LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 57
Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ
Phẩm thứ 4: TƯƠNG ƯNG, phần 1
* Bảy người: (1) Kiên tín. (2) Kiên pháp. (3) Tín giải thoát. (4) Kiến đáo. (5) Thân chứng. (6) Tuệ giải thoát. (7) Câu giải thoát.
Tám trí. Ba tam muội. Ba căn. Bảy giác chi. Tám đạo chi.
Người Kiên tín đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu? Cho đến người Câu giải thoát đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu? Như chương này cùng giải thích nghĩa của chương, ở đây nói rộng là Ưu-ba-đề-xá.
Hỏi: Vì sao trong đây và nơi Kiền Độ Định đều dựa vào bảy người để tạo luận. Còn trong Kiền Độ Sử thì dựa vào năm người để tạo luận? Nói rộng như trong Phẩm Bất Thiện của Kiền Độ Sử.
* Người Kiên tín đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì muốn ngăn chận ý của thuyết nói không có thành tựu, cũng nhằm làm rõ thật sự là có thành tựu, nên tạo ra phần Luận này.
Lại nữa, vì muốn dùng bảy người làm chương, dùng tám trí, ba tam muội v.v… để lập môn, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Người Kiên tín đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Đáp: Hoặc thành tựu một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám.
Khổ pháp nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu một. Có tha tâm trí thì thành tựu hai.
Khổ pháp trí không có tha tâm trí thì thành tựu ba. Có tha tâm trí thì thành tựu bốn. Ở đây là tăng thêm kiến, thêm tuệ, thêm thông, thêm trí, thêm danh.
Khổ tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu ba. Có tha tâm trí thì thành tựu bốn.
Khổ tỷ trí không có tha tâm trí thì thành tựu năm. Có tha tâm trí thì thành tựu sáu.
Cho đến đạo tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Có tha tâm trí thì thành tựu tám.
Như người Kiên tín thì người Kiên pháp cũng như thế. Vì sao? Vì hai người này, về địa thì ngang đồng, đối tượng nương dựa là thân ngang đồng, đạo đồng, lìa dục đồng, định đồng, chỉ có căn là khác. Kiên tín là độn căn. Kiên pháp là lợi căn.
Hỏi: Người Tín giải thoát đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Đáp: Không có tha tâm trí thì thành tựu bảy. Có tha tâm trí thì thành tựu tám.
Như người Tín giải thoát, người Kiến đáo cũng như thế. Vì sao? Vì hai người này, về địa là ngang đồng, nói rộng như trên.
Người Thân chứng đối với tám trí này đều thành tựu hết. Như người Thân chứng, người Tuệ giải thoát, Câu giải thoát cũng như thế.
Người Kiên tín đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?
Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?
Đáp: Vì nhằm ngăn chận ý của những người nói không có quá khứ, vị lai, lại cũng muốn làm rõ quá khứ, vị lai là pháp thật có, nên tạo ra phần Luận này.
Lại nữa, trước là nêu rõ chung về trí thành tựu, không thành tựu. Nay vì muốn phân biệt về thành tựu, không thành tựu trong ba đời, nên tạo ra phần Luận này.
Hỏi: Người Kiên tín đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?
Đáp: Khổ pháp nhẫn không có tha tâm trí thì một thành tựu ở quá khứ, vị lai. Có tha tâm trí thì hai thành tựu ở quá khứ, vị lai. Hiện tại không thành tựu vì là nhẫn.
Khổ pháp trí không có tha tâm trí thì một thành tựu ở quá khứ là đẳng trí, ba thành tựu ở vị lai là pháp trí, đẳng trí, khổ trí, hai thành tựu ở hiện tại là pháp trí, khổ trí. Có tha tâm trí thì hai thành tựu ở quá khứ, bốn thành tựu ở vị lai là thêm tha tâm trí, hai thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói.
Khổ tỷ nhẫn không có tha tâm trí thì ba thành tựu ở quá khứ, vị lai. Có tha tâm trí thì bốn thành tựu ở quá khứ, vị lai tức thêm tha tâm trí. Hiện tại không thành tựu vì là nhẫn.
Khổ tỷ trí không có tha tâm trí thì ba thành tựu ở quá khứ, bốn thành tựu ở vị lai là thêm tỷ trí, hai thành tựu ở hiện tại là khổ trí, tỷ trí. Có tha tâm trí thì bốn thành tựu ở quá khứ, năm thành tựu ở vị lai, hai thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói.
Cho đến đạo tỷ nhẫn hiện ở trước, không có tha tâm trí thì bảy thành tựu ở quá khứ, vị lai trừ tha tâm trí. Có tha tâm trí thì tám thành tựu ở quá khứ, vị lai, tức thêm tha tâm trí. Hiện tại không thành tựu vì là nhẫn.
Như Kiên tín, thì Kiên pháp cũng như thế. Vì sao? Vì địa của hai người này là bằng nhau, nói rộng như trên.
Người Tín giải thoát đối với tám trí này, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại? Nói rộng như nơi Bản Luận. (sao không thấy người kiến đáo, thân chứng, tuệ giải thoát, câu giải thoát)
Hỏi: Người Kiên tín lúc pháp trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Có hai. Pháp trí, khổ trí là hai. Pháp trí, tập trí là hai. Pháp trí, diệt trí là hai. Pháp trí, đạo trí là hai. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Vì đối trị cõi dục nên là pháp trí. Do hành tác nên là trí khổ, tập, diệt, đạo.
Hỏi: Lúc tỷ trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Có hai. Tỷ trí, khổ trí là hai. Tỷ trí, tập trí là hai. Tỷ trí, diệt trí là hai. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Vì đối trị cõi sắc, vô sắc nên là tỷ trí. Do hành tác nên là trí khổ, tập, diệt.
Hỏi: Lúc khổ trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Có hai. Khổ trí, pháp trí là hai. Khổ trí, tỷ trí là hai. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Vì đối trị nên là khổ trí. Do hành tác nên là pháp trí, tỷ trí.
Như khổ trí, thì tập trí, diệt trí nói cũng như thế.
Hỏi: Lúc đạo trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Có hai. Đạo trí, pháp trí là hai. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do hành tác nên là đạo trí. Vì đối trị nên là pháp trí.
Như người Kiên tín, thì người Kiên pháp cũng như thế.
Hỏi: Người Tín giải thoát lúc pháp trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Pháp trí, khổ trí là hai. Pháp trí, tập trí là hai. Pháp trí, diệt trí là hai. Pháp trí, đạo trí, không có tha tâm trí là hai, có tha tâm trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Vì đối trị nên là pháp trí. Do hành tác nên là trí khổ, tập, diệt, đạo. Do phương tiện nên là tha tâm trí.
Như pháp trí, thì tỷ trí cũng như thế.
Hỏi: Lúc tha tâm trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Tha tâm trí, đẳng trí là hai. Tha tâm trí, đẳng trí, đạo trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do phương tiện nên là tha tâm trí. Do đối trị nên là pháp trí, tỷ trí. Do tự thể nên là đẳng trí. Do hành tác nên là đạo trí.
Hỏi: Lúc đẳng trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có một, hoặc có hai. Không có tha tâm trí là một. Có tha tâm trí là hai. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do tự thể nên là đẳng trí. Do phương tiện nên là tha tâm trí, khổ trí.
Tập trí, diệt trí như trước đã nói.
Hỏi: Lúc đạo trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Đạo trí, không có tha tâm trí là hai, có tha tâm trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do hành tác nên là đạo trí. Do đối trị nên là pháp trí, tỷ trí. Do phương tiện nên là tha tâm trí.
Như người Tín giải thoát, thì người Kiến đáo, người Thân chứng cũng như thế.
Hỏi: Người Tuệ giải thoát lúc pháp trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Pháp trí, khổ trí, không phải tận trí, vô sinh trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do đối trị nên là pháp trí. Do hành tác nên là khổ trí. Do việc làm đã xong nên là tận trí. Do từ nhân sinh nên là vô sinh trí.
Tập trí, diệt trí nói cũng như thế.
Pháp trí, đạo trí, không phải tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do đối trị nên là pháp trí. Do hành tác nên là đạo trí. Do việc làm đã xong nên là tận trí. Do từ nhân sinh nên là vô sinh trí. Do phương tiện nên là tha tâm trí.
Như pháp trí, thì tỷ trí cũng như thế. Tha tâm trí, đẳng trí, như trước đã nói.
Hỏi: Lúc khổ trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Khổ trí, pháp trí, không phải tận trí, vô sinh trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí là ba. Khổ trí, tỷ trí, không phải tận trí, vô sinh trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Do hành tác nên là khổ trí. Do đối trị nên là pháp trí. Do việc làm đã xong nên là tận trí. Do từ nhân sinh nên là vô sinh trí.
Như khổ trí, thì tập trí, diệt trí cũng như thế.
Hỏi: Lúc đạo trí khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc có hai, hoặc có ba. Đạo trí, pháp trí, không phải tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là ba. Đạo trí, tỷ trí, không phải tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là hai. Nếu là tận trí, vô sinh trí, tha tâm trí là ba. Thể tánh là một. Do sự việc nên khác. Nói rộng như trên.
Như người Tuệ giải thoát thì người Câu giải thoát cũng như thế.
Hỏi: Vì sao không nói tận trí, vô sinh trí gồm thâu tha tâm trí?
Đáp: Vì tha tâm trí do đối trị nên là pháp trí, tỷ trí. Do phương tiện nên là tha tâm trí. Tha tâm trí chỉ duyên với tâm người khác. Tận trí, vô sinh trí duyên nơi thân mình, thân người khác và pháp không phải thân.
Lại nữa, tha tâm trí duyên nơi hiện tại. Hai trí kia thì duyên nơi ba đời và vô vi.
Lại nữa, tha tâm trí duyên nơi tâm tâm số pháp. Hai trí kia thì duyên nơi bốn ấm, năm ấm và pháp vô vi.
Lại nữa, tha tâm trí là kiến. Hai trí kia không phải là kiến.
Người Kiên tín đối với ba tam muội này, có bao nhiêu thứ thành tựu, bao nhiêu thứ không thành tựu?
Đáp: Diệt pháp nhẫn chưa sinh thì thành tựu hai là tam muội không, vô nguyện. Diệt pháp nhẫn sinh thì thành tựu ba tức thêm tam muội vô tướng.
Như người Kiên tín, thì người Kiên pháp cũng như thế.
Người Tín giải thoát thì thành tựu hết. Như người Tín giải thoát, thì người Kiến đáo, Thân chứng, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát cũng như thế.
Hỏi: Người Kiên tín đối với ba tam muội này, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?
Đáp: Nếu dựa vào tam muội không, được chánh quyết định, thì lúc được khổ pháp nhẫn không có thành tựu ở quá khứ, có hai thành tựu ở vị lai là không, vô nguyện, một thành tựu ở hiện tại là không.
Ngoài ra, nói rộng như nơi Bản Luận. Dựa vào tam muội vô nguyện được chánh quyết định nói cũng như thế.
Hỏi: Những người nào dựa vào tam muội không được chánh quyết định? Những người nào dựa vào tam muội vô nguyện được chánh quyết định?
Đáp: Hoặc có người kiến hành, hoặc có người ái hành. Nếu là người kiến hành tức dựa vào tam muội không được chánh quyết định. Nếu là người ái hành tức dựa vào tam muội vô nguyện. Chỉ trừ Bồ-tát là người ái hành dựa vào tam muội không được chánh quyết định.
Người kiến hành có hai hạng: (1) Chấp ngã kiến. (2) Chấp ngã sở kiến.
Người ái hành cũng có hai hạng: (1) Hành ngã mạn. (2) Nhiều biếng trễ.
Người chấp ngã kiến thì hành hành vô ngã. Người chấp ngã sở kiến thì hành hành không. Người hành ngã mạn thì hành hành vô thường. Người nhiều biếng trễ thì hành hành khổ.
Lại nữa, nếu người lợi căn thì dựa vào tam muội không được chánh quyết định. Nếu người độn căn thì dựa vào tam muội vô nguyện.
Như lợi căn, độn căn, thì cho đến nghe tức có thể hiểu, phân biệt rộng cũng như thế.
Nếu người dựa vào tam muội vô nguyện được chánh quyết định, hoặc dựa vào vô nguyện, vô tướng, lìa được dục của ba cõi.
Trong thân này, không lìa khởi tam muội không hiện ở trước.
Hỏi: Người Kiên tín lúc tam muội không hiện tiền, có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc hai, hoặc không có. Khổ trí, pháp trí là hai. Khổ trí, tỷ trí là hai. Trong nhẫn thì không có.
Phần còn lại nói rộng như nơi Bản Luận.
Cho đến Tuệ giải thoát, Câu giải thoát cũng như thế.
Hỏi: Vì sao tận trí, vô sinh trí không cùng với tam muội không tương ưng?
Đáp: Vì đối tượng hành có khác. Nếu chủ thể hành là tam muội không, thì đối tượng hành không phải là tận trí, vô sinh trí. Nếu chủ thể hành là tận trí, vô sinh trí, thì đối tượng hành không phải là tam muội không.
Lại nữa, tam muội không cùng với kiến tương ưng. Tánh của hai trí kia không phải là kiến.
Lại nữa, thể của tam muội không là đệ nhất nghĩa, đối tượng hành cũng là đệ nhất nghĩa. Thể của hai trí kia, tuy là đệ nhất nghĩa, nhưng đối tượng hành là thế đế.
Hỏi: Người Kiên tín lúc vị tri dục tri căn khởi hiện tiền có bao nhiêu trí hiện ở trước?
Đáp: Hoặc hai, hoặc không có. Khổ trí, pháp trí là hai. Khổ trí, tỷ trí là hai. Cho đến đạo trí, pháp trí là hai. Trong nhẫn không có trí hiện tiền.
Như vị tri dục tri căn, thì bảy giác chi, tám đạo chi cũng như thế.
Như Kiên tín, thì Kiên pháp cũng như thế. Các pháp khác nói rộng như nơi Bản Luận.
Nếu như những gì đã nói ở đây tức làm rõ A-la-hán Tuệ giải thoát có thể khởi thiền căn bản hiện ở trước.
Hỏi: Nếu A-la-hán Tuệ giải thoát có thể khởi thiền căn bản hiện ở trước, thì như nơi kinh Phật nói làm sao thông? Như nói: Tô-thi-ma hỏi các Tỳ-kheo: Thế nào là khởi các thiền hiện ở trước? Các Tỳkheo đáp: Này Tô-thi-ma! Nên biết chúng ta là người Tuệ giải thoát. Đáp: Tuệ giải thoát có hai thứ: (1) Là phần ít. (2) Là phần đầy đủ.
Người Tuệ giải thoát phần ít có thể khởi một thiền, hai thiền, ba thiền hiện ở trước. Người Tuệ giải thoát phần đầy đủ cho đến không thể khởi một thiền hiện ở trước.
Ở đây là nói Tuệ giải thoát phần ít. Trong kinh thì nói Tuệ giải thoát phần đầy đủ. Thế nên cả hai đều cùng khéo thông hợp.
* Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với tỷ trí chăng?
Các pháp do ba sự việc nên hợp chung: (1) Hoặc do gồm thâu nên hợp. (2) Hoặc do tương ưng nên hợp. (3) Hoặc do gồm thâu, do tương ưng nên hợp.
Do gồm thâu nên hợp: Như trí đối với trí.
Do tương ưng nên hợp: Như trí đối với định.
Do gồm thâu, do tương ưng nên hợp: Như trí đối với căn, giác chi, đạo chi.
Hỏi: Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với tỷ trí chăng?
Đáp: Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì không tương ưng với tỷ trí. Vì sao? Vì không phải là một tâm.
Hỏi: Nếu có pháp trí, không có tỷ trí nhưng tương ưng với tha tâm trí chăng?
Đáp: Hoặc pháp tương ưng với pháp trí, không tương ưng với tha tâm trí. Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:
1. Tương ưng với pháp trí không tương ưng với tha tâm trí: Là tha tâm trí không gồm thâu pháp tương ưng của pháp trí. Pháp này là gì? Là khổ, tập, diệt pháp trí, tha tâm trí không gồm thâu pháp tương ưng của đạo pháp trí.
2. Tương ưng với tha tâm trí không tương ưng với pháp trí: Là pháp trí không gồm thâu pháp tương ưng của tha tâm trí. Pháp này là gì? Là tỷ trí, tha tâm trí, tha tâm trí thế tục.
3. Tương ưng với pháp trí cũng tương ưng với tha tâm trí: Là pháp trí gồm thâu pháp tương ưng của tha tâm trí. Pháp này là gì? Là pháp tương ưng của tha tâm trí, pháp trí. Đó là chín đại địa, mười đại địa thiện, cùng tâm giác quán theo địa.
4. Không tương ưng với pháp trí cũng không tương ưng với tha tâm trí: Là pháp trí, tha tâm trí. Vì sao? Vì tự thể không tương ưng với tự thể, nói rộng như trên.
Pháp trí, tha tâm trí đều không gồm thâu pháp không tương ưng. Không gồm thâu: Là trừ tự thể. Không tương ưng: Là trừ tương ưng. Điều này là thế nào? Đáp: Là tụ tương ưng của khổ, tập, diệt tỷ trí. Tha tâm trí không gồm thâu tụ tương ưng của đạo tỷ trí, tương ưng với các nhẫn, không tương ưng với tha tâm trí. Các tâm tâm số pháp hữu lậu khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành, vì không duyên nên không cùng tương ưng.
Như tha tâm trí, thì khổ, tập, diệt, đạo trí, chánh kiến cũng như thế.
Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì không tương ưng với đẳng trí. Vì sao? Vì tụ tương ưng của pháp trí khác, tụ tương ưng của đẳng trí khác.
Tương ưng với tam muội không chăng? Pháp trí tương ưng với ba tam muội. Tam muội không tương ưng với hai trí là khổ pháp trí, khổ tỷ trí. Cũng tương ưng với hai nhẫn là khổ pháp nhẫn, khổ tỷ nhẫn. Thế nên được tạo ra bốn trường hợp lớn:
1. Tương ưng với pháp trí không tương ưng với tam muội không: Là tam muội không nên ở nơi pháp trí, pháp trí cùng có trong tụ. Thể của tam muội không tương ưng với pháp trí, không tương ưng với tam muội không. Vì sao? Vì tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Và tam muội không không tương ưng với pháp tương ưng của pháp trí. Điều này là gì? Là tụ tương ưng của vô nguyện, vô tướng, cùng với pháp trí tương ưng.
2. Tương ưng với tam muội không không tương ưng với pháp trí: Là pháp trí nên ở nơi tam muội không, tam muội không cùng có trong tụ. Thể của pháp trí tương ưng với tam muội không, không tương ưng với pháp trí. Vì sao? Vì tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Và pháp trí không tương ưng với pháp tương ưng của tam muội không. Điều này là gì? Là khổ tỷ trí cùng có trong tụ. Khổ tỷ nhẫn cùng có trong tụ nơi pháp tương ưng của tam muội không.
3. Tương ưng với pháp trí cũng tương ưng với tam muội không: Là trừ tam muội không nên ở nơi pháp trí, trừ pháp trí nên ở nơi tam muội không. Pháp trí, tam muội không cùng có tên trong tụ, trừ tự thể, còn lại là tâm tâm số pháp. Pháp này là gì? Là tám đại địa, mười đại địa thiện và tâm giác quán tùy theo địa.
4. Không tương ưng với pháp trí cũng không tương ưng với tam muội không: Là tam muội không không tương ưng với pháp trí, là cùng với khổ tỷ trí, khổ tỷ nhẫn tương ưng. Tự thể của tam muội không không cùng với pháp trí tương ưng, vì là tụ khác, nên cũng không cùng với tam muội không tương ưng, vì tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Pháp trí không cùng với tam muội không tương ưng, là cùng với với tam muội vô tướng, vô nguyện tương ưng. Tự thể của pháp trí không cùng với tam muội không tương ưng. Vì là tụ khác, nên không tương ưng với pháp trí, vì tự thể không ứng hợp với tự thể, như trước đã nói. Các pháp trí khác là pháp không tương ưng của tam muội không. Pháp này là gì? Là pháp trí không tương ưng với tụ cùng có của vô nguyện, vô tướng. Và tâm tâm số pháp hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Các pháp v.v… như thế làm trường hợp thứ tư.
Như pháp trí đối với tam muội không, thì pháp trí đối với tam muội vô nguyện, tam muội vô tướng, giác chi hỷ, chánh giác cũng như thế.
Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với vị tri dục tri căn chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:
1. Tương ưng với pháp trí không tương ưng với vị tri dục tri căn: Là vị tri dục tri căn không gồm thâu pháp tương ưng của pháp trí. Điều này là gì? Là tri căn, dĩ tri căn gồm thâu pháp tương ưng của pháp trí, không tương ưng với vị tri dục tri căn. Vì sao? Vì là tụ khác.
2. Tương ưng với vị tri dục tri căn không tương ưng với pháp trí: Là vị tri dục tri căn gồm thâu pháp trí. Vị tri dục tri căn cùng có trong tụ. Thể của pháp trí tương ưng với vị tri dục tri căn, không phải là pháp trí, vì tự thể không ứng hợp với tự thể, như trước đã nói. Và pháp trí không gồm thâu pháp tương ưng, không tương ưng của vị tri dục tri căn. Điều này là gì? Là tỷ trí cùng có trong tụ, nhẫn cùng có trong tụ nơi pháp tương ưng của vị tri dục tri căn. Đó gọi là vị tri dục tri căn tương ưng không phải là tương ưng với pháp trí. Vì sao? Vì là tụ khác.
3. Tương ưng với pháp trí cũng tương ưng với vị tri dục tri căn: Là vị tri dục tri căn gồm thâu pháp tương ưng của pháp trí. Điều này là gì? Là tám căn và tâm tâm số pháp kia tương ưng với phi căn.
4. Không tương ưng với pháp trí cũng không tương ưng với vị tri dục tri căn: Là vị tri dục tri căn không gồm thâu pháp trí. Tri căn, tri dĩ căn cùng có trong tụ. Thể của pháp trí không tương ưng với pháp trí, vì tự thể không ứng hợp với tự thể, nói rộng như trên. Không tương ưng với vị tri dục tri căn. Vì sao? Vì là tụ khác. Và pháp trí, vị tri dục tri căn đều không gồm thâu tâm tâm số pháp bất tương ưng. Điều này là gì? Là pháp trí không gồm thâu, không tương ưng với tri căn, tri dĩ căn, cùng có trong tụ, và tâm tâm, tâm số pháp hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Các pháp v.v… như thế làm trường hợp thứ tư.
Như pháp trí đối với vị tri dục tri căn, thì pháp trí đối với tri căn, tri dĩ căn cũng như thế.
Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với giác chi niệm chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:
1. Tương ưng với pháp trí không tương ưng với giác chi niệm: Là giác chi niệm nên ở nơi pháp trí. Pháp trí cùng ở trong tụ. Thể của giác chi niệm cùng với pháp trí tương ưng, không cùng với giác chi niệm tương ưng. Vì sao? Vì tự thể không ứng hợp với tự thể, như trước đã nói.
2. Tương ưng với giác chi niệm không tương ưng với pháp trí: Là pháp trí nên ở nơi giác chi niệm. Thể của pháp trí đều cùng trong tụ của giác chi niệm, cùng với giác chi niệm tương ưng, không cùng với pháp trí tương ưng. Vì sao? Vì tự thể không ứng hợp với tự thể, như trước đã nói. Và pháp trí không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi niệm. Điều này là thế nào? Là pháp tương ưng của giác chi niệm đều cùng trong tụ của tỷ trí, trong tụ của nhẫn.
3. Tương ưng với pháp trí cũng tương ưng với giác chi niệm: Là trừ giác chi niệm nên ở nơi pháp trí, do nhiều nên trừ. Các giác chi niệm còn lại, pháp trí, giác chi ở trong tụ, đều trừ tự thể. Các tâm tâm số pháp khác tương ưng với cả hai. Điều này là thế nào?? Là tám đại địa, mười đại địa thiện và tâm giác quán tùy theo địa.
4. Không tương ưng với pháp trí cũng không tương ưng với giác chi niệm: Là pháp trí không tương ưng giác chi niệm. Điều này là thế nào? Là nhẫn cùng có trong tụ. Tỷ trí cùng có trong tụ. Thể của giác chi niệm không cùng với pháp trí tương ưng, vì là tụ khác. Không cùng với giác chi niệm tương ưng, vì tự thể không ứng hợp với tự thể, như trước đã nói. Hết thảy tâm vô lậu, cùng toàn bộ tâm, hữu lậu, tâm tâm số pháp, sắc vô vi, tâm bất tương hành làm trường hợp thứ tư.
Như pháp trí đối với giác chi niệm, thì pháp trí đối với giác chi tinh tấn, giác chi khinh an, giác chi định, giác chi xả, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định cũng như thế.
Hỏi: Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với giác chi trạch pháp chăng?
Đáp: Nếu pháp tương ưng với pháp trí thì cũng tương ưng với giác chi trạch pháp.
Hỏi: Từng có pháp tương ưng với giác chi trạch pháp không phải là pháp trí chăng?
Đáp: Có. Là pháp trí không gồm thâu pháp tương ưng của giác chi trạch pháp. Điều này là thế nào?? Là nhẫn cùng có trong tụ, tỷ trí cùng có trong tụ, tương ưng với giác chi trạch pháp.
Như pháp trí thì tỷ trí nói cũng như vậy.
HẾT – QUYỂN 57