ái mà chỉ hai lần nói về các nghiệp, phiền não khác?

Đáp: Vì ái là rất khó đoạn dứt, rất khó phá bỏ, rất khó vượt qua, vì có nhiều lỗi lầm tai hại nên chê trách, nên phải nói đến ba lần. Cũng như các người nữ làm giặc cùng với các pháp ác khác thì đã quở trách chung rồi, lại còn chê trách riêng nữa.

Lại nữa, do sức của ái nên cõi riêng, địa riêng, bộ riêng. Tất cả phiền não đều nhân nơi ái mà sinh, nhân nơi ái mà tăng trưởng, nên nói đến ba lần.

Hỏi: Vì sao nơi các xứ đã dùng nhiều thứ môn để thường xuyên phân biệt về diệt đế, không phải là thứ khác?

Đáp: Vì trong tất cả pháp, diệt đế này là tối thắng, tối diệu. Trong bốn Thánh đế thì diệt đế cũng là thắng diệu bậc nhất, nên phải phân biệt nhiều.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ hỏi đáp, phân biệt về diệt xuất có sai biệt mà không phải là tập, vị, khổ, hoạn?

Đáp: Cũng nên nói về hai thứ kia có sai biệt, nhưng không nói nên biết là điều ấy nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, trong đây là dùng phần sau để hiển bày về phần trước. Nghĩa là hỏi đáp phân biệt về diệt, xuất có sai biệt, nên biết là cũng nói đến hai thứ trước.

Lại nữa, diệt đế thì tối thắng nên đã phân biệt riêng. Khổ, tập thì không thù thắng nên không nói.

HẾT – QUYỂN 108