KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HẠNH SỞ TẬP
Tác giả: Bồ tát Long Thọ soạn tập.
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa môn Nhật Xưng.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 9

Nếu ở nơi phước điền tối thắng như Đức Phật v.v… chuyên tu hành thí nhất định đạt được quả báo. Như thế cho đến hiện thấy ở thế gian, sự tôn quý của bậc vua chúa là không gì sánh bằng. Đầu đội mũ báu, châu ngọc xen lẫn, khoen tai, xuyến tay đều là vàng ngọc, ánh sáng giao nhau. Dung nghi thanh khiết, đủ tướng đoan nghiêm, chuỗi ngọc, tràng hoa báu dùng để trang sức nơi y phục. Cung điện là chỗ ở cao rộng, nguy nga, tráng lệ. Lầu gác, cửa ngõ, cổng vào thay đều tinh xảo, cân đối. Tơ thêu, lụa vẽ đủ màu, màn che giăng khắp. Thú ngọc, sư tử, chim Câu-chỉ-la đặt ở trong lồng dùng để thưởng ngoạn. Tường thành cao vút, các lực sĩ bảo vệ vòng quanh, voi ngựa xe cộ qua lại tấp nập. Dân chúng cư trú, an ổn giàu vui, không có các thứ tranh tụng, trộm cắp, trốn chạy, các sự việc quấy nhiễu, khủng bố v.v… Nơi nơi đều có cây Sa-la, cây Đa-ma-la, cây Chiêm-bác-ca, cây Vô ưu v.v…, cành lá, hoa quả tươi tốt đáng yêu thích. Nơi chốn vua muốn đến, ở nơi ngả tư đường lớn đều được dọn dẹp sạch bụi bặm cấu bẩn, ngói đá, gai gốc. Dùng các loại nước thơm rưới khắp trên mặt đất. Trăm ngàn loại kỹ nhạc, tiêu, sáo, đàn không đàn hầu, đánh trống, thổi loa. Đám tùy tùng dẫn đường trước sau. Vua cỡi long tượng, uy đức tôn quý đặc biệt, thanh khiết tối thượng. Gỗ ngưu đầu chiên đàn mài dùng để xoa nơi thân hương thơm lan xa. Áo quần lụa đỏ tươi như mặt trời mới mọc. Tay mặt cầm phất trần trắng đẹp đẽ, báu phệ lưu ly dùng làm cán. Trương dù lọng quý, vàng ròng làm thân.

Vô số các loại châu báu trang trí rực rỡ. Bấy giờ trong thành kia, hết thảy dân chúng cùng hoan hỷ chắp tay, đồng âm xưng tụng, rải các thứ danh hoa, trải khắp mặt đất. Có các sĩ tộc chọn những ý tưởng hay khéo, tạo nên những bài ca vịnh, ghi chép tán dương đức hóa của vua. Vua nghe rồi càng thêm vui thích. Quả báo tốt đẹp như thế là do bố thí mà được. Đây nói: Đó là ở nơi phước điền thù thắng, chuyên tu hành thí, thành tựu Lọng phước.

Thế nào là bố thí khiến các hữu tình hoàn toàn được sự giàu vui ở thế gian, thọ dụng cảnh giới của năm dục thù diệu? Phải nên nhận biết rõ hành nghiệp bố thí như thế không chỉ chiêu cảm được sự giàu vui rộng lớn, cho đến nhân của trí vô thượng cũng có thể thành tựu. Nên biết thí này là kho tàng kiên cố, không bị nước lửa, giặc cướp hủy hoại. Nên biết thí này là người bạn tối thắng, đời này, đời khác luôn là bạn tốt. Nên biết thí này như hạt giống tốt, nơi tất cả thời đều được quả như ý. Nên biết thí này như thềm thang kỳ diệu có thể dẫn lên xứ trời thọ các hoan lạc. Nên biết thí này cũng như đèn sáng có thể phá tan bóng tối tham lam, bỏn sẻn của loài ngạ quỷ. Ở trong nẻo ác có thể làm sự cứu vớt. Ở nơi chốn hiểm nạn có thể tạo sự cứu hộ, vượt biển sinh tử, đạt đến bờ kia. Nếu các chúng sinh nhận biết như thế rồi, luôn luôn phát khởi tác ý thanh tịnh, siêng hành bố thí nối nhau không dứt. Đối với những vật hiện có tâm không tiếc lẫn, cũng không uổng phí, sinh giác ngộ sâu xa. Những thứ ấy đều là những vật không bền chắc, hoàn toàn vui tu nghiệp thí thanh tịnh. Do đấy nên tiếng tốt lan xa, người thấy đều vui kính, thường được người thiện nương dựa cùng trụ. Ở giữa đại chúng, tâm không khiếp nhược. Khéo trụ vào uy nghi, tán thán công đức bố thí, có thể chiêu cảm sự giàu có, lìa khỏi đường ác, được sinh lên xứ trời, đi đến thành giải thoát. Khiến người khác tin hiểu, lìa cấu uế tham lam keo kiệt. Nên biết người này là Đại Bồ-tát, là thiện trí thức, là đại trượng phu, có thể nuôi lớn căn thiện chân thật của các hữu tình. Hết thảy chúng sinh phải nên đi đến thân cận cúng dường, vui nghe chánh pháp, như lý tu tập, cầu đạo xuất ly.

Như trên đã nói, nếu ở nơi Đức Phật v.v… chuyên tu hành thí, nhất định đạt được quả báo. Giả sử không gặp một Đức Phật, Bồ-tát mà có thể nhận giữ tâm thí như thế, thì quả báo được chiêu cảm cùng đồng như trước không khác. Vậy nên Đức Thế Tôn dùng phương tiện chỉ bày khiến các chúng sinh theo thứ lớp hành học.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn du hóa, nương dựa, ở trong rừng trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương Xá. Khi ấy, Tôn giả Đại Mục Kiền Liền khởi suy nghĩ: Nay Đức Thế Tôn cùng chúng đại đệ tử là các Thanh văn, trụ trong khu rừng này, cần phải kiến lập một tăng phường thanh tịnh. Suy nghĩ như thế rồi, Tôn giả bèn đến chỗ của Đế Thích, bạch: Thưa Thiên chủ! Dám xin nhân giả vì Đức Phật Thế Tôn, ở nơi rừng trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương Xá tạo lập Tinh xá, để Ngài và các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, cùng an cư ở đây. Vua trời Đế Thích nghe nói như thế rồi tâm rất hoan hỷ, vâng dạ nhận lời. Liền dùng vô số vàng bạc, châu báu, đế thanh, ma-ni, phệ lưu ly v.v… xây dựng hai lớp cổng, hành lang, mái hiên, cửa ngõ, cung điện lầu gác, san hô làm cột, vô số vật báu tô điểm đan xen. Lại dùng các loại báu khắc thành hình các loài chim bay quý giá, treo lơ lửng nơi không trung, tư thế như đang cất cánh bay liệng. Vô số gương báu bao quanh, treo chùng xuống, trong suốt không chút cấu uế, phản chiếu rực rỡ như trăng, sao. Vô số thiên y sáng sạch mềm mại, vàng ròng làm giá, dùng để phơi trải y phục thượng diệu bên trên. Vòng báu kim cang, vòng hoa chân châu, xen nhau theo từng hàng dùng để tô điểm. Đốt các thứ danh hương, hơi quyện tỏa tan khắp. Lại thắp vô số loại đèn, ngày đêm chiếu sáng. Cúng dường như thế là việc ở thế gian chưa từng có. Trong khu vườn kia, nơi nơi đều trồng hoa Long tự tại, hoa Chiêm-bác-ca, hoa Ngung-lỗ-ma, hoa Câu-trá-ba, hoa Vô ưu thọ. Hoa nở khắp nơi trông rất đáng yêu thích. Nơi rừng hoa còn có đình bằng san hô, cửa ngõ chạm trổ kỳ xảo. Đều dùng nhiều thứ châu báu để trang hoàng tạo vẻ đẹp khác lạ. Gió nhẹ thổi hoa, mùi hương thoảng bay rất xa. Có các thiên nữ đạo chơi, dừng lại trong vườn. Những thứ trân kỳ bậc nhất dùng làm xâu chuỗi báu, thú ngậm ngọc đeo, phát ra tiếng kêu leng keng. Trong rừng còn có các Dược-xoa nữ, hình dung nghiêm túc, tranh nhau cùng chạy xem, búi tóc còn rớt lại hoa báu, thay nhau cười đùa.

Lại có các hồ ao thanh tịnh rộng lớn, do nhiều thứ báu họp thành, nước hương tràn đầy. Trong hồ thì có hoa sen báu lớn, bạc trắng làm cánh, vàng ròng làm cộng, các thiên nữ xinh đẹp đứng yên bên trong đổi sắc mặt tạo vui, dâng các điệu ca múa hay lạ. Lại còn có vô số hoa sen màu vàng, hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-một-na, hoa Ca-ha-la, chiếu sáng rực rỡ hương thơm tỏa khắp hòa quyện xông ngát. Có các loài chim nước: Chim Tử uyên ương, chim Le le, chim Nhạn, bay liệng, đậu lại làm tổ trong hoa, xù lông rỉa cánh. Lại có các đàn cá đùa giỡn, nhởn nhơ bơi lội qua lại, chạm hoa, lật mình trên sóng, làm kinh sợ những chú cò bể, vịt nước. Bao quanh hồ đều dùng vàng bạc pha lê và các ngọc báu làm bậc thềm. Trên bờ ao hồ lại có rừng cây Kiếp-ba, cành dài đong đưa trên nước, lá dày kín, giao tàng rợp bóng, các loại hoa tươi tốt xen nhau nở rộ. Vô số trăm ngàn sĩ tộc, dân chúng, giàu vui, trang nghiêm, diễn bày các thứ kỹ nhạc, tới lui thưởng ngoạn không có ngăn trở.

Lúc ấy, vị Thiên chủ kia, vì Đức Phật, Thế Tôn tạo lập Tinh xá tròn một tháng mới xong. Sửa sang liệu biện những việc phải làm, không để có chỗ thiếu sót. Vô số kho tàng thảy đều sung mãn. Trước tiên Thiên chủ đi đến chỗ Đức Phật thưa bày: Đất này an lành, rộng rãi nghiêm tịnh, so với vườn Hoan hỷ là như nhau, không khác. Kính mong Như Lai đến đây an cư. Lúc ấy, Đức Phật vì thương xót Thiên chủ kia nên liền nhận lời. Lại dùng trăm ngàn voi quý bậc nhất dâng cúng Như Lai. Cùng dùng trăm ngàn thiên nữ xinh đẹp cầm lọng, mang phất trần quạt mát để hầu hạ các vị đại đệ tử. Lại đem trăm ngàn chúng Càn-thát-bà tấu âm nhạc vi diệu để cúng dường.

Bấy giờ, trong thành Vương Xá có một trưởng giả nhà rất giàu, tiền tài của báu vô lượng, sánh với Thiên vương Đa Văn vẫn còn hơn. Nhưng trưởng giả kia nhiễm sâu tà kiến, tín thọ pháp của ngoại đạo Ni-kiền-tử. Vị trưởng giả thấy sự việc này rồi thì tâm ôm giữ nghi hoặc. Lúc ấy, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên biết cơ duyên của trưởng giả kia đã chín, liền đi đến giáo hóa dẫn dắt, vì ông thuyết giảng pháp yếu, tán thán công đức của Phật. Trưởng giả kia nghe pháp rồi, tâm sinh ngộ giải, thưa cùng Tôn giả: Tôi nay phát tâm, quy y Đức Như Lai, muốn đến để thân cận, cung kính cúng dường. Tức cùng với Tôn giả đồng đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lễ nơi chân Phật, rồi đứng qua một bên. Tôn giả bạch Phật: Vị đại trưởng giả này bỏ tà quy chánh, mới phát tín tâm, nay muốn cúng dường Phật và chúng Tăng. Duy nguyện Đức Đại Từ nhận lời thỉnh cầu ấy. Đức Phật nhận biết việc này rồi, nên im lặng chấp nhận. Lúc ấy, trưởng giả kia biết Đức Phật đã thọ thỉnh, tâm vô cùng hoan hỷ, vội vã trở về nhà, tức dùng vô số các loại châu báu, tơ lụa bậc nhất, sửa sang tô điểm trụ xứ của mình. Cửa ngõ, lầu gác, phòng xá đều khiến sạch mới. Nấu nướng các thức ăn uống, trăm loại ngon khéo. Xếp đặt bày biện xong xuôi liền sai người hầu đến trước bạch với Đức Thế Tôn: Giờ ăn sắp đến, kính mong Đức Đại Từ thọ nhận sự cúng dường đơn sơ của chúng con. Lúc này, Đức Thế Tôn từ tăng phường đi ra, uy đức an nhiên, tướng hảo đoan nghiêm, thân phóng ánh sáng, như mặt trời đỏ lửng, cùng các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, các căn tịch tĩnh, tâm được tự tại, tiến dừng đúng pháp, cùng đi đến nhà của vị trưởng giả kia. Lại có trăm ngàn vị thiên tử, thiên nữ, tâm ý thư thái, lìa các tán loạn, bột Chiên-đàn xoa thân, cung kính vây quanh. Dân chúng trong thành thấy sự việc này rồi, đều cho là kỳ lạ chưa từng có, đi đến thưa lại với vị trưởng giả. Lại có trăm ngàn thanh tín sĩ, thanh tín nữ tâm sinh hoan hỷ, trong khoảnh khắc đều làm lễ, đều mang bột kiên hắc chiên đàn đốt xông để cúng dường. Hương được đốt xông quá trăm ngàn hộc. Lại tấu lên vô lượng âm nhạc vi diệu trầm bỗng đủ cách, âm thanh chấn động khắp mặt đất. Khi ấy vị trưởng giả kia, dùng các loại phướn lọng thứ lớp bày biện khắp nơi màn che trướng phủ, ngọc anh lạc giăng xen. Đốt hương báu lớn, tự thân nghinh đón. Những thân tộc nội ngoại hiện có của trưởng giả, người người đều mang theo các thứ danh hoa, đầy hai bàn tay để tung rải cúng dường. Lúc này, Đức Phật Thế Tôn đã đến nhà trưởng giả rồi, nơi chính giữa nhà, vì Phật lập tòa ngồi. Tơ lụa quý thượng hạng trải chồng hai lớp mềm mại, đệm chiếu bằng lụa năm màu trải khắp mặt đất. Cờ báu bày biện ngay hàng thẳng lối. Lưới châu bốn phía rủ xuống. Treo các cờ phướn đủ kiểu, màu sắc xen lẫn. Trăm ngàn linh báu treo khắp nối liền bên trên. Gió nhẹ lay động phát ra âm thanh hòa nhã. Vòng hoa chân châu, màn báu rủ khắp. Hương xoa, hương bột, bình tắm, nước sạch, thảy đều bày đủ. Thỉnh Phật thăng tòa. Lại dùng lụa trắng bậc nhất mới mẻ, cắt may y mặc, quỳ dâng cúng Phật. Sau đó, vị Đại A-la-hán thượng thủ và các Tỳ-kheo tân học đi vào trong nhà thứ tự lần lượt an tọa. Kế đến dùng những món thượng vị trong các thức ăn uống dâng cúng Phật và chúng Tăng thảy đều được đầy đủ. Ăn xong chư vị đều cất bát, rửa tay. Bấy giờ vị trưởng giả kia chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Phật rồi dùng kệ tán thán:

Như Lai đầy đủ tướng thù thắng

Vẻ đẹp tùy hình trang nghiêm thân

Tóc dài dày kín không tạp loạn

Bóng mượt, xanh biếc như ong chúa.

Như Lai trán rộng lại bằng phẳng

Cũng không khuyết giảm rất bền chắc

Lông trắng giữa mày thường xoắn phải

Như trăng thu tròn tỏa ánh vàng.

Như Lai hai mắt rất thanh tịnh

Mi như Ngưu vương không hề chớp

Dài rộng hay đẹp luôn chiếu sáng

Như hoa Câu-na đáng yêu thích.

Như Lai đầy đủ bốn mươi răng

Sạch trắng bằng khít như kha tuyết

Tướng lưỡi rộng dài khó nghĩ bàn

Hồng tươi như hoa Bát-la-xa.

Như Lai lại có mũi công đức

Cao nhô, ngay thẳng lỗ không hiện

Môi không vểnh suit, không trề xuống

Tươi nhuận như màu quả Tần-bà.

Như thế, Đại Tiên mặt tròn đầy

Vành tai mềm mại cùng đối xứng

Ví như đóa sen tươi nở trọn

Xa lìa cấu nhiễm nhìn không chán.

Như Lai thân tướng như thỏi vàng

Kiên cố đầy chắc không gì sánh

Sắc da ngoài như hoa Chiêm-bặc

Cũng không ốm gầy lộ gân mạch.

Hai cánh tay no tròn nhuần thấm

Chỉ tay hiện rõ các hình tượng

Đủ dấu bánh xe, trục, tăm, vành

Cờ báu, bình báu và hình cá.

Ngực rộng như ngực loài sư tử

Đức tướng hỷ toàn vẽ phân minh

Lượng bụng phẳng đầy xứng hợp thân

Rún sâu, xoáy phải, trong tròn sạch.

Hai bắp chân như Tiên lộc vương

Đi không xoay lại thân cùng chuyển

Chân phải cất trước hiện dấu ấn

Thong thả, vô úy như sư tử.

Như Lai xuất hiện ở thế gian

Như mặt trời lên chiếu sáng khắp

Hay tạo an lành cho chúng sinh

Trời cùng phi thiên đều tin lễ.

Trưởng giả dùng kệ tán thán Đức Phật rồi, tâm vui vẻ hết mực, tín lực kiên cố, ở trong đại chúng lại nói kệ:

Mâu Ni bậc mười lực

Phá diệt các lưới ma

Lìa hẳn phiền não cấu

Các căn thường tịch tĩnh.

Tộc họ thù thắng nhất

Là giòng họ Cam giá

Dũng mãnh đại tinh tấn

Giác ngộ các lỗi lầm.

Thích Sư Tử vô úy

Đầy đủ các công đức

Thành tựu pháp vi diệu

Vì chúng sinh khai thị.

Nơi biển khổ ba cõi

Các hiểm nạn luân hồi

Lấy giới làm căn bản

Cuối cùng đều vượt khỏi.

Do thọ trì tịnh giới

Điều phục nơi tự tâm

Khéo hàng phục ma oán

Xứng thọ cúng dường diệu.

Đủ Đại trí Đại bi

Không bỏ thệ nguyện xưa

Thương xót các hữu tình

Đều khiến lìa ưu khổ.

Điều Ngự Sư tối thắng

Tam giới không ai sánh

Khéo nhổ các tên độc

Dứt trói buộc ba cõi.

Hiển hiện đại thần thông

Phá trừ các dị kiến

Khai thị tám Thánh đạo

Khiến tu các phạm hạnh.

Đây gọi Đại thương chủ

Hay tạo hội thí lớn

Đây gọi bậc Đại trí

Vì tạo mắt thế gian.

Đây gọi Đại trượng phu

Chóng xa lìa các ác

Dứt thác dữ sinh tử

Đến được xứ an ổn.

Thế Tôn, Đại Đạo sự

Kiều-đáp-ma tộc lớn

Đủ thân tướng kim sắc

Người thấy không biết chán.

Dẫn dắt các chúng sinh

Nhập hiểu nơi chánh giáo

Lìa hẳn các bất thiện

Tâm thanh tịnh không cấu.

Như mây ở hư không

Rót vị pháp cam lồ

Khiến hết thảy hữu tình

Nhuần chủng tử căn thiện.

Như Lai, Đại Thánh Tôn

Và các chúng Tỳ-kheo

Trụ an ổn tối thượng

Hay đến nơi bờ kia.

HẾT – QUYỂN 9

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12