LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 106
Chương 3: TRÍ UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ TU TRÍ, phần 2
Hoặc có một trí gồm thâu tất cả các trí, đó là pháp trí, không phải pháp trí của như do Thể của trí là pháp.
Hoặc có hai trí gồm thâu tất cả các trí, đó là trí hữu lậu và trí vô lậu.
Hoặc có ba trí gồm thâu tất cả các trí, đó là pháp trí, loại trí và thế tục trí.
Hoặc có bốn trí gồm thâu tất cả các trí, đó là ba trí trước và thêm tha tâm trí.
Hoặc có năm trí gồm thâu tất cả các trí, đó là thế tục trí và bốn trí khổ, tập, diệt, đạo.
Hoặc có sáu trí gồm thâu tất cả các trí, đó là năm trí trước và thêm tha tâm trí
Hoặc có bảy trí gồm thâu tất cả các trí, đó là trong tám trí trừ tha tâm trí.
Hoặc có tám trí gồm thâu tất cả các trí, tức như ở đây nói: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí và bốn trí khổ, tập, diệt, đạo.
Nếu tám trí này gồm thâu tất cả các trí, lại có tám trí như Pháp trụ trí, Niết-bàn trí, Tử sinh trí, Lậu tận trí, Túc trụ tùy niệm trí, Diệu nguyện trí, Tận trí, Vô sinh trí. Tám trí như thế do trí nào gồm thâu?
Đáp: Tùy theo chỗ thích ứng của chúng mà được các trí này gồm thâu.
Như Pháp trụ trí: Là trí nhận biết về nhân nên nhận biết được nhân nơi chỗ trụ của pháp quả thượng, trung, hạ trong ba cõi. Tức trí này do bốn trí gồm thâu, đó là pháp, loại, thế tục và tập trí.
Niết-bàn trí: Là trí nhận biết về diệt, trí này cũng do bốn trí gồm thâu, đó là pháp, loại, thế tục và diệt trí.
Tử sinh trí: Là do thế tục trí gồm thâu.
Tôn giả Diệu Âm nói: Tử sinh trí do bốn trí gồm thâu, đó là pháp, loại, thế tục và khổ trí.
Lời bình: Nên biết ở đây thuyết trước là hợp lý.
Lậu tận trí: Là có những người muốn khiến duyên nơi pháp lậu tận, nên gọi là lậu tận trí, do bốn trí gồm thâu, đó là pháp, loại, thế tục và diệt trí. Có những người muốn khiến nơi thân cũng được lậu tận, nên gọi là lậu tận trí, do tám trí gồm thâu.
Túc trụ tùy niệm trí: Là do thế tục trí gồm thâu.
Tôn giả Diệu Âm nói: Túc trụ tùy niệm trí do sáu trí gồm thâu, tức trong tám trí trừ tha tâm trí vì chỉ duyên với pháp quá khứ và trừ diệt trí vì chỉ duyên với pháp hữu vi.
Lời bình: Nên biết ở đây thuyết trước là hợp lý.
Diệu nguyện trí: Là do thế tục trí gồm thâu.
Tôn giả Diệu Âm nói: Diệu nguyện trí do tám trí gồm thâu, tức là trong mười trí trừ tận trí và vô sinh trí, vì hai trí này là tánh của kiến.
Lời bình: Nên biết ở đây thuyết trước là hợp lý.
Tận trí và Vô sinh trí: Đều do sáu trí gồm thâu, tức trong tám trí trừ tha tâm trí vì trí này không có tánh của kiến và trừ thế tục trí vì hai trí kia là vô lậu.
Do đó, tám trí ấy gồm thâu tất cả các trí.
Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Nên nói một trí, đó là trí quyết định. Vì trí có nghĩa là quyết định. Trí quyết định này có hai thứ khác nhau, đó là hữu lậu và vô lậu. Nếu là hữu lậu thì do tự tánh nên gọi là thế tục trí. Nếu là vô lậu thì do đối trị có khác nhau nên lại lập làm hai thứ: Nghĩa là đối trị với cõi dục gọi là pháp trí, đối trị với cõi sắc và cõi vô sắc gọi là loại trí. Tức ba trí trước, nếu có thể nhận biết được tâm và tâm sở của người khác gọi là tha tâm trí. Lại còn vô lậu trí do các hành tướng riêng khác nên lại lập ra bốn trí. Nếu đối với khổ đế tạo nên bốn hành tướng hoạt động gọi là khổ trí, cho đến nếu đối với đạo đế tạo nên bốn hành tướng hoạt động gọi là đạo trí.
Hỏi: Nếu quyết định trí chỉ có một thứ, hoặc hai, hoặc ba v.v…, vì sao ở đây lại lập ra tám trí?
Đáp: Vì năm việc sau đây nên lập ra tám trí: 1. Vì đối trị nên lập ra pháp trí và loại trí. 2. Vì tự tánh nên lập ra thế tục trí. 3. Vì gia hạnh nên lập ra tha tâm trí. 4. Vì hành tướng nên lập ra khổ và tập trí. 5. Vì đối tượng duyên của các hành tướng nên lập ra diệt và đạo trí.
Tôn giả Tả Thọ nói: Vì đối trị bốn thứ ngu nên lập ra tám trí. Bốn thứ ngu, đó là: 1. Giới ngu. 2. Tâm ngu. 3. Pháp ngu. 4. Đế ngu. Đối trị với giới ngu (ngu tối về cảnh giới) nên lập ra pháp và loại trí. Đối trị với tâm ngu nên lập ra tha tâm trí. Đối trị với pháp ngu nên lập ra thế tục trí. Đối trị với đế ngu (Ngu tối về bốn đế) nên lập ra khổ, tập, diệt, đạo trí.
Đó gọi là tự tánh của tám trí, là bản tánh, ngã vật, tự thể, tướng phần của các trí ấy.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Vì sao gọi là trí? Trí là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa quyết định là nghĩa của trí.
Hỏi: Nếu như thế thì khi nghi tương ưng với tuệ, tức nên không gọi là trí, vì đối với cảnh của đối tượng duyên tuệ ấy không quyết định chăng?
Đáp: Tuệ ấy cũng là trí, vì trong khoảng một sát-na đối với cảnh của đối tượng duyên cũng quyết định. Song trong tụ đó, thế dụng của nghi mạnh hơn, khiến tâm đối với cảnh trong nhiều sát-na trở thành do dự không quyết định, nên gọi là tụ nghi. Như Tam-mađịa, trong một sát-na đối với cảnh luôn an trụ, nhưng có lúc lại tương ưng với trạo cử khiến đối với cảnh trong nhiều sát-na phải chuyển đổi, nên gọi là loạn động.
Lại như hữu tình, nếu nhiều tham gọi là tham hành, nhiều sân gọi là sân hành, nhiều si gọi là si hành, tuy mỗi mỗi thứ không phải là không có các phiền não khác. Đây cũng như thế, nên không có lỗi.
Phái Thí Dụ nói: Nếu tâm có trí thì không có vô tri (không biết), nếu tâm có nghi thì không có quyết định, nếu tâm có thô thì không có tế. Song nơi Đối pháp đã nói về pháp tướng thì như khu rừng rậm náo động. Nghĩa là trong một tâm có trí, có vô tri, có không phải là trí, không phải là vô tri, có nghi, có quyết định, có phi nghi, phi quyết định, có thô có tế, có phi thô phi tế.
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma cho: Thừa nhận pháp cùng sinh thì đây có lỗi gì? Nghĩa là các tâm sở do sức hỗ tương lần lượt sinh ra một tâm tương ưng với tướng, dụng, mỗi thứ đều khác nhau. Trí tức là Bát nhã. Vô tri là vô minh. Không phải là trí, không phải là vô tri tức là các tâm sở khác. Nghi là do dự, quyết định gọi là trí. Không phải là nghi, không phải là quyết định tức là các tâm sở khác. Thô là tầm, tế tức là tứ, không phải là thô, không phải là tế tức là các tâm sở khác. Như các sắc pháp khác loại cùng sinh, tâm sở cũng thế, nên không có lỗi.
Có thuyết cho: Quyết trạch nhiều lần đối với cảnh của đối tượng duyên đó là nghĩa của trí. Các tuệ hữu lậu đối với cảnh của đối tượng duyên từ vô thỉ đến nay luôn luôn quyết trạch, nên đều gọi là trí. Các tuệ vô lậu luôn quyết trạch nhiều lần nên đều gọi là trí. Chỉ có nhẫn vô lậu đối với bốn Thánh đế chưa quyết trạch nhiều lần nên không gọi là trí.
Lại có thuyết nêu: Do hai nghĩa sau đây nên gọi là trí. Tức là nghĩa chứng biết và nghĩa thấu rõ. Nghĩa chứng biết: Là chứng biết về khổ cho đến chứng biết về đạo, nên gọi là trí. Nghĩa thấu rõ: Là nhận biết rõ về sự nối tiếp của mình, nhận biết rõ về sự nối tiếp của người khác, nên gọi là trí.
Đã nói chung về các trí, do đó nay sẽ nói riêng về từng thứ.
Hỏi: Thế nào là Pháp trí?
Đáp: Vì Thể của trí là pháp nên gọi là pháp trí.
Hỏi: Nếu như thế thì các trí khác cũng có Thể là pháp, nhưng sao không gọi là pháp trí?
Đáp: Tuy Thể của tất cả trí đều là pháp, nhưng chỉ có một thứ được lập tên là pháp trí. Cũng như mười tám giới, mười hai xứ, bảy giác chi, sáu tùy niệm, bốn niệm trụ, bốn chứng tịnh, bốn vô ngại giải, Tam bảo, Tam quy v.v… đều có Thể tánh là pháp, nhưng chỉ có một thứ lập tên là pháp. Đây cũng như thế, do đó không nên nêu vấn nạn.
Lại nữa, pháp trí chỉ có một tên, tức là tên chung. Còn các trí khác thì có hai tên, tức là tên chung và tên không chung. Vì nhằm phân biệt rõ nên nói tên không chung.
Lại nữa, vì pháp được nhận biết rõ đầu tiên gọi là pháp trí, còn pháp nhận biết rõ sau đó gọi là loại trí.
Lại nữa, nếu đầu tiên được pháp chứng tịnh tương ưng với trí nên gọi là pháp trí, nếu sau đó mới được gọi là loại trí.
Lại nữa, đối với pháp hiện thấy được trí hiện lượng gọi là pháp trí, nếu sau đó mới được gọi là loại trí.
Lại nữa, ở cõi dục có nhiều phiền não phi pháp như phẫn, hận, phú, não, tật, xan, tương ưng với các thứ phiền não. Nếu trí là sự đối trị gần với chúng gọi là pháp trí. Còn ở cõi sắc và cõi vô sắc không có các phiền não phi pháp như thế, đối trị với chúng là trí sinh sau pháp trí gọi là loại trí.
Lại nữa, nếu trí thuộc về sáu địa, có thể duyên nơi một địa gọi là pháp trí. Nếu trí thuộc về chín địa, có thể duyên nơi tám địa gọi là loại trí. Đây là dựa vào địa hữu lậu để nói.
Lại nữa, nếu trí thuộc về sáu địa, có thể duyên nơi sáu địa gọi là pháp trí. Nếu trí thuộc về chín địa, có thể duyên nơi chín địa gọi là loại trí. Đây là dựa vào địa vô lậu để nói.
Lại nữa, nếu trí đối trị với mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn gọi là pháp trí. Nếu trí đối trị với mười bốn giới, mười xứ, năm uẩn gọi là loại trí.
Lại nữa, nếu trí đối trị với năm uẩn thiện, bất thiện, vô ký, gọi là pháp trí. Nếu trí đối trị với năm uẩn thiện và vô ký gọi là loại trí.
Lại nữa, nếu trí đối trị với hành bất động, phước, không phước, gọi là pháp trí. Nếu trí đối trị với hành bất động và phước, gọi là loại trí.
Lại nữa, nếu trí đối trị với đoạn thực, dâm dục, ái, gọi là pháp trí. Nếu trí đối trị với sự tham đắm các định gọi là loại trí.
Hỏi: Thế nào là Tha tâm trí?
Đáp: Nhận biết được tâm của người khác gọi là tha tâm trí.
Hỏi: Ở đây cũng nhận biết các tâm sở pháp của người khác, vì sao chỉ gọi là Tha tâm trí?
Đáp: Do tâm mong ước. Nghĩa là người tu quán, trước hết khởi ý lạc muốn nhận biết được tâm của người khác, do ý lạc ấy nên sau khi nhận biết tâm rồi cũng nhận biết các tâm sở. Như người có ý lạc muốn gặp được vua, sau khi thấy được vua rồi thì cũng thấy các quan.
Lại nữa, các pháp được mang tên do có nhiều duyên. Nghĩa là hoặc do tự tánh nên được mang tên như đế, uẩn hay thế tục trí. Hoặc do đối trị nên được mang tên như pháp, loại trí. Hoặc do gia hạnh nên được mang tên là tha tâm trí. Hoặc do tương ưng nên được mang tên, như nói pháp tương ưng lạc thọ gọi là pháp thuận lạc thọ. Hoặc do chỗ nương dựa nên được mang tên như nhãn thức. Hoặc do hành tướng nên được mang tên như khổ và tập trí. Hoặc do đối tượng duyên nên được mang tên như niệm trụ. Hoặc do đối tượng duyên của hành tướng nên được mang tên như diệt và đạo trí.
Ở đây, do gia hạnh nên được mang tên là tha tâm trí.
Lại nữa, vì tâm là vượt hơn, nên tuy cũng nhận biết về tâm sở nhưng chỉ gọi là tha tâm trí. Như vua đến thăm v.v…
Lại nữa, vì tâm là đại địa, nên tâm sở gọi là pháp đại địa. Lại nữa, lúc chứng tha tâm thông, đạo vô gián chỉ duyên với tâm.
Lại nữa, nói tâm là viễn hành, là độc hành v.v… Lại nữa, nói tâm là hành trước v.v… Lại nữa, nói tâm là vua tăng thượng. Lại nữa, nói tâm là vị chủ thành.
Lại nữa, nói tâm là nơi chốn nương dựa. Lại nữa, nói tâm có khả năng khởi các giới thiện ác. Lại nữa, nói tâm có khả năng dẫn đến nẻo thiện ác.
Lại nữa, tâm là nội xứ có mặt khắp các cõi các địa và có đối tượng duyên. Lại nữa, tâm là chỗ nương dựa, không phải là tâm sở.
Lại nữa, tâm có những hành xứ gì thì tâm sở phải tùy theo. Lại nữa, nếu khi tâm được điều phục hay không điều phục thì các tâm sở cũng như thế.
Lại nữa, nếu khi tâm phân tán hay không phân tán thì các tâm sở cũng như thế.
Do các nhân duyên như vậy, nên tha tâm trí này tuy cũng nhận biết rõ các tâm sở, nhưng chỉ gọi là tha tâm trí.
Hỏi: Thế nào là Thế tục trí?
Đáp: Vì nhận biết về thế tục nên gọi là thế tục trí.
Hỏi: Trí này cũng nhận biết các thắng nghĩa, vì sao chỉ gọi là thế tục trí?
Đáp: Trí này tuy nhận biết rõ một phần ít về các pháp thắng nghĩa như uẩn, xứ, giới, bốn Thánh đế v.v…, nhưng phần lớn là nhận biết về các pháp thế tục như nam nữ, tới lui, y phục, vật chứa đựng, ngựa xe, nhà cửa, rừng núi v.v…, nên gọi là thế tục trí.
Lại nữa, thế tục trí này thật sự không có các tướng của trí, chỉ do mọi người thế tục cùng nhau đặt tên là trí. Cũng như người không thuộc giòng dõi nhà vua, chỉ là hạng dân thường nhưng được mọi người giả đặt cùng lập tên là vua.
Lại nữa, thế tục trí này được tất cả hữu tình lần lượt cùng chấp nhận, không có tranh luận, như vị Thượng tọa tăng, như vị Duyệt chúng được mọi người chấp nhận, nên gọi là thế tục.
Lại nữa, thế tục trí này có mặt khắp các hữu tình, duyên nơi tất cả các cảnh, nên gọi là thế tục.
Lại nữa, thế tục trí này là chỗ dựa của ngu si, lệ thuộc vào ngu si, là nơi an lập đủ cho kẻ ngu si, nên gọi là thế tục. Phái Thanh Luận cho thế tục trí này bị các thứ vô tri che lấp, giống như bị cái bình đựng che kín các vật chứa bên trong, nên gọi là thế tục.
Lại nữa, thế tục trí này bị các đạo đối trị làm biến hoại, là chỗ ham chuộng của kẻ ngu si, nên gọi là thế tục.
Hỏi: Thế nào là khổ trí? Cho đến thế nào là đạo trí?
Đáp: Vì duyên nơi bốn hành tướng của khổ Thánh đế để chuyển nên gọi là khổ trí. Cho đến duyên nơi bốn hành tướng của đạo Thánh đế để chuyển nên gọi là đạo trí.
Hỏi: Các thế tục trí cũng có khả năng duyên nơi bốn đế, đều có bốn hành tướng cùng chuyển, vì sao không được gọi là bốn trí?
Đáp: Nếu chỉ duyên nơi khổ đế, chỉ hoạt động với bốn hành tướng ấy gọi là khổ trí. Cho đến nếu chỉ duyên nơi đạo đế, chỉ hoạt động với bốn hành tướng ấy gọi là đạo trí. Còn các thế tục trí đối với bốn Thánh đế hoặc duyên riêng từng thứ, hoặc duyên với từng cặp hai thứ, hoặc duyên với từng bộ ba thứ, hoặc duyên chung một lúc cả bốn thứ, hoặc duyên với các pháp khác, hoặc lại duyên chung với các hành tướng được khởi lên, cũng không quyết định, nên không gọi là khổ trí cho đến đạo trí, do thế tục trí vốn tạp loạn.
Lại nữa, nếu duyên riêng với bốn Thánh đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, nhưng không hợp chung khổ và tập làm một mối để hoạt động, nên gọi là trí của bốn Đế. Còn các thế tục trí tuy cũng có duyên riêng với bốn Thánh đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, nhưng lại hợp chung tập và khổ vào một mối để hoạt động, nên không được gọi là trí của bốn đế.
Hỏi: Trí này không hợp chung diệt và đạo thành một mối, vì sao không được gọi là diệt, đạo trí?
Đáp: Vì trước đã không lập, nên sau cũng không lập.
Lại nữa, nếu duyên riêng với bốn Đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, lại có khả năng đối trị các phiền não, nên gọi là trí của bốn Đế. Còn các thế tục trí tuy cũng duyên riêng với bốn Đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, nhưng không có khả năng đối trị các phiền não, nên không gọi là trí của bốn Đế.
Lại nữa, nếu duyên riêng với bốn Đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, lại chứng kiến đạo thấu rõ về bốn Thánh đế, không bị các kiến, nghi, vô minh làm cho mê lầm, cũng không tăng thêm phiền não, không chiêu cảm nghiệp nơi ba cõi, quyết định tiến thẳng đến Niết-bàn v.v…, nên gọi là trí của bốn Đế. Còn các thế tục trí không có nghĩa như thế, nên không gọi là trí của bốn Đế.
Lại nữa, nếu duyên riêng với bốn Đế, đều có bốn hành tướng hoạt động, lại là tánh của bậc Thánh, nên gọi là trí của bốn Đế. Còn các thế tục trí không thuộc về tánh của bậc Thánh, nên không gọi trí của bốn Đế.
Tám trí như thế, nếu xét:
Về cõi: Tha tâm trí nếu là hữu lậu ở cõi sắc, nếu là vô lậu thì không thuộc cõi nào. Thế tục trí thì chung cho cả ba cõi. Riêng sáu trí kia thì không thuộc cõi nào.
Về địa: Pháp trí ở tại sáu địa. Loại trí ở tại chín địa. Tha tâm trí ở tại bốn địa. Còn thế tục trí ở tại mười tám địa, tức là tám đẳng chí, tám tĩnh lự cận phần, tĩnh lự trung gian và cõi dục. Riêng bốn trí kia, nếu thuộc pháp trí thì ở sáu địa, nếu thuộc loại trí thì ở cả chín địa.
Về chỗ nương dựa: Pháp trí chỉ nương dựa vào cõi dục để khởi. Tha tâm trí thì nương dựa vào cả cõi dục, cõi sắc để khởi. Loại trí và thế tục trí đều nương dựa vào ba cõi để khởi. Các trí khác nếu thuộc về pháp trí thì nương dựa vào cõi dục để khởi, nếu thuộc về loại trí thì nương dựa vào ba cõi để khởi.
Về hành tướng: Pháp trí và loại trí đều tạo nên mười sáu hành tướng. Tha tâm trí nếu là vô lậu thì tạo bốn hành tướng của đạo, nếu là hữu lậu thì tạo các hành tướng không rõ ràng. Thế tục trí tạo nên mười sáu hành tướng, cũng tạo các hành tướng khác. Các loại trí khổ, tập, diệt, đạo mỗi thứ tạo bốn hành tướng.
Hỏi: Các khổ trí đều tạo bốn hành tướng của khổ để hoạt động chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Hoặc có khổ trí nhưng không hoạt động theo hành tướng của khổ: Nghĩa là khổ trí tạo hành tướng cho vô thường, không và vô ngã.
2. Hoặc có hoạt động theo hành tướng của khổ nhưng không phải là khổ trí: Nghĩa là tạo hành tướng của khổ để hoạt động, là pháp tương ưng với khổ trí.
3. Hoặc có khổ trí cũng hoạt động theo hành tướng của khổ: Nghĩa là tạo hành tướng của khổ cùng chuyển với khổ trí.
4. Hoặc có không phải là khổ trí cũng không phải là hoạt động theo hành tướng của khổ: Nghĩa là nếu chỉ giữ lấy chủng loại này, tức tạo các hành tướng vô thường, không, vô ngã để hoạt động là tương ưng với pháp khổ trí. Nếu không chỉ giữ lấy chủng loại ấy, tức trừ các tướng nêu trước.
Như đang hoạt động có bốn trường hợp, các thứ đã hoạt động, sẽ hoạt động nên biết cũng như thế. Như khổ trí đối với hành tướng của khổ có ba lớp bốn trường hợp, đối với các hành tướng của vô thường, không và vô ngã, nên biết cũng như thế.
Như khổ trí có mười hai trường hợp, các trí tập, diệt, đạo nên biết cũng như thế. Như vậy gồm chung có bốn mươi tám thứ bốn trường hợp.
Về đối tượng duyên: Pháp trí và loại trí đều duyên với bốn Đế. Tha tâm trí duyên với các tâm tâm sở pháp của người khác. Thế tục trí duyên với tất cả các pháp. Khổ trí duyên với khổ đế. Tập trí, diệt trí, đạo trí duyên với tập đế, diệt đế và đạo đế.
Về niệm trụ: Tha tâm trí là ba niệm trụ, trừ thân niệm trụ. Diệt trí là pháp niệm trụ. Các trí còn lại chung cho cả bốn niệm trụ.
Về trí: Tám trí này tức là tám trí.
Về Tam-ma-địa: Pháp trí và loại trí đều kết hợp chung với ba thứ Tam-ma-địa. Tha tâm trí nếu là vô lậu đều kết hợp với đạo và Tam-ma-địa vô nguyện, nếu là hữu lậu thì không kết hợp với Tamma-địa. Thế tục trí không kết hợp với Tam-ma-địa. Khổ trí kết hợp với Tam-ma-địa không và vô nguyện. Tập trí kết hợp với tập và Tamma-địa vô nguyện. Diệt trí kết hợp với Tam-ma-địa vô tướng. Đạo trí kết hợp với đạo và Tam-ma-địa vô nguyện.
Về căn tương ưng: Thế tục trí tương ưng với năm căn. Các trí còn lại tương ưng với ba căn, tức là lạc, hỷ, xả.
Về ba đời: Tám trí này đều chung cho cả ba đời.
Về duyên với ba đời: Pháp trí, loại trí và thế tục trí đều duyên với cả ba đời và lìa khỏi đời. Tha tâm trí ở quá khứ duyên với quá khứ, ở hiện tại duyên với hiện tại, ở vị lai nếu sinh các pháp thì duyên với vị lai, nếu không sinh các pháp thì duyên với cả ba đời. Diệt trí duyên với sự lìa vượt thế gian. Còn các trí kia duyên với cả ba đời.
Về thiện, bất thiện và vô ký: Thế tục trí có chung cho cả ba thứ. Còn các trí kia chỉ là thiện.
Về duyên với thiện, bất thiện và vô ký: Loại trí duyên với thiện và vô ký. Diệt và đạo trí duyên với thiện. Còn các trí kia duyên với cả ba thứ.
Về thuộc ba cõi và không thuộc cõi nào: Tha tâm trí nếu là hữu lậu thì thuộc cõi sắc, nếu là vô lậu thì không thuộc cõi nào. Thế tục trí chung cho cả ba cõi. Còn các trí khác không thuộc cõi nào.
Về duyên với ba cõi và không thuộc cõi nào: Pháp trí duyên với thuộc cõi dục và không thuộc cõi nào. Loại trí duyên với thuộc cõi sắc, cõi vô sắc và không thuộc cõi nào. Tha tâm trí duyên với thuộc cõi dục, cõi sắc và không thuộc cõi nào. Thế tục trí duyên với thuộc cả ba cõi và không thuộc cõi nào. Khổ và tập trí duyên với thuộc cả ba cõi. Diệt và đạo trí không duyên với cõi nào.
Về học, vô học, phi học phi vô học: Tha tâm trí chung cho cả ba thứ. Thế tục trí chỉ có phi học phi vô học. Còn các trí kia chỉ là học và vô học.
Về duyên với học, vô học, phi học phi vô học: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí và thế tục trí đều duyên với cả ba thứ. Khổ trí, tập trí, diệt trí duyên với phi học phi vô học. Đạo trí duyên với học và vô học.
Về do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ và không đoạn trừ: Tha tâm trí nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn trừ, nếu là vô lậu thì không đoạn trừ. Thế tục trí do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ. Các trí kia thì không đoạn trừ.
Về duyên với kiến đạo, tu đạo đoạn trừ và không đoạn trừ: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí và thế tục trí đều duyên với ba thứ. Khổ và tập trí duyên với do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ. Diệt và đạo trí thì không đoạn trừ.
Về duyên nơi danh, nghĩa: Các trí pháp, loại, thế tục, khổ, tập duyên với cả danh và nghĩa. Các trí kia chỉ duyên với nghĩa.
Về duyên với sự nối tiếp của mình, của người khác và không nối tiếp: Các trí pháp, loại, thế tục duyên với cả ba thứ. Tha tâm trí duyên với sự nối tiếp của người khác. Các trí khổ, tập, đạo duyên với sự nối tiếp của mình, của người khác. Diệt trí duyên với không nối tiếp.
Về do gia hạnh được, do lìa nhiễm được, do sinh được: Thế tục trí chung cả ba thứ. Các trí kia chung với do gia hạnh được và do lìa nhiễm được.
Về từng được và chưa từng được: Tha tâm trí, thế tục trí chung cho cả từng được và chưa từng được. Các trí kia chỉ là chưa từng được.
Lại nữa, pháp trí có bốn thứ: 1. Đối với các pháp mới nhận biết lần đầu, nên gọi là pháp trí. 2. Đối với các pháp hiện nhận biết rõ, nên gọi là pháp trí. 3. Đối với các pháp thật sự nhận biết rõ, nên gọi là pháp trí. 4. Đối với các pháp nhận biết rõ về xuất ly, nên gọi là pháp trí.
Tỷ loại trí cũng có bốn thứ: 1. Lấy nhân so sánh để nhận biết quả. 2. Lấy quả so sánh để nhận biết nhân. 3. Lấy nghiệp của thân ngữ so sánh để nhận biết tâm. 4. Dùng pháp đã giảng nói đem so sánh để nhận biết về Đức Phật.
Tha tâm trí cũng có bốn thứ: Nghĩa là từ bốn duyên sinh ra, cũng có thể làm bốn duyên. Đối tượng nhận biết của trí này cũng như thế.
Thế tục trí cũng có bốn thứ: 1. Biết tên gọi nơi thế tục. 2. Biết sự ràng buộc nơi thế tục. 3. Biết giả lập nơi thế tục. 4. Biết sự chấp trước nơi thế tục.
Khổ trí cũng có bốn thứ: 1. Nhận biết sinh là khổ. 2. Nhận biết lưu chuyển là khổ. 3. Nhận biết bức bách là khổ. 4. Nhận biết hòa hợp là khổ.
Tập trí cũng có bốn thứ: 1. Nhận biết về nghiệp. 2. Nhận biết về phiền não. 3. Nhận biết về ái. 4. Nhận biết về sự việc.
Diệt trí cũng có bốn thứ: 1. Nhận biết rõ đã đoạn trừ ba kiết. 2. Nhận biết rõ đã làm mỏng nhẹ tham sân si. 3. Nhận biết rõ năm kiết thuận phần dưới dứt hết. 4. Nhận biết rõ tất cả kiết đều dứt hết.
Đạo trí cũng có bốn thứ: 1. Nhận biết rõ tất cả chỗ có tạo tác ở phần vị hữu học của Bổ-đặc-già-la thứ tám trở đi. 2. Nhận biết rõ cách hàng phục các oán địch. 3. Quán xét việc làm nơi gốc. 4. Quán xét các lậu gần dứt hết.
Tận trí cũng có bốn thứ: 1. Thấy rõ chỗ không thâu giữ. 2. Xa lìa định không. 3. Không phải là tha tâm trí. 4. Gia hạnh chậm chạp.
Vô sinh trí cũng có bốn thứ: 1. Nhân. 2. Quả. 3. Nối tiếp. 4. Bổ-đặc-già-la.
Ở đây đã nói về bốn thứ trí như pháp trí v.v… Trong kinh giải thích rộng về các trí khác nhau không phải đều thuộc về pháp trí này.
Lại nữa, nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là pháp trí đều lấy pháp làm Thể. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức loại trí đều là chủng loại của bậc Thánh. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là trí quyết định, vì nghĩa quyết định là nghĩa của trí. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là trí sở tri, nhận biết về đối tượng được nhận biết, nên thẩm xét nhiều lần để quyết đoán. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là đạo trí thuộc về đạo đế. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là nguyện trí có thể làm viên mãn các điều mong ước. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức tất cả phiền não trong thân đều dứt hết là tận trí. Nên nói mười trí hợp chung làm một trí, tức là vô sinh trí không thoái chuyển, rơi rớt.
Hỏi: Thế nào là pháp trí?
Đáp: Tức là trí vô lậu hiện có ở cõi dục nhận biết có các hành, nhân của các hành, các hành diệt hết, đạo có thể đoạn trừ các hành.
Ở đây nói về: Các hành tức là khổ đế. Nhân của các hành tức là tập đế. Các hành diệt hết tức là diệt đế. Đạo có thể đoạn trừ các hành tức là đạo đế. Các trí vô lậu nhận biết về bốn đế như thế ở cõi dục, gọi chung là pháp trí. Lại, đối với pháp trí và địa của pháp trí, các trí vô lậu hiện có, đó gọi là pháp trí.
Hỏi: Vì sao lại nói điều này?
Đáp: Trước tuy có nói đạo vô gián có thể đoạn trừ các hành ở cõi dục, nhưng chưa nói về đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn. Nay muốn nói về việc đó.
Trong đây, nói pháp trí tức là pháp trí của ba đạo. Địa của pháp trí tức là pháp tương ưng, cùng có nơi pháp trí của ba đạo.
Lại nữa, đạo có thể đoạn trừ tức là pháp trí của đạo vô gián. Pháp trí tức là pháp trí của ba đạo kia. Địa của pháp trí tức là pháp tương ưng, cùng có nơi pháp trí của bốn đạo và bốn phẩm pháp nhẫn.
Lại nữa, đạo có thể đoạn trừ tức là pháp vô lậu của bốn đạo có khả năng đoạn trừ các phiền não ở cõi dục. Pháp trí tức là pháp trí được khởi phát, được tu tập trong các thời gian khác. Địa của pháp trí tức là các pháp tương ưng, cùng có với nó.
Tiếp sau là loại trí, cũng căn cứ theo đây nên biết.
Tha tâm trí v.v… như văn đã nói rộng nên biết về tướng của chúng.
***
* Trong tám trí này: Từ pháp trí cho đến đạo trí, mỗi mỗi thứ gồm thâu bao nhiêu?
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm rõ chánh lý. Nghĩa là như có người chấp: Khi các pháp gồm thâu thì thâu giữ tánh của thứ khác, không gồm thâu tánh của mình, như phái Luận Phân Biệt. Vì để ngăn chận lối chấp này và chỉ rõ các pháp đều thâu giữ tự tánh, không thâu giữ tánh khác, do đó tạo ra phần Luận này.
Ở đây, về nghĩa lý đã phân biệt rộng như nơi Chương Kiết Uẩn.
Pháp trí gồm thâu pháp trí và phần ít của năm trí, tức là tha tâm trí và bốn trí khổ, tập, diệt, đạo.
Trong đây, tuy nói chung là pháp trí gồm thâu pháp trí, nhưng pháp trí ở tại sáu địa, nên như định vị chí gồm thâu định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư gồm thâu tĩnh lự thứ tư.
Lại, pháp trí có bốn thứ, tức là trí của bốn Đế, như khổ trí gồm thâu khổ trí, cho đến đạo trí gồm thâu đạo trí.
Lại, pháp trí ở cả ba đời, nên quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai gồm thâu vị lai, hiện tại gồm thâu hiện tại. Quá khứ và vị lai có nhiều sát-na nên mỗi mỗi thứ tự gồm thâu.
Lại, pháp trí này gồm thâu phần ít của tha tâm trí: Nghĩa là tha tâm trí có hữu lậu có vô lậu, ở đây pháp trí chỉ gồm thâu phần vô lậu. Phần vô lậu này lại có phẩm pháp trí và phẩm loại trí, ở đây chỉ gồm thâu phẩm pháp trí, nên nói là gồm thâu phần ít của trí kia.
Lại, pháp trí gồm thâu phần ít của khổ, tập, diệt, đạo trí: Nghĩa là bốn trí ấy mỗi thứ đều có phẩm pháp trí và phẩm loại trí, ở đây chỉ gồm thâu phẩm pháp trí, nên gọi là gồm thâu phần ít.
Loại trí gồm thâu loại trí và phần ít của năm trí, tức là tha tâm trí và bốn trí khổ, tập, diệt, đạo.
Trong đây, tuy nói chung là loại trí gồm thâu loại trí, nhưng loại trí ở tại chín địa, nên như định vị chí gồm thâu định vị chí, cho đến Vô sở hữu xứ gồm thâu Vô sở hữu xứ. Các thứ khác như đã nói rộng ở phần Pháp trí.
Tha tâm trí gồm thâu tha tâm trí và phần ít của bốn trí, tức là pháp trí, loại trí, thế tục trí, đạo trí.
Trong đây, tuy nói chung là tha tâm trí gồm thâu tha tâm trí, nhưng tha tâm trí ở tại bốn tĩnh lự căn bản, nên như tĩnh lự thứ nhất gồm thâu tĩnh lự thứ nhất, cho đến tĩnh lự thứ tư gồm thâu tĩnh lự thứ tư.
Lại, tha tâm trí lại có hữu lậu và vô lậu, hữu lậu gồm thâu hữu lậu, vô lậu gồm thâu vô lậu. Phần hữu lậu này lại có từng được và chưa từng được, ở đây từng được gồm thâu từng được, chưa từng được gồm thâu chưa từng được. Phần vô lậu này lại có phẩm pháp trí và phẩm loại trí, ở đây phẩm pháp trí gồm thâu phẩm pháp trí, phẩm loại trí gồm thâu phẩm loại trí.
Lại, tha tâm trí gồm chung cả ba đời, nên quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai gồm thâu vị lai, hiện tại gồm thâu hiện tại. Quá khứ và vị lai đều có nhiều sát-na nên mỗi mỗi thứ tự gồm thâu.
Lại, tha tâm trí gồm thâu phần ít của pháp trí: Nghĩa là pháp trí ở tại sáu địa, ở đây chỉ gồm thâu tại bốn tĩnh lự căn bản. Lại, pháp trí có bốn thứ, tức là trí của bốn Đế, ở đây chỉ gồm thâu đạo trí. Lại, đạo trí ấy có thứ duyên riêng, có thứ duyên chung, có thứ duyên với hiện tại, có thứ duyên với quá khứ, vị lai, có thứ duyên nơi sự nối tiếp của mình, có thứ duyên nơi sự nối tiếp của người khác, có thứ duyên nơi tâm tâm sở pháp, có thứ duyên với các uẩn khác, ở đây chỉ gồm thâu phần trí ấy duyên riêng với hiện tại, với sự nối tiếp của người khác, với tâm tâm sở pháp v.v…, nên nói là chỉ gồm thâu phần ít của trí kia.
Như nói tha tâm trí gồm thâu phần ít của pháp trí, tha tâm trí gồm thâu phần ít của loại trí cũng như vậy. Có sự sai khác là nên nói loại trí ở tại chín địa, còn ở đây chỉ gồm thâu bốn thứ tĩnh lự căn bản.
Lại, tha tâm trí gồm thâu phần ít của thế tục trí: Nghĩa là thế tục trí ở tại mười tám địa, ở đây chỉ gồm thâu phần trí kia nơi bốn tĩnh lự căn bản. Lại, thế tục trí có thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký, ở đây chỉ gồm thâu phần thiện. Phần thiện này lại có thứ duyên riêng và thứ duyên chung, như trước đã nói rộng. Ở đây, chỉ duyên với phần duyên riêng, với hiện tại, với sự nối tiếp của người khác, với các tâm tâm sở pháp v.v…, nên nói là chỉ gồm thâu phần ít.
Lại, tha tâm trí gồm thâu phần ít của đạo trí: Nghĩa là đạo trí ở tại chín địa, ở đây chỉ gồm thâu nó tại tĩnh lự căn bản. Lại, đạo trí này có có thứ duyên riêng, thứ duyên chung v.v… như trước đã nói rộng, ở đây chỉ gồm thâu phần duyên riêng, với hiện tại, với sự nối tiếp của người khác, với tâm tâm sở pháp v.v…, nên nói là chỉ gồm thâu phần ít.
Thế tục trí gồm thâu thế tục trí và phần ít của tha tâm trí.
Trong đây tuy nói chung là thế tục trí gồm thâu thế tục trí, nhưng thế tục trí ở tại mười tám địa, nên ở cõi dục gồm thâu cõi dục, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ gồm thâu Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Lại, thế tục trí có thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký, ở đây thiện gồm thâu thiện, nhiễm ô gồm thâu nhiễm ô, vô phú vô ký gồm thâu vô phú vô ký.
Lại, thế tục trí gồm chung cho cả ba đời, nên quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai gồm thâu vị lai, hiện tại gồm thâu hiện tại. Quá khứ và vị lai có nhiều sát-na nên mỗi mỗi thứ đều tự gồm thâu.
Lại, thế tục trí gồm thâu phần ít của tha tâm trí: Nghĩa là tha tâm trí có thứ hữu lậu, có thứ vô lậu, ở đây chỉ gồm thâu hữu lậu, nên nói là gồm thâu phần ít.
Khổ trí gồm thâu khổ trí và phần ít của hai trí, tức là pháp trí và loại trí.
Trong đây tuy nói chung là khổ trí gồm thâu khổ trí, nhưng khổ trí ở tại chín địa, nên như định vị chí gồm thâu định vị chí, cho đến Vô sở hữu xứ gồm thâu Vô sở hữu xứ. Các thứ khác như trước đã nói.
Lại, khổ trí gồm thâu phần ít của pháp trí: Nghĩa là pháp trí có các trí khổ, tập, diệt, đạo, ở đây chỉ gồm thâu khổ trí của nó, nên nói là chỉ gồm thâu phần ít.
Như nói khổ trí gồm thâu phần ít của pháp trí, khổ trí gồm thâu phần ít của loại trí cũng như thế.
Như khổ trí gồm thâu một trí và phần ít của hai trí, thì tập trí, diệt trí nên biết cũng như thế.
Đạo trí gồm thâu đạo trí và phần ít của ba trí, tức là pháp trí, loại trí và tha tâm trí.
Trong đây tuy nói chung là đạo trí gồm thâu đạo trí, nhưng đạo trí ở tại chín địa, nên như định vị chí gồm thâu định vị chí, cho đến Vô sở hữu xứ gồm thâu Vô sở hữu xứ. Các thứ khác như trước đã nói.
Lại, đạo trí gồm thâu phần ít của pháp trí và loại trí: Nghĩa là cũng như trước đã nói về khổ trí gồm thâu một phần ít của pháp trí và loại trí.
Lại, đạo trí gồm thâu một phần ít của tha tâm trí: Nghĩa là tha tâm trí có hữu lậu và vô lậu, ở đây chỉ gồm thâu phần vô lậu, nên nói là gồm thâu phần ít.
Trong đây nói gồm thâu, nghĩa là gồm thâu về tự tánh. Tự tánh đối với tự tánh thật sự có thể đạt được, không lìa, không thoát, luôn trụ, chẳng không, thường bị chướng ngại, nên gọi là gồm thâu.
***
* Nếu thành tựu pháp trí v.v… cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm sáng tỏ chánh lý. Nghĩa là, hoặc có thuyết chấp: Không thật có tánh thành tựu và không thành tựu, như nơi phái Thí Dụ. Nay nhằm ngăn chận lối chấp ấy và chỉ rõ tánh thành tựu và không thành tựu quyết định là thật có, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Đối với tám trí này, nếu thành tựu pháp trí thì có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Đáp: Hoặc là ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám. Nghĩa là khi khổ pháp trí, khổ loại trí nhẫn, không có tha tâm trí thành tựu được ba thứ, có tha tâm trí thành tựu được bốn thứ. Ba thứ trong đây tức là pháp trí, khổ trí, thế tục trí. Bốn thứ tức là ba thứ nói trên và thêm tha tâm trí. Nếu chưa lìa nhiễm cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, bấy giờ thành tựu được ba thứ. Nếu đã lìa nhiễm cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, khi ấy thành tựu được bốn thứ. Các điều nói ở sau căn cứ theo đây nên biết.
Về thời gian của khổ pháp trí, pháp trí và khổ trí thành tựu ở hiện tại và vị lai. Tức là Thể của một trí nhưng do đối trị nên gọi là pháp trí, do hành tướng nên gọi là khổ trí.
Thế tục trí và tha tâm trí thành tựu ở quá khứ và vị lai. Khi có khổ loại trí nhẫn là có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không phải là trí, cũng không có tên gọi. Khi ấy pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí đều chỉ thành tựu được ở quá khứ, vị lai, do hiện tại không có. Các điều nói tiếp sau căn cứ theo đây nên biết.
Khi có khổ loại trí, pháp trí nhẫn, nếu không có tha tâm trí thì thành tựu bốn thứ, nếu có tha tâm trí thì thành tựu năm thứ. Về bốn thứ tức là các trí pháp, loại, khổ và thế tục, còn năm thứ tức là bốn trí vừa nói trên thêm tha tâm trí.
Khi có khổ loại trí, có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí, thêm tên gọi. Nghĩa là loại trí ở đây gọi là khổ trí và khi đã được gọi là khổ pháp trí.
Khi có tập pháp trí nhẫn, có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không có trí, không có tên gọi.
Khi có tập pháp trí cho đến sinh khởi diệt pháp trí nhẫn, nếu không có tha tâm trí thì thành tựu năm thứ, còn có tha tâm trí thì thành tựu sáu thứ. Về năm thứ tức là các trí pháp, loại, khổ, tập và thế tục, còn sáu thứ tức là năm thứ vừa nêu trên và thêm tha tâm trí.
Khi có tập pháp trí có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, thêm trí và thêm tên gọi. Nghĩa là tập trí ở đây gọi là pháp trí, khi đã được gọi là khổ pháp trí.
Khi có tập loại trí nhẫn, tập loại trí diệt, pháp trí nhẫn có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không phải là trí, cũng không phải là tên gọi. Vì sao? Vì khi có tập loại trí đã có tên là tập trí, không khác gì khi có tập pháp trí có tên là tập trí. Bấy giờ, khi được tên loại trí thì không khác khi có loại trí, được tên là khổ loại trí.
Khi có diệt pháp trí cho đến đạo pháp trí nhẫn, nếu không có tha tâm trí thì thành tựu sáu thứ, nếu có tha tâm trí thì thành tựu bảy thứ. Sáu thứ tức là các trí pháp, loại, khổ, tập, diệt và thế tục trí, còn bảy thứ tức sáu thứ trên và thêm tha tâm trí.
Khi có diệt pháp trí là có thêm tuệ, thêm kiến, thêm đạo, thêm trí, thêm tên gọi. Nghĩa là diệt trí gọi là diệt loại trí nhẫn.
Khi có diệt loại trí, đạo pháp trí nhẫn, có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không có trí, không có tên gọi. Vì sao? Vì khi có diệt loại trí, được tên là diệt trí là không khác như khi có diệt pháp trí, được tên là diệt trí. Bấy giờ, tên loại trí đã được ấy cũng không khác khi có khổ loại trí được tên loại trí.
Khi có đạo pháp trí cho đến đạo loại trí, nếu không có tha tâm trí thì thành tựu bảy thứ, nếu có tha tâm trí thì thành tựu tám thứ. Bảy thứ tức là tám thứ trừ tha tâm trí, còn tám thứ tức là trong bảy thứ ấy có thêm tha tâm trí.
Khi có đạo pháp trí, có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, cùng trí, tên gọi. Nghĩa là đạo trí là đạo loại trí nhẫn.
Khi có đạo loại trí, có thêm kiến, thêm tuệ, thêm đạo, không có trí, không có tên gọi. Vì sao? Vì khi có đạo loại trí, được tên đạo trí thì không khác như khi có đạo pháp trí được tên đạo trí. Bấy giờ, tên loại trí đã được đó không khác gì tên loại trí do khi có khổ loại trí mà được.
Hỏi: Đối với tám trí này, nếu thành tựu loại trí cho đến nếu thành tựu đạo trí, thì có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Đáp: Đối với tám trí này, nếu thành tựu loại trí cho đến nếu thành tựu đạo trí, việc thành tựu có ít có nhiều như văn đã nói rộng, nên nhận biết về tướng của chúng.
Khi tăng thêm kiến, tuệ, đạo và thêm trí, tên gọi, như phần đã nói về pháp trí, nên nhận biết về tướng của chúng.
Nhưng khi thành tựu pháp trí và khổ trí thì khổ pháp trí là thành tựu đầu tiên. Loại trí thì lấy khi có khổ loại trí làm thành tựu đầu tiên. Tha tâm trí vì đã lìa nhiễm cõi dục ở đạo giải thoát thứ chín và ở cõi vô sắc qua đời rồi sinh vào cõi sắc có tâm kiết sinh làm thành tựu đầu tiên. Thế tục trí thì không có đầu tiên vì tất cả hữu tình được thành tựu từ xưa. Thành tựu tập trí thì lấy khi có tập pháp trí làm thành tựu đầu tiên. Diệt trí thì lấy khi có diệt pháp trí làm thành tựu đầu tiên. Đạo trí thì lấy khi có đạo pháp trí làm thành tựu đầu tiên.
Các trí pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo thì từ đầu mà sau mới được, cho đến khi chưa nhập Niết-bàn thì lúc nào cũng thành tựu. Còn thế tục trí thì từ không biết về bản tế cho đến lúc chưa nhập Niếtbàn vẫn luôn thành tựu. Tha tâm trí đã lìa nhiễm cõi dục, chưa sinh vào cõi vô sắc, chưa nhập Niết-bàn vẫn luôn thành tựu.
Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.
***
* Nếu tu pháp trí thì cũng tu loại trí chăng? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?
Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm rõ chánh lý. Nghĩa là, hoặc có thuyết nói: Các pháp thiện, nhiễm ô, vô ký đều có nghĩa tu. Nay nhằm ngăn chận chấp sai lầm này và chỉ rõ các pháp hữu vi thiện mới có nghĩa là tu. Vì sao nhận biết như thế? Như Khế kinh nói: Chỉ có pháp hữu vi thiện mới nên tu, không phải là các thứ khác. Vì sao? Vì nếu các pháp trí muốn có quả đáng yêu mến, nên siêng năng tu tập, khiến dần dần thêm lớn, nên gọi là tu. Chỉ pháp hữu vi thiện mới có thể được quả đáng yêu mến. Tức là quả dị thục, tăng thượng được mọi người trên thế gian yêu mến. Lại cũng được quả ly hệ xuất thế gian. Các bậc có trí nên siêng năng tu tập, từ bậc thấp tiến lên trung bình, từ trung bình tiến lên bậc cao, khiến nhanh chóng nhận được quả đáng yêu mến vốn mong ước từ lâu. Còn các pháp nhiễm ô, vô ký và các pháp thiện vô vi, vì không có tác dụng như thế nên không gọi là tu.
Hoặc có lối chấp cho: Không có nghĩa tu ở vị lai, tức là quá khứ và vị lai đều không có thật Thể. Nay nhằm ngăn chận chấp sai lầm này và chỉ rõ nhất định là thật có quá khứ và vị lai, nên ở hiện tại có thể tu pháp thiện nơi vị lai. Nghĩa là do các pháp thiện thù thắng ở đời hiện tại làm nhân để dẫn đến việc được nhận các pháp thiện ở vị lai. Do nhận được các pháp thiện ấy, nên nói là đang tu pháp ấy. Còn nếu không thể tu các pháp thiện ở vị lai thì không có nghĩa đạt được các quả này. Tức là khi được quả ấy, ở hiện tại chỉ có một trí mà tu tám trí ở vị lai, hiện tại chỉ có một hành tướng mà tu mười sáu hành tướng ở vị lai, hiện tại chỉ có một sát-na mà tu vô lượng sát-na ở vị lai, hiện tại chỉ có tâm tâm sở hữu lậu mà tu được các tâm tâm sở hữu lậu và vô lậu ở vị lai, hoặc ở hiện tại chỉ có tâm tâm sở vô lậu mà tu được các tâm tâm sở vô lậu và hữu lậu ở vị lai. Các sự việc như thế đều không thể thành tựu được. Lại nữa, như khi chư Phật chứng đắc quả Đại Bồ-đề ở hiện tại chỉ có công đức của tận trí. Nếu không có nghĩa tu các pháp thiện ở vị lai thì chư Phật tức nên không có nhất thiết trí. Đây là lỗi lầm lớn, chớ nên phạm. Như thế tất nên thừa nhận tu pháp thiện ở vị lai.
Nay nhằm ngăn chận các lối chấp dị biệt ấy và để làm sáng tỏ chánh lý nên tạo ra phần Luận này.
Tu có bốn thứ, như trước đã nói rộng. Ở đây chỉ căn cứ vào hai thứ tu là tu đắc và tu tập để tạo luận.
HẾT – QUYỂN 106