Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014
QUYỂN THỨ BA MƯƠI BỐN
Phần cuối Phẩm Chuyển vầng Pháp vi diệu
Khi đó Thế Tôn làm suy nghĩ như thế. Xa xưa các Phật Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Ở tại nơi nào ? Chuyển với vầng Pháp Bình Đẳng vi diệu. Lúc đó Thế Tôn phát tâm đó xong. Đất đó tức thời tự nhiên hiện ra. Khác với phương khác. Khi đó Thế Tôn lại nghĩ nhớ như thế. Xa xưa các Phật Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Làm thế nào mà chuyển vầng Pháp Bình Đẳng ? Là đang ngồi chuyển. Là đang nằm chuyển. Lúc đó Thế Tôn phát tâm như thế xong. Ở nơi địa phương đó tức thời hiện ra năm trăm tòa cao Sư Tử. Thế Tôn thấy năm trăm tòa này rồi. Tức thời phát tâm cung kính. Do vì cung kính các Thế Tôn thời Quá khứ. Vòng quanh ba lượt ba tòa cao xong tới tòa thứ tư. Tức thời lên trên tòa đó xếp bằng Kết già mà ngồi. Ví như Sư Tử không đâu sợ, không đâu kinh động.
Thời Kiều Trần Như năm Tì Kheo. Liền báo cáo Phật nói rằng : Hiếm có ! Thế Tôn ! Tức thời hôm nay đều có như Phật hứa tới cùng nói Pháp vậy. Vì sao lại có nhiều tòa cao ?
Khi đó Phật bảo với năm Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Nay cần phải biết. Trong Kiếp Hiền này có năm trăm Phật. Xuất hiện ở đời. Ba Phật đã qua nhập vào Niết Bàn Phật. Ta nay người thứ tư xuất hiện ở đời. Các người khác sắp tới lại hưng thịnh xuất hiện ở đời. Lúc đó Thế Tôn lại nghĩ nhớ như thế. Các Phật Quá khứ Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Là chuyển vầng vàng. Là chuyển vầng bạc. Chuyển vầng Pha lê. Chuyển vầng lưu ly. Là đang chuyển vầng trân châu đỏ. Chuyển vầng Mã não. Chuyển vầng Xa cừ. Chuyển vầng hổ phách. Chuyển vầng san hô. Chuyển vầng bằng bảy báu vật. Là chuyển vầng cây.
Lúc đó Thế Tôn khi nghĩ nhớ như thế. Ở bên trong tâm phát sinh Trí tuệ thấy của tự mình. Biết các Phật Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà thời Quá khứ. Dựa vào bốn Chân thực của bậc Thánh. Lần lượt ba lần chuyển mười hai loại tướng Nhân duyên. Mà chuyển vầng Pháp Bình Đẳng. Mà ở trong Thế gian không có Sa Môn và Bà La Môn. Hoặc Trời hoặc Ma. Hoặc Thế giới Phạm. Không có một chúng sinh có thể làm người chuyển vầng Pháp Tự do không sợ như thế.
Lúc đó Thế Tôn trong ngày mười năm tháng một ngày sao Cơ. Mặt Trời quá mười hai giờ trưa, qua nửa bóng người. Đang thời gian như thế. Tên là Tì Xà Da (tiếng Tùy là Nan Thắng). Mặt về hướng Bắc mà ngồi. Hợp với sao Quỷ thời cùng với sao Phòng. Chuyển với vầng Pháp Thanh tịnh Bình Đẳng. Toàn bộ Sa Môn của tất cả Thế gian. Cùng với các Bà La Môn Trời Ma Phạm. Không có thể chuyển vầng Pháp như thế. Lấy ngày sao Phòng chuyển vầng Pháp. Nói Pháp không trở ngại vì dựa vào Thế gian lấy ngày này.
Khi đó Thế Tôn bảo với năm Tì Kheo nói lời như thế. Gọi là Như Lai có âm thanh lời nói này. Dễ hay dạy bảo truyền cho. Dễ hay an ủi. Hay dạy không thiếu. Hay dạy cung kính. Không quanh co không siểm nịnh. Không hoa mỹ không thô lỗ. Không thêu dệt không đơn giản. Mềm mại điều hòa. Dễ hay làm Nghiệp. Không chậm không gấp. Không có trở ngại. Chân chính vi diệu. Thiện khéo rõ ràng. Chảy theo ngon ngọt. Có thể đẹp lòng chúng sinh có tình. Không đục không bẩn. Không thể hủy hoại. Không cùng bằng nhau. Thanh tịnh ly rời lây nhiễm. Từ xưa đến nay thường bỏ. Không mất không thiếu. Không kết buộc không ràng buộc. Giải thoát quang sáng. Không nghèo không ăn. Cũng không mềm yếu. Hay sinh vui sướng vì tất cả chúng sinh. Hay cho tất cả chúng sinh thân thể. Mà làm bóng sáng. Hay phát tâm của tất cả các chúng sinh. Hay cắt bỏ tâm tham muốn. Cắt bỏ tâm thù giận. Cắt bỏ tâm ngu si. Hay hút lấy các Ma. Hay phá các tội. Đều có thể hàng phục tất cả ngoài Đạo. Âm vang của Thế Tôn dễ hay dạy người khác. Giống như tiếng trống. Giống như tiếng Phạn. Giống như tiếng chim Ca la tần già. Như tiếng của Ngọc Hoàng. Như tiếng của sóng biển. Như tiếng động đất. Tiếng chấn động núi Côn Lôn. Tiếng của chim sẻ. Tiếng của chim Câu sí la. Tiếng của chim mệnh mệnh. Như tiếng của Vua nhạn. Giống như tiếng của chim Hạc. Giống như tiếng của Sư Tử, tiếng của chúa thú mạnh. Giống như tiếng của sao trúc, đàn tì bà. Tiếng của sáo trúc, đàn tranh năm dây. Nghe nó có thể giúp cho tất cả vui vẻ. Dạy bảo rõ ràng. Ý thiện thích nghe. Rất sâu vi diệu. Không nơi thiếu thốn. Hay giúp chúng sinh tạo các Căn thiện. Nghe nó không Rỗng. Chữ thể loại phân rõ rệt. Văn câu hiện ra rõ. Nghĩa Nghiệp thâm thúy. Tạng Pháp chân thực. Hợp thời hợp tiết. Hợp Tam Ma Da. Không lỗi thời ban cho. Biết các Căn Tình. Thuận với câu Pháp. Dùng đủ loại Bố thí trang nghiêm. Giữ Giới Thanh Tịnh. Nhẫn nhịn chịu nhận. Tinh tiến dũng mãnh. Các Thiền Định vắng. Thần thông phấn khích. Trí tuệ phân biệt. Thiện ác Thế gian. Tâm Từ thành công vui sướng. Tâm thương xót không có mệt mỏi. Vui mừng rời bỏ. Thiết lập ba Bậc : Phật, Duyên Giác, Thanh Văn. Nối nghiệp giống Phật Pháp Tăng. Phân biệt ba tích Tụ. Ba môn Giải thoát Thanh tịnh. Dạy bảo lời nói thực. Được người Trí tuệ ca ngợi. Được Thánh đồng ý. Vô lượng vô biên. Giống như khoảng không. Tới khắp tất cả. Các Tướng mạo đầy đủ.
Âm thanh như thế của Thế Tôn. Bảo với năm Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo là người Xuất gia. Luôn thường phải bỏ hai việc của Thế gian. Thế nào là hai việc ? Một là nhận lấy vui tham muốn. Nếu có hành động dựa vào làng xóm. Được người Phàm trần ca ngợi. Điều này phải vứt bỏ. Việc bỏ thứ hai. Tự thân bị khốn khổ. Nơi thu nhận khổ không phải Thánh ca ngợi. Bản thân không được lợi. Người khác không được lợi. Pháp này phải bỏ. Mà đọc bài kệ nói rằng :
Nơi tổn tự thân nhanh vứt bỏ. Các cảnh giới Căn đều phải bỏ.
Nếu hay bỏ hai loại Pháp này. Liền được Đạo chân chính Cam Lộ.
Khi đó Phật bảo các Tì Kheo nói rằng : Các Ngài cần biết ! Ta đã bỏ hai đường biên đó như thế. Nói có đường ở giữa. Ta tự chứng biết. Do vì mắt mở. Do vì làm ra Trí tuệ. Do vì Định vắng. Do vì các thông suốt. Do vì hiểu biết rõ. Do vì Sa Môn. Do vì Niết Bàn. Mà được thành công. Các Ngài Tì Kheo ! Nếu muốn được biết. Hiện ra có đường ở giữa. Như Ta chứng được. Do vì mắt mở. Do vì sinh Trí tuệ. Do vì Định vắng. Thậm chí Niết Bàn tám Đạo Thánh đúng. Gọi là Thấy đúng, Phân biệt đúng. Lời nói đúng, Nghiệp đúng. Mệnh đúng, Tinh tiến đúng. Nhớ đúng, Định đúng. Các Ngài Tì Kheo ! Đây là con đường ở giữa. Ta đã chứng biết. Do vì mắt mở. Do vì sinh Trí tuệ. Do vì Định vắng. Do vì phát ra các thông suốt. Do vì hiểu biết rõ. Do vì Sa Môn. Do vì Niết Bàn. Đang được thành công. Mà đọc bài kệ nói rằng :
Do tám loại Đường đúng như thế. Bỏ mất hết hoảng sợ Sinh chết.
Đã được bỏ mất các Nghiệp xong. Vĩnh càng không nhận tất cả Sinh.
Lúc đó Phật bảo các Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Chí tâm nghe Tuệ. Có bốn Chân lý của Thánh. Thế nào là Bốn ? Gọi là Khổ Chân lý của Thánh. Tập hợp Khổ Chân lý của Thánh. Diệt mất Khổ Chân lý của Thánh. Được Đạo Chân lý của Thánh. Như tên này là bốn loại Chân lý của Thánh.
Các Tì Kheo ! Thế nào cùng với tên là Khổ Chân lý của Thánh ? Gọi là Khổ do Sinh ra, Khổ do Già.
Khổ do Bệnh, Khổ do Chết, Khổ do lo âu đau buồn. Khổ do Yêu thương biệt ly. Khổ do gặp nhau oán ghét. Khổ do Cầu không được. Do các Khổ này. Tên là Khổ Chân lý của Thánh.
Các Tì Kheo ! Thế nào tên là Tập hợp Khổ Chân lý của Thánh ? Gọi là yêu này tâm thường luôn động. Phát ra suy nghĩ việc tham muốn. Khắp nơi tưởng nhớ. Đây chắc tên là Tập hợp Khổ Chân lý của Thánh. Các Tì Kheo ! Thế nào tên là Diệt mất Khổ Chân lý của Thánh ? Gọi là vứt bỏ rời xa yêu đó.
Đều bỏ mất hết. Không để lại tàn dư. Tâm và tâm tưởng nhớ. Tất cả Định vắng. Đây chắc tên là Diệt mất Khổ Chân lý của Thánh.
Các Tì Kheo ! Thế nào tên là được Đạo Chân lý của Thánh. Bắt được với tám Đường đúng của Thánh này. Gọi là Thấy đúng, Phân biệt đúng. Lời nói đúng, Nghiệp đúng. Mệnh đúng, Tinh tiến đúng. Nhớ đúng, Định đúng. Đây tên là Diệt mất khổ được Đạo Chân lý của Thánh. Khổ này Chân lý của Thánh. Ta từ trước tới nay. Không từ người khác nghe. Ở trong các Pháp. Tự sinh ra Trí tuệ của mắt. Sinh ra ý, sinh ra sáng. Sinh ra thệ nguyện. Sinh ra Trí tuệ. Khổ này Chân lý của Thánh, phải biết như thế. Thậm chí chưa nghe ở trong các Pháp. Sinh ra Trí tuệ của mắt. Khổ đó Chân lý của Thánh đã chiếu sáng biết tới cùng (bản tiếng Phạn lặp lại nay lược lấy điều cốt yếu). Tập hợp Khổ như thế Chân lý của Thánh. Không từ người khác nghe. Ở trong các Pháp sinh mắt và Trí tuệ. Pháp Tập hợp Khổ đó đều phải diệt mất. Như thế thậm chí Tập hợp Khổ Chân lý của Thánh. Đã diệt mất hết sạch. Diệt mất Khổ như thế Chân lý của Thánh. Không từ người khác nghe. Ở trong các Pháp sinh mắt và Trí tuệ. Chân lý diệt mất Khổ đó nay cần phải chứng biết. Như thế thậm chí đã sinh Trí tuệ. Khổ Diệt mất Khổ Chân lý của Thánh được chứng biết hết. Khổ Tập hợp Khổ Diệt mất Khổ như thế đã được Chân lý của Đạo Thánh. Không từ người khác nghe. Ở trong các Pháp sinh mắt và Trí tuệ. Khổ, Tập hợp khổ, Diệt mất khổ đó biết được chứng Đạo. Thậm chí sinh Trí Tuệ. Trở lại Diệt mất khổ đó. Được chứng Đạo cuối cùng (bốn chương trở lên đều cùng thu thập Đạo).
Các Tì Kheo ! Thậm chí bốn loại Chân lý Thánh này của Ta. Như thế ba lần chuyển mười hai Nhân duyên. Chưa chứng như thực. Ta vì chứng được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Chưa có thể được nói rằng : Ta hiểu biết rõ vậy.
Các Tì Kheo ! Ta dùng bốn Chân lý của Thánh này. Ba lần chuyển như thực chứng mười hai tướng mạo. Sau đó mới được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Như thế có thể nói rằng : Ta hiểu biết rõ vậy. Các Tì Kheo ! Ta ở thời gian đó. Sinh Trí tuệ, sinh thấy. Tâm không tán loạn. Được Giải thoát đúng. Các Tì Kheo ! Đây là lần sinh cuối cùng của Ta. Càng không nhận Có vậy.
Khi Phật nói tướng mạo của Pháp như thế. Trưởng Lão Kiều Trần Như tức thời ở nơi ngồi đó. Rời xa Phiền não. Trừ bỏ các ràng buộc. Sạch các Phiền não. Ở trong các Pháp. Được Trí tuệ mắt sạch. Tất cả Pháp tập hợp. Tất cả đều diệt mất. Biết đã diệt mất Pháp. Chứng biết như thực. Ví như áo sạch. Không có cáu bẩn. Không có sợi đen. Tùy theo được nơi nhuộm. Mà nhận sắc đó. Như thế, đúng như thế ! Kiều Trần Như đó tức thời ở nơi ngồi. Các cáu bẩn đều trừ bỏ. Phiền não mất hết. Được mắt Pháp sạch. Mà biết như thực.
Khi đó sáu vạn Con Trời của hội kia. Rời xa Phiền não. Cũng như với các Pháp. Được Trí tuệ mắt sạch.
Lúc đó Thế Tôn làm tiếng gầm của Sư Tử. Đọc bài kệ đó nói rằng :
Không thể nói giảng Pháp rất sâu. Chân Như Tĩnh lặng không Tên Chữ.
Tiên Kiều Trần Như chứng cao nhất. Ta do cầu Đạo được không Rỗng.
Mà có đọc bài kệ.
Khi nói Pháp rất sâu như thế. Hạnh Từ Bi Thế Tôn cao nhất.
Kiều Trần Như được mắt Pháp sạch. Lại có trăm triệu vạn nghìn Trời.
Khi đó tất cả các Trời ở trên đất. Nghe Thế Tôn nói tướng mạo của Pháp như thế. Cùng lúc kêu to làm lời nói như thế : Người hiền đều biết ! Hôm nay Thế Tôn Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Ở trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Nơi sinh sống của các Tiên xa xưa. Chuyển với vầng Pháp vi diệu Bình Đẳng. Nếu có Sa Môn. Nếu Bà La Môn. Là Phạm hay Ma. Thực không thể chuyển vầng Pháp như thế. Mà đọc bài kệ nói rằng :
Thiện thay ! Thế Tôn thấy Chân Như. Vì Chúng chuyển vầng Pháp Cam Lộ.
Giữ Giới Thiền Định như bánh xe. Hổ thẹn Tinh tiến như trục quay.
Nói chân chính thâm sâu không khác. Thiết lập vầng Ba Cõi quý đó.
Nay ở bên thành Ba La Nại. Chuyển như thế trong vườn Lộc Dã.
Lúc đó nơi kia các Trời ở trên đất. Kêu lên âm thanh đó xong. Âm thanh này bay lên thông suốt tới Trời của bốn Vua Trời. Bốn Vua Trời nghe xong lại truyền âm thanh kêu lên. Trong âm thanh này làm lời nói như thế. Hôm nay Thế Tôn. Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Ở trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Chuyển với vầng Pháp vi diệu Bình Đẳng. Tất cả Thế gian nếu có Sa Môn. Và Bà La Môn. Hoặc Phạm hay Ma. Thực không có người có thể chuyển vận như thế.
Trời của bốn Vua Trời khi làm âm thanh đó. Trời Đao Lợi nghe. Vua Trời Đao Lợi. Làm âm thanh như thế. Trời Dạ Ma nghe. Dạ Ma làm âm thanh. Trời Đâu Suất nghe. Đâu Suất làm âm thanh. Trời Hóa Lạc nghe. Hóa Lạc làm âm thanh. Trời Tha Hóa nghe. Tha Hóa làm âm thanh. Vua Trời Phạm nghe. Thời Vua Trời Phạm tức thời làm lời nói như thế : Hôm nay Thế Tôn Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Ở trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Chuyển với vầng Pháp vi diệu Bình Đẳng. Tất cả Thế gian. Nếu có Sa Môn. Và Bà La Môn. Tất cả Ma Phạm. Thực không thể chuyển. Như thế lần lượt. Qua một nghĩ nhớ thời các Trời bên trên. Từng người cùng bảo nhau. Âm thanh này đầy khắp như thế, thậm chí nơi ở của Trời Phạm lớn.
Khi đó chúa của Sa Bà Thế Giới. Vua Trời Phạm lớn đã nghe tiếng xong. Lại phát ra tiếng Phạn như thế kêu lên nói rằng : Hôm nay Thế Tôn Phật Bà Già Bà Đa đà A già độ A la ha Tam miểu Tam Phật Đà. Ở trong vườn Lộc Dã thành Ba La Nại. Chuyển với vầng Pháp vi diệu Bình Đẳng. Tất cả Thế gian. Nếu có Sa Môn. Hoặc Bà La Môn. Người Trời Ma Phạm. Thực không có người có thể làm chuyển vận Pháp như thế. Như thế lần lượt tới Trời Hữu Đỉnh.
Lúc đó Thế Tôn đang chuyển vầng Pháp. Khi đó người Trời Ma Phạm Sa Môn. Và Bà La Môn. Tất cả Thế gian. Quang lớn rộng chiếu sáng. Núi Thiết Vi này. Núi Thiết Vi lớn. Ở khoảng giữa hai núi này. U tối đen tối. Tất cả chúng sinh. Nhận khổ rất nặng. Mà mặt Trời mặt Trăng. Quang sáng như thế. Đức lớn như thế. Thần thông như thế. Uy Lực như thế. Tự do như thế. Mà ở nơi đó. Không thể chiếu sáng tỏ. Không thể giúp cho sáng. Do uy Thần của Phật. Nơi đó rộng chiếu sáng. Chúng sinh ở trong này. Do được Quang sáng. Từng loại thấy nhau. Từng loại cùng biết nhau. Đều cùng nhau nói rằng : Nơi này cũng lại có chúng sinh sao (tới bên trên hai câu, văn bản Phạn nói lại).
Khi đó Thế giới ở trên đất. Tất cả toàn bộ cây cối. Trăm loại cây cỏ thuốc. Đều cùng thuận theo thời. Tùy theo chủng loại của nó. Lớn nhỏ từng loại. Tự sinh thân lá hoa quả. Sinh rồi hoa tự nhiên tới rắc lên trên Phật. Do vì cúng dưỡng. Trong khoảng không này. Thanh tịnh không có bụi sương khói áng mây. Tạm thời sinh ra mây nhẹ. Giáng mưa nhỏ nhẹ. Dùng tưới ướt đất. Nước mưa sạch mát. Đủ tám công Đức. Mưa xong trở lại tạnh ráo. Lại sinh ra gió nhẹ. Mát lạnh điều hòa. Bốn phương đều sạch. Hiện ra rõ ràng. Không có bụi che phủ. Khoảng không trên cao. Các Trời tụ tập. Làm ra âm nhạc trên Trời. Ca lên bài ca vi diệu trên Trời. Mưa xuống đủ loại hoa Sen trắng nhỏ. Gồm cả hoa Sen trắng lớn. Lại mưa xuống áo mịn vi diệu các Trời. Mưa xuống vàng bạc lưu ly trên Trời. Làm thành hoa Sen bằng bảy vật báu. Lại mưa xuống vô lượng hoa Sen xanh. Hoa Sen màu hồng. Hoa Sen màu vàng. Hoa Sen màu trắng. Hạ xuống trên Như Lai.
Lại mưa xuống vô lượng đủ loại hương hỗn tạp, hương bột, hương bôi. Rắc lên trên Như Lai. Rắc xong lại rắc. Nơi ngồi của Như Lai. Xung quanh bốn mặt. Dài rộng khoảng hai mươi cây số. Đủ các loại hoa này. Đều cùng tràn khắp. Không gian không rỗng thiếu.
Lại còn Thế giới này sáu loại chấn động. Động biến động cùng là biến động. Rung biến rung cùng là biến rung. Vọt ra biến vọt ra cùng là biến vọt ra. Rống biến rống cùng là biến rống. Cảm giác biến cảm giác cùng là biến cảm giác.
Tất cả chúng sinh. Một hướng đều cùng nhận vui sướng lớn. Ở trong thời gian đó không có một chúng sinh có tham muốn buồn bực. Thù giận buồn bực. Ngu si buồn bực. Tự kiêu mạn buồn bực. Công cao buồn bực. Không hoảng không sợ. Không có một chúng sinh tạo ra các tội. Nếu chúng sinh bị nạn tức thời được trừ bỏ nhanh. Chúng sinh đói khát tức thời được no đủ. Chúng sinh say rượu tức thời được tỉnh ngộ. Chúng sinh điên cuồng đều được tâm trước kia. Người mù được thấy. Người điếc được nghe.
Nếu có người không đủ sáu Căn. Đều được đầy đủ. Các chúng sinh nghèo hèn lạnh ở trần. Đều được giàu có. Chúng sinh gầy yếu đều được béo tốt. Chúng sinh bị giam cầm đều được Giải thoát. Chúng sinh bị gông cùm xiềng xích. Tự nhiên được ra ngoài. Chúng sinh ở Địa ngục. Tức thời được diệt mất buồn bực. Chúng sinh thuộc sáu loại nuôi dưỡng không có hoảng sợ. Chúng sinh là Quỷ đói, đói khát được ngưng hẳn. Nhân duyên như thế. Kiều Trần Như này được tên là chứng Trí tuệ.
Khi đó Trưởng Lão Kiều Trần Như. Thân như thực được thấy tất cả các Pháp. Như thực được biết tất cả các Pháp. Như thực được chứng tất cả các Pháp. Như thực được vượt qua đường hiểm Phiền não. Vượt qua sa mạc Phiền não. Vượt qua nơi không có nghi hoặc. Trong tâm quyết định không có vướng mắc. Do được không sợ học không từ người khác. Thời Kiều Trần Như. Biết hạnh Pháp đó. Từ nơi ngồi mà đứng dậy. Đỉnh lễ chân Phật. Quỳ lâu chắp tay. Mà báo cáo Phật nói rằng : Thiện thay ! Thế Tôn ! Con nhập vào Pháp của Phật. Thế Tôn độ thoát Con. Dùng làm Sa Môn. Ban cho mười Giới thiện. Nguyện làm Tì Kheo.
Lúc đó Phật bảo Kiều Trần Như nói rằng : Thiện tới ! Tì Kheo ! Nhập vào trong Pháp của Ta. Thực hành Hạnh Phạm. Vì hết giới hạn khổ. Khi đó Trưởng Lão Kiều Trần Như. Thân liền tức thời Xuất gia. Thành công mười Giới thiện. Bốn Tì Kheo khác. Đều nói yếu lĩnh Pháp. Tùy cơ dạy truyền cho. Mà trong chúng đó có ba Tì Kheo. Hạnh khác xin ăn. Chỉ có hai Tì Kheo. Vâng theo nhận dạy bảo. Ba người sau này. Đã đem thức ăn tới. Hợp lại có sáu người. Cùng nhau ngồi ăn. Những người đó đã được Như Lai nói Pháp giáo hóa vâng theo nhận lấy.
Đang đúng lúc đó Trưởng Lão thứ nhất Bạt Đề Lê Ca (tiếng Tùy là Tiểu Hiền). Trưởng Lão thứ hai này tên là Bà Sa Ba (tiếng Tùy là Khởi Khí). Hai người đó tức thời trong khi ngồi. Rời xa Phiền não. Hết các kết buộc nghi hoặc. Cảnh Phiền não Thanh tịnh. Ở trong các Pháp. Được mắt Pháp Thanh tịnh. Toàn bộ kết buộc hoặc loạn. Tất cả đều hết tận. Biết Pháp Biến đổi. Như thực chứng biết. Ví như áo sạch. Không có sợi đen. Không có mỡ bẩn. Được nhuộm tùy theo ý muốn. Nhận đúng màu sắc của nó. Như thế, đúng như thế ! Mà Trưởng Lão Bạt Đề Lê Ca đó. Gồm cả Trưởng Lão Bà Sa Ba. Ở nơi ngồi đó rời xa Phiền não. Được mắt Pháp Thanh tịnh. Nói sơ lược thậm chí tức thời thành Xuất gia. Được mười Giới thiện. Như thế lần lượt. Người tới sau đó xin được thức ăn. Như Pháp giáo hóa. Như Pháp hút nhận lấy. Thế Tôn như Pháp lúc tỏ ra rõ.
Trưởng Lão Ma Ha Na Ma đó (tiếng Tùy là Đại Danh). Gồm cả Trưởng Lão A Xa Du Thời (tiếng Tùy là Điều Mã). Tức thời ở nơi ngồi đó. Rời xa Phiền não. Ở trong các Pháp được mắt Pháp sạch. Như thế, đúng như thế ! Trưởng Lão Đại Danh, Trưởng Lão Điều Mã. Tức thời ở nơi ngồi của họ hết Phiền não cáu bẩn. Như thực chứng biết. Những người đó tự thấy được hình tướng Pháp. Đã vượt qua hình tướng Pháp. Tâm không trở lại nghi hoặc. Tới nơi không sợ. Nghe không từ người khác. Ở trong Pháp Phật. Đã được chứng biết. Từ nơi ngồi mà đứng dậy. Đỉnh lễ chân Phật. Ở phía trước Phật. Quỳ lâu chắp tay. Mà báo cáo Phật nói rằng : Chỉ nguyện Thế Tôn ! Cho Con Xuất gia. Cho Con mười Giới thiện.
Khi đó Phật bảo hai Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Thiện tới ! Nhập vào trong Pháp tự nói của Ta. Thực hành với Hạnh Phạm hết ngay giới hạn khổ. Thời hai Trưởng Lão liền được Xuất gia. Được mười Giới thiện. Mà có đọc bài kệ.
Tiểu Hiền, Khởi Khí, Kiều Trần Như. Ma Ha Na Ma và Điều Mã.
Họ mới chứng thấy biết điều này. Môn Pháp trống Cam Lộ Như Lai.
Lúc đó Thế Tôn tức thời bảo năm Tì Kheo đó nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Ta ngày đêm thường vì thực hành Nhớ đúng. Đã thực hành Đức Hạnh đúng. Được thành Bình Đẳng Giải thoát chân chính. Chứng biết đầy đủ.
Các Ngài Tì Kheo ! Cần phải học Ta làm nghĩ nhớ như thế. Thực hành với Đức Hạnh đúng. Các Ngài cũng đang được Bình Đẳng Giải thoát chân chính này. Đang chứng biết như thế.
Khi đó Vua Ma độc ác. Đi tới nơi ở của Phật Thế Tôn. Đã tới nơi ở của Phật. Liền dùng bài kệ. Mà báo cáo Phật nói rằng :
Cồ Đàm lấy tham yêu tự buộc. Tham muốn của tất cả Trời Người.
Nay đã vào ràng buộc lớn này. Ta quyết không thả Sa Môn của Ngài.
Lúc đó Thế Tôn suy nghĩ, biết lời nói của Ma độc ác đó. Thế Tôn suy nghĩ, biết như thế rồi. Tức thời lại dùng bài kệ trả lời Ma độc ác nói rằng :
Ta thoát các yêu buộc đã lâu. Đều rời tham muốn của Trời Người.
Buộc lớn Ta đã được ra khỏi. Huống lại Ngài trước bị Ta hàng.
Khi đó Vua Ma độc ác nghe Phật nói bài kệ này, đã im lặng như thế mà dừng ở. Suy nghĩ như thế. Sa Môn Cồ Đàm biết ý thực hành của Ta. Người Thích Sa Môn thấy tâm tình của Ta. Tức thời lo nghĩ buồn bã. Khổ não không vui. Ở địa phương đó mất thân không hiện.
Lúc đó Thế Tôn lại bảo thêm với năm Tì Kheo nói rằng : Ngài các Tì Kheo ! Nếu biết các Sắc thân là không có bản thân. Sắc thân đó chắc là không làm tướng mạo buồn bực tan hỏng. Đang không nhận lấy khổ. Cần thấy như thế. Cần biết như thế. Sắc thân có như thế. Vì Sắc thân không có bản thân. Vì thế tất cả Sắc thân hay sinh buồn bực. Sắc thân hay sinh khổ. Tuy sinh khổ não. Cũng không thể được Tính Định của Sắc thân. Sắc thân đã không yên định. Cũng không thể nguyện Sắc thân có như thế. Cũng không thể cầu nguyện Đạo không có như thế. Sắc thân này đã như thế. Nhận, Nhớ, Làm, Biết cũng lại như thế.
Ngài các Tì Kheo ! Cần biết với Biết cũng không có bản thân. Biết nếu có bản thân. Biết này cần phải không làm ra buồn bực. Không làm ra khổ. Do vì hình thể của Biết không có, cho nên không thể được.
Vì sao lại được làm ra Có như thế. Cũng không thể nguyện cầu Đạo không có như thế. Vì Biết không có bản thân. Vì thế Biết có thể làm ra buồn bực làm ra khổ. Vì Biết vốn dĩ không có. Tức thời không thể nguyện cầu Biết có như thế, không có như thế. Lại bảo với Tì Kheo. Ý của Ngài thế nào ? Biết là cần bình thường, hay đang Biến đổi.
Thời các Tì Kheo liền báo cáo Phật nói rằng : Thế Tôn ! Biết này Biến đổi. Phật lại hỏi nói rằng : Biết đã Biến đổi là khổ hay sướng. Các Tì Kheo nói rằng : Thế Tôn ! Biết này là khổ. Phật lại bảo nói rằng : Biết đã là khổ, Biến đổi phá hỏng. Là Pháp đúng sai. Là Thường dừng ở sai. Nếu có thể thấy được Biết như thế. Mới có thể làm suy nghĩ như thế. Nó là với bản thân. Hoặc bản thân là nó. Hoặc Ta thấy bản thân. Đó là với bản thân chăng. Các Tì Kheo nói rằng :
Không phải ! Thế Tôn ! Phật bảo các Tì Kheo. Các Ngài cần biết ! Toàn bộ các Sắc thân. Hoặc Sắc thân Quá khứ, Hiện tại, Tương lai. Hoặc bên trong hoặc bên ngoài. Hoặc to hoặc nhỏ. Hoặc trên hoặc dưới. Hoặc gần hoặc xa. Tất cả không thể làm nghĩ nhớ như thế. Nó là với bản thân. Bản thân là với nó. Như thế, đúng như thế ! Trí tuệ chân chính như thực. Cần phải như thế. Toàn bộ tất cả Nhận, Nhớ, Làm, Biết. Quá khứ Hiện tại Tương lai, trong ngoài. To nhỏ trên dưới. Các Biết xa gần. Không làm nghĩ nhớ như thế. Bản thân là với nó. Nó là với bản thân. Hoặc Ta là bản thân. Như thế, đúng như thế ! Thấy đúng như thực. Cần biết như thế.
Phật bảo các Tì Kheo. Các Ngài cần biết ! Nếu có người Thanh Văn nghe nhiều. Có thể làm suy nghĩ thấy như thế. Đang chán ghét rời xa Sắc thân, Nhận, Nhớ, Làm, Biết. Đã chán ghét rời xa rồi. Tất cả không vui. Tâm đã không vui. Mà được Giải thoát. Đã được Giải thoát. Đang sinh Trí tuệ đó. Sinh của ta đã hết tận. Hạnh Phạm đã thiết lập. Việc làm được đã làm xong. Không nhận Có đời sau. Ta biết như thế.
Khi đó Thế Tôn nói Pháp đó xong. Thời năm Tì Kheo ở trong Có làm. Các Phiền não diệt hết. Tâm được Giải thoát. Đúng vào lúc đó. Thế gian này có sáu A La Hán. Thứ nhất là Thế Tôn. Năm Tì Kheo đó. Mà ở thời sau. Như Lai nhớ truyền cho. Các Ngài Tì Kheo ! Nếu biết Ta ban đầu chuyển với vầng Pháp. Khi nói Pháp không ngược lại giáo lý của Ta. Là người cao nhất. Gọi là đứng đầu năm Tiên chính là Tì Kheo Kiều Trần Như đó vậy.
Thời các Tì Kheo nghe lời nói đó xong. Liền báo cáo Phật nói rằng : Hiếm có ! Thế Tôn ! Trưởng Lão Tì Kheo Kiều Trần Như này. Làm Căn thiện gì ? Vì Nhân duyên đó. Như Lai ban đầu chuyển vầng Pháp Bình Đẳng. Người này có thể không ngược lại. Làm lời nói đó xong.
Khi đó Phật bảo các Tì Kheo nói rằng : Các Ngài Tì Kheo chí tâm nghe Tuệ. Ta nhớ lại xa xưa trở lại ở thành Ba La Nại của xứ này. Có một thợ làm gốm. Khi đó nơi kia có một Bích Chi Phật. Vì thân thể mang hoạn nạn muốn chữa bệnh. Đi vào làng xóm. Mùa hè sắp muốn đến. Bích Chi Phật đó do vì chữa bệnh. Tới bên người thợ gốm. Đã tới đó rồi. Bảo với người thợ gốm nói rằng : Người hiền thợ làm gốm ! Ngài nếu không chối từ. Ta nhờ nhà Ngài ngồi yên một mùa hè. Thậm chí chữa bệnh. Vì nghỉ dưỡng bệnh.
Thời người thợ gốm đó, do tâm Thanh tịnh. Báo cáo với Bích Chi Phật. Làm lời nói như thế : Thiện thay ! Tiên lớn ! Không trái lại lời nói này. Tùy ý mà dừng ở. Con đang ưng sức lực. Cung cấp dâng lên Tiên lớn bốn việc cúng dưỡng. Thời người thợ gốm đó. Vì Bích Chi Phật. Tới nhà không xa. Làm một phòng ở. Cho người đó làm chỗ ngồi. Bố thí đồ ngủ yên ổn. Phất đuổi ruồi dầu đèn.
Thời Bích Chi Phật tức thời trong đêm đó. Nhập vào Tam muội lửa. Thời người thợ gốm đó thấy ánh lửa lớn. Làm suy nghĩ như thế. Cớ sao đèn này sáng mạnh như thế ? Mà lâu không tắt. Chớ để bị lửa đốt thiêu nhà tranh đó.
Khi đó người thợ gốm chân nhẹ nhàng yên lành đi bộ. Tới nơi nhà tranh đó bí mật nhòm xem. Thấy Bích Chi Phật Kết già mà ngồi. Như đống lửa lớn. Cháy mạnh phóng quang. Thân đó nghiễm nhiên không bị lửa thiêu. Người thợ gốm thấy rồi. Nhanh rút bỏ xem. Chạy nhanh mà trở lại. Ngày hôm sau tâm tin gấp bội, sinh tâm hiếm có. Mà Tôn Giả Bích Chi Phật đó. Dừng ở nhà của người thợ gốm đó. Tĩnh lặng như thế. Dừng lại qua một mùa hè. Ở yên an dưỡng. Mà người thợ gốm đó do cần bốn Việc. Đều cùng cung phụng mà cúng dưỡng. Lại mời thầy thuốc. Sai khiến vì chữa bệnh. Cần thuốc chữa trị. Đều cùng ban cho. Mà không thể thuyên giảm, khỏi được bệnh trên thân của Bích Chi Phật đó. Bích Chi Phật đó đã do bệnh trên thân. Bèn liền bỏ mệnh.
Lúc đó người thợ gốm thấy thân của Tôn Giả Bích Chi Phật đó nhập vào Trí tuệ Niết Bàn. Thấy rồi buồn bã. Lo âu không vui. Kêu khóc rơi lệ. Chao ôi kêu oan. Thời đó vô lượng vô biên nhân dân. Nghe âm thanh của người thợ gốm đó kêu khóc. Đi tới nơi đó thăm hỏi nói rằng : Người thợ gốm ! Cớ sao chao ôi như thế mà khóc ? Thời người thợ gốm đó. Hướng về các người đó. Nói Nhân duyên Thần thông của Bích Chi Phật. Người Tiên này Tinh tiến như thế. Giữ Giới hạnh như thế. Thường thực hành Pháp vi diệu. Tôi mời thầy thuốc tới vì chữa trị. Không thể khỏi bệnh được.
Khi đó đặc biệt có các Bích Chi Phật. Chỉ thiếu một người không đủ năm trăm. Đem gỗ Chiên đàn. Dùng Thần thông bay đi. Từ rỗng không mà tới. Thiêu đốt thân Bích Chi Phật đó xong. Mà an ủi người thợ gốm đó nói rằng : Người hiền thợ gốm ! Tâm Ngài cần sinh vui mừng dũng mãnh tràn khắp thân thể. Cớ là sao ? Ngài đã cúng dưỡng thân người Tiên này. Công Đức này của Ngài. Ngài ở thời Sắp tới được thiện lợi lớn. Ngài đã thấy Thần thông của chúng ta phải không ? Người thợ gốm nói rằng : Thấy !
Khi đó các Bích Chi Phật kia. Lại bảo với người thợ gốm. Làm lời nói như thế : Như hôm nay chúng ta làm được Thần thông. Thần thông của người Tiên này cũng như thế. Ở bên chúng ta. Đây là ông già lớn nhất.
Thời người thợ gốm đó liền hỏi các Bích Chi Phật kia nói rằng : Tôn Giả nay sống ở nơi nào ? Các Bích Chi Phật trả lời người thợ gốm nói rằng : Tới nơi này không xa. Có một làng xóm tên là thành Vương Xá. Tới thành đó không xa. Có một núi tên là núi Tiên Cư. Chúng ta sống ở nơi đó mà dừng ở. Khi đó người thợ gốm liền báo cáo các Bích Chi Phật kia nói rằng : Thiện tới các Tiên ! Nhận thức ăn của gia đình Con rồi tùy ý ra đi.
Thời đó các Bích Chi Phật kia. Tất cả đều nhận ăn cơm của người đó. Ăn xong sau đó bảo với người thợ gốm nói rằng : Ở đời Sắp tới có Phật xuất hiện. Ngài ở bên Phật phát tâm cầu nguyện. Nhờ vào tâm Thanh tịnh công Đức này. Nghe rồi liền báo cáo với các Tiên Thánh Bích Chi Phật nói rằng :
Các bậc Tiên tôn kính ! Ở trước thầy dạy của Con. Ông lão lớn nhất. Con nguyện cũng như thế ở đời Tương lai. Đang được gặp ngay ở trong giáo Pháp của Thích Ca Như Lai. Được đi Xuất gia. Con mong ông lão thành Thượng tọa tối cao. Các Tiên đó nói rằng : Mong nguyện này của Ngài cũng nhất định thành công.
Thời đó các Bích Chi Phật kia. Ban cho người thợ gốm thệ nguyện này xong. Tức thời từ nơi đó bay lên rỗng không mà đi. Người thợ gốm đã thấy các Bích Chi Phật. Bay thẳng lên khoảng không. Thần thông mà đi. Dùng tâm Thanh tịnh quan sát họ đi. Chắp mười ngón tay. Đỉnh lễ các Bích Chi Phật đó. Khi đó người thợ gốm. Thấy thân của Tôn Giả Bích Chi Phật đó nhập vào Trí tuệ Niết Bàn. Thu nhặt Xá Lợi của Ngài mà xây dựng nên Tháp. Tháp đó trang nghiêm. Đính cùng với bánh xe đẹp. Bên trong bánh xe treo linh, tăng cái cờ phướn. Đem các hương hoa, hương đốt, hương bột, hương bôi. Mà dùng cúng dưỡng. Phát thệ nguyện nói rằng : Nhờ vào Căn thiện này ở đời Sắp tới. Nguyện gặp ngay với Thích Ca Như Lai đó. Pháp của Phật đó nói. Con nguyện chứng biết. Con ở bên Phật đó nguyện thành Thanh Văn già nhất lớn nhất.
Ngài các Tì Kheo cần biết. Thời đó người thợ gốm kia. Nay cũng chính là Trưởng Lão Kiều Trần Như Tì Kheo lớn. Kiều Trần Như này. Trước kia cúng dưỡng Bích Chi Phật đó. Do vì Căn thiện lực Nhân duyên đó. Nay ở bên Ta đầu tiên nói Pháp. Mà được chứng biết. Ta lại ghi nhớ truyền cho. Ở trong các Tăng. Biết Pháp đầu tiên. Không trái lại tâm của Ta. Được Xuất gia đầu tiên. Gọi là Kiều Trần Như Tì Kheo cũng chính là vậy.
Phần đầu thứ ba mươi tám Phẩm Nhân duyên của Da Du Đà
Khi đó tới thành Nước Ba La Nại không xa. Ở khoảng giữa có một cây Ni Câu Đà. Cây đó xum xuê tươi tốt um tùm. Tất cả Nhân dân trong ngoài thành đó. Hoặc các Con Vua, Tể tướng các quan. Đều cùng dùng thời gian vâng theo việc tế lễ cúng dưỡng cây đó. Toàn bộ người đến cây đó cầu nguyện. Mong nguyện này của con. Đều được vừa ý. Con làm tất cả việc đều đang được thành công. Nếu khi con thành công việc như thế. Con đang tế lễ kính báo đáp ân Phúc. Mà những người đó. Hoặc lại đời trước Nghiệp Thanh tịnh. Hoặc lực Phúc lớn mạnh. Nhân do đó mà thành công. Hoặc lần lượt báo ứng hiện nay. Mà tùy theo tâm nhớ. Gọi là cây này có thể ban cho nguyện của bản thân. Mà người đó tới. Làm cúng dưỡng lớn. Mà báo đáp hết. Lại có người đặc biệt tới cầu nguyện. Theo nguyện cũng thành. Nếu lại có người tới nơi cây đó. Cầu xin con trai gái. Nghiệp Phúc Đức Nhân duyên trước kia của người đó. Mà được con trai gái. Mà những người đó. Đều tâm nghĩ nhớ nói rằng : Cây đó có thể ban cho Tôi con trai gái. Những người đó tới. Đều làm tế lễ lớn. Làm cúng dưỡng báo đáp cây đó. Mà cây rừng đó tất cả Nhân dân. Vì việc đó đặt tên. Tên là Cầu xin cây Thần mong nguyện đều được như thế.
Thời đó thành kia có một Trưởng Giả giàu có lớn nhất. Tên là Thiện Giác. Mà Trưởng Giả đó có nhiều tài sản. Thế lực Tự do rất nhiều vật nuôi. Gọi là voi ngựa bò dê lạc đà. Cùng với lừa la. Không đâu thiếu thốn. Lúa gạo dư thừa. Có nhiều nô tì. Âm thanh kĩ nữ tì thiếp. Khách hàng người làm. Trân châu hổ phách lưu ly pha lê. Xa cừ mã não. Ngọc kha trắng quý. Vàng bạc tiền đồng. Các việc đầy đủ. Không có thiếu khuyết. Nhà của Trưởng Giả đó. Giống như cung điện Vua Trời lớn Tì Sa Môn ở phương Bắc. Một loại không khác.
Thời Trưởng Giả đó không có con trai gái. Toàn bộ thân quyến đến qua lại. Làm lời nói như thế : Gọi là Trưởng Giả nhân từ. Nếu Ngài tự biết. Nhà Ngài rất giàu có. Có nhiều thế lực. Nói qua thậm chí các việc đầy đủ. Chỉ còn trong nhà Ngài không có con cái. Mà ngoài thành này có một cây Thần. Tên là Cầu xin được như nguyện. Đều được cây đó. Nếu có người nam, người nữ tới thuận theo cầu xin con trai gái đều được.
Trưởng Giả cớ sao không đi tới ở bên cây đó cầu xin con trai gái. Nếu có thể xin được. Nhất định cần được sinh con trai gái không nghi. Đừng làm cho đoạn tuyệt họ tộc của gia đình Ngài. Thời Trưởng Giả đó trả lời cho tất cả thân tộc đó nói rằng : Có việc đó như thế sao ? Mà cây gỗ đó. Không có biết không có tình. Nếu có thể ban cho người cầu nguyện con trai gái. Không có nơi này. Thường con trai gái đều do Nghiệp Nhân duyên đời trước của cha mẹ. Hoặc lại lực Phúc. Mà được con trai gái. Mà người đó nói rằng : Tự thân chúng ta từng người thân thiết cầu xin. Đều ở bên cây đó. Được con trai gái. Do vì cầu mong được. Tới nơi cây đó. Làm cúng dưỡng lớn. Báo đáp cây đó.
Thời các thân thích quyến thuộc của Trưởng Giả đó. Lại qua ba lần. Ân cần khuyên mời Trưởng Giả đó nói rằng : Ngài Trưởng Giả lớn ! Không thể không tin. Cây đó thực có thể ban cho nguyện như thế. Người đó đã được con trai. Người đó đã được con gái.
Trưởng Giả chỉ cần tới. Cây đó có thể ban cho tâm nguyện của người. Cầu con trai được con trai. Cầu con gái được con gái. Quyết định không nghi.
Kinh Tập hợp Việc Trước kia của Phật, quyển thứ ba mươi tư.