Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật
(Phật Bản Hạnh Tập Kinh)
Hán dịch: Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề dịch năm 2012- 2014

 

QUYỂN THỨ HAI MƯƠI BỐN

Phần cuối Phẩm Khuyên nhận lấy lợi ở đời

Khi đó Bồ Tát lại bảo Vua nói rằng : Như Vua nói ở trên. Người hiền Tì Kheo ! Thân thể mềm mại đừng ở Rừng núi vắng trong rừng trống rỗng. Ngủ nằm ngồi dừng ở trên đệm cỏ. Vua lớn cần biết ! Ta ở trong cung của Ta. Dùng đủ các loại các giường báu vi diệu. Nằm nghỉ và ngồi. Đã chán ghét ly rời đã vứt bỏ để Xuất gia. Sở dĩ thế nào ? Vua lớn cần biết ! Thân này dễ giòn vỡ phá hoại Biến đổi. Không phải thân hình kiên cố. Là Pháp phá tan. Tùy nơi đất Có. Vứt bỏ mà đi. Giống như nắm chặt bùn một loại không khác.

Lại nữa Vua lớn ! Nếu có người Trí tuệ. Đã quẳng xác chết. Có thể trở về nhặt lấy không ? Nếu muốn lấy thêm cuối cùng không có nơi đó. Lại nữa Vua lớn ! Như Vua nói ở trên. Nếu ở bên cạnh Ta sinh thương xót. Cần nên vui theo và đột nhiên không thích Ta xin ăn nuôi sống. Việc này không như thế.  Vua lớn cần biết ! Tâm Từ yêu quý Ta. Đừng làm tâm như thế. Cớ là sao ? Ta nay muốn vượt qua biển khổ hoạn nạn Sinh già bệnh chết. Thực hành Hạnh nhập vào Đạo. Vì thế làm thân hình Tì Kheo này. Do vì cầu nơi yên vui Vắng lặng. Chủ yếu cần nhận thân hình quần áo dễ chế diễu này. Lại ở đời Tương lai. Vì muốn trừ bỏ tất cả các hoạn nạn tội cũ.

Vua lớn cần biết ! Nếu lại có người ở đời Hiện nay. Nhận quả báo công Đức của năm Tham muốn đó. Nương nhờ sâu với yêu thích. Việc của các người đó cần thương xót. Nếu đang có người ở trong đời hiện nay. Không được Định vắng vẻ, tâm yên vui. Tương lai sinh của họ nhất định nhận các khổ. Những chúng sinh đó tâm cần thương xót.

Lại nữa Vua lớn ! Ta nay hoảng sợ khổ Phiền não cho nên vứt bỏ để Xuất gia. Muốn cầu Định vắng vẻ Niết Bàn chân thực. Nếu như Ta được cung Trời của Ngọc Hoàng Đế Thích. Ý cũng không vui sướng. Huống chi lại quả báo thô xấu của Nhân gian. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Ta nếu bị tên Phiền não bắn. Muốn cầu Vắng lặng dán thuốc cao.

Nếu được cung điện của Ngọc Hoàng. Ý còn không tham, huống ngôi Vua.

Bồ Tát lại nói rằng : Vua lớn cần biết ! Như Vua nói ở trên. Thường người Thiên hạ. Ở tại Thế gian tất cả cần nhận lấy lợi của ba thời. Như ý của Ta quan sát điều này. Chắc không phải là lời nói lợi ích chân thực. Sở dĩ thế nào ? Cầu được nhiều tiền tài. Biết nhất định hết tận Có. Cầu tham muốn chuyển vận tham muốn. Thời đủ không nhàm chán. Nếu nói cầu Pháp. Đây là lợi chân thực. Lợi có nông sâu. Cốt yếu nhất định phải cầu. Cầu chắc là có năm loại công năng. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Nếu không nạn Sinh già bệnh chết. Đây là chân thực đàn ông lớn.

Cầu Tài Tình đời đều tham muốn. Ta bỏ hai cầu chỉ lấy Pháp.

Bồ Tát lại nói rằng : Vua lớn cần biết ! Như Vua nói ở trên. Chỉ tạm cai quản dân. Nhận lấy ngôi vị Vua thậm chí chưa già. Đúng thời niên thiếu có thể tạm nhận Pháp năm Tham muốn đó. Điều này cũng không như thế. Cớ là sao ? Nếu thời niên thiếu là thường dừng ở. Tất cả chúng sinh cần không có già. Ở khắp mọi nơi cần không bị Quỷ lấy mệnh đó, từng giây phút bị dẫn đi. Do thọ mệnh của các chúng sinh không cố định. Vì thế người Trí tuệ. Nếu cầu Pháp Giải thoát Định vắng vẻ. Không thể được lấy vui sướng năm Tham muốn của ngôi vị Vua ở Thế gian. Vì thế tất cả nếu ở thời niên thiếu. Nếu ở thời trung niên. Hoặc lại khi tuổi già. Chỉ cần nhanh cầu, cần được chuẩn bị sẵn. Sớm giúp cho đầy đủ. Muốn cầu Giải thoát hoặc cầu với Thiền. Đừng khiến cho để lâu chậm trễ. Nên nhanh chóng làm.

Lại nữa Vua lớn ! Như Vua nói ở trên. Nên dựa vào Pháp của gia đình làm với tế lễ, cùng làm Bố thí.

Tùy ý khích lệ cầu các quả báo đó ở đời Tương lai. Vua lớn cần biết ! Ta nay không nhận lấy vui sướng như thế. Nếu khổ tới bức bách. Vì cắt bỏ cho nên cầu mà được vui sướng. Đây không phải là vui sướng chân thực. Người Phàm trần cầu cho quả báo của đời sau. Tế lễ các Trời gồm cả Thần lửa.

Nhất định phải sát hại mệnh của chúng sinh khác. Đây chắc là lý sai. Sở dĩ thế nào ? Nếu người thực hành tâm Từ. Cần không tổn hại Thân Căn mệnh của người khác. Nếu như tế lễ tất cả các Trời cùng với Thần lửa. Sát hại chúng sinh được quả báo vui bình thường yên ổn đó. Vẫn còn không thể sát hại với sinh mệnh mà dùng tế lễ. Huống chi lại tất cả nơi được quả báo. Đều là Biến đổi. Phá hoại diệt mất hết, không phải Pháp kiên cố.

Lại nữa Vua lớn ! Người Phàm trần muốn thực hành Pháp Giải thoát. Không có lợi khác. Hoặc thực hành không có Đức hạnh. Hoặc không giữ Giới. Hoặc không Thiền định. Vẫn còn không thể tổn hại mệnh của người khác. Mà cầu quả báo lợi ích ở Tương lai. Lại các người Phàm trần ở nơi Thế gian. Do vì sát sinh. Nếu như được với quả báo yên vui. Điều này cũng không thiện. Sở dĩ thế nào ? Do vì không có tâm Từ. Huống chi lại hi vọng được quả báo thiện ở Tương lai. Cuối cùng không có nơi này. Mà đọc bài kệ nói rằng :

Nếu như người sinh ở Thế gian. Sát hại mệnh khác vì được vui.

Người Trí đọc nói thiện sai này. Huống lại Tương lai cầu Trời Người.

Khi đó Vua Tần Đầu Sa La Nước Ma Già Đà. Nghe được lời nói như thế của Bồ Tát xong. Liền sinh tâm đặc biệt kì lạ hiếm có. Ở trước Bồ Tát do vì Từ Bi. Làm lời nói như thế : Thiện thay, thiện thay ! Sa Môn Cồ Đàm ! Có Đức Hạnh khổ lớn thực hành gian khó. Ở trong Thế gian hay vứt bỏ các tham muốn. Người hiền Tì Kheo ! Từ ở phương nào ? Đột nhiên mà tới. Sinh ở làng xóm nào ? Họ tộc là gì ? Cha mẹ ở nơi nào ? Tự tên chữ là gì ? Làm lời nói đó xong chí tâm lắng nghe.

Khi đó Bồ Tát tâm đoan chính nhìn trực diện. Lời nói ôn hòa khí khái mà bảo với Vua nói rằng : Vua lớn cần biết ! Tới phương Bắc này bên dưới núi Tuyết. Có một làng xóm lớn. Tên là giòng họ Thích. Nơi đó có một thành tên là Ca Tì La Bà Tô Đô (tiếng Tùy là Hoàng Đầu Cư Xứ). Thành đó có một Vua giòng họ Thích. Tên hiệu là Tịnh Phạn. Đó là cha của Ta. Ta là con của ông đó. Tên mẹ là Ma Da (tiếng Tùy là Huyễn). Tên Ta là Tất Đạt (tiếng Tùy là Thành Lợi).

Thời Vua Tần Đầu nghe lời nói này xong. Khóc không thành tiếng bi thương rơi lệ khóc qua một thời gian ngắn. Lau nước mắt trên mặt xong. Báo cáo Bồ Tát nói rằng : Hiếm có ! Tì Kheo ! Đã sinh gia đình họ tộc lớn như thế. Vì sao sống ở trong rừng này đi đơn độc ? Các thú ác mạnh. Đáng sợ đáng hãi. Rừng này không lành đơn độc tự vui đùa. Không có bè bạn. Làm sao được tự yên ổn dừng ngồi di rời ?

Khi đó Bồ Tát trả lời Tần Đầu nói rằng : Vua lớn cần biết ! Ta nay không sợ các cầm thú ác. Cũng lại không hãi không sợ không khiếp đảm. Nếu chúng muốn tới. Cũng lại không thể động tới một sợi lông của Ta. Vua lớn cần biết ! Ta nay chỉ có sợ bức thiết của Sinh già bệnh chết cho nên tới ở nơi này. Trong các thú ác kinh sợ bên trong rừng. Đơn độc một mình không có bạn mà tự vui đùa. Vua lớn cần biết ! Già đáng sợ nhất. Sở dĩ thế nào ? Già tới thời bức bách có thể đoạt tuổi niên thiếu hưng thịnh khỏe mạnh đem đi. Phá gãy thân hình xương sống lưng cong gù. Không thể đi bộ giống như cây khô. Ai xem thấy vui mừng. Đây là đáng sợ nhất. Lại nữa Vua lớn ! Các bệnh này tới. Tên đó là đáng sợ. Sở dĩ thế nào ? Bình thường lúc khỏe mạnh không biết không hiểu. Một sớm đau đớn uyển chuyển kêu rên rỉ. Sắc đẹp tràn đầy tươi sáng đột nhiên bất ngờ giảm. Phiền não oan khiên khổ sở. Nằm ngủ không yên. Đang ở thời gian đó. Ai có thể thay thế cho. Nằm ở trên giường gối. Thế lực không theo tâm. Vì Nhân duyên đó bệnh đáng sợ nhất.

Lại nữa Vua lớn ! Chết đáng sợ nhất. Sở dĩ thế nào ? Ngày chết tới giảm thọ mệnh của bản thân. Đột nhiên túm lấy đem đi. Tuy lại lực có thể thống lĩnh bốn Thiên hạ. Bánh xe vàng hàng phục bảy báu vật hướng dẫn phía trước. Đao sắc binh mạnh. Không thể che chở khống chế tranh đoạt có thể được. Do vì nghĩa đó. Chết người sợ hãi nhất.

Khi đó Vua Tần Đầu Sa La lại còn hỏi thêm Bồ Tát nói rằng : Thái Tử Thánh lớn ! Người hiền nay cầu cái gì ? Bồ Tát trả lời nói rằng : Vua lớn Nước Ma Già. Ta nay cầu nó. Chỉ là Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Được rồi đang chuyển vầng Pháp Bình Đẳng. Vì thế cầu nó.

Thời Vua Tần Đầu báo cáo Bồ Tát nói rằng : Thái Tử Thánh lớn ! Như Con thấy được. Tâm người hiền dũng mãnh cần cù Tinh tiến. Nhất định được thành Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Cuối cùng không có nghi. Lại còn quyết định hay chuyển vầng Pháp Bình Đẳng. Thiện thay ! Thái Tử ! Con nay thấy người hiền. Thiện thay ! Thái Tử ! Con nay nghe tên người hiền. Thiện thay ! Thái Tử ! Người hiền dễ Xuất gia. Người hiền giòng họ Thích. Con từ hôm nay. Cần thường xuyên vâng theo việc này. Thái Tử Thánh lớn ! Con nay thỉnh cầu người hiền hàng ngày thường luôn tới cung của Con. Nguyện thường thấy Con. Cần bốn loại việc ở nơi của người hiền. Con sẽ cúng dưỡng không để cho thiếu thốn. Thời Vua Tần Đầu làm lời nói như thế xong.

Bồ Tát trả lời nói rằng : Vua lớn cần biết ! Ta nay không lâu từ đây di chuyển đi. Lại đi tới nơi khác. Thời Vua Tần Đầu nghe lời nói như thế xong. Chắp mười ngón tay báo cáo Bồ Tát nói rằng : Thái Tử Thánh lớn ! Tâm của người hiền cầu được. Chỉ nguyện không có các chướng ngại của Ma. Nếu khích lệ thu được, nguyện sớm thành đầy đủ việc. Người hiền họ Thích ! Nguyện người hiền nếu khi được Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Con ở bên người hiền cung kính cúng dưỡng. Thấy thân của người hiền xong. Tức thời đang vì người hiền làm Đệ Tử như Pháp của Thanh Văn. Liền tức thời đọc bài kệ mà ca ngợi nói rằng :

Con Vua Tần Đầu chắp tay khen. Chỉ nguyện Thái Tử nhanh thành Đạo.

Nếu làm được đủ nhớ nay nói. Vì các chúng sinh ban thương xót.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói này xong. Liền trả lời Vua nói rằng : Thiện thay ! Vua lớn ! Nguyện như Vua nói. Thệ nguyện được làm. Đó đây đều thiện.

Thời Vua Tần Đầu. Chắp mười ngón tay. Nhất tâm đỉnh lễ báo cáo Bồ Tát nói rằng : Thiện thay ! Thái Tử ! Nay có thể vì Con nhận với sám hối. Con do không có Trí tuệ não loạn Thánh lớn. Thái Tử ly rời tham muốn, lấy làm không Thanh tịnh. Tâm Con nhiễm tham muốn lấy tham muốn là Thanh tịnh. Chỉ nguyện lượng thứ trừ bỏ tội này của Con.

Khi đó Bồ Tát vui vẻ mỉm cười. Trả lời Vua Tần Đầu làm lời nói như thế : Thiện thay ! Vua lớn ! Như thế, đúng như thế ! Ta vì nhận sám hối Thanh tịnh của Vua. Nguyện Vua yên vui, ít bệnh ít Phiền não. Thân tâm cẩn thận càng không được phóng túng. Thường thực hành Pháp thiện. Rời bỏ Pháp sai. Nếu như thế. Vua được yên ổn. Nhận nhiều lợi yên lành.

Khi đó Bồ Tát an ủi tâm Vua Tần Đầu Sa La. Vì nói nghĩa của Pháp. Giúp cho người này vui mừng. Khuyên mời tỏ ra giáo lý. Hiện tra nói đọc. Từ chỗ ngồi mà đứng dậy, dần dần đi tới nơi khác. Thời Vua Tần Đầu tức thời tiến lên đỉnh lễ hai chân của Bồ Tát. Vòng quanh ba lượt đứng trên đất mà dừng ở. Mặt hướng về Bồ Tát. Chút thời gian quan sát dặn dò. Tức thời từ nơi đó quay trở lại tới cung điện. Mà có đọc bài kệ.

Bồ Tát chứng nhận bảo Tần Đầu. Ta được thành Đạo đang độ Vua.

Vui mừng suy nghĩ Hạnh Thánh lớn. Không biết từ núi về Nước mình.

 

Phần đầu thứ hai mươi chín Phẩm Tinh tiến Hạnh khổ

Khi đó Bồ Tát từ núi rừng Bát Trà Bà mà đi ra. Yên lành từ từ đi bộ. Hướng về thành Già Da. Đã tới nơi đó. Trèo lên trên núi Già Da Thi Lê Sa (tiếng Tùy là Tường Đầu). Muốn hút lấy thân tâm. Bỏ mất các ác. Ở trên núi đó rồi. Chọn nơi bằng phẳng. Ở dưới một cây sắp xếp cỏ mà ngồi. Lúc đó bên trong tâm của Bồ Tát suy nghĩ ba loại ví dụ. Đều là việc hiếm có của Thế gian. Chưa từng nghe nói. Chưa từng trông thấy. Chưa từng chứng biết. Thế nào là Ba ?

Một là coi như nếu có Sa Môn. Hay Bà La Môn. Tuy lại thân thể không thực hành các tham muốn. Mà những người đó trong tất cả tham muốn. Tất cả tâm ý. Yêu thích tham muốn, Phiền não vì tham muốn, sốt nóng vì tham muốn, nương nhờ tham muốn. Mà diệt chưa hết. Chưa được Định đúng. Còn có hình tướng của bản thân. Tự vượt qua một thân. Các Sa Môn đó và Bà La Môn. Thường nhận khổ não. Ý không vui vẻ. Tâm không thích nơi ở. Không thể Thấy biết. Lại còn không được Pháp của người hiền cao thượng. Cũng không thể chứng nơi không sợ. Như thế những người đó tuy không có hình tướng của bản thân. Thân không một mình vượt qua. Không nhận khổ não. Tuy ý không nhận. Không vui không sướng. Mà còn không thể Thấy biết chứng biết Pháp và nơi không sợ. Ví như có người nhận lấy gỗ tươi ẩm thấp. Gồm cả phân ẩm thấp. Đặt ở trên mặt nước. Trong đó dùi lấy lửa. Có người cố từ bờ kia mà tới. Đến đó xin lửa. Nhưng mà như người đó. Từ gỗ tươi ẩm thấp, phân ẩm thấp ở trên mặt nước. Lấy hết sức lực dùi lửa. Có thể được lửa cho người đó không ? Nếu có thể được. Cuối cùng không có nơi đó. Lửa đã không sinh ra. Người đó tự cầu ở nơi nào mà được. Như thế, đúng như thế ! Nếu có Sa Môn và Bà La Môn. Tuy không thực hành tham muốn. Thậm chí không thể Thấy biết chứng biết Pháp. Đây tức là ví dụ bậc nhất đầu tiên. Đời chưa từng có. Cũng chưa từng nghe.

Khi đó Bồ Tát lại càng suy nghĩ thứ hai đọc nói rằng : Nếu các Sa Môn và Bà La Môn. Tuy thân hạn chế không thực hành với tham muốn. Họ ở trong tất cả tham muốn. Ý tham sốt nóng Phiền não và nương nhờ. Mà diệt không hết. Chưa được Định đúng. Vẫn còn có hình tướng của bản thân. Một thân tự vượt qua. Đi theo nhận khổ não. Không vui không sướng. Không thể Thấy biết chứng biết Pháp của người hiền cao thượng, nơi không sợ. Lại còn những người đó. Tuy không có hình tướng của bản thân. Thân không một mình vượt qua. Không nhận khổ não và tâm không nhận. Ý không vui sướng. Không thể Thấy biết chứng biết Pháp của người hiền cao thượng và nơi không sợ. Ví như có người lấy gỗ tươi ẩm thấp. Đặt ở trên đất. Muốn dùi sinh ra lửa. Cũng lại có người tới đi theo xin lửa. Người này hướng về việc đó. Từ gỗ tươi ẩm thấp, dùi muốn tìm lửa. Có thể được lửa cho người đó không ? Nếu có thể được. Không có nơi này. Như thế, đúng như thế ! Các Sa Môn Bà La Môn đó. Tuy không thực hành tham muốn. Thậm chí không thể Thấy biết chứng biết Pháp. Đây là thí dụ thứ hai. Đời chưa có nghe.

Khi đó Bồ Tát lại còn suy nghĩ điều thứ ba đọc nói rằng : Nếu các Sa Môn và Bà La Môn. Thân tuy hạn chế tiết lượng không thực hành với tham muốn. Trong tất cả các tham muốn đó. Ý yêu thích Phiền não sốt nóng và nương nhờ. Định đúng bỏ mất hết. Các Sa Môn Bà La Môn này. Tuy được tự lợi cùng do lợi người khác. Trong tâm vui sướng. Có thể biết có thể thấy, được Pháp của người hiền cao thượng, chứng biết nơi không sợ. Ví như có người lấy gỗ khô cùng lấy phân khô. Đặt ở trên đất muốn dùi sinh ra lửa. Cũng lại có người đến từ bờ kia. Hướng về người đó xin lửa. Mà nếu người này sử dụng chút ít sức lực. Liền tức thời được lửa. Giữ lấy đưa cho người đó. Như thế, đúng như thế ! Nếu có Sa Môn và Bà La Môn. Ly rời tham muốn. Những người đó nếu có ở trong tham muốn. Ý yêu thích Phiền não sốt nóng đều diệt mất. Thậm chí được Pháp của người hiền cao thượng đó. Chứng biết nơi không sợ. Đó là ví dụ thứ ba của Bồ Tát. Tự ý nghĩ nhớ sinh đều là chưa từng nghe thấy ở Thế gian.

Khi đó Bồ Tát từ núi Già Da Thi Lê Sa đó đi xuống. Tới bên trong làng xóm Ma Già Đà. Lần lượt mà đi. Hỏi thăm người nói rằng : Nơi này có thể thực hành công Đức gì. Có Pháp sai gì nên cần cắt bỏ.

Ta nay muốn cầu Định vắng vẻ cao nhất tiếng nói hay nhất. Như thế đi về phía trước, tới phía Nam của Già Da. Có một làng xóm. Làng xóm đó tên là Ưu Lâu Tần Loa. Cùng tới nơi đó vào lúc bữa ăn của ngày.

Bồ Tát mặc áo đi vào làng xóm đó. Tới một gia đình họ Đào. Đem theo bát sành xin ăn. Được xong tay giữ lấy. Vượt qua làng xóm đó. Tiếp tục xin cơm. Tới một nhà Trưởng giả chủ của thôn. Trưởng giả này như thế. Tên là Nan Đề Ca (tiếng Tùy là Tự Hỉ). Tới gia đình đó rồi. Lùi đứng ở một bên. Im lặng mà dừng ở. Nan Đề Ca đó. Chủ thôn Tự Hỉ có một con gái thiện. Tên là Tu Xà Đa (tiếng Tùy là Thiện Sinh). Cô gái đó đoan chính đáng vui không có hai. Vì các người đời thấy được vui sướng. Cô Thiện Sinh đó từ xa thấy Bồ Tát. Tay cầm bát sứ im lặng đứng dừng ở muốn cầu xin cơm. Thiện Sinh đã thấy. Từ hai vú của cô. Tự nhiên sữa chảy ra.

Thời cô Thiện Sinh hỏi Bồ Tát nói rằng : Người hiền tốt đẹp nhất ! Người hiền là con của ai ? Họ tộc là gì ? Tên chữ thế nào ? Cha mẹ ở nơi nào ? Nay muốn cầu việc gì ? Người hiền vì sao ? Có Thần lực gì khác lạ ? Nay con cùng thấy. Khiến cho hai vú của Con tự nhiên chảy sữa.

Khi đó Bồ Tát trả lời nói rằng : Chị thiện ! Ta tên là Tất Đạt. Tên này là được cha mẹ Ta đặt cho. Ta nay muốn cầu Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Được rồi đang chuyển vầng Pháp Bình Đẳng.

Thời cô Thiện Sinh nghe lời nói như thế xong. Từ tay của Bồ Tát mà nhận bát sứ đi vào trong nhà. Cơm canh đầy bát hương thơm vị ngọt. Gồm cả các loại bánh quả canh nóng. Đầy tràn trong bát sứ. Tức thời đi ra quỳ dâng lên đưa cho Bồ Tát. Miệng làm lời nói như thế : Người hiền tốt đẹp nhất ! Con nguyện thường lâu dài cúng dưỡng người hiền. Quần áo thức ăn đồ nằm ngủ thuốc thang. Bốn việc nếu cần đều làm cho đầy đủ. Chỉ nguyện người hiền Từ Bi thu nhận. Con quan sát người hiền, tên được cha mẹ đặt. Lại thấy người hiền Tinh tiến dũng mãnh. Ý chí chuyên tâm. Nhất định sắp thành công Bình Đẳng Chính Đẳng Giác. Quyết định chuyển với vầng Pháp Bình Đẳng. Chân thực không nghi. Người hiền nếu khi thành Đạo Bồ Đề. Đang tới gia đình của Con nhận cúng dưỡng của Con. Độ thoát cho Con. Sẽ ở nơi người hiền làm Đệ Tử Thanh Văn.

Khi đó Bồ Tát trả lời nói rằng : Chị thiện sẽ được như nguyện. Đã nhận lấy cơm rồi. Liền tức thời bỏ ra đi. Khi đó Bồ Tát từ cô gái Thiện Sinh. Xin được cơm xong ở nơi yên tĩnh trống vắng. Như Pháp mà ăn. Ăn xong đi tiếp. Dần dần tới một nơi. Đất đai bằng phẳng. Thanh tịnh đáng vui mừng. Tâm vui sướng muốn quan sát. Cây rừng tươi tốt cành nhánh sum xuê. Rất nhiều hoa quả. Suối Thanh tịnh chảy. Các giòng nước đẹp thơm. Sông đầm giếng ao vòng cung. Tỏa ánh sáng giao nhau. Đủ loại dư thừa. Không có thiếu thốn. Các loại giòng nước đó không sâu không cạn. Trong suốt sạch sẽ tinh khiết. Bên trong không có các trùng độc ác. Xung quanh đầy đủ chim thú đẹp vi diệu. Tách rời làng xóm. Không gần không xa qua lại xin ăn. Không mệt không thiếu. Đường xá nơi đó. Đất đai bằng phẳng. Không cao không thấp dễ đi dễ lội qua. Nếu đang có người muốn cầu Bình Đẳng lợi ích tốt đẹp nhất. Dễ được dễ thành công. Nhanh làm nhanh chứng biết. Kiêm thêm đứt tuyệt ruồi muỗi và các loại trùng bò cạp. Lại còn không náo loạn. Ban ngày ít người đi qua lại nhiễu loạn. Đêm cắt đứt tiếng vang yên tĩnh Thanh tịnh im vắng. Nóng lạnh điều hòa. Mưa gió thuận theo thời tiết. Kham chịu có thể tu Đạo tu tâm Thiền Định.

Lại thời xa xưa có một Vua Tiên. Tên là Già Da (tiếng Tùy là Tượng) dừng lại ở trung tâm. Là nơi ở thành cũ của Vua Tiên đó. Khi đó Bồ Tát thấy đất này xong. Suy nghĩ như thế. Địa thế ở trong này. Tốt đẹp bằng phẳng. Tạm quan sát liền tức thời làm người được vui sướng. Thậm chí kham chịu có thể tu Đạo thực hành Thiền. Nếu có Đàn ông lớn muốn cầu Bình Đẳng, lợi tốt đẹp nhất. Cắt bỏ các ác, đất này đầy đủ kham chịu yên ổn dừng lại mà ở. Ta nay đã muốn hàng phục các ác, tu các Căn thiện. Nên cần dừng lại ngồi ở nơi này. Dùng để cầu Bồ Đề, nhất định giúp cho thành công.

Bồ Tát tâm suy nghĩ như thế xong. Liền tức thời lấy cỏ xếp đặt ngồi xuống đất này. Muốn tu tập Thiền. Đã ngồi yên định xong. Tâm nghĩ nhớ như thế. Giúp các chúng sinh cầu Giải thoát. Đều thực hành đủ loại các Hạnh khổ hỗn tạp. Gọi là hoặc có các nhóm chúng sinh. Treo dừng ở hai tay. Do vứt bỏ tất cả các việc của Thế gian. Vì Pháp Có làm. Họ là người Hạnh khổ như thế. Hoặc khi xin ăn. Không từ bên trong miệng nhận với thức ăn. Hoặc là không từ bên trong bát miệng nhỏ nhận lấy thức ăn. Hoặc là không từ giữa hai con dê nhận lấy thức ăn. Hoặc là không từ nơi phân uế của người nhận lấy thức ăn. Hoặc là không từ bên cạnh người chống gậy nhận lấy thức ăn. Hoặc là không từ bên cạnh người cầm đao gậy nhận lấy thức ăn. Thời gian lâu dài như thế. Và biết người phụ nữ không Thanh tịnh khi đi tới. Không đi theo nhận thức ăn. Hoặc khi thấy người phụ nữ mang thai. Cũng lại không đi theo bên cạnh họ nhận thức ăn. Hoặc biết gia đình người có Nghiệp không Thanh tịnh, không nghe theo nhận thức ăn. Hoặc là không đi theo bên cạnh người say rượu nhận lấy thức ăn của họ. Hoặc là khi hai người ăn uống. Cũng lại không đi theo bên cạnh họ nhận thức ăn. Khi nhận thức ăn có chó chạy tới phía trước, cũng không nhận thức ăn. Lại còn khi nhận thức ăn, trên đó nếu có các ruồi muỗi bay tới. Không Thanh tịnh bẩn ác cũng không nghe theo nhận. Hoặc lại có người kêu to mà gọi. Tới cho Ngài thức ăn cũng không nghe theo nhận. Có người ca lên nói là. Ngài dừng lại ban cho thức ăn cũng không nghe theo nhận. Hoặc người ca lên nói rằng : Tôi làm Bố thí thức ăn. Ngài cần đợi nhận lấy cũng không nghe theo nhận. Có người cố làm ra được thức ăn cũng không nghe theo nhận. Hoặc lại có người tế lễ các Trời, thức ăn thừa còn sót lại cũng không nghe theo nhận. Bên trong thức ăn nếu có đường cát miếng mật, cũng không nghe theo nhận. Có các loại dầu bơ cũng không nghe theo nhận.   Bên trong thức ăn nếu có sữa đặc các vật cũng không nghe theo nhận. Bên trong thức ăn nếu có cá các loại thịt tạp nham, cũng không nghe theo nhận. Bên trong thức ăn nếu có ám đầy mùi hôi của cống rãnh, các vị của hành tỏi hành tây kiệu hẹ, cũng không nghe theo nhận.

Hoặc lại chỉ nhận thức ăn của một gia đình chỉ đủ cho một người ăn. Hoặc nhận hai nhà chỉ được hai người ăn. Thậm chí hoặc nhận thức ăn của bảy nhà. Lại trở về thức ăn cho bảy người mà dừng lại.  Hoặc lại một ngày chỉ một bữa ăn. Hoặc lại một ngày chỉ hai bữa ăn. Hoặc nửa của một ngày bắt đầu ăn cơm. Hoặc qua ba ngày mới ăn một bữa cơm. Hoặc thời một ngày được chút ít mà ăn. Hoặc thời hai ngày cũng được chút ít mà ăn. Thậm chí bảy ngày cũng được chút ít mà ăn. Hoặc chỉ có ăn rau. Hoặc chỉ có ăn cỏ kê. Hoặc lại chỉ có ăn cành nhánh non mềm của cây. Hoặc chỉ có ăn sữa đặc. Hoặc lại chỉ có ăn cành của cây Ca ni ca la. Hoặc lại có thời hoàn toàn ăn phân dê. Hoặc lại có thời hoàn toàn ăn phân bò. Hoặc bã vừng đen. Hoặc ăn hạt quả. Hoặc ăn tất cả các loại rễ cỏ. Hoặc ăn mầm cây. Hoặc ăn cành nhánh non mềm của đủ loại cỏ. Hoặc lại chỉ có uống suông với nước mà dùng để sống. Hoặc có tùy theo do được bao nhiêu tức thời dùng để sống. Hoặc lại có học thú hoang dã ăn cỏ dùng để sống. Hoặc thời đứng trên đất tài tình mà dừng ở. Hoặc lại phải ngồi yên một nơi không di động. Hoặc lại bốn chi chống đỡ nương nhờ trên đất. Dùng miệng nhận thức ăn.

Hoặc là chỉ phải mặc áo hoàn toàn bằng cỏ. Hoặc là chỉ có mặc áo bỏ đi trên nấm mộ cao. Hoặc lại phải mặc đủ loại áo bằng cỏ. Hoặc lại phải mặc áo Kiêu xa da. Hoặc lấy vỏ của cây đào trắng làm áo. Hoặc lấy cây lá nón làm áo. Hoặc lại có sử dụng da của Súc sinh mà làm áo. Hoặc lại có sử dụng da của Súc sinh chết mà làm áo. Hoặc là có lấy các lông làm áo. Hoặc có phá rách da của các Súc sinh làm thành sợi làm áo. Hoặc lại có lấy chổi quét phân làm áo.

Hoặc có lộ ra thân hình. Hoặc nằm trên cây gai. Hoặc nằm trên tấm gỗ. Hoặc nằm trên rui nhà. Hoặc lại có nằm trên ngọc Như ý. Hoặc nằm trên mộ cao. Hoặc bên trong tổ kiến. Giống như hang của rắn. Hoặc nằm phơi sương đất. Hoặc lại liên quan tới nước. Hoặc lại liên quan tới lửa. Hoặc đuổi theo di chuyển của mặt Trời. Hoặc là giơ hai tay của mình mà dừng ở. Hoặc là ngồi xổm. Hoặc lại có sử dụng đất cát khói bụi đất, dùng bôi trát lên thân đứng thẳng mà dừng ở. Hoặc rửa không chải tóc. Đầu mặt mắt hàng đầu. Tóc như hình con ốc. Nắm tay mà dừng ở. Hoặc lại kéo tóc. Hoặc kéo râu ria. Hoặc lại có chuyện giếng đầm giếng khơi sông cừ nguồn nước. Các Thần, Thần đất, Thần cây, Thần rừng. Thần núi, Thần đá, Thần Dạ Xoa La Sát, Vua A Tu La La Hầu (tiếng Tùy là Ngữ). Vua A Tu La Bà Lê (tiếng Tùy là Câu). Vua A Tu La Tì Ma Chất Đa La (tiếng Tùy là Diệu Cơ), Vua A Tu La Đàm Bà Lợi. Hoặc chuyện sao Mộc. Hoặc có chuyện người Vua Tiên Y Dược. Hoặc chuyện người Tiên Bà La Đọa. Hoặc lại có chuyện người Tiên Cồ Đàm. Hoặc chuyện Vua Trời Tì Sa Môn. Hoặc lại có chuyện cậu bé trên Trời. Hoặc Trời Tự Tại. Hoặc lại chuyện mặt Trời. Hoặc lại chuyện mặt Trăng. Hoặc lại có chuyện Trời Na La Diên. Hoặc Trời Ngọc Hoàng Đế Thích. Hoặc chuyện Trời Phạm. Hoặc chuyện bốn Vua Trời lớn giúp đỡ Thế gian. Các chuyện như thế. Đã làm cho vui vẻ. Theo xin ăn cầu nguyện. Nói nguyện được rồi. Đều cầu Giải thoát.

Bồ Tát đã quan sát họ cầu Giải thoát sai trái như thế. Thấy rồi phát tâm. Muốn thực hành Hạnh khổ đáng sợ nhất. Mà có đọc bài kệ.

Bồ Tát đã tới sông Ni Liên. Dùng tâm Thanh tịnh ngồi cạnh bờ.

Do vì các Đạo cầu không thực. Muốn làm Khổ lớn hóa họ chăng.

Khi đó Bồ Tát chuyên suy nghĩ đúng, quan sát như thế. Ngồi xong ngậm miệng. Dùng răng cùng chống đỡ. Lưỡi bắc lên vòm miệng. Một nghĩ nhớ hút lấy tâm. Như thế nghĩ nhớ liên hệ. Điều phục thân ý. Dùng răng lưỡi vòm miệng. Hút lấy tâm nghĩ nhớ liên hệ. Khi tu luyện nách hạ xuống, mồ hôi chảy ra. Bồ Tát đã thấy mồ hôi chảy ra như thế. Lại càng phát thêm Tinh tiến dũng mãnh. Tâm không có nương nhờ. Không sai không loạn. Tâm dừng ở Tĩnh lặng. Yên một nơi không động. Thân Ý Miệng Khổ tối cao như thế. Đều cùng không động. Lúc đó lại làm nghĩ nhớ như thế nói rằng : Ta nay có thể nhập vào Tam Muội Không động.

Khi đó Bồ Tát từ hơi thở của miệng và dùng hơi của mũi. Đều cùng trừ diệt. Miệng mũi diệt mất xong.

Liền tức thời từ trong hai lỗ tai sinh ra tiếng gió thổi lớn. Gió này là hơi của âm thanh. Giống như cất giữ bơ ở trong chiếc hũ. Lắc quấy với sữa đặc sinh ra âm thanh lớn. Như thế, đúng như thế ! Bồ Tát ngậm hơi của mũi miệng mình không làm cho bay ra. Thời ở hai lỗ tai sinh ra âm thanh của gió khí. Cũng lại như thế. Bồ Tát lại nghĩ nhớ. Ta nay đã phát tâm Tinh tiến. Không nơi nhiễm nương nhờ. Vứt bỏ với lười nhác. Thậm chí như thế. Hạnh khổ tối cao. Tốt đẹp nhất khó thực hành. Lại thêm suy nghĩ. Ta có thể lại nhập vào Tam Muội Không động.

Khi đó Bồ Tát đã thân Yên định vắng cùng với Miệng Ý xong. Trở về dừng lại miệng mũi cùng với hơi thở của tai. Tất cả đều dừng lại. Đã miệng mũi tai, đều đã Yên định vắng. Bên trong gió lớn mạnh. Do không được bay ra. Khí xung ở đỉnh đầu. Ví như người lực lớn khỏe mạnh nhất. Lấy rìu tốt sắc bén đánh gậy não loạn người khác. Như thế, đúng như thế ! Bồ Tát từ miệng mũi của mình cùng với tai dừng khí không bay ra. Vì bên trong gió lớn mạnh. Đánh âm thanh não loạn. Cũng lại như thế.

Bồ Tát lại nghĩ nhớ. Ta nay đã phát tâm Tinh tiến. Không có nơi nhiễm nương nhờ. Vứt bỏ với lười nhác. Thậm chí như thế. Hạnh khổ tối cao. Tốt đẹp nhất khó thực hành. Suy nghĩ như thế xong. Tức thời lại nhập vào Tam Muội Không động.

Khi đó Bồ Tát từ miệng mũi của mình cùng với hơi thở của đỉnh đầu. Tất cả đều ngừng lại. Không làm cho nó bay ra. Thậm chí dừng lại che phủ. Do không được bay ra. Bên trong gió mạnh hưng thịnh.

Ở giữa hai xương sườn. Tiếng trống động chuyển trở về. Ví như giết trẻ con. Hoặc người giết con trai. Dễ biết giết bò. Mà những người giết đó hoặc cầm kiếm sắc. Hoặc cầm dao sắc. Mà mổ bụng bò. Hoặc lại phá xương sườn. Như thế, đúng như thế !

Bồ Tát thậm chí vì bên trong gió mạnh. Hai bên sườn chuyển động xuyên phá âm thanh. Cũng lại như thế. Suy nghĩ như thế xong. Thậm chí lại phát tâm Tinh tiến. Hạnh khổ tốt đẹp nhất. Ta nay lại nhập vào Tam Muội Không động. Khi đó Bồ Tát từ miệng mũi tai ngưng hơi không bay ra. Vì bên trong gió mạnh. Làm cho thân nóng não loạn. Ví như hai Lực sĩ mạnh mẽ lớn nhất. Cầm lấy một người yếu đuối. Đều cầm lấy cầm một tay. Đem người đó hướng về lên đống lửa lớn của họ. Hoặc não loạn hoặc nướng chín. Như thế, đúng như thế !

Bồ Tát do vì bên trong khí không bay ra. Thân nhận nóng não loạn. Cũng lại như thế. Suy nghĩ như thế xong. Thậm chí lại phát tâm Tinh tiến. Tất cả không nương nhờ. Đã vứt bỏ lười nhác. Được ở trong Nhớ đúng. Tâm không tán loạn. Tất cả Tĩnh lặng. Thân miệng và ý đều được Nhận đúng. Tốt đẹp vi diệu như thế. Hạnh khổ cao nhất.

Khi đó cõi trên cao có các Trời tới. Thấy được Bồ Tát Hạnh khổ như thế. Đều cùng nhau nói rằng : Nay Tất Đạt Thái Tử Trí lớn này đã cầm lấy bỏ mệnh. Mà ở trong chúng đó lại còn có Con Trời khác này. Cùng nhau nói rằng : Thái Tử Tất Đạt này. Hiện nay mệnh của Ngài chưa hết cuối cùng muốn cầm lấy. Hoặc lại còn có các Con Trời nói rằng : Tất Đạt Thái Tử Thánh lớn này. Hiện nay cũng chưa chết. Sau cũng không chết. Cớ là sao ? Thái Tử này là A La Hán. Thường La Hán có hạnh như thế. Không nên kì lạ. Khi đó Bồ Tát ở nơi Rừng núi vắng kia. Do sử dụng ở nơi tâm. Khi làm Hạnh khổ. Tức thời được thành công Hạnh khổ lớn nhất. Khi đó nơi Bồ Tát ngồi. Xung quanh bốn mặt tất cả láng giềng. Làng xóm mọi người đều tới thấy Hạnh khổ như thế ở Bồ Tát. Làm lời nói như thế. Sa Môn này đã thực hành Hạnh khổ lớn. Vì thế thiết lập tên nói rằng : Sa Môn lớn. Tên của Sa Môn lớn sinh ra bởi ca hát đó. Do vì nghĩa đó có tên gọi này.

Khi đó Bồ Tát lại còn suy nghĩ như thế. Thế gian hoặc có Sa Môn hoặc Bà La Môn. Cố hạn chế ăn mà thiết lập Đức hạnh. Đều giữ Thanh tịnh. Họ hoặc lại chỉ có ăn lúa mạch. Hoặc ăn lúa mạch nấu hoặc ăn bột lúa mạch. Hoặc dùng lúa mạch làm đủ loại các thức ăn. Mà dùng để sống. Như thế lại còn hoặc ăn vừng đen. Hoặc ăn gạo tẻ. Hoặc ăn đậu đỏ hạt nhỏ. Hoặc ăn đậu tương. Thậm chí hoặc ăn cơm hoàn toàn là đậu tương. Hoặc nước đậu tương. Hoặc bột đậu tương. Hoặc dùng đậu tương làm đủ loại thức ăn. Giữ dùng để sống. Hoặc có Sa Môn và Bà La Môn. Cắt bỏ tất cả ăn thiết lập Hạnh Thanh tịnh. Ta nay cũng có thể cắt bỏ tất cả ăn mà thực hành Hạnh khổ.

Bồ Tát bên trong tâm suy nghĩ như thế. Khi đó nơi kia đột nhiên có các Trời ẩn thân không hiện. Tới nơi ở của Bồ Tát báo cáo Bồ Tát nói rằng : Người hiền Thánh lớn ! Nguyện đừng nghĩ nhớ này suy nghĩ như thế. Muốn được cắt bỏ hoàn toàn tất cả không ăn. Sở dĩ thế nào ? Người hiền nay nếu muốn cắt bỏ tất cả ăn mà thực hành Đức hạnh. Chúng con các Trời. Đều đem tất cả hương vị trên Trời. Đem xuống tới nhập vào trong lỗ chân lông của người hiền. Mà giúp cho người hiền được bảo toàn mệnh. Lại còn người hiền không tổn hại thân.

Khi đó Bồ Tát nghe lời nói như thế xong. Suy nghĩ như thế. Ta nay đã nói với mọi người rằng : Ta hoàn toàn không ăn tất cả các thức ăn. Mà nay các Trời tự ẩn thân họ. Đem hương vị trên Trời tới nhập vào lỗ chân lông của Ta. Giúp cho Ta sống. Đây tức là nói dối lớn nhất của Ta. Lừa dối hoặc loạn tất cả. Nghĩ nhớ như thế xong. Bảo với Trời đó nói rằng : Các Ngài các Trời ! Tuy có tâm này. Việc đó không như thế.

Lúc đó Bồ Tát cắt đứt ý nghĩ như thế của các Trời kia xong. Hàng ngày đặc biệt chỉ ăn một hạt vừng đen. Hoặc một hạt gạo tẻ. Đậu đỏ hạt nhỏ đậu tương. Đậu xanh đậu đỏ. Lúa mạch nhỏ lúa mạch lớn.

Như thế hàng ngày đều khác nhau một hạt. Khi đó Bồ Tát lại còn suy nghĩ. Ta nay có thể dùng bàn tay đầy đặn cầm lấy chút ít nước quả đặc uống. Mà để sống. Hoặc nấu đậu đỏ hạt nhỏ, đậu đen, đậu đỏ, đậu Hà Lan, đậu xanh. Lúc đó tới làng xóm không xa.

Trong đó có Bà La Môn một họ tộc lớn nhất. Tên là Tư Na Da Na (tiếng Tùy là Tướng Binh Tướng). Bà La Môn đó từ Nước Ma Già bên cạnh Vua Tần Đầu. Được một làng do được phong ấp. Ấp đó tức thời gần với làng Ưu Lâu Tần Lễ. Bà La Môn đó được phong ấp xong. Trở lại đặt tên chữ là Tư Na Da Na.

Lại còn có một Bà La Môn khác. Tên là Đề Bà (tiếng Tùy là Thiên). Bà La Môn đó sinh trên vùng đất tại thành Ca Tì La kia. Kinh doanh một việc. Dần dần đi tới thôn ấp Tư Na Da Na mà dừng ở. Ít ngày là khách. Lúc đó Bà La Môn Đề Bà còn kinh doanh việc khác. Nhân do đi dần dần tới rừng Bồ Tát dừng ở. Thời Bà La Môn Đề Bà đó. Thấy Bồ Tát ở trong rừng thực hành Hạnh khổ lớn. Thấy rồi tức thời nhận ra làm lời nói như thế. Đây là Thái Tử Tất Đạt của Nước Ta. Mới có thể thực hành Hạnh khổ lớn như thế. Người đó thấy Bồ Tát. Hạnh khổ như thế tâm rất vui mừng.

Khi đó Bồ Tát thấy Bà La Môn Đề Bà kia. Tâm hướng về với Bồ Tát. Sinh vui mừng xong. Tức thời bảo Bà La Môn Đề Bà nói rằng : Bà La Môn lớn ! Ngài có thể vì Ta chuẩn bị sẵn một chút thức ăn. Vì nuôi sống Ta không ? Nếu đun nóng đậu đỏ hạt nhỏ. Đậu tương đậu xanh. Canh các loại đậu đỏ. Mà Ta ăn giữ dùng để sống. Bà La Môn đó do tâm hẹp hòi bần tiện. Thấy ít hiểu biết ít. Không có ý rộng lớn. Muốn thực hành Bố thí. Noi theo hợp với lời nói này, trả lời Bồ Tát nói rằng : Thái Tử Thánh lớn ! Thức ăn như thế. Thần có thể chuẩn bị sẵn được. Bà La Môn đó trong sáu năm. Ngày phân biệt như trên cần được thức ăn. Lấy cung cấp cho Bồ Tát. Bồ Tát hàng ngày nhận lấy thức ăn này. Dựa theo Pháp mà ăn. Dùng nuôi sống thân mệnh. Khi đó Bồ Tát chỉ dùng bàn tay. Ngày khác tự nhận lấy. Tùy theo được chút ít mà ăn nuôi sống. Hoặc đun nóng đậu đỏ hạt nhỏ hoặc các đậu đỏ.

Lúc đó Bồ Tát nhận thức ăn đã ít. Theo bàn tay đựng được. Như nói ở trên. Ăn các sữa đậu. Bồ Tát đã ăn thức ăn như thế. Thân thể gầy xấu. Hơi thở rất yếu. Như người tám chín mươi. Suy hỏng già như ông cụ hoàn toàn không có khí lực. Tay chân không thuận theo. Như thế, đúng như thế ! Đốt tay chân của Bồ Tát kể cả hình hài cũng như thế. Bồ Tát như ở đây ăn uống giảm thiểu. Tinh siêng Hạnh khổ.

Thân thể da dẻ đều cùng nhăn nheo đỏ. Ví như quả bầu chưa được già. Cắt đứt núm của nó. Đặt ở trong nắng bị cháy héo vàng. Sắc thân của nó do chín. Bắp thịt khô da nhăn nheo. Từng miếng tự rời xa. Như đầu lâu khô. Như thế, đúng như thế ! Bồ Tát chỉ còn là bộ xương không khác.

Bồ Tát đã do vì ăn ít thức ăn. Con ngươi hai mắt Ngài sâu xa hãm nhập. Giống như nước dưới đáy giếng. Hi vọng thấy các sao. Như thế, đúng như thế ! Hai mắt của Bồ Tát thấy mới hiện ra. Cũng lại như thế. Lại nữa Bồ Tát do vì ăn ít. Hai bên sườn của Ngài giãn cách cùng xa ra. Chỉ có da bao bọc. Ví như chuồng bò hoặc lại chuồng dê. Bên trên dựa vào rui gỗ. Thời tất cả con dê con bò con ngựa của làng đó. Đi ở trong rừng đó. Thấy với Bồ Tát Hạnh khổ như thế. Thấy rồi từng loại sinh vui mừng lớn phát tâm hiếm có. Thường bền bỉ vâng theo việc cúng dưỡng Bồ Tát.

Kinh Tập hợp Việc làm Trước kia của Phật, quyển thứ hai mươi bốn.